Kết quả điều trị u màng não nội sọ bằng dao Gamma quay tại trung tâm y học hạt nhân và ung bướu bệnh viện Bạch Mai từ năm 2007 đến năm 2014

Đáp ứng điều trị Về mặt lâm sàng, các triệu chứng giảm dần theo thời gian sau điều trị. Sau 3 tháng, các triệu chứng đã được kiểm soát 77,6% trong đó đáp ứng hoàn toàn 30,6%. Các tỷ lệ này tăng dần: Sau 4 năm tỷ lệ kiểm soát bệnh 94,6%, đáp ứng hoàn toàn đạt 90,8%, tác dụng kiểm soát khối u của tia gamma là tăng dần dần theo thời gian. Có thể nói, người bệnh không phải trải qua cuộc mổ não nặng nề với nhiều rủi ro biến chứng, xạ phẫu bằng RGK đã mang lại sự lựa chọn tốt với việc cải thiện cao các triệu chứng lâm sàng, đồng thời ít biến chứng hơn nhiều so với mổ mở, đặc biệt đối với các UMN nền sọ. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng với các khối u lớn (>5cm) thì hiệu quả điều trị bằng RGK thấp, không triệt để, nên cần phải phẫu thuật hoặc xạ trị gia tốc trước khi tiến hành xạ phẫu. Về mặt hình ảnh, không có sự thay đổi tương ứng với cải thiện lâm sàng. Các triệu chứng được kiểm soát thì hình ảnh khối u có thể nhỏ đi hoặc không thay đổi về kích thước, thậm chí có thể tăng lên trong vài tháng đầu sau điều trị. Điều này được giải thích là trong vòng vài tháng đầu sau xạ phẫu, tổ chức khối u sau chiếu xạ thường phù nề trước khi thoái triển. Tỷ lệ kiểm soát khối u bao gồm tỷ lệ khối u thoái triển hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn, khối u thoái triển một phần, khối u không phát triển. Sau 4 năm, tỷ lệ kiểm soát khối u đạt 94,6%, trong đó đáp ứng hoàn toàn đạt 10,8%. Có một tỷ lệ rất cao có đáp ứng tốt về mặt lâm sàng nhưng về mặt hình ảnh khối u không thay đổi kích thước sau 4 năm xạ phẫu (38,2%). Như vậy khối u mặc dù không thay đổi về hình thể nhưng đã bị tác động của bức xạ nên không phát triển thêm về kích thước. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đương với các kết quả của các trung tâm Gamma lớn nước ngoài. Nghiên cứu của Douglas Kondziolka và cs (1998) trên 226 người bệnh UMN trong đó 80% là UMN nền sọ với thời gian theo dõi ít nhất 6 tháng cho thấy tỷ lệ kiểm soát bệnh đạt 95%, nhưng về hình ảnh u thoái triển hoàn toàn, giảm 1 phần, không thay đổi lần lượt là 2%; 45%; 48%(4). Nghiên cứu của Liscak và cs năm 2004 đã nghiên cứu 176 trường hợp u màng não nền sọ được điều trị xạ phẫu cho thấy tỷ lệ kiểm soát bệnh đạt 98%, tỷ lệ biến chứng thần kinh 4,5%, tỷ lệ phù não sau xạ phẫu 11%(7). Nghiên cứu của John và cs (2006) đã điều trị cho 79 người bệnh u màng não xoang hang với liều 15Gy và theo dõi ít nhất 10 năm, kết quả cho thấy tỷ lệ kiểm soát khối u sau 5 năm, 12 năm lần lượt tương ứng là 95±2,8%; 82±7,0%(6). Như vậy, xạ phẫu bằng RGK là một phương pháp rất hiện đại trong điều trị UMN với tỷ lệ kiểm soát bệnh cao trên 90%, an toàn ít biến chứng so với phẫu thuật mở. Tùy theo vị trí, kích thước khối u mà có chỉ định điều trị thích hợp.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 67 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả điều trị u màng não nội sọ bằng dao Gamma quay tại trung tâm y học hạt nhân và ung bướu bệnh viện Bạch Mai từ năm 2007 đến năm 2014, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Bệnh Lý Sọ Não  133 KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ U MÀNG NÃO NỘI SỌ BẰNG DAO GAMMA   QUAY TẠI TRUNG TÂM Y HỌC HẠT NHÂN VÀ UNG BƯỚU   BỆNH VIỆN BẠCH MAI TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2014  Mai Trọng Khoa*, Vũ Hữu Khiêm*, Ngô Trường Sơn*  TÓM TẮT  Mục tiêu: Đánh giá kết quả xạ phẫu u màng não bằng dao gamma quay (Rotating Gamma Knife, RGK) tại  trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu ‐ Bệnh viện Bạch Mai từ năm 2007 đến năm 2014.   Đối tượng: 366 người bệnh u màng não được xạ phẫu bằng RGK từ 7/2007 đến 3/2014.   Phương pháp nghiên cứu: Mô tả tiến cứu có theo dõi dọc.   Kết quả: Tuổi trung bình: 56,2 tuổi, tuổi thấp nhất: 11 tuổi, cao nhất là 84 tuổi; tỷ lệ nữ/nam là 1,8/1. Vị trí  u vùng xoang tĩnh mạch chiếm 41,2%; vỏ não là 17,8%, còn lại là các vị trí khác. Triệu chứng đau đầu là 60,7%,  còn lại là các triệu chứng khác như mờ mắt, nôn, động kinh. Thể tích khối u trung bình là 13,5cm3 (0,8–51,3cm3),  liều xạ phẫu trung bình (liều 50% tại rìa khối u) là 14,8Gy (8‐22Gy). Sau xạ phẫu các triệu chứng giảm dần theo  thời gian. Sau 3 tháng, các triệu chứng đã được kiểm soát 80,2%, trong đó đáp ứng hoàn toàn 30,6%. Các tỷ lệ  tăng dần: sau 4 năm tỷ lệ kiểm soát bệnh 92,3%, đáp ứng hoàn toàn đạt 90,8%. Tỷ lệ phù não sau điều trị là  20,5%, thường xảy ra trong 6 tháng đầu. Xạ phẫu có thể thực hiện được với khối u ở mọi vị trí, khối u nằm sâu  trong tổ chức não, khối u nằm trong các vùng quan trọng mà phẫu thuật có thể nguy hiểm như thân não, xoang  hang. Tất cả 366 người bệnh u màng não được điều trị và theo dõi sát trong và sau xạ phẫu đều an toàn và không  có trường hợp nào có biến chứng nặng hoặc tử vong.   Kết luận: Xạ phẫu bằng RGK điều trị u màng não là một phương pháp điều trị không xâm nhập, an toàn và  hiệu quả.  Từ khóa: U màng não; Dao Gamma quay  ABSTRACT  THE THERAPEUTIC RESULTS OF MENINGIOMA RADIOSURGERY USING ROTATING   GAMMA KNIFE (RGK) IN THE NUCLEAR MEDICINE   AND ONCOLOGY CENTER – BACH MAI HOSPITAL FROM 2007 TO 2014  Mai Trong Khoa, Vu Huu Khiem, Ngo Truong Son   * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 133 – 138  Objective: To evaluate the results of meningioma radiosurgery using gamma knife rotation (Rotating  Gamma Knife, RGK) in the Nuclear Medicine and Oncology Center‐Bach Mai Hospital from 2007 to 2014.   Subjects: 366 patients with meningioma were  treated by Gamma Knife  radiosurgery  from 7/2007  to  3/2014.   Method: Prospective research.   Results: Average age: 56.2 years old, youngest: 11, oldest: 84; ratio of female/male is 1.8/1. The falcine  and parasigital meningioma were 41.2%; The convexity meningioma was 17.8%, the rest was in the other  location. Headache was  60.7%,  the  rest was with  the  other  symptoms  such  as  blurred  vision,  vomiting,  seizures. Average tumor volume was 13.5cm3 (0.8‐51.3cm3), radiosurgery medium‐dose (50% dose at the  * Bệnh viện Bạch Mai  Tác giả liên lạc: ThS. Vũ Hữu Khiêm,   ĐT: 0982286009;  Email: kvonecle@yahoo.com   Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh  134 tumor edge) was 14.8Gy (8‐22Gy). After radiosurgery the symptoms decreased overall time. After 3 months,  the symptoms have been controlled 80.2%, including 30.6% complete responses. The percentages increased:  after 4 years of disease, the control rate was 92.3%, the complete response was 90.8%. The rate of cerebral  edema  after  treatment  which  was  20.5%  (usually  occurs  in  the  first  6  months).  Radiosurgery  can  be  performed  in all tumor  locations, tumor  located deeply  in the brain, tumors  located  in critical areas where  surgery  can be dangerous as  the brain  stem. All of 366 patients with meningioma have been  treated and  closely being monitored during and after treatment, radiosurgery was safe and effective. There was also no  case of serious complication or death.   Conclusions: Gamma knife  radiosurgery  in  the  treatment of meningioma  rotation  is a non‐invasive,  safe and effective method.  Keywords: Meningioma, Rotating Gamma Knife, RGK   ĐẶT VẤN ĐỀ  U  màng  não  (UMN)  nội  sọ  chiếm  tỷ  lệ  khoảng 24‐33% các khối u não nguyên phát và  có  tỷ  lệ mắc 6/100.000 người mỗi năm. UMN  được  phân  loại  theo  Tổ  chức  Y  tế  Thế  giới  (WHO)  theo  thang  độ  từ  độ  I  đến  độ  III.  Khoảng 89‐90%  là  lành  tính  (độ  I), khoảng 5‐ 20%  là  không  điển  hình  (độ  II)  và  1‐5%  là  không biệt hoá hoặc ác tính (độ III). Tỷ lệ sống  sót  toàn bộ 5 năm  đến 10 năm  cho  tất  cả  các  UMN  tương  ứng  là  82%  và  64%,  nhưng  tiên  lượng kém đối với UMN ác tính.   Lựa chọn phương pháp điều trị UMN chủ  yếu dựa vào vị  trí, kích  thước và  độ mô học  của  khối  u.  Phẫu  thuật  vẫn  là  phương  pháp  điều  trị  cơ  bản nhất. Tuy nhiên  trong những  trường hợp vị trí UMN vùng nền sọ, vùng hố  sau  thường  gần mạch máu  và  cấu  trúc  thần  kinh quan  trọng, do đó phẫu  thuật gặp nhiều  khó  khăn  để  loại  bỏ hoàn  toàn  khối u. Tỷ  lệ  phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ khối u thay đổi đáng  kể  trong các nghiên cứu  (từ 40% đến 96%) và  cắt bỏ thường gắn liền với nguy cơ biến chứng  đáng kể sau phẫu thuật, tăng tỷ lệ tử vong và  tái phát.   Trong những năm  gần  đây  sự  ra  đời  của  máy xạ trị gia tốc, máy xạ phẫu bằng Gamma‐ knife,  X‐knife,  Cyber  knife  đã  giúp  giải  quyết  những  trường  hợp  khó  hoặc  không  phẫu  thuật  được, mang  lại  thời  gian  và  chất  lượng sống tốt hơn cho người bệnh. Hệ thống  dao Gamma knife có hai  loại: Gamma cổ điển  và  Gamma  quay  (Rotating  Gamma  Knife:  RGK). Nguyên lý chung là sự hội tụ chính xác  của các chùm  tia gamma  từ nguồn Co‐60 vào  mô tổn thương. Hệ thống RGK ‐ ATR 6000 của  Hoa Kỳ có ưu điểm là thay vì mũ cố định nặng  nề  như  các  thế  hệ máy  cổ  điển  là  hệ  thống  collimator quay quanh đầu người bệnh, giảm  từ 201 nguồn Co‐60 xuống còn 30 nguồn. Bên  cạnh đó là hệ thống định vị tự động hóa có độ  chính xác cao giúp cho việc điều trị thuận tiện,  an toàn, chính xác và hiệu quả.  Ở Việt Nam, Trung tâm Y học hạt nhân và  Ung bướu (YHHN & UB), Bệnh viện Bạch Mai  là cơ sở đầu tiên tiếp nhận và ứng dụng thành  công kỹ thuật này để điều trị có kết quả tốt cho  bệnh  lý  UMN.  Do  vậy  chúng  tôi  tiến  hành  nghiên cứu đề  tài này nhằm mục  tiêu: “Đánh  giá kết quả điều  trị u màng não bằng phương  pháp xạ phẫu dao gamma quay tại Trung tâm  YHHN  &  UB,  Bệnh  viện  Bạch  Mai  từ  năm  2007‐2014”  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Đối tượng nghiên cứu  Gồm  366  người  bệnh  được  chẩn  đoán  UMN có chỉ định xạ phẫu bằng RGK tại Trung  tâm  YHHN  &  UB,  Bệnh  viện  Bạch  Mai  từ  tháng  7/2007  đến  tháng  8/2014.  Tất  cả  người  bệnh đều được  thông qua Hội đồng hội chẩn  bao gồm các chuyên gia thuộc các lĩnh vực ung  thư, xạ trị, y học hạt nhân, nội khoa thần kinh,  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Bệnh Lý Sọ Não  135 phẫu thuật thần kinh, chẩn đoán hình ảnh, giải  phẫu bệnh, tai mũi họng  Phương pháp nghiên cứu  Mô tả tiến cứu có theo dõi dọc.  Tất cả người bệnh:  ‐Được  làm  các  xét  nghiệm  đánh  giá  toàn  thân và  tại chỗ: Công  thức máu, sinh hóa máu,  xét  nghiệm miễn  dịch,  điện  não  đồ,  chụp  CT  thường quy, CT 64 dãy, MRI sọ não, SPECT não,  DSA não, MRI phổ sọ não, PET‐CT   ‐Quy trình xạ phẫu được thống nhất và theo  dõi cho từng người bệnh,   ‐Được khám  lại  định kỳ  đánh giá  các  triệu  chứng lâm sàng, cận lâm sàng sau xạ phẫu 1, 3,  6, 12, 24 tháng  ‐Đánh giá triệu chứng cơ năng.  ‐Đánh giá sự  thay đổi hình  ảnh của khối u  theo tiêu chuẩn RECIST.  Thiết bị sử dụng  Hệ  thống  RGK  do Hoa  Kỳ  sản  xuất  năm  2007 bao gồm:  ‐Hệ thống collimator quay quanh đầu bệnh  nhân.   ‐Hệ  thống định vị đầu người bệnh  tự động  APS (automatic positioning systems).   ‐Hệ thống phần mềm lập kế hoạch AGRS   ‐Hệ  thống  chụp mô phỏng: CT, MRI, DSA,  MSCT với định vị laser 3 chiều.  Quy trình xạ phẫu  Xử lý số liệu  Kết quả nghiên cứu được thu thập và xử  lý  theo chương trình SPSS 17.0  KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  Tuổi và giới  Bảng 1: Phân bố tuổi và giới tính  Nhóm tuổi Số người bệnh Tỷ lệ % < 20 2 0,5 20 -< 30 7 2,0 30 - < 40 54 14,8 40 -< 50 92 25,1 50 -< 60 144 39,3 > 60 67 18,3 Tổng 366 100 Nhận  xét:  Tuổi  thường  gặp  45  –  60,  ít  gặp  dưới 20 tuổi, tuổi mắc bệnh nhiều nhất là từ 50 –  60  tuổi với  tỷ  lệ 39,3%. Tuổi  trung bình  là 56,2  tuổi, trẻ nhất là 11, cao nhất 84 tuổi; tỷ lệ nữ/nam  là 1,8/1.  Triệu chứng lâm sàng  Bảng 2: Phân bố triệu chứng  Triệu chứng Số người bệnh Tỷ lệ (%) Đau đầu 222 60,7 Nôn 69 18,9 Mờ mắt 94 25,8 Yếu chi 50 13,6 Rối loạn cơ tròn 7 1,8 Động kinh 74 20,2 Giảm trí nhớ 6 1,7 Đái nhạt 15 4,2 Tổng 366 100 Nhận xét: Triệu chứng  thường gặp nhất  là  đau đầu chiếm tỷ lệ 60,7%, tiếp đến là các triệu  chứng mờ mắt (25,8%), động kinh (20,2%), nôn  (18,9%).  Kết quả sau xạ phẫu  Mức độ đáp ứng  Bảng 3: Đáp ứng sau xạ phẫu  Thời gian Đáp ứng hoàn toàn (%) Đáp ứng một phần (%) Không đáp ứng (%) Sau 3 tháng 30,6 47,0 22,4 Sau 6 tháng 47,7 37,9 14,4 Sau 12 tháng 62,2 25,3 12,5 Sau 24 tháng 75,9 13,2 10,9 Sau 36 tháng 84,6 7,6 7,8 Sau 48 tháng 90,8 3,8 5,4 Nhận xét: Tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn khối u sau  điều trị 3 tháng  là 30,6%, sau 6 tháng 47,7%, và  sau 48 tháng  là 90,8%. Tỷ  lệ đáp ứng một phần  sau  3  tháng  là  47%,  không  đáp  ứng  là  22,4%.  Nhưng theo thời gian sau 36 tháng, sau 48 tháng  thì  tỷ  lệ đáp ứng một phần và không đáp ứng  thấp: 3,8 % và 5,4%.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh  136 Sự thay đổi hình ảnh khối u  Bảng 4: Thay đổi khối u sau xạ phẫu  Thời gian U tan hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn (%) U tan một phần (%) Kích thước giữ nguyên (%) Tăng kích thước (%) Sau 3 tháng 1,2 10,9 68,4 19,5 Sau 6 tháng 2,2 24,4 60,9 12,5 Sau 12 tháng 4,1 32,5 54,0 9,4 Sau 24 tháng 8,6 39,9 44,6 6,9 Sau 36 tháng 9,2 43,7 40,9 6,2 Sau 48 tháng 10,8 45,6 38,2 5,4 Nhận xét: Sau 3 tháng và 6 tháng tỷ lệ u giữ  nguyên  kích  thước  là  68,4%  và  60,9%.  Sau  48  tháng  u  tan một  phần  và  u  giữ  nguyên  kích  thước là 45,6% và 38,2%.   BÀN LUẬN  Tuổi và giới  Trong  nghiên  cứu  này,  UMN  gặp  ở mọi  lứa tuổi, ít gặp ở người trẻ < 20 tuổi, tuổi mắc  bệnh  nhiều  nhất  là  từ  50  –  60  tuổi,  với  tỷ  lệ  39,3%. Tuổi trung bình là 56,2 tuổi, trẻ nhất là  11, cao nhất 84 tuổi; tỷ lệ nữ/nam là 1,8/1. Theo  Dương Đại Hà (2000), nhóm tuổi hay gặp nhất  là 45‐54 chiếm 41,5%, không gặp UMN dưới 25  tuổi.  Tỷ  lệ  nữ/nam:1/4(5).  Nghiên  cứu  của  trường Đại học Pittsburgh trong vòng 10 năm  với  314  người  bệnh  cho  thấy,  tuổi mắc  bệnh  trung bình 57, trẻ nhất 12, cao tuổi nhất 86, nữ  chiếm ưu thế với 68%.   Triệu chứng cơ năng  Bệnh nhân của chúng tôi hay gặp nhất triệu  chứng  đau  đầu  (60,7%),  tiếp  đến  là  các  triệu  chứng khác như mờ mắt, nôn, động kinh... Đối  với u màng não bệnh thường tiến triển từ từ với  các triệu chứng tuỳ thuộc vào vị trí và kích thước  khối u, có thể gây ra các triệu chứng rất đa dạng  khác nhau, chủ yếu do khối u chèn ép, phá hủy  các cấu trúc lân cận gây đau đầu, mờ mắt, co giật  kiểu động kinh, liệt các dây thần kinh sọ, liệt yếu  nửa ngườiNghiên cứu của chúng tôi tương tự  như các nghiên cứu của các tác giả khác.  Đáp ứng điều trị Về mặt lâm sàng, các triệu chứng giảm dần  theo  thời  gian  sau  điều  trị.  Sau  3  tháng,  các  triệu chứng đã được kiểm soát 77,6% trong đó  đáp  ứng hoàn  toàn 30,6%. Các  tỷ  lệ này  tăng  dần:  Sau  4  năm  tỷ  lệ  kiểm  soát  bệnh  94,6%,  đáp  ứng hoàn  toàn  đạt 90,8%,  tác dụng kiểm  soát  khối  u  của  tia  gamma  là  tăng  dần  dần  theo  thời gian. Có  thể nói, người bệnh không  phải  trải qua cuộc mổ não nặng nề với nhiều  rủi ro biến chứng, xạ phẫu bằng RGK đã mang  lại  sự  lựa  chọn  tốt  với  việc  cải  thiện  cao  các  triệu chứng lâm sàng, đồng thời ít biến chứng  hơn nhiều so với mổ mở, đặc biệt đối với các  UMN  nền  sọ. Tuy  nhiên,  cần  lưu  ý  rằng  với  các  khối  u  lớn  (>5cm)  thì  hiệu  quả  điều  trị  bằng RGK  thấp, không  triệt  để, nên  cần phải  phẫu  thuật  hoặc  xạ  trị  gia  tốc  trước  khi  tiến  hành xạ phẫu.  Về mặt  hình  ảnh,  không  có  sự  thay  đổi  tương  ứng  với  cải  thiện  lâm  sàng.  Các  triệu  chứng được kiểm soát  thì hình  ảnh khối u có  thể nhỏ đi hoặc không thay đổi về kích thước,  thậm  chí  có  thể  tăng  lên  trong vài  tháng  đầu  sau điều trị. Điều này được giải thích là trong  vòng vài tháng đầu sau xạ phẫu, tổ chức khối  u sau chiếu xạ  thường phù nề  trước khi  thoái  triển. Tỷ lệ kiểm soát khối u bao gồm tỷ lệ khối  u  thoái  triển  hoàn  toàn  hoặc  gần  hoàn  toàn,  khối u thoái triển một phần, khối u không phát  triển.  Sau  4  năm,  tỷ  lệ  kiểm  soát  khối  u  đạt  94,6%, trong đó đáp ứng hoàn toàn đạt 10,8%.  Có một tỷ lệ rất cao có đáp ứng tốt về mặt lâm  sàng  nhưng  về mặt  hình  ảnh  khối  u  không  thay  đổi  kích  thước  sau  4  năm  xạ  phẫu  (38,2%). Như vậy khối u mặc dù không  thay  đổi về hình thể nhưng đã bị tác động của bức  xạ nên không phát triển thêm về kích thước.  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Bệnh Lý Sọ Não  137 Kết  quả  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  tương  đương  với  các  kết  quả  của  các  trung  tâm  Gamma  lớn  nước  ngoài.  Nghiên  cứu  của  Douglas  Kondziolka  và  cs  (1998)  trên  226  người bệnh UMN  trong  đó 80%  là UMN nền  sọ với  thời  gian  theo dõi  ít nhất  6  tháng  cho  thấy  tỷ  lệ kiểm  soát bệnh  đạt 95%, nhưng về  hình ảnh u thoái triển hoàn toàn, giảm 1 phần,  không  thay  đổi  lần  lượt  là  2%;  45%;  48%(4).  Nghiên  cứu  của  Liscak  và  cs  năm  2004  đã  nghiên cứu 176 trường hợp u màng não nền sọ  được điều trị xạ phẫu cho thấy tỷ lệ kiểm soát  bệnh đạt 98%, tỷ lệ biến chứng thần kinh 4,5%,  tỷ  lệ phù não sau xạ phẫu 11%(7). Nghiên cứu  của John và cs (2006) đã điều trị cho 79 người  bệnh u màng não xoang hang với liều 15Gy và  theo dõi ít nhất 10 năm, kết quả cho thấy tỷ lệ  kiểm  soát khối u  sau 5 năm, 12 năm  lần  lượt  tương ứng là 95±2,8%; 82±7,0%(6).   Như  vậy,  xạ  phẫu  bằng  RGK  là  một  phương pháp rất hiện đại trong điều trị UMN  với tỷ lệ kiểm soát bệnh cao trên 90%, an toàn  ít biến chứng so với phẫu thuật mở. Tùy theo  vị trí, kích thước khối u mà có chỉ định điều trị  thích hợp.  Hình ảnh lâm sàng  Người bệnh: Đinh T. V, 52 tuổi. Chẩn đoán  u màng não nền sọ chèn ép  thân não, dây  thị  giác, người bệnh được xạ phẫu bằng RGK liều  15Gy. Sau xạ phẫu 8 tháng, u tan gần hết.  Hình 1: Trước điều trị: u màng não nền sọ to, kích  thước 3,9x4,1x4,9cm, u chèn ép thân não gây yếu, tê  nửa người trái, đau đầu nhiều. Hình 2: Sau xạ phẫu bằng dao gamma 8 tháng: u  tan gần hết, người bệnh hết các triệu chứng đau đầu,  tê, yếu nửa người trái; đi lại vận động bình thường. KẾT LUẬN  Từ tháng 7‐2007, Trung tâm YHHN & UB ‐  Bệnh  viện Bạch Mai  là  cơ  sở  đầu  tiên  ở Việt  Nam  triển  khai  áp dụng  thành  công phương  pháp  xạ  phẫu  bằng RGK  và  cho  đến  nay  đã  điều trị cho hơn 300 người bệnh UMN trong số  hơn 2.200 người bệnh u não và một số bệnh lý  sọ não. Kết quả điều trị cho một số  lượng  lớn  người  bệnh  cho  thấy  đây  là một  kỹ  thuật  xạ  phẫu hiện đại, ít xâm nhập, an toàn, hiệu quả,  thời  gian  nằm  viện  ngắn.  Không  có  tai  biến  hay tử vong nào xảy ra ngay trong và sau quá  trình xạ phẫu bằng RGK.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Central Nervous  System Cancers. NCCN Guidelines Version  2‐ 2014.  2. DeVita, Vincent T.; Lawrence, Theodore S.; Rosenberg, Steven A  (2008) Neoplasms of the center nervous system, Meningioma, Devita,  Hellman  &  Rosenbergʹs  Cancer:  Principles  &  Practice  of  Oncology. 8th Edition p2004‐2007  3. Douglas  Kondziolka,  L.  Dade  Lunsford,  John  C.  Flickinger  (1998),  Stereotactic  Radiosurgery  of  Meningiomas,  Gamma  Knife Brain Surgery, Karger. p104 ‐ 112.  4. Dương Đại Hà (2000), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm  sàng và kết quả phẫu thuật u màng não tại bệnh viện Việt Đức,  Luận văn bác sỹ nội trú, Trường Đại học Y Hà Nội.  5. John Y.K. Leea, Martina Stipplerb, Ajay Niranjan và CS (2006),  Gamma Knife Radiosurgery for Cavernous Sinus Meningiomas,  Radiosurgery,Karger. p116‐128  6. Liscak  R, Kollova A,  Vladyka  V,  et  al  (2004). Gamma  Knife  radiosurgery of skull base meningiomas. Acta Neurochir Suppl.  91:65–74.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh  138 7. Mai Trọng Khoa (2013), Điều trị u não và một số bệnh lý sọ não  bằng dao gamma quay, Nhà xuất bản y học, Hà Nội 2013.  8. Mai Trọng Khoa và cộng sự  (2010), Đánh giá kết quả điều  trị  1000 bệnh nhân u não và bệnh lý sọ não bằng phương pháp xạ  phẫu dao gamma quay  tại  trung  tâm Y học hạt nhân và Ung  bướu Bệnh viện Bạch Mai, Tạp chí ung thư học Việt Nam, số 1‐ 2010.  9. Nguyễn Ngọc Khang  (2007), Đánh giá  sơ bộ kết quả điều  trị  phẫu thuật u màng não vùng củ yên bằng đường mổ dưới trán  một bên tại Bệnh viện Chợ Rẫy, Tạp chí Y học Thực hành.  10. Nguyễn Phong (2008), Điều trị phẫu thuật u màng não xương  đá mặt dốc bằng đường mổ qua xương đá, Tạp chí Y học Thực  hành 2008.  11. Nguyễn Văn Tấn (2008),  Nghiên cứu lâm sàng và kết quả phẫu  thuật  u màng  não  vùng  rãnh  khứu,  Tạp  chí Y học Thực hành  3/2008.  Ngày nhận bài báo       15/10/2014  Ngày phản biện nhận xét bài báo:   27/10/2014  Ngày bài báo được đăng:    5/12/2014

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfket_qua_dieu_tri_u_mang_nao_noi_so_bang_dao_gamma_quay_tai_t.pdf
Tài liệu liên quan