Giáo trình Kinh tế vùng (Phần 2)

Các ngành kinh tế 4.6.3.1. Ngành nông nghiệp, lâm, ngư nghiệp a. Ngành nông nghiệp - Là ngành chủ yếu của vùng, ngành nông nghiệp đều chiếm tỷ trọng trên 50% GDP của hầu hết các tỉnh. Trong thời gian qua, vùng đã phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi gắn liền với công nghiệp chế biến phục vụ cho xuất khẩu. - Trong cơ cấu ngành nông nghiệp, cây lương thực chiếm ưu thế tuyệt đối. Năm 1999, diện tích cây lương thực của vùng là 1.953 ngàn ha, chiếm sản lượng lương thực là 12,3 triệu tấn (chiếm 51,91% sản lượng lương thực cả nước). Mức lương thực bình quân đầu người của vùng đạt cao nhất trong cả nước (850kg/người/năm). Năng suất90 lương thực của vùng ngày càng tăng cao, năm 1997 đạt 40,2 tạ/ha, cao nhất trong cả nước. Điều này là do cơ cấu mùa vụ trong vùng có sự thay đổi, đồng ruộng được cải tạo, thuỷ lợi hóa và có sự đầu tư khoa học kỹ thuật. - Diện tích cây ăn quả trong mấy năm gần đây có xu hướng tăng, hiện có khoảng 170 nghìn ha cây ăn quả. Cây ăn quả trong vùng được trồng theo 3 dạng là vườn tạp, vườn hỗn hợp và vườn chuyên. - Ngành chăn nuôi của vùng cũng khá phát triển: đàn lợn chiếm 14,2 % đàn lợn của cả nước, tuy nhiên còn chưa tương xứng so với tiềm lực của vùng. Nuôi vịt là truyền thống của vùng để lấy thịt, trứng và lông xuất khẩu. Đàn vịt chiếm 25,1% đàn gia cầm của cả nước, được nuôi nhiều nhất ở Bạc Liêu, Cà Mau, Cần Thơ, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh. b. Ngành ngư nghiệp - Nghề cá của vùng đã phát triển khá mạnh cả về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu. Giá trị sản lượng ngành ngư nghiệp của vùng chiếm 42 - 45% giá trị sản lượng của cả nước và 37 - 42% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. - Về nuôi trồng, diện tích nuôi trồng thủy sản của vùng là 294,1ha, chiếm 21,2% diện tích nuôi trồng thuỷ sản của cả nước. Trong đó có các mô hình nuôi tôm-lúa, rừng - tôm, . Ngoài ra, vùng còn nuôi các thuỷ sản khác có giá trị kinh tế cao như lươn, ốc, cua, rùa, đồi mồi,. đây cũng là nguồn lợi xuất khẩu có giá trị. c. Ngành lâm nghiệp Vùng đã tiến hành khôi phục rừng tràm trên các vùng đất mặn, duy trì và mở rộng diện tích rừng ngập mặn ven biển. Tuy nhiên, do không khắc phục được nạn cháy rừng nên diện tích rừng trong mấy năm gần đây của vùng đã bị suy giảm nhanh chóng.

pdf63 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 154 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Kinh tế vùng (Phần 2), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện Tuyên Quang trên sông Gâm (300 MW). Nhiều nhà máy thủy điện nhỏ đang được xây dựng trên các phụ lưu của các sông. Việc phát triển thủy điện sẽ tạo ra động lực mới cho sự phát triển của vùng, nhất là việc khai thác và chế biến khoáng sản trên cơ sở nguồn điện rẻ và dồi dào. Nhưng với những công trình kỹ thuật lớn như thế, cần chú ý đến những thay đổi không nhỏ của môi trường. 4.1.2.5. Tài nguyên đất: - Trung du và miền núi Bắc Bộ có phần lớn diện tích là đất feralit trên đá phiến, đá vôi và các đá mẹ khác, ngoài ra còn có đất phù sa cổ (ở trung du). Đất phù sa có ở dọc các thung lũng sông và các cánh đồng ở miền núi như Than Uyên, Nghĩa Lộ, Điện Biên, Trùng Khánh... 4.1.3. Các ngành kinh tế 4.1.3.1. Ngành nông- lâm nghiệp a. Ngành nông nghiệp - Giống như vùng Đông Bắc, Tây Bắc cũng phát huy thế mạnh cây chè. Tuy chất lượng không cao như chè vùng Đông Bắc, nhưng Tây Bắc có ưu thế phát triển công nghiệp chế biến chè đen xuất khẩu, vì đây là cây trồng có giá trị của vùng. Diện tích chè của vùng chiếm 10,25% diện tích chè trong cả nước (năm 1995), được trồng chủ yếu ở Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình. - Cây công nghiệp ngắn ngày nhiều nhất là mía. Ngoài ra còn có vùng bông Tô Hiệu - Sơn La; vùng đậu tương Sơn La, Lai Châu. - Cây lương thực có sự phát triển theo hướng từng bước giảm diện tích lúa đồi, tăng diện tích lúa nước. Vùng đã hình thành các cánh đồng Mường Thanh, Bắc Yên, Văn Chấn... và phát triển hình thức ruộng bậc thang. Ngoài phát triển trồng lúa, cây ngô là thế mạnh của vùng nhằm cung cấp lương thực và thức ăn cho các đàn gia súc lớn. 66 - Chăn nuôi: vùng có thế mạnh chăn nuôi như chăn nuôi bò sữa (Mộc Châu) do vùng có điều kiện sinh thái thích hợp. Tây Bắc là vùng chăn nuôi bò sữa lớn nhất nước ta hiện nay. b. Ngành lâm nghiệp Do có sự đổi mới về chính sách, cộng với sự quan tâm của các tổ chức quốc tế, phong trào trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc của vùng có sự phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt, phải kể đến các mô hình vườn rừng, vườn đồi kết hợp lấy gỗ với cây công nghiệp, cây ăn quả và chăn nuôi khá thành công, gắn nông nghiệp với lâm nghiệp nâng cao hiệu quả sử dụng đất. 4.1.3.2. Ngành công nghiệp Lớn nhất trong vùng là thuỷ điện Sơn La, thứ hai là nhà máy thủy điện Hòa Bình, còn lại quy mô ngành công nghiệp trong vùng còn rất nhỏ bé. Công nghiệp chế biến nông sản đáng kể nhất là chế biến sữa Mộc Châu, chế biến chè Tam Đường. Các ngành công nghiệp địa phương như cơ khí sửa chữa, ngành tiểu thủ công nghiệp mây tre đan cũng có sự phát triển nhưng manh mún. 4.1.3.3. Ngành du lịch Vùng có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch. Hiện nay, một trong những trung tâm du lịch của Vùng phải kể đến là Hòa Bình, thu hút sự quan tâm rất lớn của du khách. Hòa Bình là một vùng đất đa dân tộc, cùng với phong cảnh du lịch hấp dẫn, có hệ thống các suối nước nóng, suối khoáng... và các sản phẩm địa phương độc đáo như cơm lam, rượu cần, dệt thổ cẩm 4.2. Vùng đồng bằng sông Hồng 4.2.1. Vị trí địa lý Vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) nằm ngay cạnh phía Nam của đường bắc chí tuyến, giữa vĩ độ 22°00' và 21°30' Bắc và kinh độ 105°30' và 107°00' Đông. Diện tích tự nhiên là 23.336 km2, dân số năm 2012 là 20,2 triệu người. Diện tích của ĐBSH chiếm 7,1% diện tích đất của cả nước và dân số chiếm 22,7% dân số của cả 67 nước. Mật độ dân số trên 1km2 là 961 người, cao nhất so với các vùng khác trong cả nước và có thể là một trong những vùng nông thôn có mật độ dân số cao nhất thế giới. (Mật độ bình quân của cả nước là 268 người/km2). Mật độ dân số của vùng ĐBSH cao gấp 3,58 lần so với cả nước và 1,57 lần so với vùng có mật độ dân số đứng thứ hai là Đông Nam Bộ. Trong số 8 tỉnh, thành phố của cả nước có mật độ dân số trên 1.000 người/km2 thì riêng Vùng ĐBSH đã có 7 tỉnh, thành phố. Phía Bắc và Tây Bắc giáp trung du và miền núi, giàu tài nguyên khoáng sản và rừng, phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ, có nguồn lợi hải sản phong phú và có khả năng có dầu khí, phía Nam giáp Bắc Trung Bộ, giàu vật liệu xây dựng và kim loại quý. Theo số liệu thống kê đến 2012, Vùng ĐBSH có 2 thành phố trực thuộc Trung ương (Hà Nội và Hải Phòng); 09 thành phố trực thuộc tỉnh; 16 quận, 6 thị xã, 96 huyện; 364 phường; 122 thị trấn và 1.965 xã. 4.2.2. Tài nguyên thiên nhiên 4.2.2.1. Địa hình, khí hậu và thuỷ văn - Địa hình tương đối bằng phẳng với hệ thống sông ngòi dày đặc đã tạo điều kiện thuận lợi để phát triển hệ thống giao thông thuỷ bộ và cơ sở hạ tầng của vùng. - Đặc trưng khí hậu của vùng là mùa đông từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, mùa này cũng là mùa khô. Mùa xuân có tiết mưa phùn. Điều kiện về khí hậu của vùng tạo thuận lợi cho việc tăng vụ trong năm. - Hệ thống sông ngòi tương đối phát triển. Tuy nhiên về mùa mưa, lưu lượng dòng chảy quá lớn có thể gây ra lũ lụt, nhất là ở các vùng cửa sông khi nước lũ và triều lên gặp nhau, gây ra hiện tượng dồn ứ nước trên sông. Về mùa khô (tháng 10 đến tháng 4 năm sau), dòng nước trên sông chỉ còn 20-30% lượng nước cả năm, gây ra hiện tượng thiếu nước nghiêm trọng. Bởi vậy, để ổn định việc phát triển sản xuất, đặc biệt trong nông nghiệp thì phải xây dựng hệ thống thuỷ nông để vùng có thể đảm bảo chủ động tưới tiêu. Ngoài ra, vùng cần phải xây dựng hệ thống đê điều để chống lũ và ngăn mặn. 4.2.2.2. Tài nguyên đất đai 68 Đất nông nghiệp là nguồn tài nguyên cơ bản của vùng, do phù sa của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp. Hiện toàn vùng có trên 103 triệu ha đất đã được sử dụng, chiếm 82,48 % diện tích đất tự nhiên của vùng và chiếm 5,5% diện tích đất sử dụng của cả nước. Như vậy, mức sử dụng đất của vùng được đánh giá là cao nhất so với các vùng trong cả nước. Đất đai của vùng rất thích hợp cho việc thâm canh lúa nước, trồng màu và các cây công nghiệp ngắn ngày. Vùng có diện tích trồng cây lương thực đứng thứ 2 trong cả nước, diện tích đạt 1242,9 nghìn ha. Khả năng mở rộng diện tích của đồng bằng sông Hồng vẫn còn khoảng 137 nghìn ha. Quá trình mở rộng diện tích gắn liền với quá trình chinh phục biển thông qua sự bồi tụ và thực hiện các biện pháp quai đê lấn biển theo phương thức “lúa lấn cói, cói lấn sú vẹt, sú vẹt lấn biển”. 4.2.2.3. Tài nguyên biển Đồng bằng sông Hồng có một vùng biển lớn, với bờ biển kéo dài từ Thuỷ Nguyên - Hải Phòng đến Kim Sơn - Ninh Bình. Bờ biển có bãi triều rộng và phù sa dày, là cơ sở nuôi trồng thuỷ hải sản, nuôi rong câu và chăn vịt ven bờ. Ngoài ra một số bãi biển, đảo có thể phát triển thành khu du lịch như bãi biển Đồ Sơn, huyện đảo Cát Bà,... 4.2.2.4. Tài nguyên khoáng sản Đáng kể nhất là tài nguyên than đá, phân bố chủ yếu ở tỉnh Quảng Ninh với ba dải lớn là Cẩm Phả, Hòn Gai, Mạo Khê - Uông Bí với trữ lượng thăm dò khoảng 5,5 tỷ tấn (chiếm khoảng 90% trữ lượng than của cả nước). Ngoài ra còn có đất sét, đặc biệt là đất sét trắng ở Hải Dương, phục vụ cho phát triển sản xuất các sản phẩm sành sứ. Tài nguyên đá vôi ở Thuỷ Nguyên - Hải Phòng đến Kim Môn - Hải Dương, dải đá vôi từ Hà Tây đến Ninh Bình chiếm 5,4% trữ lượng đá vôi cả nước, phục vụ cho phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây dựng. Tài nguyên than nâu ở độ sâu 200m đến 2000m có trữ lượng hàng chục tỷ tấn, đứng hàng đầu cả nước, hiện chưa có điều kiện khai thác. Ngoài ra vùng còn có tiềm năng về khí đốt. Nhìn chung khoáng sản của vùng không nhiều chủng loại và có trữ lượng vừa và nhỏ (trừ bể than ở Quảng Ninh) nên việc phát triển công nghiệp phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu từ bên ngoài. 69 4.2.2.5. Tài nguyên sinh vật Tài nguyên sinh vật trong vùng khá phong phú với nhiều động thực vật quý hiếm, đặc trưng cho giới sinh vật của Việt Nam. Mặc dù trong vùng có các khu dân cư và đô thị phân bố dàyđặc nhưng giới sinh vật vẫn được bảo tồn ở các vườn quốc gia như Ba Vì, Cát Bà, Cúc Phương. 4.2.3. Các ngành kinh tế 4.2.3.1. Ngành nông nghiệp Đồng bằng sông Hồng là một trong hai vựa lúa của Việt Nam, có nhiệm vụ hỗ trợ lương thực cho các tỉnh phía Bắc và một phần dành cho xuất khẩu. Thời kỳ 1993- 1997, 85% sản phẩm nông nghiệp phục vụ cho nhu cầu của vùng, 5% hỗ trợ các tỉnh và 10% xuất khẩu. Diện tích đất sử dụng trong nông nghiệp chiếm tới 57,25% diện tích đất tự nhiên của toàn vùng. Cơ cấu ngành trồng trọt - chăn nuôi còn nặng về trồng trọt, tỷ trọng ngành trồng trọt trong tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp là 23%. Trong ngành trồng trọt chủ yếu là lúa nước, sản lượng lúa chiếm tới 89,21% trong sản lượng lương thực quy thóc 4,22 triệu tấn, còn lại là hoa màu lương thực như ngô, khoai, sắn. Ngoài ra, trong vùng còn phát triển các cây công nghiệp khác như lạc, đậu tương có thể trồng xen canh, gối vụ. Cây công nghiệp chủ yếu là đay (chiếm 55% diện tích đay cả nước) và cói (chiếm 41,28 % diện tích cói cả nước). Về chăn nuôi, sự phát triển đàn lợn gắn liền với sản xuất lương thực trong vùng. Đến năm 2001, toàn vùng có 5921,8 nghìn con lợn, chiếm 27,2% đàn lợn cả nước; đàn gia cầm có trên 30 triệu con, chiếm 20,05% đàn gia cầm cả nước. Đàn trâu có chiều hướng giảm do nhu cầu về sức kéo được thay thế bởi máy móc hiện đại. Đàn bò có 483 nghìn con (năm 2001), đáp ứng được nhu cầu thịt, sữa cho nhân dân trong vùng. Về nuôi trồng thủy sản: nuôi thuỷ sản trong vùng cũng được chú trọng phát triển để tận dụng lợi thế diện tích mặt nước đa dạng của vùng và phục vụ nhu cầu thực phẩm của nhân dân. Tuy nằm trong vùng ngư trường đánh bắt cá của vịnh Bắc Bộ nhưng việc khai thác và nuôi trồng thuỷ hải sản của vùng có quy mô nhỏ, đánh bắt và chế biến mang tính thủ công và chủ yếu ở ven biển thuộc tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng. Tỷ trọng 70 giá trị ngành thuỷ hải sản của vùng chiếm khoảng hơn 5% tổng giá trị toàn ngành của cả nước. 4.2.3.2. Ngành công nghiệp Đồng bằng sông Hồng có nền công nghiệp phát triển vào loại sớm nhất nước ta. Trong vùng tập trung nhiều xí nghiệp công nghiệp hàng đầu của cả nước, nhất là về cơ khí chế tạo, sản xuất hàng tiêu dùng và chế biến thực phẩm. Ngành công nghiệp khai thác năng lượng (than) cung cấp tới 98% than đá cho nhu cầu trong nước và chiếm tỷ trọng 22,7 % trong giá trị gia tăng công nghiệp của cả nước. Xét về tỷ trọng trong tổng GDP ngành công nghiệp toàn vùng thì công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm chiếm 20,9%, công nghiệp nhẹ (dệt, may, da) chiếm 19,3%; sản xuất vật liệu xây dựng 17,9%; cơ khí, điện, điện tử 15,2%; hóa chất, phân bón, cao su chiếm 8,1%; còn lại 18,2% là các ngành công nghiệp khác. Đến nay trên địa bàn vùng đã hình thành một số khu, cụm công nghiệp có ý nghĩa lớn đối với việc phát triển kinh tế xã hội của vùng như các khu công nghiệp ở Hải Phòng, Hà Nội, Hải Dương, Vĩnh Phúc, khu công nghiệp khai thác than Quảng Ninh ... Tuy vậy, trình độ phát triển công nghiệp của vùng còn thấp hơn so với trình độ phát triển công nghiệp của vùng Đông Nam Bộ. Tỷ trọng lao động hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp của vùng chiếm 32% tổng lao động công nghiệp trong toàn quốc, nhưng mới chỉ sản xuất ra hơn 22% giá trị công nghiệp của cả nước. 4.2.3.3. Ngành dịch vụ Là trung tâm thương mại lớn nhất của cả nước, đồng bằng sông Hồng đã và đang đảm nhận chức năng phân phối hàng hóa trên phạm vi các tỉnh phía Bắc và một phần cho các tỉnh ven biển miền Trung. Đồng bằng sông Hồng là trung tâm dịch vụ lớn cho cả nước, tỷ trọng dịch vụ trong GDP của vùng đạt tới 45% (so với cả nước là 41%). 71 Các hoạt động tài chính, ngân hàng, xuất nhập khẩu, du lịch, thông tin, tư vấn, chuyển giao công nghệ của đồng bằng sông Hồng mở rộng trên phạm vi các tỉnh phía Bắc và cả nước. Trong dịch vụ, thương mại chiếm vị trí quan trọng. Tuy vậy đây lại là khâu yếu kém của vùng, chỉ chiếm khoảng 20% tổng giá trị thương mại của cả nước. Ngành du lịch: Vùng có nhiều tiềm năng phát triển ngành du lịch ở các địa phương như Thủ đô Hà Nội, Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), Cát Bà - Hải Phòng Về giao thông vận tải, vùng có nhiều đầu mối liên hệ với các tỉnh phía Bắc, phía Nam. Vùng được coi là “cửa khẩu quốc tế” hàng đầu của cả nước. Các hệ thống đường bộ, đường thuỷ, đường hàng không của vùng tương đối phát triển so với cả nước. Lưu lượng vận chuyển của vùng chiếm tới 8,7% khối lượng hàng hóa vận chuyển; 7,5% hàng hóa luân chuyển; 11,2% vận chuyển hành khách và 11,5% luân chuyển hành khách của cả nước. Quốc lộ 18 (ngang) Bắc Ninh - Uông Bí - Đông Triều - Móng Cái đi qua vùng sản xuất than đá và điện lực của vùng. - Hệ thống cảng biển Cảng Cửa ông, cảng Hồng Gai, cảng Cái Lân đang được xây dựng là cảng chuyên dụng ở Bắc Bộ với chức năng xuất khẩu than đá.... Về dịch vụ bưu điện và kinh doanh tiền tệ (tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm, kho bạc, xổ số) phát triển nổi trội hơn hẳn các vùng khác. Hai lĩnh vực này góp phần làm tăng GDP của ngành dịch vụ của vùng. Đồng bằng sông Hồng là trung tâm tư vấn, thông tin, chuyển giao công nghệ hàng đầu, đồng thời còn là một trong hai trung tâm tài chính - ngân hàng lớn nhất của cả nước. 4.3. Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung Bắc Trung Bộ Việt Nam gồm có 6 tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế. Vùng Bắc Trung Bộ có tính chất chuyển tiếp giữa các vùng kinh tế phía Bắc và các vùng kinh tế phía Nam. Phía Tây là sườn Đông Trường Sơn, giáp nước Lào có đường biên giới dài 1.294 km với các cửa khẩu Quan Hóa, Lang Chánh (Thanh Hoá), Kỳ Sơn (Nghệ An), Hương Sơn (Hà Tĩnh), Lao Bảo (Quảng Trị), 72 tạo điều kiện giao lưu kinh tế với Lào và các nước Đông Nam á trên lục địa; Phía Đông hướng ra biển Đông với tuyến đường bộ ven biển dài 700km, với nhiều hải sản và có nhiều cảng nước sâu có thể hình thành các cảng biển. Vùng có nơi hẹp nhất là Quảng Bình (50km), nằm trên trục giao thông xuyên Việt là điều kiện thuận lợi giao lưu kinh tế với các tỉnh phía Bắc và phía Nam. Duyên hải miền Trung gồm 8 tỉnh thành theo thứ tự Bắc - Nam: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận. Duyên hải miền Trung có phía Bắc là đèo Hải Vân, điểm cuối của dãy Trường Sơn Bắc, giáp với Bắc Trung Bộ; phía Tây là dãy Trường Sơn Nam với hệ thống cao nguyên đất đỏ bazan, giáp với Lào và Tây Nguyên, phía Đông là biển Đông với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có thềm lục địa và biển sâu tạo điều kiện phát triển các cảng quốc tế; phía Nam giáp với Đông Nam Bộ. 4.3.1. Vị trí địa lý Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung có phía Bắc giáp khu vực đồng bằng Sông Hồng và Trung du miền núi vùng Bắc Bộ; phía Nam giáp các tỉnh Bình Phước, Đồng Nai và Bà Rịa-Vũng Tàu vùng Nam Bộ; phía Đông giáp Biển Đông; phía Tây giáp Tây Nguyên. Dải đất miền Trung được bao bọc bởi những dãy núi chạy dọc bờ phía Tây và sườn bờ biển phía Đông, vùng có chiều ngang theo hướng Đông - Tây hẹp nhất Việt Nam (khoảng 50km) và nằm trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. 4.3.2. Tài nguyên thiên nhiên 4.3.2.1. Địa hình: - Địa hình Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung có độ cao thấp dần từ khu vực miền núi xuống đồi gò trung du, xuôi xuống các đồng bằng phía trong dải cồn cát ven biển rồi ra đến các đảo ven bờ. - Bắc Trung Bộ nơi bắt đầu của dãy Trường Sơn, mà sườn Đông đổ xuống Vịnh Bắc Bộ, có độ dốc khá lớn. Lãnh thổ có bề ngang hẹp, địa hình chia cắt phức tạp bởi các con sông và dãy núi đâm ra biển, như dãy Hoàng Mai (Nghệ An), dãy Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh)... sông Mã (Thanh Hóa), sông Cả (Nghệ An), sông Nhật Lệ (Quảng Bình)... Cấu trúc địa hình gồm các cồn cát, dải cát ven biển, tiếp theo là các dải đồng bằng nhỏ 73 hẹp, cuối cùng phía Tây là trung du, miền núi thuộc dãy Trường Sơn Bắc. Nhìn chung địa hình Bắc Trung Bộ phức tạp, đại bộ phận lãnh thổ là núi, đồi, hướng ra biển, có độ dốc, nước chảy xiết, thường hay gây lũ lụt bất ngờ gây khó khăn cho sản xuất và đời sống nhân dân. - Duyên hải miền Trung thuộc khu vực cận giáp biển. Địa hình ở đây bao gồm đồng bằng ven biển và núi thấp, có chiều ngang theo hướng Đông - Tây (trung bình 40 - 50km), hạn hẹp hơn so với Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên. Có hệ thống sông ngòi ngắn và dốc, bờ biển sâu với nhiều đoạn khúc khuỷu, thềm lục địa hẹp. Các miền đồng bằng có diện tích không lớn do các dãy núi phía Tây trải dọc theo hướng Nam tiến dần ra sát biển và có hướng thu hẹp dần diện tích lại. Đồng bằng chủ yếu do sông và biển bồi đắp, khi hình thành nên thường bám sát theo các chân núi. 4.3.2.2. Về khí hậu: Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung là vùng có điều kiện khí hậu khắc nghiệt nhất trong cả nước. Hàng năm thường xảy ra nhiều thiên tai như bão, lũ, gió Lào, hạn hán, mà nguyên nhân cơ bản là do vị trí, cấu trúc địa hình tạo ra. Vùng này cũng chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc lạnh, tuy nhiên không nhiều như ở Bắc Bộ. Điều kiện khí hậu của vùng gây khó khăn cho sản xuất đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. 4.3.2.3. Tài nguyên khoáng sản: - Tài nguyên khoáng sản của vùng khá phong phú và đa dạng. So với cả nước, Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung chiếm 100% trữ lượng cromit, 20% trữ lượng sắt, 44% trữ lượng đá vôi xi măng. Các khoáng sản có giá trị kinh tế trong vùng gồm: + Đá vôi xây dựng 37,5 tỷ tấn có ở hầu hết các tỉnh. + Quặng sắt 552,22 triệu tấn chủ yếu là ở mỏ Thạch Khê. + Cát thuỷ tinh 573,2m3, có nhiều ở 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế. + Sét làm gạch, ngói 3,09 tỷ tấn có ở các tỉnh trong vùng + Đá vôi xi măng 172,83 triệu tấn, có nhiều ở Thanh Hoá, Nghệ An. 74 + Titan 2,32 triệu tấn có nhiều ở Quảng Trị. + Đá cát két 200 triệu tấn có ở Nghệ An và một số nơi khác. + Nhôm Trên 100 nghìn tấn có ở Nghệ An. + Crômit 2.022 nghìn tấn ở Thanh Hoá. + Ngoài ra còn một số khoáng sản khác như đá ốp lát, cao lanh,... 4.3.2.4. Tài nguyên đất: - Diện tích đất cát, sỏi, đất bạc màu chiếm tỷ lệ lớn. Có 3 loại đất chính là đất đỏ vàng phân bố ở vùng trung du miền núi, thích hợp cho trồng cây công nghiệp dài ngày và khai thác lâm nghiệp, trồng cây ăn quả; đất phù sa ven sông thích hợp cây lương thực, hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày; đất cát hoặc cát pha ven biển chất lượng thấp chỉ trồng một số loại cây hoa màu, trồng rừng phi lao, bạch đàn chống gió, cát; rừng phi lao chống cát ven biển - Diện tích rừng của cả vùng năm 2001 là 3.378 nghìn ha. Tài nguyên rừng của vùng chỉ đứng sau Tây Nguyên và chính nó đã cung cấp một phần quan trọng về gỗ và lâm sản hàng hóa cho Đồng bằng sông Hồng, đáp ứng một phần xuất khẩu của nước ta. 4.3.2.5. Tài nguyên biển: - Chiều dài bờ biển khoảng hơn 1000 km, biển vùng này khá sâu ở sát bờ, nhiều eo biển, cửa sông, vũng, vịnh thuận lợi cho phát triển kinh tế biển du lịch, giao thông biển, đánh bắt cá, phát triển các hải cảng lớn. - Ven biển có nhiều đồng muối chất lượng tốt, khả năng khai thác lớn như đồng muối Sa Huỳnh - Quảng Ngãi, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh. - Biển có nhiều đảo và quần đảo; ngoài khơi có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có ý nghĩa chiến lược về an ninh quốc phòng và là nơi cư ngụ của tàu thuyền, là bình phong chắn gió, cát biển cho ven bờ. - Vùng biển có nhiều loài cá có giá trị như cá trích, mòi, nhồng (tầng nổi) cá thu (tầng trung), cá mập, mối... (tầng đáy), tạo điều thuận lợi cho phát triển khai thác đánh bắt hải sản. 75 4.3.3. Các ngành kinh tế 4.3.3.1. Ngành nông, lâm, ngư nghiệp a. Ngành nông nghiệp * Bắc Trung bộ: - Tổng diện tích đất nông lâm nghiệp của vùng có khoảng 4,3 triệu ha. Diện tích cây lương thực 911.200 ha, sản lượng lương thực quy thóc đạt 2307,8 nghìn tấn, lương thực quy thóc bình quân đầu người là 237,2 kg/người, chỉ đạt 25,72% mức bình quân của cả nước. Có thể nói, điều kiện tự nhiên của vùng không phù hợp lắm cho sản xuất cây lương thực. Để đáp ứng nhu cầu lương thực, vùng vẫn phải nhập thêm từ các vùng khác. - Thế mạnh của vùng là phát triển cây công nghiệp hàng năm như lạc, cói, mía, dâu tằm... trong đó phải kể đến cây lạc có diện tích 24.000ha, chiếm 24,2% tổng diện tích lạc của cả nước, chủ yếu được trồng ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hoá; diện tích mía 7.800 ha, được trồng nhiều ở Thanh Hoá, Nghệ An; cói 2542 ha, chiếm 25,8% diện tích cói cả nước, được trồng ở các vùng ven biển. Các cây công nghiệp lâu năm như hồ tiêu trồng ở Quảng Bình, Quảng Trị; cà phê, cao su, chè trồng nhiều ở Nghệ An, Quảng Trị, Thanh Hóa và cây ăn quả trồng nhiều ở Tân Kỳ, Nghĩa Đàn (Nghệ An), Vân Du, Hà Trung (Thanh Hoá). - Về chăn nuôi, chủ yếu là trâu, toàn vùng có 227,1 nghìn con, chiếm 21% đàn trâu cả nước; đàn bò 733 nghìn con, chiếm 21,9% đàn bò cả nước; đàn lợn 2.352,9 nghìn con, chiếm 15,85% đàn lợn cả nước. Ngoài ra ở đây còn có truyền thống nuôi dê, hươu ở Nghệ An, Hà Tĩnh; nuôi vịt ở Thanh Hoá. * Duyên hải miền trung: Phát triển theo hướng tăng tỷ trọng cây công nghiệp và chăn nuôi. Cây công nghiệp chiếm 15% diện tích cây trồng. Trong vùng đã hình thành vùng sản xuất tập trung cây công nghiệp như các vùng chuyên canh mía (28 nghìn ha), dứa (18 nghìn ha), lạc (20 nghìn ha), gần đây là phát triển chè, cao su, cà phê, ca cao... 76 Chăn nuôi của vùng chiếm 27% giá trị sản lượng nông nghiệp, lớn nhất là đàn bò 1,1 triệu con, chiếm gần 20% đàn bò của cả nước. Chương trình sinh hóa đàn bò và nuôi lợn hướng nạc trong vùng cũng có sự phát triển tương đối tốt. b. Ngành lâm nghiệp * Bắc Trung bộ: - Khai thác, chế biến, tu bổ và trồng rừng được chú trọng ở vùng này. Sản lượng gỗ khai thác hàng năm là 341.514 m3 (năm 1993), chiếm 11,8% trữ lượng của cả nước; Khai thác tre, luồng là 41,4 triệu cây, chủ yếu ở Thanh Hóa và Nghệ An. Trong vùng cũng hình thành nhiều lâm trường lớn chuyên khai thác, chế biến tu bổ rừng như lâm trường Như Xuân, Nghĩa Đàn, Hương Sơn, Hương Khê, Ba Rũn... - Hiện nay, việc khai thác rừng ở vùng đã đến mức giới hạn. Rừng gỗ quý và rừng giàu chỉ còn tập trung ở vùng giáp biên giới Việt - Lào, do vậy việc khai thác kết hợp với tu bổ và trồng rừng là một nhiệm vụ phải đặt lên hàng đầu... Trong những năm qua, Bắc Trung Bộ đã chú ý đến việc phủ xanh đất trống đồi núi trọc và trồng rừng phòng hộ để chắn cát sóng... * Duyên hải miền Trung: Phát triển vốn rừng và bảo vệ rừng của vùng đã và đang được chú trọng. Toàn vùng trồng được 157.200 ha rừng, bằng 15% diện tích rừng trồng của cả nước. Tuy nhiên, diện tích này còn rất nhỏ so với diện tích đất trống đồi trọc; rừng đầu nguồn chưa được chú trọng quản lý; rừng đặc sản, nguyên liệu chưa được khai thác để phát triển kinh tế của vùng. c. Ngành ngư nghiệp * Bắc Trung bộ: Vùng có truyền thống trong khai thác và nuôi trồng thuỷ hải sản. Hiện nay các địa phương đã đầu tư, đổi mới trang thiết bị đánh bắt. Sản lượng cá biển đã khai thác được là năm 1991 là 73.995 tấn chiếm 10% của cả nước. Ngoài ra, vùng còn đẩy mạnh khai thác tôm, mực, cua và các hoạt động nuôi trồng khác... 77 Trong vùng cũng đã phát triển các cơ sở chế biến thuỷ hải sản như Cửa Hội (Nghệ An), Cẩm Nhượng (Hà Tĩnh), Sầm Sơn (Thanh Hoá), Thuận An (Thừa Thiên - Huế) và nhiều cơ sở nhỏ tại các huyện. Vùng cũng phát triển nuôi trồng thuỷ hải sản ven bờ thuộc các vũng, vịnh, đầm. Dọc ven bờ, hình thức nuôi cá lồng gồm cá song, cá vược, cá đối được phát triển mạnh. Ngoài ra, vùng còn trồng rong tảo (chủ yếu ở Thanh Hoá, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế). * Duyên hải miền Trung: - Khai thác hải sản là nghề chính của vùng, đạt 19% sản lượng đánh bắt hải sản của cả nước. - Diện tích nuôi trồng thuỷ sản mới đạt 12.447 ha trong tổng số 20.000 ha nước mặt có khả năng nuôi trồng thuỷ sản, bao gồm cả nước ngọt và nước lợ. Các sản phẩm nuôi chủ yếu là tôm, ngoài ra là các đặc sản rau câu, cua, hải sâm... Vùng cũng đặc biệt chú ý nuôi các đặc sản xuất khẩu như tôm hùm, cua, ... 4.3.3.2. Ngành công nghiệp * Bắc Trung bộ: - Nền công nghiệp của vùng mới được chú trọng phát triển trong những năm gần đây, chủ yếu là công nghiệp vật liệu xây dựng mà đáng kể nhất là xi măng, sản xuất gạch ngói, phân bố ở khắp các tỉnh. Đá ốp lát với công suất hiện có 50000 m2/năm, phân bố ở Thanh Hoá, Nghệ An, Thừa Thiên - Huế. - Khai khoáng, luyện kim, khai thác mỏ sắt ở Thạch Khê – Hà Tĩnh... - Công nghiệp chế biến nông - lâm - hải sản cũng phát triển. Vùng còn phát triển công nghiệp mía đường, và đã xây dựng các nhà máy đường như Nghĩa Đàn (Nghệ An), Thạch Thành (Thanh Hoá); chế biến thịt ở Thanh Hoá, Nghệ An, Thừa Thiên Huế; chế biến dầu ở Vinh, ép dầu thảo mộc ở Nghĩa Đàn -Nghệ An và ở Thanh Hoá. - Khai thác và chế biến hải sản, sản xuất đồ uống trong vùng cũng đã được đầu tư và chú trọng phát triển. Ngoài ra, vùng còn phát triển các ngành: 78 - Chế biến chè, lâm sản, giấy và bột giấy; chế biến mủ cao su Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế. - Công nghiệp hàng tiêu dùng mà ngành dệt may là ngành mũi nhọn, công nghiệp may. * Duyên hải miền Trung: - Các ngành nghề công nghiệp chủ yếu của vùng là chế biến lương thực, thực phẩm; khai thác và chế biến lâm sản; dịch vụ vận chuyển và bốc dỡ hàng hoá; sản xuất hàng tiêu dùng dệt, đường, giấy và các ngành công nghiệp nhẹ khác. Công nghiệp cơ khí, công nghiệp năng lượng và các ngành công nghiệp nặng khác chưa phát triển mạnh mẽ. - Trong vùng hình thành các khu công nghiệp trọng điểm bao gồm: Khu công nghiệp Liên Chiểu (Đà Nẵng); khu công nghiệp Hòa Khánh (Đà Nẵng) diện tích 250 ha; khu công nghiệp Chu Lai, Kỳ Hà (Quảng Nam); khu công nghiệp Điện Ngọc - Điện Nam, nằm phía đông tuyến Đà Nẵng - Hội An; khu công nghiệp An Hòa - Nông Sơn; khu công nghiệp Dung Quất (khu lọc và hóa dầu đầu tiên của nước ta); khu công nghiệp Nam Tuy Hòa (Phú Yên) và khu công nghiệp Suối Dầu (Khánh Hoà). 4.3.3.3. Ngành dịch vụ Dịch vụ là ngành có thế mạnh của vùng, chủ yếu phát triển ở Nha Trang và Đà Nẵng. Các khu vực khác cơ sở hạ tầng kém phát triển nên dịch vụ còn ở dạng tiềm năng. 4.4. Vùng Tây Nguyên Tây Nguyên gồm 5 tỉnh, xếp theo thứ tự vị trí địa lý từ bắc xuống nam gồm Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng với diện tích tự nhiên là 54.474 km2 chiếm 16,8% diện tích tự nhiên cả nước. 4.4.1. Vị trí địa lý Tây Nguyên là vùng cao nguyên, phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, phía nam giáp các tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, phía tây giáp với các tỉnh Attapeu (Lào) và 79 Ratanakiri và Mondulkiri (Campuchia). Trong khi Kon Tum có biên giới phía tây giáp với cả Lào và Campuchia, thì Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nông chỉ có chung đường biên giới với Campuchia. Còn Lâm Đồng không có đường biên giới quốc tế. 4.4.2. Tài nguyên thiên nhiên 4.4.2.1. Địa hình Ở về phía Tây của dãy Trường Sơn, bề mặt địa hình dốc thoải dần từ Đông sang Tây, đón gió Tây nhưng ngăn chặn gió Đông Nam thổi vào. Địa hình chia cắt phức tạp, có tính phân bậc rõ ràng, bao gồm: - Địa hình cao nguyên là địa hình đặc trưng nhất của vùng, tạo nên bề mặt của vùng. Dạng địa hình này thuận lợi cho phát triển nông, lâm nghiệp với quy mô lớn. - Địa hình vùng núi. - Địa hình thung lũng chiếm diện tích không lớn; chủ yếu phát triển cây lương thực, thực phẩm và nuôi cá nước ngọt. 4.4.2.2. Khí hậu Chịu ảnh hưởng của khí hậu cận xích đạo; nhiệt độ trung bình năm của vùng dao động khoảng 20oC, khí hậu điều hòa quanh năm, biên độ nhiệt ngày và đêm chênh lệch cao trên 5,50C. Khí hậu Tây Nguyên có hai mùa rõ rệt là mùa khô và mùa mưa. Mùa khô nóng hạn, thiếu nước trầm trọng, mùa mưa nóng ẩm, tập trung 85-90% lượng mưa của cả năm. 4.4.2.3. Tài nguyên nước Tây Nguyên có 4 hệ thống sông chính: Thượng sông Sê-san, thượng sông Srêpok, thượng sông Ba và sông Đồng Nai. Tổng lưu lượng nước mặt là 50 tỷ mét khối. Chế độ dòng chảy chịu tác động của khí hậu. Nguồn nước ngầm tương đối lớn nhưng nằm sâu, giếng khoan lên tới trên 100 mét mới có thể gặp nước. 4.4.2.4. Đất đai Đất đai được coi là tài nguyên cơ bản của vùng, thuận lợi cho phát triển nông lâm nghiệp. Diện tích đất chủ yếu là đất đỏ bazan, tầng phong hóa dày, địa hình lượn 80 sóng nhẹ tạo thành các cao nguyên đất đỏ như cao nguyên Buôn Ma Thuột, Pleiku, Đăk Nông, Kon Tum, chiếm diện tích khoảng 1 triệu ha, thích hợp với nhiều loại cây trồng, đặc biệt là cây cao su, cà phê, chè, hồ tiêu, điều và rừng; Đất đỏ vàng diện tích khoảng 1,8 triệu ha, kém màu mỡ hơn đất đỏ bazan nhưng giữ ẩm tốt và tơi xốp nên thích hợp với nhiều loại cây trồng. Ngoài ra còn có đất xám phân bố trên các sườn đồi thoải phía Tây Nam và trong các thung lũng, đất phù sa ven sông, thích hợp cho trồng cây lương thực. Tuy nhiên diện tích đất trống đồi núi trọc chiếm tới 1,4 triệu ha và đang bị thoái hóa nghiêm trọng (đất bazan thoái hóa tới 71,7%; diện tích đất bị thoái hóa nặng chiếm tới 20%). 4.4.2.5. Tài nguyên rừng Tây nguyên là một trong những vùng có tính đa dạng sinh học rất cao của Việt Nam. Rừng Tây Nguyên giàu về trữ lượng, đa dạng về chủng loại. Trữ lượng rừng gỗ chiếm tới 45% tổng trữ lượng rừng gỗ của cả nước. Diện tích rừng Tây Nguyên là 3015,5 nghìn ha, chiếm 35,7% diện tích rừng cả nước. Các cây dược liệu quý được tìm thấy ở đây như sâm bổ chỉnh, sa nhân, địa liền, thiên niên kiện, hà thủ ô trắng,... và các cây thuốc quý có thể trồng được ở đây như actisô, bạch truật, tô mộc, xuyên khung... Hệ động vật hoang dã cũng rất phong phú, có ý nghĩa kinh tế và khoa học. Có tới 32 loài động vật quý hiếm như voi, bò tót, trâu rừng, hổ, gấu, công, gà lôi... 4.4.2.6. Tài nguyên khoáng sản Chủng loại khoáng sản ít, đáng kể nhất là quặng bôxit với trữ lượng dự báo khoảng 10 tỷ tấn, chiếm 90% trữ lượng bôxit cả nước, phân bố chủ yếu ở Đắc Nông, Gia Lai Kon Tum. Việc khai thác quặng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp của vùng. Vàng có 21 điểm vàng trữ lượng khoảng 8,82 tấn phân bố ở Kon Tum, Gia Lai. Ngoài ra còn các loại đá quý, các mỏ sét gạch ngói phân bố ở Chưsê - Gia Lai và Bản Đôn - Đắc Lắc, than bùn và than nâu phân bố ở Biển Hồ, làng Bua, làng Vệ - Gia Lai, Chư Đăng - Đắc Lắc. 81 4.4.3. Các ngành kinh tế 4.4.3.2. Ngành nông - lâm nghiệp a. Ngành nông nghiệp Cây công nghiệp dài ngày là một trong những thế mạnh của vùng, bao gồm các cây trồng: - Cà phê diện tích trồng 240,5 nghìn ha, chiếm 80% diện tích cà phê cả nước. Vùng đã hình thành hai vùng chuyên canh lớn là vùng cà phê Buôn Ma Thuột, Krông Pach, Đắk Mil, Krông Ana, Krông Búk và vùng cà phê Gia Lai. Sản lượng cà phê nhân toàn vùng năm 1997 là 343,2 nghìn tấn, chiếm 85% sản lượng cà phê của cả nước. Kim ngạch xuất khẩu cà phê năm 1995 của vùng đạt 450 triệu USD. - Cao su: Hiện có khoảng 71.250 ha, tăng 50.000 ha so năm 1984. Do mới khai thác nên năng suất cao su còn thấp, sản lượng đạt 18.133 tấn mủ. Việc trồng cao su ở Tây Nguyên 10 năm qua đã khẳng định vị trí của cây cao su trong vùng. - Cây chè: Cây chè gặp nhiều khó khăn do thiếu nước và nắng nóng khốc liệt. Diện tích chè đang giảm dần ở Gia Lai. Hiện diện tích chè kinh doanh chỉ còn 12.500 ha, tập trung ở Biển Hồ, Bàu Cạn, sản lượng chè búp tươi của vùng đạt trên 50.000 tấn. - Cây hồ tiêu mới được trồng ở Tây Nguyên, năm 1994 diện tích hồ tiêu đạt 1.208 ha, chiếm 24% diện tích hồ tiêu cả nước, sản lượng đạt 1.315 tấn, đứng thứ hai sau vùng Đông Nam Bộ. Trong vùng, hồ tiêu phân bố nhiều ở Đắc Nông, Đắc Lắc. - Dâu tằm: Hình thành vùng dâu tằm tập trung lớn nhất của cả nước, diện tích khoảng 10.000 ha dâu, sản lượng tơ đạt trên dưới 1.200 tấn, chiếm trên 80% sản lượng tơ cả nước. Tuy nhiên, từ năm 1993 đến nay, diện tích dâu không tăng, riêng ở Đắc Lắc giảm do giá tơ xuất khẩu giảm. - Cây ăn quả: Chiếm tỷ lệ thấp trong các cây dài ngày ở Tây Nguyên. Các loại cây ăn quả như xoài, hồng xiêm, sầu riêng, bơ, chuối... Cây ăn quả phân bố ở hầu hết các tỉnh. Tuy nhiên vùng chưa chú trọng đầu tư nghiên cứu tạo giống, kỹ thuật canh tác, tạo nguồn nước, tổ chức tiêu thụ. 82 - Cây lương thực: Tây Nguyên cũng coi trọng phát triển cây lương thực, diện tích đến năm 1995 là 220,7 nghìn ha, trong đó 151,5 nghìn ha lúa, bình quân lương thực đạt 247,2 kg/người. - Chăn nuôi: Thế mạnh là chăn nuôi đại gia súc mà chủ yếu là đàn bò. Năm 2001, đàn bò 435,4 nghìn con, chiếm 11,2% đàn bò cả nước. Ngoài ra, vùng còn phát triển chăn nuôi nuôi trâu, dê. b. Ngành lâm nghiệp Tổng diện tích rừng Tây Nguyên chiếm 35,7% diện tích rừng cả nước. Tuy nhiên, khâu chế biến lâm sản của vùng chủ yếu còn ở dạng sơ chế. Diện tích rừng là 3.015,5 nghìn ha năm 2001, trong đó rừng trồng là 92 nghìn ha, chiếm hơn 3% diện tích rừng của vùng, còn lại là rừng tự nhiên. Tuy nhiên, tỷ lệ rừng sống chỉ đạt 40-50%. Sản lượng gỗ khai thác đạt 385,5 nghìn m3/năm, chủ yếu được vận chuyển về Đông Nam Bộ và vùng Nam Trung Bộ để chế biến. 4.4.3.2. Ngành công nghiệp Sự phát triển của ngành đi theo hướng khai thác lợi thế của vùng, các sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục vụ tiêu dùng, sản xuất nông, lâm nghiệp và đời sống nhân dân. Ngoài ra, sản phẩm mủ cao su phục vụ nhu cầu xuất khẩu sang các vùng khác và xuất khẩu sang thị trường thế giới. Các ngành công nghiệp như chế biến gỗ và lâm sản chiếm 24,7% giá trị sản lượng công nghiệp; công nghiệp thực phẩm chiếm 24,4%; sản xuất vật liệu xây dựng chiếm 13,41%; cơ khí 4,7%. Hiện nay, vùng đã thu hút được một số dự án đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp như chế biến cà phê xuất khẩu, dệt may, chế biến gỗ, rau quả. 4.5. Vùng Đông Nam Bộ Vùng bao gồm thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai. Diện tích tự nhiên 23605,5 km2, chiếm 7,13% diện tích cả nước. Dân số 12828,8 nghìn người, chiếm 14,88% dân số cả nước 83 4.5.1. Vị trí địa lý Đông Nam Bộ là vùng đất mới trong lịch sử phát triển của đất nước, khu vực tập trung nhiều đô thị nằm giữa các tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên là những vùng giàu tài nguyên đất đai, rừng và khoáng sản. Phía Tây và Tây - Nam giáp đồng bằng sông Cửu Long nơi có tiềm năng lớn về nông nghiệp, là vựa lúa lớn nhất nước ta; phía Đông và Đông Nam giáp biển Đông, giàu tài nguyên hải sản, dầu mỏ và khí đốt và thuận lợi xây dựng các cảng biển tạo ra đầu mối liên hệ kinh tế thương mại với các nước trong khu vực và quốc tế; phía Tây Bắc giáp với Campuchia có cửa khẩu Tây Ninh tạo mối giao lưu rộng rãi với Campuchia, Thái Lan, Lào, Mianma. Với vị trí này Đông Nam Bộ là đầu mối giao lưu quan trọng của các tỉnh phía Nam với cả nước và quốc tế. 4.5.2. Tài nguyên thiên nhiên 4.5.2.1. Địa hình Đông Nam Bộ nằm trên vùng đồng bằng và bình nguyên rộng, chuyển tiếp từ cao nguyên Nam Trung Bộ đến Đồng bằng sông Cửu Long. Nhìn chung địa hình của vùng tạo thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, phát triển công nghiệp và đô thị, xây dựng hệ thống giao thông vận tải,... 4.5.2.2 Khí hậu Nằm trong miền khí hậu phía Nam, Đông Nam Bộ có đặc điểm của vùng khí hậu cận xích đạo với nền nhiệt độ cao và hầu như không thay đổi trong năm. Khí hậu của vùng có sự phân hóa sâu sắc theo mùa, phù hợp với hoạt động của gió mùa. Lượng mưa dồi dào, trung bình hàng năm khoảng 1500 - 2000 mm. Khí hậu của vùng tương đối điều hoà, ít có thiên tai. Tuy nhiên về mùa khô, lượng mưa thấp gây khó khăn cho sản xuất và sinh hoạt. 4.5.2.3 Đất đai Đất nông nghiệp là một thế mạnh của vùng. Trong tổng quỹ đất có 27,1% đang được sử dụng vào mục đích nông nghiệp. Có 12 nhóm đất với 3 nhóm đất rất quan trọng là đất nâu đỏ trên nền bazan, đất nâu vàng trên nền bazan, đất xám trên nền phù sa cổ. Ba nhóm đất này có diện tích lớn và chất lượng tốt, thuận lợi cho nhiều loại cây trồng 84 phát triển như cao su, cà phê, điều, lạc, mía, đỗ tương và cây lương thực. Đất chưa sử dụng chiếm 22,7% diện tích đất tự nhiên của vùng (so với cả nước là 42,98%). Tỷ lệ đất sử dụng trong nông nghiệp, lâm nghiệp, đất chuyên dùng và đất thổ cư của vùng còn khá cao so với mức trung bình của cả nước. 4.5.2.4. Tài nguyên rừng Diện tích rừng của Đông Nam Bộ không lớn, còn khoảng 532.200 ha chiếm 2,8% diện tích rừng cả nước và phân bố không đều ở các tỉnh. Rừng trồng tập trung ở Bình Dương, Bình Phước với 15,2 nghìn ha; Bình Thuận 14 nghìn ha, Bà Rịa - Vũng Tàu 14,3 nghìn ha. Rừng Đông Nam Bộ có ý nghĩa quan trọng trong việc cung cấp gỗ dân dụng, phòng hộ cho cây công nghiệp, giữ nước, cân bằng sinh thái cho toàn vùng. Đặc biệt, rừng quốc gia Cát Tiên là một cơ sở cho nghiên cứu lâm sinh và thắng cảnh. 4.5.2.5. Tài nguyên khoáng sản Dầu khí có trữ lượng dự báo là 4-5 tỷ tấn dầu và 485 - 500 tỷ m3 khí, có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế vùng và kinh tế quốc dân. Quặng bôxit trữ lượng khoảng 420 triệu tấn, phân bố ở Bình Phước, Bình Dương . Các khoáng sản khác như đá ốp lát (chiếm 27% giá trị khoáng sản trên đất liền) phân bố ở Tánh Linh (Bình Thuận), Phú Túc (Đồng Nai), cao lanh trữ lượng xấp xỉ 130 triệu tấn phân bố ở Bình Dương, Bình Phước; mỏ cát thuỷ tinh phân bố ở Bình Châu (Bà Rịa - Vũng Tàu) cung cấp nguyên liệu cho nhà máy thuỷ tinh Biên Hòa và cho xuất khẩu... 4.5.2.6. Tài nguyên nước Nguồn nước mặt đa dạng, đáng kể là hệ thống sông Đồng Nai. Đây là 1 trong 3 con sông lớn của Việt Nam. Lượng nước mưa trung bình 1.500 - 2.000 mm tương ứng với 183 tỷ m3. Ngoài ra còn có một số hồ ở phía Đông, tổng dung tích khoảng 300 triệu m3. Lượng nước mặt này đủ cung cấp nước cho vùng, bao gồm cả cho phát triển công nghiệp. 85 Nguồn nước ngầm có trữ lượng khá lớn, nhưng mực nước sâu từ 50 - 200 mét, phân bố chủ yếu khu vực Biên Hoà- Long An, thành phố Hồ Chí Minh. 4.5.2.7. Tài nguyên biển Bờ biển dài 350 km với vùng biển Ninh Thuận- Bà Rịa Vũng Tàu là một trong bốn ngư trường trọng điểm của nước ta, trữ lượng cá khoảng 290-704 nghìn tấn, chiếm 40% trữ lượng cá của vùng biển phía Nam. Diện tích có khả năng nuôi trồng thuỷ sản của vùng khoảng 11,7 nghìn ha. Thiên nhiên ưu đãi cho Đông Nam Bộ bãi biển Vũng Tàu, Long Hải, Phước Hải, thuận lợi cho phát triển ngành du lịch trong vùng. 4.5.3. Các ngành kinh tế 4.5.3.1. Ngành nông nghiệp Vùng có tiềm năng to lớn, đặc biệt về cây công nghiệp và nuôi trồng, đánh bắt thuỷ, hải sản, chăn nuôi gia súc. Các cây công nghiệp dài ngày bao gồm cao su, cà phê, chè, điều, dâu tằm có tổng diện tích chiếm tới 32% diện tích cây công nghiệp dài ngày của cả nước. Trong đó đáng kể nhất là cây cao su, được trồng tập trung ở các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước. Các cây công nghiệp ngắn ngày khác như lạc, đậu tương, cói, mía... cây mía chiếm tới 22,5% diện tích và 21,2% sản lượng mía toàn quốc. Ngoài ra Đông Nam Bộ còn có thế mạnh trồng cây ăn quả, đặc biệt là các cây ăn quả có giá trị kinh tế cao. Cây ăn quả được sản xuất với quy mô lớn theo hướng sản xuất hàng hóa với vùng cây ăn quả nổi tiếng như Lái Thiêu, Đồng Nai, Thủ Đức... Về sản xuất lương thực: Chủ yếu là sản xuất lúa. Cây rau cũng được chú trọng phát triển trong vùng nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường thành phố Hồ Chí Minh, Biên Hòa và Bà Rịa- Vũng Tàu. 4.5.3.2. Ngành công nghiệp 86 Vùng là nơi tập trung nhiều nhất các xí nghiệp công nghiệp so với các vùng khác trong cả nước với đủ các ngành. Trong vùng hình thành các khu công nghiệp lớn tạo điều kiện mở rộng liên doanh liên kết với các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Ngành công nghiệp là thế mạnh của vùng; sản xuất công nghiệp của vùng chiếm gần 20% giá trị sản lượng công nghiệp của toàn đất nước. Bên cạnh việc mở rộng các ngành sản xuất, trong vùng còn tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại cho phát triển công nghiệp. Các ngành công nghiệp chủ yếu trong vùng là nhiên liệu (dầu mỏ) chiếm 28,5% giá trị công nghiệp của vùng; công nghiệp thực phẩm 27,5%; dệt may 10,9%; hóa chất, phân bón, cao su 10,2%. Ngành cơ khí, điện tử tuy có tỷ trọng không cao nhưng đã thu hút 10% lao động công nghiệp của cả vùng. Các sản phẩm công nghiệp của vùng hướng vào hàng xuất khẩu (thuỷ, hải sản, may mặc), hàng tiêu dùng và hàng thay thế nhập khẩu (phân bón, hóa chất). Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ nền công nghiệp cũng như nền kinh tế đã gây những tác động xấu tới môi trường trong vùng. Trong vùng có hai trung tâm công nghiệp đáng chú ý là: + Thành phố Hồ Chí Minh là địa khu dẫn đầu cả nước về số lượng các xí nghiệp sản xuất (1/2 số lượng xí nghiệp của vùng) với 80% giá trị sản lượng công nghiệp là hàng tiêu dùng. Nhiều xí nghiệp có quy mô khá lớn và tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao (kể cả xuất khẩu), song hầu hết các xí nghiệp này nằm trong nội thành, nguyên liệu thấp, các cơ sở sản xuất hầu như độc lập với nhau, nằm vào các khu đông dân thường gây ô nhiễm và cản trở giao thông vận tải trong nội thành. + Trung tâm công nghiệp Biên Hòa (Đồng Nai): rộng trên 300ha, do tổ chức SONADEZI khởi công xây dựng mặt bằng và cấu trúc hạ tầng vào năm 1964, sau đó cho các chủ tư nhân thuê để xây dựng các xí nghiệp sản xuất các mặt hàng: giấy, đường, thủy tin, luyện kim, cơ khí. Gần đây, trung tâm công nghiệp Biên Hòa thứ 2 cũng được xây dựng như mô hình cũ nằm đối diện bên kia xa lộ, đây cũng là trung tâm công nghiệp quan trọng của vùng. Hai trung tâm công nghiệp này đều tận dụng được những ưu điểm sẵn có là nguồn nhân lực dồi dào có tay nghề, thuận lợi về giao thông vận tải (đường bộ, đường thủy), gần Sài Gòn (trung tâm khoa học – kỹ thuật – kinh tế và thương mại lớn của Việt Nam). 87 4.5.3.3. Ngành dịch vụ Dịch vụ là ngành phát triển mạnh ở Đông Nam Bộ, đảm bảo phục vụ cho nhân dân trong vùng và cho nhu cầu phát triển của cả nước. Tỷ trọng ngành dịch vụ trong cơ cấu GDP của vùng khá cao, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của sản xuất và phát triển, chưa tương xứng với vai trò của vùng trọng điểm phía Nam, nhiều ngành quan trọng như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, khoa học công nghệ, du lịch... còn chiếm tỷ trọng thấp. 4.6. Vùng đồng bằng sông Cửu Long 4.6.1. Vị trí địa lý Nằm ở phần cuối của bán đảo Đông Dương, liền kề với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nên vùng có mối quan hệ hai chiều rất chặt chẽ và quan trọng. Nằm giáp với Campuchia và cùng chung sông Mê Kông là điều kiện giao lưu hợp tác với các nước trên bán đảo. Nằm ở vùng tận cùng Tây Nam của Tổ quốc, có bờ biển dài 73,2 km và nhiều đảo, quần đảo như Thổ Chu, Phú Quốc là vùng đặc quyền kinh tế giáp biển Đông và vịnh Thái Lan. Vùng nằm trong khu vực có đường giao thông hàng hải và hàng không quốc tế giữa Nam á và Đông Nam á cũng như với châu úc và các quần đảo khác trong Thái Bình Dương. Vị trí này rất quan trọng trong giao lưu quốc tế. 4.6.2. Tài nguyên thiên nhiên 4.6.2.1. Địa hình Địa hình của vùng tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình là 3 - 5m, có khu vực chỉ cao 0,5 - 1m so với mặt nước biển. 4.6.2.2. Khí hậu Nền khí hậu Đông Nam Bộ mang tính nhiệt đới ẩm với tính chất cận xích đạo thể hiện rõ rệt qua các yếu tố nhiệt - ẩm. Nhiệt độ trung bình hàng năm 24 – 27oC, biên độ nhiệt trung bình năm 2 – 3oC, chênh lệch nhiệt độ ngày và đêm thấp, ít có bão hoặc 88 nhiễu loạn thời tiết. Có hai mùa rõ rệt, mùa mưa tập trung từ tháng 5 - 10, lượng mưa chiếm tới 99% tổng lượng mưa của cả năm. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, hầu như không có mưa. Có thể nói, các yếu tố khí hậu của vùng thích hợp cho các sinh vật sinh trưởng và phát triển, là tiền đề cho vùng đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ. 4.6.2.3. Đất đai Diện tích đất trong vùng bao gồm các nhóm đất sau: - Đất phù sa: Phân bố chủ yếu ở vùng ven và giữa hệ thống sống Tiền và sông Hậu, diện tích 1,2 triệu ha, chiếm 29,7% diện tích đất tự nhiên toàn vùng và khoảng 1/3 diện tích đất phù sa của cả nước. Nhóm đất này có độ phì cao và cân đối, thích hợp đối với nhiều loại cây trồng lúa, cây ăn quả, màu, cây công nghiệp ngắn ngày. - Nhóm đất phèn: Phân bố ở vùng Đồng Tháp Mười và Hà Tiên, vùng trũng trung tâm bán đảo Cà Mau với tổng diện tích 1,2 triệu ha, chiếm 40% diện tích toàn vùng. Đất của vu tùng có tính chất cơ lý yếu, nứt nẻ nhanh. - Nhóm đất xám: Diện tích trên 134.000 ha chiếm 3,4% diện tích toàn vùng. Phân bố chủ yếu dọc biên giới Campuchia, trên các bậc thềm phù sa cổ vùng Đồng Tháp Mười. Đặc tính của loại đất này là nhẹ, tơi xốp, độ phì thấp. - Ngoài ra còn có các nhóm đất khác như đất cát giồng, than bùn, đất đỏ vàng, đất xói mòn chiếm diện tích không đáng kể, khoảng 0,9% diện tích toàn vùng. - Nhìn chung, đất đai ở đây rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, thích hợp trồng lúa, dừa, mía, dứa, cây ăn quả. 4.6.2.4. Tài nguyên nước - Vùng nằm ở hạ lưu sông Mê Kông với hai nhánh sông Tiền và sông Hậu. Tổng lượng nước chung của sông Cửu Long là 500 tỷ mét khối. Trong đó, sông Tiền chiếm 79% và sông Hậu chiếm 21%. Chế độ thuỷ văn của vùng thay đổi theo mùa. Mùa mưa nước sông lớn vào tháng 9, tháng 10, làm ngập các vùng trũng Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên. Về mùa này, nước sông mang nhiều phù sa bồi đắp cho đồng bằng. 89 Về mùa khô, lượng nước giảm nhiều, làm cho thuỷ triều lấn sâu vào đồng bằng, làm vùng đất ven biển bị nhiễm mặn nghiêm trọng. - Chế độ nước ngầm tại đồng bằng này khá phức tạp, phần lớn ở độ sâu 100 mét. Nếu khai thác quá nhiều có thể làm nhiễm mặn trong vùng. 4.6.2.5. Tài nguyên biển Tổng chiều dài bờ biển của vùng là 732km với nhiều cửa sông và vịnh. Biển trong vùng chứa đựng nhiều hải sản quý với trữ lượng cao: Tôm chiếm 50% trữ lượng tôm cả nước, cá nổi 20%, cá đáy 32%, ngoài ra còn có hải sản quý như đồi mồi, mực Trên biển có nhiều đảo, quần đảo có tiềm năng kinh tế cao như đảo Thổ Chu, Phú Quốc. Ven bờ là hệ thống rừng ngập mặn có giá trị về kinh tế và sinh thái với nhiều loại động vật, thực vật. 4.6.2.6. Tài nguyên khoáng sản Trữ lượng khoáng sản của vùng không đáng kể. Đá vôi phân bố ở Hà Tiên, Kiên Lương dạng núi vách đứng với trữ lượng 145 triệu tấn, phục vụ sản xuất xi măng, vôi xây dựng; cát sỏi ở dọc sông Vàm Cỏ, sông Mê Kông, trữ lượng khoảng 10 triệu mét khối; than bùn ở U Minh, Cần Thơ, Sóc Trăng, tứ giác Long Xuyên. Ngoài ra vùng còn các khoáng sản khác như đá, suối khoáng 4.6.3. Các ngành kinh tế 4.6.3.1. Ngành nông nghiệp, lâm, ngư nghiệp a. Ngành nông nghiệp - Là ngành chủ yếu của vùng, ngành nông nghiệp đều chiếm tỷ trọng trên 50% GDP của hầu hết các tỉnh. Trong thời gian qua, vùng đã phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi gắn liền với công nghiệp chế biến phục vụ cho xuất khẩu. - Trong cơ cấu ngành nông nghiệp, cây lương thực chiếm ưu thế tuyệt đối. Năm 1999, diện tích cây lương thực của vùng là 1.953 ngàn ha, chiếm sản lượng lương thực là 12,3 triệu tấn (chiếm 51,91% sản lượng lương thực cả nước). Mức lương thực bình quân đầu người của vùng đạt cao nhất trong cả nước (850kg/người/năm). Năng suất 90 lương thực của vùng ngày càng tăng cao, năm 1997 đạt 40,2 tạ/ha, cao nhất trong cả nước. Điều này là do cơ cấu mùa vụ trong vùng có sự thay đổi, đồng ruộng được cải tạo, thuỷ lợi hóa và có sự đầu tư khoa học kỹ thuật... - Diện tích cây ăn quả trong mấy năm gần đây có xu hướng tăng, hiện có khoảng 170 nghìn ha cây ăn quả. Cây ăn quả trong vùng được trồng theo 3 dạng là vườn tạp, vườn hỗn hợp và vườn chuyên. - Ngành chăn nuôi của vùng cũng khá phát triển: đàn lợn chiếm 14,2 % đàn lợn của cả nước, tuy nhiên còn chưa tương xứng so với tiềm lực của vùng. Nuôi vịt là truyền thống của vùng để lấy thịt, trứng và lông xuất khẩu. Đàn vịt chiếm 25,1% đàn gia cầm của cả nước, được nuôi nhiều nhất ở Bạc Liêu, Cà Mau, Cần Thơ, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh. b. Ngành ngư nghiệp - Nghề cá của vùng đã phát triển khá mạnh cả về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu. Giá trị sản lượng ngành ngư nghiệp của vùng chiếm 42 - 45% giá trị sản lượng của cả nước và 37 - 42% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. - Về nuôi trồng, diện tích nuôi trồng thủy sản của vùng là 294,1ha, chiếm 21,2% diện tích nuôi trồng thuỷ sản của cả nước. Trong đó có các mô hình nuôi tôm-lúa, rừng - tôm, .... Ngoài ra, vùng còn nuôi các thuỷ sản khác có giá trị kinh tế cao như lươn, ốc, cua, rùa, đồi mồi,.. đây cũng là nguồn lợi xuất khẩu có giá trị. c. Ngành lâm nghiệp Vùng đã tiến hành khôi phục rừng tràm trên các vùng đất mặn, duy trì và mở rộng diện tích rừng ngập mặn ven biển. Tuy nhiên, do không khắc phục được nạn cháy rừng nên diện tích rừng trong mấy năm gần đây của vùng đã bị suy giảm nhanh chóng. 4.6.3.2. Ngành công nghiệp - Chủ yếu là công nghiệp chế biến lương thực và thực phẩm với hơn 20% giá trị gia tăng công nghiệp của vùng. Tuy nhiên, chủ yếu mới ở công đoạn sơ chế nên chất lượng và hiệu quả còn thấp. 91 - Các ngành khác như dệt, may, sản xuất vật liệu xây dựng (chiếm 12% giá trị gia tăng công nghiệp của vùng); Công nghiệp hóa chất của vùng cũng đã có sự tăng trưởng nhanh trong thời gian qua. - Công nghiệp của vùng phân bố chủ yếu ở các đô thị lớn như Cần Thơ, các thị xã, tỉnh lỵ. 4.6.3.3. Ngành dịch vụ Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch, bởi vậy trong vùng đã hình thành các điểm du lịch có ý nghĩa quốc gia như điểm du lịch Cần Thơ mang sắc thái của vùng Tây Đô; hệ sinh thái rừng ngập mặn Cà Mau; du lịch trên đảo Phú Quốc và hàng loạt điểm du lịch khác như bảo tàng Long An, sông Vàm Cỏ, chợ nổi Cái Bè Từ các điểm du lịch này hình thành lên các cụm du lịch Cụm du lịch Cần Thơ, Cụm du lịch Tiền Giang, cụm du lịch Châu Đốc; Cụm du lịch Năm Căn (Cà Mau). 92 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1) Trần Đình Gián, Địa lý kinh tế Việt Nam, NXB KHXH,1990 2) Nguyễn Trọng Điều và Vũ Xuân Thảo, Địa lý kinh tế Việt Nam, NXBGD, 1984. 3) Văn Thái, Địa lý kinh tế Việt Nam, NXB thống kê, 1997. 4) Văn Thái, Giáo trình địa lý kinh tế Việt Nam, Nxb Giáo dục, 2000. 5) TS. Trần văn Thông, địa lý kinh tế Việt Nam, Nxb Thốnh kê, 2001. 6) Nguyễn văn Quang, Phân vùng kinh tế, Nxb Giáo dục, 1981. 7) E.N. Pertxik. (Người dịch: Văn Thái), Quy hoạch vùng, Nxb KHKT, 1878.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiao_trinh_kinh_te_vung_phan_2.pdf
Tài liệu liên quan