Giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam

Trong một cuộc điều tra do các nhà tổ chức thuộc uỷ ban kinh tế Nhật - Việt và Keidanren thực hiện, các nhà kinh doanh Nhật Bản đã yêu cầu phải điều chỉnh các luật lệ về tỷ giá hối đoái, hải quan, thuế quan và sửa đổi các bộ luật về thương mại, gồm có luật công ty, luật chống tơ rớt, luật dân sự và luật về tài sản trí tuệ; thực hiện thống nhất một cơ quan cấp phép đầu tư; các đơn vị xin cấp phép đầu tư không nên làm bằng tiếng Anh, mà nên bằng cả một sô thứ tiếng khác nhằm giảm bớt khó khăn cho những nhà đầu tư không nói tiếng Anh; giảm bớt những trở ngại đối với những đối tác địa phương trong quá trình thiết lập các liên doanh. Về cơ sở hạ tầng công nghiệp và xã hội trong tình trạng yếu kém. Nhà nước chưa đảm bảo được cơ sở hạ tầng bên ngoài hàng rào cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các khu công nghiệp. Cũng trong văn bản điều tra do các nhà tổ chức thuộc uỷ ban kinh tế Nhật - Việt và Keitanren thực hiện nêu : cần phải phát triển và ổn định nguồn cung cấp điện nhằm đáp ứng nhhu cầu ngày càng tăng trong tương lại, xoá bỏ hệ thống hai giá do nhà nước thực hiện . Sự thật vấn đề này khi triển khai làm thủ tục rất phiền hà, phức tạp. Chủ đầu tư phải đi lại làm việc nhiều lần nhưng không được trả lới rõ. Phần lớn các doanh nghiệp muốn có điện nước dùng tiến độ đều phải ứng vốn trước đề làm hạ tầng.

doc41 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1302 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tác động mạnh đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao gồm cả cơ cấu ngành, cơ cấu kỹ thuật, cơ cấu sản phẩm và lao động. Bên cạnh đó, thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà sẽ có thêm điều kiện để mở rộng các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Các nước nhận đầu tư sẽ có thêm nhiều sản phẩm để không những phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn để xuất khẩu sang các nước khác và mở rộng quan hệ thương mại quốc tế. Ngoài ra, việc đầu tư nước ngoài vào nước sở tại sẽ thúc đẩy sự cạnh tranh về đầu tư của các nước ở ngay nước sở tại làm cho môi trường đầu tư ngày càng phát triển. Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài không khi nào và bất cứ đâu cũng phát huy vai trò tích cực đối với đời sống kinh tế xã hội của nước chủ nhà. Nó chỉ có thể phát huy tốt trong môi trường kinh tế, chính trị xã hội ổn định và đặc biệt là khi Nhà nước biết sử dụng và phát huy vai trò quản lý của mình. Đầu tư trực tiếp nước ngoài bao hàm trong nó những mặt hạn chế đối với nước nhận đầu tư như : Nguồn vốn đầu tư trực tiếp do chủ đầu tư quản lý trực tiếp và sử dụng theo những mục tiêu của mình. Những công nghệ chuyển giao sang các nước đang phát triển thường không phải là những công nghệ tiên tiến nhất mà là những công nghệ không còn được sử dụng ở các nước tư bản phát triển vì đã quá thời hạn sử dụng hoặc không còn đáp ứng được những yêu cầu mới về chất lượng và gây ô nhiễm môi trường. Trên thực tế đã diễn ra nhiều hiện tượng chuyển giao công nghệ nhỏ giọt, từng phần và mất nhiều thời gian. Trong nhiều trường hợp, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn gây sự rối ren mất ổn định cho nền kinh tế nước chủ nhà. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng những sở hở trong luật pháp sử tại để trốn thuế, xâm phạm lợi ích của nước chủ nhà. Mặc dù vậy, những hạn chế của đầu tư trực tiếp nước ngoài không thể phủ nhận được vai trò tích cực của nó đối với cả nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư. Vấn đề là ở chỗ các nước tiếp nhận đầu tư phải kiểm soát đầu tư trực tiếp nước ngoài một cách hữu hiệu để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó. chương II Đầu tư trực tiếp của nhật bản vào Việt Nam 1. vài nét về quan hệ kinh tế Việt Nam - nhật bản Ngày 21 tháng 09 năm 1973, Việt Nam và Nhật Bản chính thực thiết lập quan hệ ngoại giao đánh dấu sự tiếp nối các quan hệ giao lưu vốn có từ lâu đời giữa hai nước. Từ những thế kỷ trước, nhiều thương gia Nhật Bản đã đến buôn bán và kinh doanh ở Việt Nam. Phố Hiến (Miền Bắc), Hội An (miền trung) là những địa danh ghi đạm dấu ấn của các mối quan hệ giao lưu đó. Sau khi Việt Nam hoàn toàn thống nhất, mối quan hệ giữa hai nước có cơ hội phát triển toàn diện cả về ngoại giao , chính trị, kinh tế và các lĩnh vực khác. Trong giai đoạn này mối quan hệ về kinh tế chủ yếu là trao đổi thương mại và viện trợ. Về thương mại, năm 1976 Nhật là bạn hàng lớn thứ 2 của Việt Nam sau Liên Xô, Việt Nam đã xuất sang Nhật khối lượng hàng hoá trị giá 44,5 triệu USD, chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sáng khu vực 2. Việt Nam nhập khối lượng bằng 184,5 triệu, 247 triệu và 268 triệu USD ( Dương Phú Hiệp - 25 năm Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản - TC nghiên cứu Nhật Bản 1 (13) 2/98- Trang 7- ). Thời ký 1979 - 1982, do vấn đề Campuchia và bầu không khí chiến tranh không thuận lợi ở Đông Nam á, thương mại giữa hai nước giảm từ 267,5 triệu USD năm 1978 còn 128 triệu năm 1982. Trong thời kỳ này, Việt Nam nhập khẩu từ Nhật bản lớn hơn xuất khẩu trở lại. Các mặt hàng nhập khẩu lương thực, nhiên liệu, vải, khoáng sản, sản phẩm công nghiệp nhẹ, sản phẩm hoá học và kim loại. Việt Nam xuất sang Nhật lương thực, thực phẩm, nguyên liêu (gỗ xẻ, cao xu), nhiên liệu khoáng sản, hàng hoá đã chế biên (vải). Đến 1986, thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản phát triển trở lại và tăng lên 272,100 triệu USD. ( Dương Phú Hiệp - đã dẫn - Trang 8 ) Đặc biệt là khi Liên Xô tan rã, Nhật Bản trở thành bạn hàng lớn nhất củ Việt Nam. Năm 1990 tổng kim ngạch buôn bán hai chiều trị giá 809 triệu USD, các năm liên tiếp sau đều tăng liên tục 1991 - 871 triệu; 1992 -1.321 triệu; 1993 - 1707 triệu; 1994 - gần 2 tỷ; 1995 - đạt 2,6 tỷ tăng 35% và năm 1996 đã tăng 38,5% so với năm 1995 ( Đỗ Đức Định - Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản đang phát triển - Nhà xuất bản KH-XH Hà Nội 1996 - Trang 8 ). Thời gian này, hàng hoá Việt Nam chủ yếu xuất nguyên liệu thô, lương thực, thực phẩm, khoáng sản và dầu thô là mặt hàng Nhật Bản mua chủ yếu. Phía Nhật xuất sang Việt Nam phân bón, ô tô, xe máy, máy dệt và nguyên liệu dệt, máy xây dựng. Từ 1989 trở lại đây, Việt Nam là nước xuất siêu sang Nhật với mức thặng dư khá cao đã đóng góp tích cực vào quá trình cân đối cán cân thương mại nói chung của Việt Nam và Thế Giới. Đây cũng là điều khẳng định vai trò quan trọng của thị trường Nhật Bản đối với quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam và ngược lại. Về viện trợ, mối quan hệ này đã có từ trước 1975, trong thời gian đó, Nhật Bản đã chính thức viện trợ theo chương trình cho Việt Nam DCCH. Sau khi Việt Nam thống nhất, tổng số viện trợ của Nhật Bản trong hai năm 1975 - 1976 là 15 triệu USD. Để tăng cường thúc đẩy buôn bán trong hai năm tiếp theo, Nhật Bản đã quyết định cho Việt Nam vay tiền với lãi suất thấp thông qua các cơ quan hợp tác quốc tế của Nhật Bản, hứa cung cấp cho Việt Nam một khoản viện trợ không hoàn lại là 16 tỷ yên trong 4 năm và các khoản cho vay khoảng 20 tỷ yên. Việc Nhật Bản quyết định trì hoãn kế hoạch tài trợ 14 tỷ yên (trong đó có 4 tỷ yên viện trợ không hoàn lại và cho vay 10 tỷ yên) vào cuối năm 1978 báo hiệu 1 thời kỳ xấu đi trong quan hệ của hai nước. Thời ký 1979 - 1992 là thời kỳ Nhật Bản thực hiện chủ trương “đông cứng” tài trợ kinh tế nhưng không đình chỉ các cuộc tiếp xúc ngoại giao và viện trợ nhân đạo được thể hiện Nhật Bản tiếp tục viện trợ cho Việt Nam một khoản trị giá 130.000 USD dưới hình thức viện trợ nhân đạo sử dụng mua hàng của của Nhật như xe tải hạng nặng, ô tô điện, máy ủi và các loại hàng há khác cần thiết cho việc xây dựng lại nền kinh tế Việt Nam và cho phép một cách không chính thức các Công ty Nhật Bản tiếp tục buôn bán với Việt Nam. Tới đầu những năm 1990 cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, nền kinh tế Việt Nam từng bước thoát khỏi khủng hoảng và quan hệ ngoại giao của Việt Nam với nhiều quốc gia phương Tây và các tổ chức quốc tế được bình thường hoá. Vào năm 1992, chính phủ Nhật Bản quyết định nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam với tổng số 281,2 triệu USD, đưa nước này từ vị trí “không số” lên hàng số 1 trong số các quốc gia DAC tài trợ cho Việt Nam. Theo thống kê chính thức của chính phủ Nhật Bản, thời kỳ 1992 - 1994 tổng tài trợ ODA của nước này cho Việt Nam lên tời 372 triệu USD trong đó tài trợ không chính thức là 116,5 triệu USD ( Dương Phú Hiệp - đã dẫn trang 7 ). Trong những năm gần đây, Việt Nam tiếp tục nhận được 1 khối lượng lớn tài trợ ODA của Nhật Bản và hiện nay Nhật Bản trở thành nhà tài trợ số 1 cho Việt Nam. Như vậy, thương mại và viện trợ là hai lĩnh vực đi tiên phong trong mối quan hệ kinh tế và là tiền đề để phát triển đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam. 2. những yếu tố chi phối đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam. Công cuộc đổi mới của Việt Nam diễn ra được vài năm thì trật tự Thế Giới thay đổi. Cùng với những khó khăn trong nước, Việt Nam phải đương đầu với những khó khăn do sự tan rã của Liên Xô và chế độ XHCN ở Đông Âu trong đó Liên Xô là nước cung cấp viện trợ lớn nhất và cũng là bạn hàng của Việt Nam trong nhiều năm. Liên Xô tan rã kèm theo đó là sự sụp đổ của Thế giới 2 cực, chiến tranh lạnh không còn nữa, thay vào đó là xu thế Thế Giới đa cực hình thành, quan hệ quốc tế chuyển từ đối kháng quân sự sang phát triển mối quan hệ kinh tế. Đã có rất nhiều sự hợp tác giữa các quốc gia, khu vực, châu lục được hình thành như liên minh Châu Âu (EU), hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC). Cùng với sự hợp tác về kinh tế, xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang chi phối tất cả các hoạt động của đời sống con người. 2.1. Phía Việt Nam. Trải qua một thời gian dài trong chiến tranh, sau chiến thắng 1975, Việt Nam bắt tay vào xây dựng lại đất nước. Tại Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam họp tháng 12/1986 đã đề ra chính sách đổi mới, trong đó chỉ rõ “phải kiên quyết chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần”, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, theo định hướng XHCN ( Lê Hồng Phục - Đỗ Đức Định - Một số vấn đề về kinh tế đối ngoại của các nước đang phát triển ở Châu á -Viện kinh tế Thế giới - Nhà xuất bản KHXH Hà Nội 1988 ). Về kinh tế, đề ra các chính sách kinh tế và đổ mới tổ chức quản lý kinh tế với những nội dung chủ yếu: điều chỉnh cơ cấu kinh tế, khai thác mọi nguồn vốn đầu tư và đổi mới cơ chế quản lý, phát huy vai trò động lực của khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại,... Việc chuyển sang nên kinh tế thị trường làm kích thích sản xuất hàng hoá, tăng khả năng cành tranh, vốn nà kỹ thật hiên đại, đòi hỏi thị trường tiêu thụ rộng lớn. Nền kinh tế thị trường cũng tạo cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước thấy một thị trường mở , đa dạng, chứa đựng nhiều lợi nhuận. Đây là nhân tố quan trọng để thu hút vốn, kỹ thuật trong và ngoài nước. Về chính trị, ta vẫn thực hiện một Đảng cầm quyền duy nhất và đi theo đường lối dẫn dắt của Đảng, mở rộng quan hệ với các nước không phân biệt chế độ chính trị. Đây là bước thay đổi cơ bản của chính phủ Việt Nam. Trong khi các nước trong cùng khu vực đã có những bước nhảy vọt về kinh tế thì Việt Nam vẫn ở trong tình trạng chậm phát triển do quan hệ dựa vào chính trị là chính. Vì vậy, để có thể theo kịp các quốc gia này, Việt Nam cần phải mở rộng quan hệ hơn nữa, không chỉ bó buộc trong phạm vị khu vực mà trên toàn Thế giới. Tại Đại hội lần thứ VII, tháng 6/1991, Đảng đề ra khẩu hiệu “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển ”. Đảng ta đã thay đổi chính sách ưu tiên “Quan hệ quốc tế xã hội chủ nghĩa”, coi trọng quan hệ với các nước XHCN mà trung tâm là Liên Xô trước đây vào thực hiện chính sách ngoại giao đa phương dựa vào : ”Quan hệ quốc tế nói chung”, không phân biệt chế độ chính trị xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Quan hệ hợp tác quốc tế không chỉ mở rộng về quan hệ kinh tế quốc tế mà còn đảm bảo cho chúng ta một nền hoà bình ổn định, có hoà bình ổn định thì kinh tế mới phát triển. Về pháp luật, chúng ta ban hành thêm nhiều luật mới trong đó có luật đầu tư nước ngoài ban hành tháng 12/1987 mở ra một phương thức mới trong hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo cơ sở pháp lý đưa nền kinh tế Việt Nam vào thị trường Thế giới theo luật này thì đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất cứ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác với Việt Nam hoặc tự mình kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam. Luật đầu nước ngoài Việt Nam quy định đầu tư trực tiếp nước ngoài được thể hiện qua 3 hình thức chủ yếu sau : Hợp đồng hợp tác kinh doanh Doanh nghiệp liên doanh Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Ngoài ra luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng quy định đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể được đầu tư dưới một số các hình thức đặc biệt khác như : Doanh nghiệp chế xuất Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT Bruld - Operate - Transfer - Operate Contact) Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO Build - Transfer - Operate Contact) Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT - Build - Transfer Contact) Doanh nghiệp chế xuất (doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu) Với luật này, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ có cơ hội để phát triển công việc kinh doanh của mình trên thị trường mới mẻ nhưng đa dạng về tài nguyên và nguồn lao động dồi dào. Để sánh kịp với các quốc gia phát triển trong khu vực và đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Việt Nam đang thay đổi mạnh mẽ để phù hợp với xu thế chung của Thế giới. Việc thu hút đầu tư nước ngoài là rất cần thiết đặc biệt là đầu tư trực tiếp của Nhật Bản - nền kinh tế lớn của Thế giới, nguồn dự trưc tài chính khổng lỗ và có trình độ khoa học công nghệ tiên tiến nhất. 2.2. Phía nhật bản Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước trong khu vực Đông và Đông Nam châu á từ giữa những năm 80 bắt đầu tăng. Nguyên nhân nào khiến cho đầu tư trực tiếp của Nhật Bản chú trọng vào khu vực này? Việc đồng yên lên giá làm cho chi phí sản xuất ở Nhật Bản tăng lên so với nước ngoài, hạn chế khả năng sinh lãi của chúng. Do vậy, để tồn tại và duy trì được sức cạnh tranh, các Công ty Nhật Bản, nhất là các Công ty chế tạo xuất khẩu, phải đầu tư ra nước ngoài để lợi dụng chi phí rẻ hơn. Từ cuối những năm 70 lại đây, sự thâm nhập mạnh của các hàng xuất khẩu Nhật Bản đã gây ra những bất bình sâu sắc ở cả các nước phát triển lẫn đang phát triển Châu á. Tâm lý tẩy chay hàng Nhật Bản và bảo hộ ngày càng nổi rõ ở những nước bạn hàng của Nhật Bản, nhất là Bắc Mỹ và EU. Do đó, tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển các cơ sở sản xuất , nhất là những cơ sở chế tạo có tiềm năng xuất khẩu cao ra nước ngoài như là một cách để Nhật Bản lẫn tgránh xu hướng bảo hộ mậu dịch này. Nhật Bản vốn vẫn phụ thuộc nặng vào các ngành nguyên nhiên liệu nhập khẩu cho các ngành công nghiệp của mình. Vì vậy, đầu tư ra nước ngoài để gây dựng các nguồn cung cấp nguyên nhiên lệu an toàn, ổn định và rẻ là chính sách sống còn của Nhật Bản. Thiếu lao động nhất là lao động có trình độ cao đã bắt đầu trở thành một vấn đề lớn cho các ngành công nghiệp Nhật Bản. Ngoài việc thiếu lao động tuyệt đối là tình trạng không phù hợp của các kỹ năng trên thị trường lao động. Nạn thiếu lao động không lành nghề trong ngành chế tạo nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ và ngành xây dựng nghiêm trọng hơn trong ngành dịch vụ. Các Công ty phải dựa ngày càng nhiều vào lao động một phần thời gian, lao động nữ và cả lao động nước ngoài. Như vậy, vấn đề thiếu lao động đã và sẽ là vấn đề sống còn cho các nhà chế tạo Nhật Bản, đặc biệt trong các ngành cần nhiều lao động. Để kiếm được lao động tốt và tương đối rẻ, học đã buộc phải phân bố lại các cơ sở sản xuất của mình sang những nơi có lợi thế về mặt này. Vào cuối những năng 1980, tình hình kinh tế và tài chính ở Nhật Bản tiến triển khá đặc biệt, tạo điều kiện khá thuận lợi cho các Công ty Nhật Bản gây đuợc quỹ để đầu tư với lãi suất thấp cùgn với các chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài của chính phủ, các Công ty có điều kiện mở rông kinh doanh của mình ra nước ngoài. Với những lý do trên đã phần nào giải thích đầu tư trực tiếp Nhật Bản bắt đầu tăng rtong khu vực châu á, chúng cũng chính là lý do để Nhật Bản đầu tư tại Việt Nam trong những năm 1990. 3. thực trạng đầu tư trực tiếp Nhật Bản vào Việt Nam. 3.1. Tốc độ đầu tư. Nhật Bản bắt đầu đầu tư vào Việt Nam chỉ sau khi Việt Nam ban hành luật đầu tư nước ngoài tháng 12/1997. Năm 1989, Nhật Bản có 4 dự án đầu tư tại Việt Nam nhưng những dự án mang tính thăm dò khảo sát trong các ngành cơ khí, chế biến thực phẩm và khách sạn. Trong 9 tháng đầu năm 1994, các Công ty Nhật Bản cũng chỉ tham gia vào 21 dự án với tổng số vốn đầu tư là 162 triệu USD, tơi 107% so với năm 1997 ( Đỗ Đức Định - đã dẫn - trang 18 ). Tính đến hết năm 1994, Nhật Bản đứng hàng thứ 5 trong số các nước chủ yếu đầu tư ở Việt Nam. Đài Loan 2512 (Triệu USD) Hồng Kông 2024 Singapor 1213 Hàn Quốc 1075 Nhật Bản 949 Ôxtralia 678 Malaixia 618 Mỹ 517 Nguồn : Uỷ ban hợp tác và đầu tư, từ 1988 - 3/1995 ở bảng trên cho thấy tốc độ đầu tư củ Nhật Bản vào Việt Nam là tương đối chậm chạp. So với đầu tư của Nhật Bản ở các nước đang phát triển khác ở Châu á thì số lượng đầu tư củ Nhật Bản ở Việt Nam là quá nhỏ. Nếu so sánh với đầu tư của Mỹ thì đầu tư của Nhật Bản ở Việt Nam là rất chậm, mặt dù “các Công ty Mỹ là người đến dự tiệc sau”. Vì mãi đến tháng 2/1994 chính quyền Mỹ mới bỏ lệnh cấm vận chống Việt Nam. Chỉ sau 1 năm, từ 3/1994 - 3/1995, đầu tư của Mỹ ở Việt Nam đã lên tới con số 517 triệu USD, đứng thứ 8 trong thứ tự các nước đầu tư ở Việt Nam từ năm 1988, sau Đài Loan với tổng số vốn đầu tư 2,5 tỷ USD, tiếp theo là Hồng Kông 2,02 tỷ USD, Xingapor 1,21 tỷ USD. Như vậy, lượng bằng hơn nửa số lượng mà các Công ty Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam trong 7 năm từ 1988 -1994. Thời gian tiếp theo, dưới tác động của đồng yên lên giá, Việt Nam được đánh giá là nước có nhiều hứa hẹn đói với đầu tư ngắn hạn của Nhật Bản, đứng thứ 6 sau Trung Quốc, Thái Lan, Mỹ, Inđinôxia, Malaixia và đứng thứ 2 trong số các nước có nhiều hứa hẹn về đầu tư dài hạn chỉ sau Trung Quốc (1994). Thực tế, trong năm tài chính kết thúc ngày 31/3/1995 đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Việt Nam, mặc dù còn nhỏ về số lượng tuyệt đối (176 triệu USD) nhưng đã tăng với mức cao nhất 275% so với mức tăng 223% ở Pilipin (668 triệu USD), 174% ở ấn Độ (96 triệu USD), và 52% ở Trung Quốc ( Đỗ Đức Thịnh đã dẫn - Trang 43 ). Đầu tư của Nhật Bản ở Việt Nam đã tăng rất nhanh vào thời gian đầu 1995 từ vị trí thứ 5 lên vị trí thứ 3 trong quý I, rồi vị trí thứ I với 754 triệu USD trong 6 tháng đầu năm 1995( Nguyễn Xuân Chằng - quan hệ quốc tế Việt Nam - Nhật Bản một cách tiếp cận - TC kinh tế Châu á - TBD số (9) - Trang 25 ). Tính đến tháng 10/1996, Nhật Bản đã có 145 dự án với tổng só vốn đầu tư là 2,3 tỷ USD, đứng thứ 4 trong số các nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam, sau Đài Loan, Singapor và Hà Quốc. Tuy vậy, đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam vẫn rất nhỏ, chỉ chiếm 0,2% tổng đầu tư của Nhật ra nước ngoài và khoảng 0,7 % đầu tư của Nhật vào Châu á, Nhật Bản mới chỉ chiếm 11% tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài của tất cả các nước trên Thế giới vào Việt Nam ( Dương Phú Hiệp - đã dẫn - trang 8 ). Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và đầu tư, tính từ 1/1/88 đến hết năm 1997, Nhật Bản đã đầu tư vào Việt Nam 230 dự án với tổng số 3,215 tỷ USD và đến hết tháng 6/1998, đầu tư trực tiếp Nhật Bản tại Việt Nam đạt 3,43 tỷ USD với 260 dự án đang hoạt động trong đó có 107 dự án 100% vốn nước ngoài (trị giá 854,2 triệu USD), 140 dự án liên doanh (trị giá 2,18 tỷ USD) và 15 dự án hợp doanh (trị giá 401 triệu USD). Mặc dù số dự án cũng như số vốn đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam ngày càng tăng, nhưng nếu so sánh giữa các nước có nhiều triển vọng nhận đầu tư trực tiếp của Nhật Bản thì Việt Nam còn thua xa các nước khác. Theo thống kê của Ngân hàng Eximbank - Nhật Bản, năm 1996 có 4 nước thành viên ASEAN là Thái Lan, Indinoxia, Malaixia và Philipin là các nước hấp dẫn hàng đầu đối với 361 Công ty của Nhật trong đó Thái Lan (120 Công ty), Inđinôxia (119 Công ty), ấn độ (113 Công ty); Mỹ (112 Công ty)Việt Nam đứng vị trí hàng cuối cùng (87 Công ty) còn Trung Quốc là quốc gia được các Công ty của Nhật đặc biệt chú ý (240 Công ty) ( Dương Phú hiệp - Ngô Xuân Bình - Trần Anh Phương - 25 năm quan hệ Việt Nam - Nhật Bản 1973 1998 - Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội 1999 ). Với nền kinh tế đứng ở vị trí thứ hai trên Thế giới sau Mỹ vậy mà số dự án cũng như số vốn đầu tư của Nhật vào Việt Nam còn rất hạn chê. Nguyên nhân nào dẫn đến các Công ty Nhật Bản chậm chạp trong hoạt động đầu tư vào Việt Nam. Nếu như môi trường dầu tư của Việt Nam kém phát triển thì tại sao các nền kinh tế khác nhỏ hơn Nhật Bản như Đài Loan, Hồng Kông, Singapor và Hàn Quốc lại đầu tư nhanh và nhiều hơn Nhật Bản. Hay do Nhật Bản không đủ mạnh về kinh tế ? Một số lý do sau đây sẽ lý giải các câu hỏi trên. Thứ nhất, do bị chi phối bởi lệnh cấm vận của Mỹ chống Việt Nam, dù sao lợi ích kinh tế của Nhật Bản cần gắn liền và phụ thuộc vào chiến lược kinh tế của Mỹ. Thứ hai, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản vẫn còn hạn chế và mới chỉ thực sự được cải thiện, thúc đẩy sau chuyến thắm chính thức của thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt sang thăm nv đầu năm 1993. Do vậy hạn chế trong quan hệ cũng góp phần hạn chế đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam. Thứ ba, đầu tư nước ngoài lúc nào và ở đâu cũng là một cuộc cạnh tranh quyết liệt về việc thu hút vốn đầu tư củ các nước trên toàn thế giới, các nền kinh tế mới công nghiệp hoá mới (NIES), các nước ASEAN và Trung Quốc luôn là đối thủ cạnh tranh nhau quyết liệt trong việc thu hút vốn đầu tư của nhật. Trong khi môi trường đầu tư nước ngoài của các này rõ ràng hơ hẳn ở Việt Nam cho đến nay, không chỉ có các nhà đầu tư nhật bản, mà cả các nhà đầu tư nước ngoài khác noí chung vẫn còn kêu ca, phán nàn về hệ thống hạ tầng cơ sở (đường xá, cầu cống, cảng yếu kém, hệ thống pháp luật chư hoàn thiện và giá nhà đất cho thuê quá đắt mặc dù luật đầu tư ở Việt Nam tự do hơn ở các nước khác, nhưng lại thiếu một hệ thống hành chính hoàn chính để thực hiện luật. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở châu á đã tác động đến các nền kinh tế trong khu vực, gây bất ổn định khiến các nhà đầu tư vào các khu vực khác an toàn hơn cuộc khủng hoảng này làm cho các nền kinh tế lớn của khu vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng dẫn đến khó khăn về tài chính. Thêm nữa là đồng yên nhật bị giảm giá đã kích thích các nhà đầu tư quan tâm đến lợi ích thị trường trong nước. Phía Việt Nam tuy không bị ảnh hưởng trực tiếp của cuốc khủng hoảng nhưng cũng gặp khó khăn va chậm chễ trong việc giải ngân vốn nước ngoài, mà một nửa vốn chư được giải ngân lại nằm trong các dự án phát triển bất động sản (khác sạn, nhà hàng, du lịch...) từ những khó khăn do cuộc khủng hoảng gây ra nên đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam trong hai năm 1997& 1998 so với đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam các năm trước đó giảm nhiều măc dù năm 1997 Nhật Bản đứng thứ hai về số dự án đầu tư ở việt nam (sau Đài Loan 64dự án) và đứng thư hai vè tổng số vốn đầu tư (sau Hồng Công gần 695triệu USD )với 54 dự án và gần 606 triệu USD ( Dương Phú Hiệp - Ngô Xuân Bình - Trần Anh Phương đã dẫn - Trang 178 ) bước sang năm 1998, chỉ tính riêng năm tháng đầu năm, đầu tư nước ngoài của các nước châu ánói chung cũng như của nhật bản nói riêng váo các thành phố lớn của Việt Nam đều giảm cả về số lượng lẫn chất lượng. trong năm 1998 đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam chỉ còn 138 triệu USD với 13 dự án. Tuy nhiên khi nền kinh tế ổn định trở lại, chắc chắn đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam sẽ tăng lên một cách đáng kể và sẽ dẫn đầu trong 10 các quốc gia đầu tư lớn nhất váo Việt Nam. 3.2. Cơ cấu, quy mô đầu tư. Thời gian đầu Nhật Bản chủ yếu đầu tư trong các ngành cơ khí, chế biến thực phẩm và khách sạn. tính đến 1994, Nhật Bản đầu tư cao nhất vào hai lĩnh vực là dầu khí (9,4%) và khách sạn du lịch(9,4%), dưới đó là các ngành dịch vụ(4,7%), công nghiệp (4,6%) và ngư nghiệp ( Đỗ Đức Thịnh - đã dẫn - Trang 32 ) đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam không chỉ thấp về mức vốn mà còn về quy mô dự án. Bảng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam (1994) Lĩnh vực đầu tư Dự án Tổng số vốn (Triệu USD) % của Nhật Bản trong tổng số vốn Tổng số Nhật Bản Tổng số Nhật Bản Công nghiệp 492 40 3838,2 175,4 4,6 Dầu khí 25 4 1284,9 121,4 9,4 Nông lâm nghiệp 75 5 385,8 7,7 2,0 Ngư nghiệp 20 - 60,4 - - Giao thông vận tải Bưu điện 21 - 636,8 - - Khách sạn, du lịch 104 5 1954,1 9,4 Dịch vụ 127 12 729,6 4,7 Tài chính ngân hàng 15 - 176,6 - Các ngành khác 51 - 1647,6 - Tổng số 930 66 9554,0 5,5 Nguồn : Nguyễn Xuân Trình, Uỷ ban Nhà nước về hợp tác đầu tư So với tổng số vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, đầu tư Nhật Bản chỉ chiếm 5,5% trong cả thời ký 1988 --> 1994. Sau đó đầu tư của Nhật Bản đã dần dần mở rộng ra lĩnh vực khác như chế biến thực phẩm, điện tử và khai thác dầu khí. Các Công ty Nhật Bản đã thành lập 11 liên doanh chế biến thực phẩm để xuất khẩu sang Nhật Bản và chuyển một phần cơ sở chế biến từ Thái Lan sang Việt Nam. Sỡ dĩ Nhật Bản thường đầu tư vốn nhỏ vào Việt Nam là vì cho mãi đến tháng 2/1994, sau khi Mỹ đã xoá bỏ lệnh cấm vận kinh tế với Việt Nam thì Nhật Bản vẫn còn ở trong giai đoạn xem xét, thăm dò, họ chưa thực sự tin tưởng vào thị trường Việt Nam. Đa số các dự án vốn đầu tư nhỏ đều sử dụng nhiều lao động mà không có sự khác biệt về chất lượng công nghiệp Việt Nam và công nghiệp Nhật Bản, trong khi đó giá thành lao động của công nghiệp Việt Nam rất rẻ. Điều đó chứng tỏ Nhật Bản rất quan tâm đến nguồn lao động tiền lương của Việt Nam. Theo số liệu của vụ Quản lý dự án, Bộ kế hoạch và đầu tư, tính đén 31/12/1998 thì thấy rằng, đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam đã bắt đầu có sự đa dạng trong các ngành được đầu tư. Với những ngành có số dự án cao trong thời gian đầu đến nay đã có nhiều dự án về các ngành khác xuất hiện, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp bao gồm một số ngành công nghiệp then chốt như điện tử, lắp rắp ô tô, sản xuất xi măng và thép. Cơ cấu ngành nghề được điều chỉnh theo lương ngày càng hợp lý, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng và các cơ sở sản xuất công nghiệp then chốt (Bảng đầu tư của Nhật vào Việt Nam theo ngành (tính đến 31/12/1998)) Đầu tư của Nhật vào Việt Nam theo ngành (Tính đến 31/12/1998) Ngành Số dự án Tổng số vốn đầu tư Vốn thực hiện Công nghiệp nặng 96 1784 645 Công nghiệp dầu khí 4 131 40 Xây dựng hạ tầng KCN-KCX 1 53 14 Công nghiệp nhẹ 51 250 168 Công nghiệp thực phẩm 14 52 25 Nông lâm nghiệp 16 51 19 Khách sạn, du lịch 7 128 45 Xây dựng văn phòng, căn hộ 13 173 76 Giao thông vận tải, bưu điện 17 405 41 Xây dựng 18 421 95 Văn hoá - y tê - giáo dục 6 34 9 Thuỷ sản 4 14 11 Tài chính - ngân hàng 2 21 15 Nguồn : Báo đầu tư Về hình thức đầu tư, Việt Nam tiến bộ hơn một số nước khác trong khu vực về hình thức đầu tư vì Việt Nam có quy định cả hình thức đầu tư theo phương thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong khi đó các nước khác như : Myanma, Láo, Campuchia ... thì không có. Trong số các dự án đầu tư của Nhật Bản, có tới 42% là các dự án theo hình thức 100% vốn nước ngoài. Mặc dù vốn thực hiện của nhóm dự án này mới đạt khoảng 250 triệu USD, nhưng doanh thu đạt khá lớn (khoảng 576 triệu USD). Điều này chứng tỏ hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài có hiệu quả rất cao và là hình thức đầu tư được các nhà đầu tư Nhật Bản ưa thích bởi tính độc lập , khả năng kiểm soát và hưởng toàn bộ lợi nhuận. Hình thức này chủ yếu là các dự án đầu tư vào sản xuất hàng tiêu dùng và lĩnh vực dịch vụ. Nhóm các dự án liên doanh chiếm khoảng 52% số dự án và 62% tổng số đầu tư, với tổng số vốn thực hiện đạt 911 triệu USD và doanh thu khoảng 870 triệu USD. Như vậy, hiệu suất doanh thu trên vốn thực hiện của nhóm các dự án này đạt 90% chủ yếu là các đa chế biến p công nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp nhẹ và dịch vụ. Hình thức còn lại là hợp đồng hợp tác kinh doanh chủ yếu đầu tư vào các dự án thăm dò khai thác dầu khí. Việt Nam đang khuyến khích doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đầu tư vào những ngành, lĩnh vực cao vào có định hướng xuất khẩu. Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ cũng đã có chuyển biên tích cực. Thời gian đầu, đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào các tỉnh phía Nam, đến nay hầu hết các tỉnh, thành phố đều có dự án đầu tư nước ngoài, các tỉnh phía Bắc đã tập trung được gần 29% số dự án với 39% vốn đầu tư. Riêng thành phố Hồ Chí Minh tập trung được nhiều dự án cũng như vốn đầu tư nước ngoài nhiều nhất, với hơn 90 văn phòng đại diện của các hãng và ngân hàng Nhật Bản, ở Hà Nội có khoảng 60. Đặc biệt là những năm gần đây, có nhiều dự án lớn đầu tư vào cơ sở hạ tầng như khu chất xuất Tân Thuận, Linh Trung, dự án Bắc nhà bè - Nam Bình Chánh, dự án đô thị mới Nam Sài Gòn và dự án nhà máy nước Bình An. Tuy nhiên , đến năm 1997, tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào thành phố Hồ Chí Minh bị chững lại vàcó pgần suy giảm. Năm 1997, tổng số vốn đầu tư chưa bằng một nửa của năm 1996, chiếm khoảng 1,3 tỷ USD. Đầu tư vào Hà Nội, trong 5 tháng đầu của 1997 mặc dù có tăng về số dự án (21 dự án), nhưng số vốn không còn vào ồ ạt như trước nữa. Trong số 21 dự án, chỉ có 1 dự án lắp rắp xe máy Yamaha Co, của Nhật Bản là có vốn đầu tư nhiều nhất (80 triệu USD), còn lại các dự án khác đều có giá trị dưới 10 triệu USD. Năm 1996, Nhật Bản có 31 dự án với 342 triệu USD vốn đầu tư vào Hà Nội, đứng thứ 2 về số dự án (sau Hồng Kông) và đứng thứ 5 về vốn đầu tư (sau Hàn Quốc 744 triệu USD, Singapor 586 triệu USD, úc : 399 triệu USD, Thuỵ Điển : 387 triệu USD).( Dương Phú Hiệp - Trần Anh Phương đã dẫn - Trang 183 ) Quy mô trung bình củ các dự án đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam đến năm 1994 là 4 triệu USD cao hơn một chút ít so với quy mô trung bình 3,5 triệu USD của các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài ở Việt Nam năm 1998 và thấp hơn một nửa quy mô trung bình của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam tính đến năm 1994, với giá trị mỗi dự án là 10 triệu USD. Trong số những dự án này, có nhiều dự án chỉ sử dụng nhiều lao động chứng tỏ các dự án này mang tính chất thăm dò vì đối với các nhà đầu tư Nhật Bản , Việt Nam là thị trường có độ rủi ro cao. Với sự trở lại của các Công ty lớn ở Việt Nam trong các lĩnh vực như xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo đã được đầu tư quy mô lớn. Vì dụ : Công ty Misubitsi cùng với Công ty Yokohama Rubber Co và một Công ty Việt Nam với dự án đầu tư ước tính khoảng 60 triệu USD sẽ sản xuất lốp xe ô tô, sản xuất và lắp ráp ô tô, Công ty Naruberi quan tâm đến các dự án về cơ sở hạ tầng như mỏ than Hồng Gai, khai thác dầu và trạm điện ở Phú Mỹ và Phả lại , dự án xây dựng xi măng Hoành Bồ và Hoàng Thạch, nhà máy sản xuất mỳ ăn liền, dịch vụ vận tải, nhà máy dệt và các máy móc xây dựng cho thuê. Tính đến tháng 10 năm 1996, quy mô dự án lớn nhất của Nhật Bản là xây dựng nhà máy xi măng Nghi Sơn với tổng số vốn lên tới 317 triệu USD ký kết với Mitsubisi Co., dự án xây dựng nhà máy ô tô Toyota ở Mê Linh và dự án xây dựng khu công nghiệp Nomura ở Hải Phòng. Hiện nay, hai dự án đầu tư của Nhật Bản đã đi vào hoạt động tại Đồng Nai là Công ty Shirasaki và Công ty máy tính Fuyisu Việt Nam là hai Công ty hoạt động đầu tiên của đầu năm 1999 trong các dự án đầu tư nước ngoài và Fugisu Việt Nam có dự án đầu tư với vốn lớn nhất trong 27 dự án của Nhật tại Đồng Nai. Hầu hết các tập đoàn công nghiệp lớn Nhật Bản đã có vốn đầu tư tại Việt Nam như Mitsubishi, Sony, Nissho, Toyota, Honda, Suzuki ... Ngoài các ngân hàng lớn của Nhật Bản như : ngân hàng Tokyo, ngân hàng công nghiệp Nhật Bản, ngân hàng Sakuia và ngân hàng Fugitsu cũng có mặt tại Việt Nam. Như vậy là các tổ chức kinh tế - tài chính này đã tìm thấy những lợi nhuận và thuận lợi trong kinh doanh ở Việt Nam nên bắt đầu chú trọng đầu tư. 3.3. Một vài đánh giá về đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam. Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi quá trình tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quá trình đổi mới toàn diện được bắt đầu từ năm 1986 đã làm cho nền kinh tế thay đổi một cách cơ bản. Những thành tựu đạt được mới là bước đầu, nhưng rất quan trọng, nó sẽ là sự mở đầu tốt đẹp cho một quá trình cải cách và xây dựng đất nước lâu dài để có thể bắt kịp với nền kinh tế chung của khu vực và thế giới. Những khó khăn trong quá trình đổi mới sẽ không thể vượt qua được nếu chỉ dựa vào những nỗ lực của bản thân chính phủ và nhân dân Việt Nam. Nỗ lực của bản thân tất nhiên là nhân tố chính nhưng cũng cần có sự hợp tác và viện trợ quốc tế. Mặt tích cực, đầu tư trực tiếp Nhật Bản đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng đi vào ổn định và phát triển kinh tế ,đóng góp đáng kể vào sự thành công của công cuộc đổi mới. Nó cung cấp cho thị trường một lượng hàng hoá lớn, nhất là những hàng hoá thay thế nhập khẩu như xi măng, sắt thép, điện tử, điện dân dụng, hàng tiêu dùgn ... góp phần bình ổn cung cầu và igá cả thị trường. Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản chủ yếu đầu tư và khu vực công nghiệp, dầu khí, dịch vụ, khách sạn góp phần nâng cao tỷ trọng của các khu vực này trong nền kinh tế. Đặc biệt nhờ có đầu tư trực tiếp của Nhật Bản, nhiều ngành mũi nhọn của nền kinh tế đã xuất hiện như thăm dò, khai thác dầu khí, sản xuất, lắp rắp ô tô, xe máy... Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế. Nhiều công nghệ mới đã được nhập vào nước ta như chế tạo máy và sản phẩm cơ khí điều khiển theo chương trình; dây chuyền tự động lắp ráp hàng điện tử, mạch điện tử. Nhìn chung, phần lớn các trang thiết bị đã có trong nước là thuộc loại phổ cập ở các nước công nghiệp trong khu vực. Hoạt động chuyển giao công nghệ đã tạo ra nhiều sản phẩm tốt, kiểu dáng đẹp, chất lượng đều đạt tiêu chuẩn Việt Nam. Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản không chỉ góp phần phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất mà còn hình thành quan hệ sản xuất mới : đó là doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn. Sự xuất hiện này đã thúc đẩy sự hợp tác và nâng cao sức cạnh tranh của các thành phần kinh tế. Nó còn góp phần giải quyết việc làm cho người lao động , tham gia phát triển nguồn nhân lực, nâng cao sức mua trong nước, cải thiện mức sống của người lao động : lương trung bình cao hơn 30% đến 50% so với công nhân trong các lĩnh vực không có đầu tư, tạo cho lao động Việt Nam có điều kiện được đào tạo nâng cao tay nghề, tiếp cận với kỹ năng công nghệ và quản lý tiên tiến, rèn luyện về kỷ luật và tác phong lao động công nghiệp. Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản cũng làm tăng thêm nguồn thu từ xuất khẩu các mặt hàng điện tử, hàgn thuỷ sản, nông lâm sản. Bên cạnh đó, còn một số hạn chế của đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam như về công tác quy hoạch còn nhiều yếu kém , nhiều ngành công nghiệp do quy hoạch chạm và dự toán chưa chính xác nên đã cấp nhiều nhiều dự án đầu tư trực tiếp làm cho công suất khai thác đạt mức thấp so với công suất thiết kế (như các dự án lắp ráp ô tô, xe máy...) gây ảnh hưởng sản xuất trong nước. Cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý như tập trung quá nhiều vào các ngành công nghiệp trong khi đầu tư trong lĩnh vực nông lâm nghiệp, thuỷ sản còn quá nhỏ bé so với nhu cầu đầu tư và tiềm năng phát triển. Thị trường về dịch vụ tài chính, ngân hàng còn chưa thực sự mở đối với đầu tư trực tiếp của Nhật Bản. Vấn đề nào cũng có mặt mạnh, mặt yếu. Với lĩnh vực đầu tư thì càng không thể tránh khỏi quy luật này. Tuy nhiên, nếu biết vận dụng nó một cách hợp lý sẽ làm tăng mặt tích cực và giảm thiểu các mặt hạn chế. Việt Nam đã là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) và thành viên của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC), việc hợp tác kinh tế với các quốc gia khác là rất cần thiết, Việt Nam đang từng bước thay đổi và hoàn thiện mình để thu hút đầu tư nước ngoài một cách mạnh mẽ và hiệu quả. Chương III giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam 1.Những khó khăn cần tháo gỡ. 1.1. Phía Nhật Bản. Bên cạnh những điểm thuận lợi từ đầu tư trực tiếp của Nhật Bản, vẫn là tồn tại một số khó khăn mà cả hai bên phải từng bước tháo gỡ. Thứ nhất, việc đồng yên lên xuống giá thất thường sẽ gây cản trở cho các công ty đẩy mạnh đầu tư. Đồng yên lên giá làm cho các công ty Nhật Bản tăng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài bởi vì sự tăng giá của đồng yên hiện làm thay đổi triển vọng dài hạn của các công ty Nhật Bản, làm cho giá tài sản tài chính và bất động sản ở nước ngoài sẽ thấp, giá thành sản xuất ở nước ngoài cũng thấp nếu tính bằng đồng yên, trong khi đó giá hàng xuất khẩu sản xuất tại Nhật sẽ cao nếu tính theo đồng đô la Mỹ. Như vậy, nếu đồng yên giảm giá so với đồng đô la Mỹ thì các nhà đầu tư Nhật Bản cũng sẽ ngừng đầu tứ hoặc đầu tư ít hơn. Việc phụ thuộc vào đồng yên sẽ làm cho phía Việt Nam cần phải thận trọng hơn trong việc nhận đầu tư. Thứ hai, đó là chuyển giao công nghệ. Rất nhiều quốc gia lên tiếng phản ánh về tốc độ chuyển giao chậm và thái độ không sẵn sàng chuyển giao công nghệ của Nhật Bản. ở Việt Nam, hợp tác kinh tế với Nhật Bản mới phát triển gần đây nhưng cũng đã xuất hiện sự kêu ca, phàn nàn về thái độ không sẵn sàng trong chuyển giao công nghệ của Nhật Bản. Trong quá trình phát triển của mình Việt Nam không những muốn mua máy móc thiết bị mới mà còn muốn tiếp nhận công nghệ mới. Việt Nam mong muốn là vậy nhưng đối với các công ty Nhật Bản, họ cho rằng họ không coi chuyên gia công nghệ là một phần của mục tiêu đề ra. Lấy ví dụ ở Malixia, mặc dù có mặt từ hơn một thập kỷ qua và đa phần các sản phẩm của họ được tiêu thụ ở ngay thị trường nội địa nhưng các công ty này vẫn chưa thực sự cố gắng chuyển giao những quy trình cơ bản nhất của công nghệ chế tạo cho đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân nước này. Những người được cử đi đào tạo chỉ được học công nghệ sáng chế trong các quy trình cơ bản, các kỹ thuật thay thế là những công nghệ tiên tiến hơn so với những kỹ thuật đã được sử dụng nhưng chúng lại không có sẵn ở nước sở tại. Thậm chí những kỹ thuật hiện đại đang được sử dụng của các công ty cũng phải phụ thuộc vào công ty mẹ ở Nhật Bản về tất cả bí quyết sản xuất như kỹ năng quản lý, bằng sáng chế và quy trình chế tạo. Từ ví dụ trên cho thấy việc chuyển giao công nghệ của Nhật Bản rất hạn chế. Để có thể tiếp nhận nhiều hơn công nghệ tiên tiến của Nhật, Việt Nam cần đề ra những chính sách hấp dẫn với các nhà đầu tư, thu hút được luồng chuyển giao công nghệ của họ hiệu quả nhất. Thứ ba, các dự án ảnh hưởng đến môi trường Việt Nam. Đây là một lĩnh vực hiện nay chưa được chú ý thích đáng. Nhiều công ty Nhật Bản bị đánh giá gây ô nhiễm ở Nhật Bản nên để tránh vấn đề này, họ đã chuyển các ngành sản xuất gây ô nhiễm sang các nước khác hoạt động kinh doanh chạy đua với tốc độ nhanh hơn nhiều so với những cố gắng nhằm kiểm soát sự ảnh hưởng bất lợi đối với môi trường, giống như sản xuất ô tô đang phát triển với tốc độ cao trong khi việc xây dựng đường xá đang tiến triển hết sức chậm chạp, đường sắt ít gây ô nhiễm thì lại quá tốn kém còn tầu điện trong thành phố thì đã bị dỡ bỏ đề dẹp đường cho ô tô và xe máy. 1.2. Phía Việt Nam Theo nhận xét của các nhà đầu tư Nhật Bản, Việt Nam còn tồn tại các vướng mắc sau : Về luật pháp, Việt Nam có những thủ tục hành chính phiền hà, sự mơ hồ của luật pháp Việt Nam, thêm nữa là Việt Nam không chỉ thiếu luật mà họ còn thay đổi luật một cách thường xuyên và rất nhanh chóng. Ông Shunzo thuộc công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất thép Vinakyoci Steel, một liên doanh sản xuất thép đã phải chờ gần 3 năm mới được chính phủ Việt Nam cáp giấy phép để thành lập công ty, cho biết : ”Để bắt đầu một dự án mới, một công ty nước ngoài buộc phải gửi đơn đi rất nhiều bộ chủ quản, sau đó các bộ này đưa ra ý kiến rất khác nhau và thường xuyên thay đổi quyết định của họ”. Còn ông Masayoshi Ueno đưa ra dẫn chứng “ trong hai năm rưỡi, chính phủ đã huỷ bỏ rồi lại ban lại lệnh cấm tới tới 5 lần, và cuối cùng đến mùa hè năm 1994 cấm toàn bộ việc xuất khẩu mặt hàng tấm nâng hàng bằng gỗ để bảo vệ rừng cho đất nước”. Trong một cuộc điều tra do các nhà tổ chức thuộc uỷ ban kinh tế Nhật - Việt và Keidanren thực hiện, các nhà kinh doanh Nhật Bản đã yêu cầu phải điều chỉnh các luật lệ về tỷ giá hối đoái, hải quan, thuế quan và sửa đổi các bộ luật về thương mại, gồm có luật công ty, luật chống tơ rớt, luật dân sự và luật về tài sản trí tuệ; thực hiện thống nhất một cơ quan cấp phép đầu tư; các đơn vị xin cấp phép đầu tư không nên làm bằng tiếng Anh, mà nên bằng cả một sô thứ tiếng khác nhằm giảm bớt khó khăn cho những nhà đầu tư không nói tiếng Anh; giảm bớt những trở ngại đối với những đối tác địa phương trong quá trình thiết lập các liên doanh. Về cơ sở hạ tầng công nghiệp và xã hội trong tình trạng yếu kém. Nhà nước chưa đảm bảo được cơ sở hạ tầng bên ngoài hàng rào cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các khu công nghiệp. Cũng trong văn bản điều tra do các nhà tổ chức thuộc uỷ ban kinh tế Nhật - Việt và Keitanren thực hiện nêu : cần phải phát triển và ổn định nguồn cung cấp điện nhằm đáp ứng nhhu cầu ngày càng tăng trong tương lại, xoá bỏ hệ thống hai giá do nhà nước thực hiện . Sự thật vấn đề này khi triển khai làm thủ tục rất phiền hà, phức tạp. Chủ đầu tư phải đi lại làm việc nhiều lần nhưng không được trả lới rõ. Phần lớn các doanh nghiệp muốn có điện nước dùng tiến độ đều phải ứng vốn trước đề làm hạ tầng. Giá thuê đất và văn phòng cao là một vần đề mà các nhà đầu tư Nhật Bản cũng như các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm trong hoạt động của họ ở Việt Nam. Theo ngày Shingi kubota, một nhà tư vấn Nhật Bản tại thành phố Hồ Chính Minh hoặc 8000 USD để thuê 100m2 chung cư ở Hà Nội. Giá đất và giá nhà ở Việt Nam bị đánh giá là cao hơn nhiều so với ở Singapor, Đài Bắc, Newyork. Thủ tục cấp đất còn phức tạp, kéo dài, nhiều khi vài ba năm, thậm chí có dự án đến 5 năm ; thời điểm tính giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn liên doanh chưa hợp lý. Về thuế trong đó có thuế xuất nhập khẩu, thuế doanh thu, thuế thu nhập cá nhân. Đối với thuế xuất khẩu , nhập khẩu đánh vào linh kiện, phụ tùng, phụ kiện, nguyên vật liệu đến tiến hành sản xuất trong nước thấp hơn không đáng kể, thậm chí cao hơn thuế xuất khẩu sản phẩm hoàn chỉnh. Do vậy, không khuyến khích người sản xuất vì làm thương mại có lời hơn. Việc đánh thuế doanh thu vào hàng xuất khẩu tại chỗ làm cho thuế chống thuế, đội giá thành sản xuất, làm cho sản phẩm xuất khẩu thiếu sức cạnh tranh. Thời hạn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu nhập vào để sản xuát hàng xuất khẩu chỉ có 90 ngày là quá ngắn. Hơn nữa, thủ tục hoàn trả thuế phức tạp, chưa rõ ràng làm cho doanh nghiệp mất nhiều thời gian. Nếu được hoàn trả thì doanh nghiệp cũng không được nhận lại tiền mà thường để khấu trừ vào các khoản phải nộp sau. Công ty Fugitsu chẳng hạn, họ không được hoàn trả thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu hư hỏng hoặc nguyên liệu nhập về không phù hợp với nhu cầu sản xuất phải huỷ bỏ cũng như vật liệu tiêu hao hoàn toàn trong sản xuất hàng xuất khẩu như hoá chất phủ bề mặt, chất tẩy khuôn. Thuế thu nhập cá nhân còn cao, bất hợp lý đối với cả người nước ngoài và người Việt Nam. Theo quy định hiện hành, thuế suất, thuế thu nhập cá nhân mức cao nhất tới 50% đối với người nước ngoài và 60% đối với người Việt Nam. Mức thu nhập khởi điểm phải chịu thuế thu nhập là 5triệu đồng/ tháng với người nước ngoài và 2 triệu đồng/tháng đối với người Việt Nam. Một số doanh nghiệp phản ánh về việc tại Việt Nam vì sự bất hợp lý trong việc đánh thuế thu nhập cá nhân. Việc chậm quy định chính sách nội địa hoá làm cho các nhà đầu tư lúng túng trong việc xây dựng kế hoạch đầu tư cho sản xuất. Hệ thống phân loại thuế theo tiêu chuẩn SKD, CKD , IKD (tiêu chuẩn riêng có ở Việt Nam) không rõ ràng và rất phức tạp, gây khó khăn cho việt tính thuết đối với phụ tùng linh kiện nhập khẩu, đặc biệt là những phụ tùng, linh kiện nhập khẩu để lắp ráp ô tô, xe máy, ti vi, hàng điện gia dụng là những sản phẩm mới có ở Việt Nam, Hải quan có thể áp dụng nhiều mức thuế khác nhau làm cho doanh nghiệp không biết trước được mức thuế phải chịu để tính giá thành sản xuất và ký hợp đồng bán sản phẩm mới có ở Việt Nam. Trên đây là một số nhận xét của các doanh nghiệp đầu tư Nhật Bản ở Việt Nam. Nó có thể chưa đầy đủ nhưng là một số vấn đề cấp bách để phía Việt Nam nhanh chóng điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của các doanh nghiệp và đề ngày càng có môi trường đầu tư hấp dẫn hơn không chỉ với các doanh nghiệp Nhật Bản mà cả với các doanh nghiệp ĐTNN nói chung. 2. Giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào việt nam Để phát huy thế mạnh trong nước , thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu quả, hiện nay chính phủ Việt Nam đã và đang tích cực điều chỉnh và dần hoàn thiện các mặt yếu kém nhất là về luật pháp, thuế của mình. Ngày 25/3 dưới sự chủ toạ của Phó thủ tướng, Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm, đã có cuộc đối thoại với các nhà đầu tư nước ngoài, công bố quyết định và biện pháp nhằm khuyến khích và tạo thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Đó là : 1. Từ ngày 1/7/1999 tiến tới thực hiện chính sách một giá dịch vụ đối với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (DNĐTNN) cũng như doanh nghiệp đầu tư trong nước, dùng tiền đồng Việt Nam để thanh toán dịch vụ, phí về lệ phí, trừ một số trường hợp có quy định riêng. Chính phủ quyết định từ ngày 1/7/1999 giá bán điện cho sản xuất giảm từ 8,5 cent/kwh xuống 7,5 cent, giá cước viễn thông quốc tế gọi từ Việt Nam sẽ giảm bình quân 10% và vào năm 2000 sẽ quyết định giảm giá thêm. 2. Thay lệ phí trước bạ quá cao và lệ phí đặt văn phòng đại diện đồng thời giảm hoặc bãi bỏ các phí, lệ phí do các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, Ban quản lý khu công nghiệp ban hành không đúng. 3. Quy định và trả bằng tiền Đồng Việt Nam đối với mức lương tối thiểu và lương của lao động Việt Nam trong DNĐTNN. Điều chỉnh địa bàn áp dụng mức lương tối thiểu ở các địa phương khó khăn về kinh tế - xã hội sẽ thấp hơn, áp dụng với các dự án đầu tư nước ngoài cấp giấy phép đầu tư sau ngày quuyết định của thủ tướng chính phủ. 4. Cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc trong DNĐTNN nhanh và thủ tục đơn giản hơn. Sở lao động - thương binh - xã hội tỉnh và Ban quản lý khu công nghiệp sẽ được uỷ quyền cấp. 5. DNĐTNN được trực tiếp tuyển dụng lao động nếu sau 30 ngày các tổ chức cung ứng lao động Việt Nam không đáp ứng được. 6. DNĐTNN và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) được tạm chưa phải nộp thuế VAT đối với nguyên liệu vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu thiết bị máy móc phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyển công nghệ : vật tư xây dựng trong nước chưa sản xuất được để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp không phải chịu thuế VAT đối với DNĐTNN và bên tham gia BCC được miễn thuế nhập khẩu theo Nghị định 12/CP và nghị định 10/1998/NĐ-CP. 7. Các doanh nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp và khu chế xuất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thuế đất với giá thấp nhất, được miễn giảm các loại thuế để xây dựng nhà ở cho công nhân và các công trình ngoài hàng rào. 8. Bổ xung những ưu đãi khuyễn khích đầu tư vào xuất khẩu, nông nghiệp vùng sâu, vùng xa có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, sử dụng nguyên nhiên liệu trong nước, sản xuất linh kiện, phụ tùng gia tăng hàm lượng nội địa hoá. Giám hoặc miễn tiền thuê đất tương ứng với thời gian tạm ngừng xây dựng hoặc ngừng hoạt động cho các doanh nghiệp có khó khăn. Với 8 biện pháp cụ thể đã công bố trên, phần nào đã làm an tâm các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và cũng tạo điều kiện kinh doanh cho các nhà doanh nghiệp Nhật Bản. Cùng với 8 biện pháp trên còn có Nghị định số 10/1998/NĐ- CP sẽ là các văn bản pháp lý để các doanh nghiệp Nhật Bản áp dung vào công việc kinh doanh của mình được tốt và nó cũng thể hiện mối quan tâm của chính phủ Việt Nam trong việc cải thiện môi trường đầu tư để môi trường đầu tư Việt Nam ngày càng tốt hơn. Kết luận Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam đến nay được hơn 10 năm nhưng tốc độ đầu tư đã diễn ra khá nhanh. Trên thực tế, trong thời gian qua đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam đã góp phần đáng kể trong việc cải tạo cơ sở hạ tầng, tạo công ăn việc làm cho người lao động Việt Nam và thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế Là một nước thành viên của Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) Việt Nam cần tranh thủ chính sách tăng cường quan hệ với các nước ASEAN của Nhật Bản để thu hút vốn từ cường quốc kinh tế này, phục vụ yêu cầu phát triển nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới và nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực, đồng thời học tập và rút ra bài học kinh nghiệm của các nước láng giềng trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và quá trình thu hút và sử dụng vốn đầu tư. Có thể nói quan hệ với Nhật Bản là cần thiết cho sự nghiệp phát triển kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam. Do đó, để thu hút nhiều hơn nữa vốn đầu tư trực tiếp, Việt Nam cần phát huy tối đa chính sách kết hợp sản xuất thay thế hàng nhập khẩu và sản xuất hướng vào xuất khẩu hiện nay nhằm mở rộng cơ hội đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng. Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản đang phát triển, chắc chắn trong tương lai quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản sẽ tiến triển hơn nữa nhất là trong lĩnh vực đầu tư. Danh mục tài liệu tham khảo 1. ảnh hưởng của Nhật Bản trong khu vực Thái Bình Dương GordonGame - Firacial Timé Survey 21/10/1988 2. Báo đầu tư 3. Các nền kinh tế đang phát triển và Nhật Bản - SaBuRôOlota Viện kinh tế Thế giới - Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam. Hà Nội 1998 4/ Chân dung nước Nhật ở Châu á NigelHollanay & Philip Bouring - NXB Thông tin lý luận 1992 5. Đầu tư nước ngoài của Nhật Bản và sự phụ thuộc kinh tế Trung tâm Châu á - Thái Bình Dương - Shosihô ToRuNag Chủ biên - NXB khoa học xã hội - Hà Nội 1996. 6/ Đổi mới kinh tế và chính sách phát triển ở Việt Nam. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, trường Đại học kinh tế Stockholm, cơ quan phát triển quốc tế Thuỵ Điển Hà Nội 1990. 7. Kinh nghiệm trực tiếp đưa đầu tư nước ngoài vào của các nước ASEAN và những gợi ý về vấn đề đối với Trung Quốc Thẩm Hồng Phương - Viện Mác Lê 1997 8. Nhật Bản đường đi tới 1 siêu cường Lê Văn Sang - Lưu Ngọc Trịnh - Viện Kinh tế Thế Giới NXB khoa học - Xã hội 1991. 9. Những bài giảng về lịch sử kinh tế Nhật Bản hiện đại Quỹ thư viện Quốc tế LTCB (Nhật Bản) Giáo sư Nakamura Takafusa - NXB Chính Trị Quốc Gia 10. Những giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam NXB Chính trị quốc gian - 1996 11. Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản đang phát triển. Đỗ Đức Thịnh - NXB Khoa Học - Xã hội Hà Nội 1996. 12. Hai nhăm năm quan hệ Việt Nam - Nhật Bản 1973 - 1998 Dương Phú Hiệp - Ngô Xuân Bình - Trần Anh Phương. Chủ biên NXB khoa học - Xã học Hà Nội 1999. 13. Một số vấn đề về kinh tế đối ngoại của các nước đang phát triển ở Châu á Lê Hồng Phục - Đỗ Đức Định. Viện kinh tế Thế Giới NXB khoa học xã hội Hà Nội 1988. 14. Báo đầu tư Năm 1997, 1998, 1999 15. Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản Số 3/1997 Số 1,2,4,6/1998 Tạp chí kinh tế Châu á - Thái Bình Dương Số 2,3/1997 Số 1,2,4/1995 Số 1/1997 Số 1/1998 Tạp chí Ngoại thương số 5/1999 Tạp chí Việt Nam và Đông Nam á số 20/1998 16. Báo cáo tình hình 10 năm thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài và những vướng mắc hiện nay của các nhà đầu tư. Bộ kế hoạch và đầu tư. Vụ quản lý dự án đầu tư nước ngoài. 17. Việt Nam trong lịch sử Thế Giới NXB chính trị quốc gia - Furuta Motoo mục lục –²—

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0082.doc
Tài liệu liên quan