Khóa luận Cải cách thủ tục hải quan trong điều kiện hội nhập kinh tế của Việt Nam hiện nay

Trong điều kiện hội nhập kinh tế , với chủ trương thực hiện cải cách một bước nền hành chính, ngành Hải quan đã tiến hành cải cách hành chính với trọng tâm là cải cách thủ tục Hải quan, theo hướng đơn giản hóa, hiện đại hóa. Những năm gần đây cùng với những biến chuyển mạnh mẽ về kinh tế, và các hoạt động tham gia hội nhâp kinh tế của nước ta, thì những cải cách thủ tục Hải quan đã có những kết quả nhất định, tạo điều kiện để phát triển giao lưu thương mại quốc tế đồng thời với quản lý hoạt động Hải quan có hiệu quả. Những thành công ban đầu đã cho thấy bước đi đúng hướng của Hải quan Việt Nam trong công cuộc cải cách thủ tục Hải quan và đòi hỏi phải thực hiện cải cách sâu rộng, mạnh mẽ hơn nữa. Công cuộc cải cách thủ tục Hải quan liên quan trực tiếp đến quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước trên thể giới. Vai trò của Hải quan được xem như “người gác cửa về kinh tế của đất nước”, trong điều kiện hội nhập kinh tế thì người gác cửa cũng chính là những người chào đón, và do đó càng phải thể hiện đúng với tinh thần hữu nghị, hợp tác, các bên đều có lợi, và tinh thần hiếu khách của người Việt Nam, điều này đòi hỏi ngành Hải quan, kết hợp với các bộ ngành liên quan, cùng tiến hành có hiệu quả cải cách không chỉ thủ tục Hai quan mà cả các lĩnh vực khác trong ngành Hải quan, để Ngành Hải quan thực sự là cầu nối giữa các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường thế giới bằng tính hiệu quả và cạnh tranh của nền kinh tế.

doc105 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1764 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Cải cách thủ tục hải quan trong điều kiện hội nhập kinh tế của Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ống làm việc trực tiếp tại các cửa khẩu. Việc giảm bớt đầu mối đã giúp công tác chỉ đạo nhanh chóng hơn, nâng cao trách nhiệm của mỗi tập thể, mỗi cá nhân trước nhiệm vụ được giao, nâng cao hiệu quả công việc. - Xây dựng qui hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ công chức theo hướng chuyên sâu, từng bước tiêu chuẩn hóa cán bộ, bố trí, sắp xếp cán bộ theo khả năng chuyên môn và phẩm chất. Trong quá trình sắp xếp lại tổ chức, đối với cán bộ không đủ điều kiện hoặc không còn nhu cầu đảm đương cương vị lãnh đạo, quản lý thì giải quyết thôi giữ chức vụ và bảo lưu phụ cấp chức vụ lãnh đạo theo Nghị quyết 16/2000/NQ-CP ngày 18/10/2000 của Chính phủ về việc tinh giảm biên chế trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp. CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG, BIỆN PHÁP CẢI CÁCH THỦ TỤC HẢI QUAN TRONG THỜI GIAN TỚI PHƯƠNG HƯỚNG CHUNG Những năm gần đây do yêu cầu của phát triển kinh tế và yêu cầu hội nhập kinh tế, ngành Hải quan đã thực hiện công cuộc cải cách mạnh mẽ và đã đạt được những kết quả quan trọng. Những biện pháp cải cách của Hải quan đã được Đảng, Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp khen ngợi. Nhưng chưa dừng ở đó, công cuộc cải cách thủ tục Hải quan trong thời gian tới cần tiếp tục theo chiều sâu, dựa trên những định hướng sau: 1/ Luật hóa công tác Hải quan để tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, nhất quán, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế. 2/Chuẩn hóa và qui chế hóa các công tác nghiệp vụ chuyên môn 3/ Hiện đại hóa công sở và xây dựng lực lượng Hải quan chuyên nghiệp cao, hiện đại, hoạt động minh bạch, trong sáng và có hiệu quả. 4/ Tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế về công tác Hải quan. NHỮNG BIỆN PHÁP, PHƯƠNG HƯỚNG CỤ THỂ THỰC HIỆN CẢI CÁCH THỦ TỤC HẢI QUAN TRONG THỜI GIAN TỚI. Khắc phục những vướng mắc tồn tại Cần khắc phục trong thời gian tới một số vướng mắc tồn tại trong hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động Hải quan và trong tình hình triển khai Luật Hải quan - Đến nay Chính phủ vẫn chưa ký ban hành Nghị định về địa bàn hoạt động Hải quan và quan hệ giữa Hải quan với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thi hành Luật Hải quan, Nghị định qui định cụ thể phạm vi tổ chức hoạt động của Hải quan, Quyết định về khai Hải quan điện tử và trao đổi dữ liệu điện tử trong việc làm thủ tục Hải quan nên đã gây lúng túng và bị động nhất định, ảnh hưởng đến hiệu quả trong tổ chức triển khai các hoạt động nghiệp vụ Hải quan về đấu tranh chống buôn lậu và vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, về kiểm tra sau thông quan, ứng dụng tin học trực tiếp phục vụ công tác nghiệp vụ và tổ chức chỉ đạo thực hiện quản lý nhà nước về Hải quan từ các đơn vị thuộc cơ quan Tổng cục. - Do một số Nghị định của Chính phủ ban hành chậm, thiếu đồng bộ gây lúng túng trong việc tổ chức triển khai thi hành Luật Hải quan. Công tác ban hành văn bản qui phạm pháp luật theo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung, một số điều của Hiến pháp, Tổng cục Hải quan không được ban hành văn bản qui phạm pháp luật để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực Hải quan theo qui định của Luật Hải quan. Đây là vấn đề khó khăn lớn cho Ngành trong việc tổ chức triển khai thực hiện các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Hải quan. - Thực hiện Luật Hải quan đòi hỏi phải kiên quyết xoá bỏ những qui định cũ không còn phù hợp, song một bộ phận công chức Hải quan trình độ chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và nội dung cải cách của ngành Hải quan trong tổ chức thực hiện Luật Hải quan. Còn nhiều biểu hiện bảo thủ, trì trệ, chưa dứt khoát trong tư tưởng với cách làm cũ. Một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức Hải quan chưa tích cực học tập, nghiên cứu nội dung Luật Hải quan và những quyết định ban hành các qui trình quản lý thủ tục Hải quan đối với các loại hình xuất nhập khẩu, do không nắm chắc nội dung các văn bản, các qui định mới về thủ tục Hải quan nên giải thích cho doanh nghiệp và tổ chức thực hiện không đúng, dẫn đến cửa quyền, sách nhiễu. - Tỷ lệ hàng nhập khẩu phải tiến hành kiểm tra toàn bộ nhìn chung còn cao; miễn kiểm tra đối với hàng xuất khẩu có nơi đạt tỷ lệ thấp. Nguyên nhân chủ yếu do chủ hàng chưa đáp ứng được các tiêu chí chấp hành pháp luật, một số mặt hàng theo qui định phải kiểm tra nhưng thiếu thông tin về tình hình chấp hành pháp luật của doanh nghiệp trong thời gian trước đó và ở những địa phương khác; một số công chức còn mang tâm lý sợ các doanh nghiệp lợi dụng làm trái nên có tình trạng kiểm tra tràn lan. - Đa số doanh nghiệp tự giác nghiên cứu và thực hiện đúng nội dung qui định Luật Hải quan và các qui định hướng dẫn thi hành Luật Hải quan để được hưởng ưu đãi Hải quan, nhưng cũng có một bộ phận doanh nghiệp xuất nhập khẩu cố tình làm sai, lợi dụng việc tự khai, tự tính thuế, tự chịu trách nhiệm trong thủ tục Hải quan, ưu đãi thuế quan và thực tế của việc thiếu công cụ, phương tiện theo dõi, kiểm tra, giám sát chặt chẽ của cơ quan Hải quan và cơ quan chức năng đối với các loại hình hàng hóa XNK chuyển cửa khẩu, nhập nguyên liệu vật tư làm hàng gia công, sản xuất xuất khẩu, tạm nhập – tái xuất, hàng hóa thuộc khu kinh tế cửa khẩu, bán hàng tại cửa hàng miễn thuế ở sân bay, cảng biển nhằm khai nhiều, thực xuất ít để lấy doanh số, hoàn VAT, thưởng xuất khẩu, hoặc lợi dụng xuất nhập khẩu hàng cấm, trốn thuế và gian lận thương mại. - Công tác kiểm tra sau thông quan còn nhiều hạn chế. Một mặt do cơ sở pháp lý, nhất là văn bản hướng dẫn cụ thể chưa đầy đủ, mặt khác cơ sở vật chất, hệ thống thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ còn khoảng cách xa so với yêu cầu. Năng lực cán bộ thực hiện kiểm tra sau thông quan , công tác tổ chức đảm bảo kiểm tra sau thông quan còn yếu. - Việc phối hợp giữa các cơ quan Hải quan với bộ, ngành liên quan, cấp uỷ, chính quyền địa phương chưa được thực hiện thống nhất. Việc xác định cửa khẩu được coi như “ cảng biển quốc tế” của Bộ giao thông vận tải gây nên bị động, lúng túng trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kiểm soát Hải quan. Việc theo dõi cấp phép, kiểm tra chuyên ngành và cung cấp thông tin, số liệu liên quan đối với hàng hóa hành lý xuất nhập khẩu, người và phương tiện vận tải xuất nhập cảnh tại các cửa khẩu đường bộ, đường biển, đường hàng không, bưu điện quốc tế, cửa hàng miễn thuế theo tinh thần của Luật Hải quan chưa được tổ chức phối hợp tốt. Hình thức kinh doanh tạm nhập- tái xuất (nhất là đối với xăng dầu là mặt hàng luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng trị giá kim ngạch xuất nhập khẩu) luôn đòi hỏi phải có qui chế quản lý chặt chẽ hơn của Bộ Thương mại để tạo thuận lợi cho yêu cầu quản lý Hải quan. Việc xác định ranh giới giữa xử lý hành chính hay xử lý hình sự các vụ vi phạm trong lĩnh vực Hải quan chưa có qui định cụ thể có tính khả thi. Chính sách và cơ chế quản lý đối với các loại hình kinh doanh xuất nhập khẩu, người và phương tiện ra vào khu kinh tế cửa khẩu và nhiệm vụ chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa tại địa bàn trên chưa được các Bộ, ngành liên quan và UNBD tỉnh, thành phố thống nhất hướng dẫn bảo đảm yêu cầu quản lý Hải quan có hiệu quả. - Công tác phối kết hợp của một số cục Hải quan tỉnh, thành phố trong việc giải quyết thủ tục Hải quan còn nhiều hạn chế. Việc chấp hành chế độ báo cáo theo qui định của Tổng cục Hải quan, nhiều cục Hải quan tỉnh, thành phố chấp hành không nghiêm túc. - Công tác cập nhật dữ liệu tờ khai Hải quan, theo dõi tình hình vi phạm của doanh nghiệp xuất nhập khẩu vào máy tính nhìn chung chưa kịp thời, cán bộ làm công tác tin học thông kê trình độ không đồng đều, một bộ phận ý thức trách nhiệm với công việc chưa cao nên ảnh hưởng đến việc cập nhật, truyền và tiếp nhận dữ liệu, một số trung tâm có cán bộ không đủ trình độ công nghệ thông tin nên khả năng xử lý yếu. - Cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho yêu cầu nghiệp vụ Hải quan còn nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới. Giải quyết một số vướng mắc của các cục Hải quan tỉnh, thành phố Các vấn đề liên quan đến giám sát quản lý: - Về quản lý biên bản giao hàng hóa XNK, chuyển khẩu: hiện nay việc luân chuyển biên bản bàn giao hang hóa XNK, chuyển khẩu chưa được thực hiện nghiêm túc và thống nhất. Vấn đề náy cần được nghiên cứu hướng thực hiện trong toàn ngành trong thời gian tới. - Quản lý Hải quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh tại cảng chuyên dùng: hiện nay, Cục Hàng Hải, Bộ giao thông vận tải có văn bản công nhận một số cảng chuyên dùng và cho phép tàu thuyền nước ngoài vận chuyển hàng hóa XNK được ra, vào tại một số tỉnh, thành phố với lưu lượng hàng lớn, mặt hàng chủ yếu là nguyên liệu phục vụ cho sản xuất. Do vậy, cần phải có văn bản qui định xác định rõ phạm vi địa bàn hoạt động và ranh giới trách nhiệm giữa cơ quan Hải quan và cơ quan chức năng trong việc kiểm tra, giám sát Hải quan. - Thủ tục hàng hóa chuyển cảng: đối với hàng hóa nhập khẩu có vận tải đơn ghi cảng đích là một cảng nhưng tạm dỡ tại cảng khác rồi mới chuyển về cảng đích, bằng phương tiện vận tải khác ( phương tiện vận tải nhập cảnh ban đầu sau đó làm thủ tục xuất cảnh luôn) nhưng chưa có hướng dẫn về làm thủ tục Hải quan cho các lô hàng này, chưa qui định về trách nhiệm của đại lý hãng tàu, các Chi cục Hải quan cảng có hàng tạm dỡ, Chi cục Hải quan làm thủ tục cho phương tiện xuất nhập cảnh. - Giám sát hàng xuất khẩu chuyển cửa khẩu: theo qui định tạm thời thì Hải quan cửa khẩu có trách nhiệm giám sát hàng xuất khẩu, chuyển cửa khẩu cho đến khi thực xuất ( hàng hóa được xếp lên phương tiện vận tải hàng hóa). Thực tế có trường hợp hàng xuất qua cảng được xếp lên tàu biển vận chuyển bằng đường biển đến cảng khác rồi mới xếp lên tàu và tàu xuất cảnh tại cảng đó. Tổng cục Hải quan cần có hướng dẫn về quan hệ phối hợp giữa các Chi cục Hải quan tại các cảng. - Xuất nhập khẩu vỏ container: hiện nay tại các cảng biển quốc tế có số lượng vỏ container rất lớn cần phải làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể việc khai Hải quan đối với loại hình này để Chi cục Hải quan cảng kiêm tra và cho thông quan. - Về bổ sung tên tàu xuất cảnh vào tờ khai Hải quan hàng xuất khẩu HQ/2002, để Hải quan có cơ sở kiểm tra giám sát hàng hóa nhất là đối với lô hàng miễn kiểm tra thực tế, hướng dẫn thêm việc ghi nội dung khai báo của chủ hàng về tên tàu, số container, số chì vào tờ khai Hải quan. - Quản lý hàng hóa chuyển cửa khẩu: để cơ quan Hải quan cửa khẩu kiểm tra được tính chính xác của lô hàng chuyển cửa khẩu có cảng đích là ICD, tránh tình trạng chủ hàng gian lận chuyển đổi cảng đích để được chuyển cửa khẩu sau khi hàng đã về tới cửa khẩu nhập, vấn đề này cũng cần được nghiên cứu hướng dẫn. - Địa điểm làm thủ tục Hải quan: một số cục Hải quan tỉnh, thành phố quản lý địa bàn không có cảng biển và cửa khẩu đường bộ nên doanh nghiệp xuất nhập khẩu khi làm thủ tục mở tờ khai tại các đơn vị nói trên phải làm thủ tục chuyển cửa khẩu, những địa phương này hiện tại chưa được cấp có thẩm quyền công nhận địa điểm kiểm tra, do đó việc luân chuyển hồ sơ chậm, thanh khoản gặp khó khăn, dễ thất lạc. - Về niêm phong Hải quan: theo qui định tạm thời, đối với lô hàng xuất khẩu được miễn kiểm tra thực tế, nhưng chưa được chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu niêm phong đúng qui cách thì chi cục Hải quan cửa khẩu xuất niêm phong. Vấn đề này cần được hướng dẫn thêm tránh gây ách tắc tại cửa khẩu. - Việc đề nghị sử dụng dấu nghiệp vụ tiếp nhận hồ sơ để đóng dấu vào phụ lục tờ khai và các giấy tờ trong bộ tờ khai Hải quan phục vụ việc tính thuế và hoàn thuế như qui định trước đây cần được nghiên cứu và chỉ đạo thêm. - Về việc kiểm tra toàn bộ : những doanh nghiệp vi phạm thuộc diện phải kiểm tra toàn bộ thực tế hàng hóa theo qui định; nhưng với mặt hàng nhập khẩu thường xuyên, mặt hàng là nguyên liệu, mặt hàng có thuế suất thấp hoặc thuế xuất bằng không (VD: thạch cao nhập khẩu) có nên áp dụng hình thức kiểm tra toàn bộ hay không? - Hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn qui trình thủ tục Hải quan cửa khẩu biên giới đường bộ; hàng không; khu vực kinh tế cửa khẩu; nhập nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu cần được hướng dẫn bổ sung quản lý Hải quan các loại hình này. - Đăng ký tờ khai 1 lần: qui định của Tổng cục cho phép đăng ký tờ khai một lần đối với chủ hàng thường xuyên xuất nhập khẩu các mặt hàng ổn định, trong một thời gian nhất định của cùng một hợp đồng mua bán là rất cần thiết, được nhiều doanh nghiệp kiến nghị, đề nghị hướng dẫn thực hiện. - Quản lý hoạt động xuất nhập khẩu của cư dân biên giới: xuất nhập khẩu của cư dân biên giới ( xuất nhập khẩu tiểu ngạch) là loại hình phát triển mạnh trên biên giới đường bộ với Trung quốc, Lào, Campuchia. Nhưng hiện nay các văn bản triển khai Luật Hải quan chưa có hướng dẫn chi tiết thủ tục Hải quan cho loại hình này, như qui định về tờ khai cửa khẩu xuất nhập khẩu tiểu ngạch, hồ sơ Hải quan, sử dụng có dấu tiêu đề nghiệp vụ, phân cấp ký thông quan hàng tiểu ngạch, do vậy cần sớm có hướng dẫn. - Về việc xuất nhập khẩu hàng hóa qua cửa khẩu phụ: hiện nay một số địa phương có biên giới cửa khẩu đường bộ, để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu qua biên giới nên một số UBND tỉnh có văn bản chỉ đạo cho phép chủ hàng vận chuyển hàng hóa XNK quan cửa khẩu phụ tiểu ngạch nơi không có tổ chức Hải quan. Để thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về Hải quan, Tổng cục cần phối hợp với các bộ ngành liên quan có văn bản chỉ đạo thống nhất. - Làm thủ tục cho hành lý hành khách xuất nhập cảnh trên tàu hỏa liên vận: hiện nay tàu hỏa liên vận chỉ dừng lại ga liên vận biên giới trong thời gian ngắn, trong khi đó khách xuất nhập cảnh phải làm thủ tục kiểm dịch, biên phòng, Hải quan… do đó việc làm thủ tục gặp nhiều khó khăn về thời gian, vì vậy cần qui định việc làm thủ tục Hải quan cho khách xuất nhập cảnh đi trên tàu hoả liên vận quốc tế. Giải quyết một số tồn tại liên quan đến kiểm tra sau thông quan - Việc triển khai thực hiện kiểm tra sau thông quan ở một số đơn vị chưa được lãnh đạo cục, Chi cục quan tâm đúng mức. - Việc bố trí công chức thực hiện kiểm tra sau thông quan chưa đúng chuyên ngành đào tạo, năng lực. Công chức thực hiện kiểm tra sau thông quan chưa đủ trình độ và năng lực để thực hiện nhiệm vụ được giao. - Việc phối hợp cung cấp thông tin phục vụ kiểm tra sau thông quan chưa được thực hiện mạnh, hệ thống máy vi tính của các đơn vị kiểm tra sau thông quan chưa được nối mạng rộng rãi để khai thác thông tin. Các vấn đề liên quan đến công nghệ thông tin - Về qui chế thu thập, cập nhật thông tin: cần xây dựng và hoàn thiện qui chế sử dụng chương trình đa chức năng ở cửa khẩu vì hiện nay việc khai thác chương trình quản lý thông tin vi phạm pháp luật Hải quan gặp một số khó khăn, như không in được, không đánh số thứ tự từng vụ được, muốn biết trong một thời gian có bao nhiêu vụ vi phạm thì phải đếm từng vụ một. - Về việc cấp giấy chứng nhận mã số XNK: Theo qui định tại thông tư 07/TT-TCHQ của Tổng cục Hải quan thì sau khi tiếp nhận hồ sơ của doanh nghiệp xin cấp mã số, cục Hải quan địa phương phải làm báo cáo gửi về Tổng cục Hải quan xem xét trả lời bằng văn bản, sau đó cục Hải quan địa phương mới tiến hành cấp mã số cho doanh nghiệp; vì vậy doanh nghiệp phải có một khoảng thời gian chờ đợi. Để cải cách thủ tục hành chính nhưng vẫn bảo đảm quản lý chặt chẽ, đề nghị Tổng cục phân cấp cho Hải quan địa phương duyệt cấp mã số XNK cho doanh nghiệp và báo cáo về Tổng cục để kiểm tra cập nhật vào cơ sở dữ liệu quản lý toàn ngành. -Việc khai thác thông tin, dữ liệu qua mạng máy tính phục vụ yêu cầu công tác nghiệp vụ, công tác thống kê, theo dõi tình hình vi phạm của doanh nghịêp nhiều Chi cục vẫn làm thủ công thiếu trang thiết bị, đề nghị có sự quan tâm đầu tư hiện đại hóa công tác quản lý Hải quan hơn nữa. Đẩy mạnh hoạt động của đại lý kinh doanh hoạt động Hải quan và đồng thời củng cố quản lý đối với các đại lý làm thủ tục Hải quan Luật Hải quan cũng đã có qui định, người đại lý làm thủ tục Hải quan đối với hàng hóa phải hiểu biết pháp luật Hải quan, nghiệp vụ khai báo Hải quan và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật trong phạm vi được uỷ quyền. Đăng ký và hoạt động của đại lý này ngoài việc tuân thủ theo qui định của Luật doanh nghiệp, Luật thương mại, thì còn phải đảm bảo những yêu cầu theo những điều kiện riêng về ngành nghề do Hải quan qui định. Hoạt động của đại lý làm thủ tục Hải quan nếu tốt sẽ tạo điều kiện tuân lợi, nhanh chóng và giảm chi phí trong làm thủ tục Hải quan, không chỉ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp mà còn cho cả cơ quan Hải quan. Kinh nghiệm áp dụng đại lý làm thủ tục Hải quan của nhiều nước trên thế giới đã cho thấy lợi ích to lớn trong việc phát triển hệ thống đại lý làm thủ tục Hải quan. Pháp luật Việt Nam đã đặt nền móng cho việc thực hiện hệ thống đại lý làm thủ tục Hải quan, để phát huy hơn nưa hiệu quả của hệ thống nay, cần có có cơ sở pháp lý chặt chẽ, cụ thể hơn với hoạt động này. Cần có những biện pháp hướng dẫn hoạt động, đẩy mạnh sự phát triển của đại lý làm thủ tục Hải quan. Đồng thời nâng cao cơ chế quản lý đối với hoạt động khai thuê Hải quan nhằm đưa hoạt động này thực sự đi vào đời sống kinh tế Việt Nam. Khắc phục một số tồn tại khác để thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của ngành Hải quan - Hiện nay, vẫn còn thiếu một chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế cũng như kế hoạch triển khai thực hiện đồng bộ giữa các Bộ, ngành, do vậy hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế của ngành Hải quan, thủ tục Hải quan nói riêng và của cả nước nói chung đạt hiệu quả chưa cao. - Tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngành Hải quan cũng như các Bộ, ngành trong cả nước cần được trang bị về cơ sở pháp lý cũng như cơ sở vật chất và con người đủ để đáp ứng với các đòi hỏi và thách thức của nền kinh tế thế giới. Luật pháp quốc gia cũng còn có những ràng buộc nhất định chưa phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, đây là một trong những khó khăn chung của cả nước cũng như ngành Hải quan. Nhìn chung, so với nhiều quốc gia tiên tiến đã tham gia vào hoạt động kinh tế quốc tế, Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm và kiến thức cần thiết, các bước đi của ta con chập chững, vừa làm vừa học hỏi thêm kiến thức và kinh nghiệm. Đây cũng là một tồn tại thực tế của ngành Hải quan. Máy móc và các trang thiết bị phục vụ cho công tác hội nhập của ngành còn hạn chế, chưa đủ để hội nhập với thế giới và khu vực. - Cán bộ làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế đa phần là kiêm nhiệm, chưa được đào tạo một cách chính qui, bài bản, kiến thức về hội nhập cũng như kinh nghiệm thực tế chưa đủ đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của công việc. - Vấn đề kinh phí phục vụ cho hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế của ngành Hải quan cũng là một vấn đề bức xúc, vì nếu không đủ kinh phí thì khó có thể tham gia và tiếp cận với các hoạt đông hội nhập kinh tế quốc tế, và cũng không thể nắm bắt được đầy đủ thông tin, tài liệu và như vậy sẽ phần nào ảnh hưởng đến kết quả công việc. Bổ sung, hoàn thiện những biện pháp nghiệp vụ mới trong công tác Hải quan Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và thực hiện các cam kết quốc tế cũng như các định chế của ASEAN,APEC, Hiệp định thương mại Việt-Mỹ, WTO, thủ tục Hải quan đã có nhiều thay đổi nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, thông thoáng đầu tư, phù hợp với các cam kết quốc tế và những qui định trong Công ước Kyoto về hài hòa và đơn giản hóa thủ tục Hải quan. Vấn đề này, mặc dù đã chi tiết và có nhiều qui định tiến bộ, nhưng vẫn còn một số mặt cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện, đặc biệt cần đi sâu vào những vấn đề mới trong công tác Hải quan. Tạm dừng thủ tục Hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Những năm đầu của thế kỷ XXI được xem là những năm khởi đầu của nền kinh tế trí thức, với sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học và công nghệ thông tin; việc áp dụng những phát minh sáng chế trong các lĩnh vực điện, điện tử, sinh học… đã đem lại một hiệu quả vô cùng to lớn trong việc phát triển kinh tế. Do vậy, vấn đề quyền ác giả, nhãn hiệu hàng hóa, thiết kế kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp, tín hiệu vệ tinh mang theo chương trình được mã hóa đều được các quốc gia hết sức quan tâm, chú trọng. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là một trong những định chế của WTO cũng như được cam kết cụ thể trong Hiệp định thương mại Việt –Mỹ. Hải quan là cơ quan chịu trách nhiệm thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với hoạt động XNK. Pháp luật Việt Nam hiện hành qui định việc thực thi Quyền sở hữu trí tuệ thuộc thẩm quyền của cơ quan Hải quan tại Nghị định 101/NĐ-CP . Thủ tục tạm dừng làm thủ tục Hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ngoài việc phải có đơn yêu cầu tạm dừng làm thủ tục Hải quan gửi cho Chi cục trưởng Hải quan nơi làm thủ tục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; còn phải nộp khoản tiền tạm ứng bằng 20% trị giá lô hàng ghi trong hợp đồng vào tại khoản tạm gửi của cơ quan Hải quan tại kho bạc nhà nước, hoặc nộp chứng từ bảo lãnh của tổ chức tín dụng để bảo đảm việc bồi thường thiệt hại cho chủ hàng hóa và việc thanh toán các chi phí phát sinh do yêu cầu tạm dừng làm thủ tục Hải quan không đúng gây ra cho cơ quan tổ chức, cá nhân có liên quan. Và phải xuất trình cho cơ quan Hải quan văn bằng bảo vệ hoặc tài liệu chứng minh sở hữu hợp pháp quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời đưa ra chứng cớ ban đầu về việc nghi ngờ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của mình. Khi yêu cầu tạm dừng thủ tục Hải quan đã đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu nói trên, Chi cục trưởng Hải quan quyết định dừng làm thủ tục Hải quan đối với lô hàng đó. Thời hạn tạm dừng là 10 ngày kể từ ngày ban hành, và có thể kéo dài thời hạn tạm dừng nhưng không quá 10 ngày kể từ ngày thời hạn tạm dừng hết hạn, đồng thời người yêu cầu tạm dừng phải nộp bổ sung một khoản tiền tạm ứng bằng số tiền đã nộp trước đó. Qua những vấn đề trình bày trên, có thể hình dung ngay những khó khăn trong quá trình thực thi, đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ, cũng như sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật để đảm bảo thực hiện có hiệu quả. - Thời hạn qui định chuyển tiếp trong hiệp định buộc phải thi hành đầy đủ nghĩa vụ này đối với Việt Nam là 24 tháng kể từ ngày Hiệp định thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực, tức hạn cuối cùng là 10/12/2004; đối với Hoa kỳ là thi hành ngay kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực. Vậy nên, sự chuẩn bị các điều kiện để thực hiện ta còn hạn chế về nhiều mặt, cả về điều kiện pháp lý cũng như con người. - Số tiền 20% trị giá lô hàng được nộp vào tài khoản tạm gửi của Hải quan là chưa có cơ sở chắc chắn, vì trên thực tế có thể xảy ra trường hợp trị giá lô hàng thấp, nhưng lô hàng cồng kềnh, chiếm thể tích lớn thì chi phí lưu kho, lưu bãi cao, thêm vào đó trong thương mại có thể phát sinh những vấn đề phức tạp khi chủ sở hữu hàng hóa thấy không có lợi. Vì vậy việc tính toán để ấn định số tiền nộp bảo chứng và sử dụng bảo lãnh của ngân hàng, nơi kiểm soát được số tiền kết dư trong tài khoản của người có yêu cầu bảo hộ là một giải pháp đáng quan tâm. - Khi người yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu gửi đơn đến cơ quan Hải quan đề nghị tạm dừng thủ tục Hải quan thì đồng thời cũng tiến hành khởi kiện ra toà án theo đúng trình tự pháp luật tố tụng dân sự. Hải quan chỉ căn cứ vào sự đầy đủ của hồ sơ để đề nghị, quyết định tạm dừng thủ tục Hải quan theo thời hạn trên; trách nhiệm chứng minh thuộc về người yêu cầu và toà án. Như vậy khi lô hàng chưa có quyết định thông quan, hay kể cả trường hợp đã thông quan rồi thì vấn đề trách nhiệm hay thực hiện quyết định của Hải quan hay phán quyết của toà án mới được các bên chấp hành nghiêm túc. Một biện pháp chế tài đủ mạnh, như việc phải qui định rõ trong văn bản pháp luật ở mức pháp lệnh về các thủ tục, trình tự tố tụng cũng như thẩm quyền khung phạt riêng cho vấn đề này thì mới mang lại khả năng thực thi một cách hiệu quả. Khai Hải quan điện tử và trao đổi dữ liệu điện tử trong việc làm thủ tục Hải quan Việc phát triển công nghệ thông tin, xây dựng căn cứ pháp lý về khai Hải quan điện tử và trao đổi dữ liệu điện tử trong việc làm thủ tục Hải quan theo qui định của Luật Hải quan là một yêu cầu cấp bách, và là khâu đột phá để đảm bảo đổi mới cơ bản về thủ tục Hải quan hiện nay. Ngày 21/3/2002, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 44/2002/QĐ-TTg về việc sử dụng những chứng từ điện tử làm chứng từ kế toán để hạch toán và thanh toán vốn của các Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán như ngân hàng và các tổ chức được làm dịch vụ thanh toán “được sử dụng chứng từ điện tử làm chứng từ hạch toán và thanh toán vốn” Tờ khai Hải quan hiện nay bằng giấy, theo mẫu thống nhất, xét trên phương diện tài chính kế toán là một chứng từ kế toán. Việc khai báo Hải quan điện tử, thay cho khai bằng hình thức viết, hay nói khác đi là việc sử dụng chứng từ điện tử không còn là vấn đề mới mẻ. Khai báo Hải quan điện tử và trao đổi dữ liêu điện tử hiện đang thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều cơ quan, nhiều giới và của cộng đồng doanh nghiệp. Khai Hải quan điện tử có thể hiểu là hình thức khai Hải quan có sử dụng phương tiện, thiết bị điện tử để khai, truyền gửi chứng tử điện tử khai Hải quan và lưu giữ thông tin dữ liệu về hàng hóa là đối tượng làm thủ tục Hải quan theo qui định của pháp luật, tạm thời thay thế bản viết để cơ quan Hải quan quyết định thông quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Chứng từ điện tử khai Hải quan gồm tờ khai Hải quan điện tử, các chứng từ khác thuộc tờ khai Hải quan được tạo ra, gửi đi, tiếp nhận hoặc lưu trữ thông qua trao đổi dữ liệu điện tử từ máy tính điện tử của người khai Hải quan nối mạng với máy của cơ quan Hải quan, theo tiêu chuẩn được thống nhất về nội dung, hình thức, phương pháp cấu trúc và xử lý thông tin. Ngoài phạm vi như qui định về tờ khai Hải quan, chứng từ điện tử cũng có thể được ngân hàng, kho bạc, cơ quan nhà nước liên quan trao đổi thông tin dữ liệu về hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phục vụ yêu cầu quản lý của nhà nước của mình và của cơ quan Hải quan, như việc quản lý thuế, lệ phí và các khoản thu khác bằng hệ thống máy tính, Tổng cục Hải quan chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước thống nhất qui định quản lý việc tiếp nhận, truyền gửi và xử lý thông tin khai Hải quan điện tử về thông báo thuế, biên lai thuế, bảo lãnh thuế và thanh toán nộp thuế đối với hàng hóa XNK. Trình tự khai Hải quan điện tử được thực hiện như sau: Người khai Hải quan điện tử phải chuẩn bị các thông tin dữ liệu khai theo nội dung yêu cầu về hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu tại máy tính của mình theo mẫu tờ khai Hải quan điện tử qui định. Dùng mã số điện tử đã đăng ký để truyền gửi dữ liệu thuộc tờ khai Hải quan điện tử đến máy chủ của cơ quan Hải quan thông qua kết nối trao đổi dữ liệu điện tử. Tiếp nhận số đăng ký tờ khai Hải quan điện tử từ cơ quan Hải quan và truyền gửi thông tin dữ liệu thuộc chứng tử điện tử khai Hải quan khác theo qui định đến cơ quan Hải quan. Cơ quan Hải quan có trách nhiệm tiếp nhận, kiểm tra dữ liệu thuộc tờ khai Hải quan điện tử do người khai Hải quan chuyển đến. Đăng ký số tờ khai Hải quan điện tử. Chứng từ khai Hải quan điện tử được sử dụng phục vụ cho mục đích thông quan, nội dung tờ khai điện tử và các chứng từ điện tử khai Hải quan khác được tạo ra, truyền gửi, lưu giữ phải đảm bảo được in ra và truy nhập để sử dụng cho các mục đích quản lý Hải quan thì được công nhân có giá trị hình thức như hình thức văn bản viết. Chữ ký trên chứng từ điện tử khai Hải quan được truyền gửi thông qua trao đổi dữ liệu điện tử được công nhận có giá trị như hình thức viết nếu cơ quan Hải quan xác định được người có thẩm quyền ký đúng qui định vè chữ ký điện tử. Xây dựng hệ thống thông tin máy tính Hải quan Hệ thống thông tin máy tính Hải quan phải được xây dựng, bảo đảm việc truyền, nhận thông tin từ trung tâm thông tin dữ liêu Tổng cục Hải quan đến Chi cục Hải quan, cơ quan nhà nước, tổ chức liên quan để phục vụ yêu cầu quản lý, điều hành, trao đổi, sử dụng dữ liệu điện tử trong việc làm thủ tục Hải quan, kiểm tra hàng hóa, quản lý thu nộp thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và yêu cầu hiện đại hóa quản lý Hải quan phù hợp với các qui định về thiết lập mạng viễn thông Internet. Cũng như đảm bảo việc kiểm tra, giám sát Hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu bằng phương thức thương mại điện tử. Hiện nay Hải quan mới đưa vào sử dụng hệ thốn máy vi tính để quản lý, cập nhật, khai thác vi phạm pháp luật Hải quan trên toàn quốc phục vụ cho việc ra quyết định kiểm tra của Chi cục trưởng Hải quan; và thu thập, cập nhật, quản lý, khai thác thông tin về đối tượng nợ thuế quá hạn phải cưỡng chế hay giải toả cưỡng chế trên phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên bước đầu không thể tránh khỏi những trục trặc về mặt kỹ thuật, cần phải tổ chức những buổi hội thảo để tiếp thu, học tập kinh nghiệm từ các chuyên gia Tổ chức Hải quan thế giới. Kiểm tra sau thông quan Giải pháp tích cực hằm cải tiến thủ tục Hải quan, rút nhắn thời gian, thông quan hàng hóa nhanh chóng, nhưng vẫn kiểm soát chặt chẽ hang hóa xuất khẩu, nhập khẩu, chống gian lận thương mại, ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật Hải quan, gây thất thu cho ngân sách nhà nước, đó là công tác kiểm tra sau giải phóng hàng hay kiểm tra sau thông quan. Công tác kiểm tra sau thông quan là một nghiệp vụ mới, để công tác này thực sự có hiệu quả cao thì vấn đề thẩm quyền điều tra và thu thập thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu về tình hình hoạt động của doanh nghiệp cũng như tình hình lô hàng phải được đặt ra, và phải được pháp lý hóa bằng văn bản qui phạm pháp luật được ban hành bởi Chính phủ, Tổng cục Hải quan chịu trách nhiệm cụ thể hóa qui định này. Có nghĩa là bên cạnh việc qui định thẩm quyền điều tra của cơ quan Hải quan các cấp mà trực tiếp là cấp Chi cục Hải quan trong những văn bản chuyên biệt đó, bổ sung các luật có liên quan như Bộ luật Tố tụng hình sự và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự để đảm bảo tính đồng bộ của các văn bản luật về công tác điều tra. Về lĩnh vực thuế quan Những biện pháp cụ thể và điều kiện thực hiện trong lĩnh vực thuế quan - Cải tiến hệ thống tổ chức thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn mới, vừa tăng cường kiểm soát chặt chẽ hàng hóa XNK, vừa đảm bảo thông quan nhanh chóng; tránh trùng lặp thậm chí chồng chéo giữa các cơ quan chức năng của Chính phủ trong nhiệm vụ thu thuế. Do vậy việc kiểm soát chính sách thuế quan là trách nhiệm của Hải quan là cần thiết. Trước mắt giao cho Hải quan chịu trách nhiệm trong việc xác định trị giá tính thuế theo trị giá tính thuế Hải quan GATT/WTO, xây dựng biểu thuế theo Công ước HS, xác định quản lý các vấn đề về xuất xứ hàng hóa. - Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu để đảm bảo phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, bằng việc ban hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi, thay thế cho Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện hành ban hành năm 1991, sửa đổi bổ sung năm 1993 và 1998. Vấn đề trọng tâm là cải cách cơ bản biểu thuế nhập khẩu, xây dựng danh mục biểu thuế tương thích với Danh mục HS của Tổ chức Hải quan thế giới Xây dựng biểu thuế ở cấp độ 8 số, tiến tới thực hiện danh mục biểu thuế chung ASEAN (AHTN) mà Bộ Tài chính đã thay mặt Chính phủ Việt Nam ký Nghị định thư thực hiện AHNT, và Chính phủ đang xem xét ban hành Quyết định về việc thực hiện bản danh mục đó. Thay đổi, kết cấu lại mức thuế suất trong biểu thuế dựa trên cơ sở lượng hóa mức độ bảo vệ sản xuất trong nước theo hướng : Xác định mức độ bảo hộ theo 3 loại: bảo hộ cấp thấp, bảo hộ mức trung bình và bảo hộ cao. Xác định các mặt hàng và hóm hàng bảo hộ Xác định mức thuế suất cho từng mặt hàng Cụ thể như sau: - Loại 1: các ngành hàng được bảo hộ thấp . Các ngành hàng mà Việt Nam hiện đã và đang có thế mạnh xuất khẩu, ít lo ngại về vấn đề cạnh tranh. . Các ngành hàng mà hàng hóa nhập khẩu là đầu vào của nhiều ngành sản xuất, mà trong nước không có khả năng đáp ứng và tập trung đầu tư phát triển. Các ngành hàng này sẽ được bảo hộ theo 2 cấp độ: cấp độ 1 , bảo hộ duy nhất bằng thuế nhập khẩu với mức thuế suất tối đa là 10% (cam kết ràng buộc WTO) không có các biện pháp bảo hộ phi thuế quan; cấp độ 2, bảo hộ duy nhất bằng thuế nhập khẩu, với mức tối đa là 20% ( cam kết ràng buộc WTO) không có các biện pháp bảo hộ phu thuế ( Xem phu lục 3 biểu 1) - Loại 2: các ngành hàng được bảo hộ trung bình, bao gồm đa số các ngành hàng sản xuất của Việt Nam hiện nay ( tất cả các ngành không thuộc loại 1 và loại 3 ), đó là một số ngành sản xuất trong thời gian qua phần nào đã được đầu tư thay thế hàng nhập khẩu; một số ngành phần nào đó đã có thế mạnh xuất khẩu nhưng cần phải được đảm bảo độ an toàn nhất định. Các ngành này được bảo hộ theo cấp độ 3, bảo hộ duy nhất bằng thuế nhập khẩu với mức độ tối đa là 30% ( cam kết ràng buộc WTO) không có các biện pháp bảo hộ phi thuế (xem phụ lục 3 biểu 2) - Loại 3: Các ngành hàng được bảo hộ cao, đó là những ngành hàng ta chưa có đủ khả năng cạnh tranh xuất khẩu, các ngành chế biến nông sản, một số ngành công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ mũi nhọn có ý nghĩa trọng yếu đảm bảo an toàn cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Các ngành này sẽ được bảo hộ theo cấp độ 4, với mức tối đa là 40%, bảo hộ cấp 5 với mức tối đa là 50%; duy nhất bằng thuế nhập khẩu (cam kết ràng buộc với WTO), không có các biện pháp bảo hộ phi thuế; bảo hộ cấp 6 sẽ loại trừ hoàn toàn khỏi việc thực hiện tự do hóa thương mại, không thực hiện ràng buộc thuế quan với WTO, không giảm thuế theo APEC, Hiệp định thương mại Việt –Mỹ, ASEAN (xem phụ lục 3 biểu 3) Trên cơ sở mức độ bảo hộ theo từng nhóm ngành hàng được dự kiến, sẽ xây dựng thuế suất của từng mặt hàng và cam kết về mức thuế suất theo từng dòng thuế. Tiếp tục cải cách bộ máy công quyền và cải cách đội ngũ công chức Hải quan Cải cách bộ máy công quyền Hải quan phù hợp với cơ chế mới Hiện nay, Tổng cục Hải quan sau khi chuyển về Bộ Tài chính cần chú ý nhiều hơn đến cải cách bộ máy công quyền cho phù hợp. Cải cách bộ máy công quyền Hải quan cần căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ trên cơ sở làm việc, phối hợp nhuần nhuyễn với các cơ quan nhà nước liên quan khác, trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất dưới sự chỉ đạo của Bộ Tài chính. Tăng cường quản lý vĩ mô, tăng cường hiệu quả thực hiện ở cấp cơ sở, đảm bảo quản lý nhà nước về Hải quan được thống nhất trong cả nước, đảm bảo tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam và những điều ước quốc tế mà Việt nam đã ký kết. Cải cách bộ máy Hải quan phải theo kịp sự phát triển nhanh của nền kinh tế xã hội nói chung , của kinh tế đối ngoại và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Nâng cao trình độ chuyên môn và phẩm chất dạo đức của đội ngũ cán bộ công chức Hải quan. Có thể thấy rõ trong các kiến nghị để giải quyết một số khó khăn, vướng mắc ở trên đã đưa ra không ít những yêu cầu, phương hướng đổi mới trong vấn đề nhân sự ngành Hải quan, nhằm đáp ứng với những yêu cầu đổi mới trong điều kiện hội nhập kinh tế, nhưng để thực hiện cải cách thủ tục Hải quan có hiệu quả vẫn cần những phương hướng có hệ thống về vấn đề nhân sự. Bản chất công việc cán bộ Hải quan thực hiện đã và sẽ thay đổi một cách đáng kể khi thực hiện những biện pháp hiện đại hóa. Các cán bộ sẽ dành ít thời gian hơn cho công tác kiểm tra chứng từ và hàng hóa, tập trung nhiều hơn vào việc phân tích, quản lý rủi ro, kiểm tra sau giải phóng hàng, hệ thống thông tin và hướng vào cung cấp dịch vụ cho xã hội. Theo đó cần điều chỉnh đặc điểm của đội ngũ cán bộ, các cán bộ sẽ cần có trình độ đào tạo theo chuẩn mực khác nhau, và tập hợp các kỹ năng cao hơn để có thể thực thi được nhiệm vụ một cách có hiệu quả trong việc thực hiện những cải cách. Do đó, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hoạt động Hải quan trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, ngành Hải quan cần xây dựng một lực lượng cán bộ Hải quan chuyên nghiệp, có chuyên môn sâu, hiện đại, hoạt động minh bạch, liêm chính và hiệu quả cao. Trong quá trình hội nhập, được sự giúp đỡ của WCO, của Hải quan các nước trong khu vực và quốc tế, đồng thời được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, Ngành Hải quan đã có điều kiện thực hiện chiến lược đào tạo cán bộ, công chức Hải quan. Trong thời gian tới để đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực, ngành Hải quan còn cần chú trọng hơn nữa tới các hoạt động: ¬ Đào tạo Bản chất những đổi mới trong hoạt động Hải quan đòi hỏi phải suy nghĩ thận trọng về vấn đề đào tạo, những cải cách về qui chế thủ tục và phương pháp diễn ra trên phạm vi rộng ảnh hưởng đến không chỉ là công chức Hải quan, mà còn hàng ngàn doanh nghiệp, các nhà khai thuê Hải quan và các đối tượng có liên quan khác. Do đó, đào tạo là một phần quan trọng trong công cuộc cải cách thủ tục Hải quan, yêu cầu này đòi hỏi phải khẩn cấp xây dựng một chiến lược đào tạo, các chính sách đào tạo toàn diện, một đội ngũ giảng viên có kinh nghiệm và chuẩn bị tốt, một quá trình triển khai thực hiện đào tạo cẩn thận, có hiệu quả. Điều này đòi hỏi phải có sự đầu tư về tài chính và nguồn lực, sự chú ý của các cấp quản lý, sự phối hợp giữa các Cục, Vụ nghiệp vụ và Vụ tổ chức Cán bộ và đào tạo. Đào tạo ở đây vừa kết hợp giữa đào tạo mới và việc bồi dưỡng năng cao trình độ của cán bộ Hải quan, trong thời gian tới cần chú ý hơn tới những vấn đề: + Bồi dưỡng thêm cho các cán bộ lãnh đạo về khả năng quản lý, điều này đã được ngành quan tâm đến từ lâu nhưng với những thay đổi phức tạp hiện nay,việc bồi dưỡng thêm cho các cán bộ lãnh đạo vẫn cần được đẩy mạnh hơn nữa. + Nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ nhân viên Hải quan: jNâng cao trình độ kiểm hóa để nhanh chóng thích nghi với những thay đổi để đáp ứng với những qui định và thông lệ quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ áp dụng. Cụ thể là : Phải thường xuyên tập huấn, bổ sung kiến thức mới về hàng hóa và phương pháp kiểm hóa cho kiểm hóa viên. Đào tạo kiểm hóa viên theo hướng chuyên sâu về từng loại hình, từng mặt hàng để có thể nhận biết nhanh chóng những khác biệt, mâu thuẫn giữa thực tế hàng hóa và hồ sơ khai báo, nếu không dễ dẫn đến sai làm hoặc kết quả kiểm tra không sát với thực tế. Có những hoạt động đúc kết, rút kinh nghiệm thường xuyên để nâng cao kinh nghiệm của các kiểm hóa viên, đồng thời tạo ra cách làm việc khoa học, thống nhất. k Do yêu cầu phát triển của kiểm tra sau thông quan nên phải có một đội ngũ kiểm toán viên Hải quan có trình độ cao và chuyên nghiệp. Việc xây dựng đội ngũ kiểm toán Hải quan chuyên nghiệp này sẽ nâng cao tính hiệu quả trong việc thực hiện kiểm tra sau thông quan, nâng cao trách nhiệm trước pháp luật của chủ hàng, thực hiện có hiệu quả công cuộc cải cách thủ tục Hải quan trong quá trình hội nhập kinh tế của nước ta. l Nhiệm vụ của công chức Hải quan ngày càng nặng nề, phức tạp đòi hỏi phải bồi dưỡng thêm cho cán bộ Hải quan về ngoại ngữ, khả năng phối hợp công tác, khả năng tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân cộng tác, giúp đỡ Hải quan hoàn thành nhiệm vụ; bên cạnh đó, luôn nhấn mạnh về trình độ nắm vững và thi hành pháp luật, chính sách để thực hiện tốt và giúp đỡ các doanh nghiệp trong thực hiện đúng pháp luật Hải quan. m Có phương pháp, phong cách làm việc phù hợp với những đổi mới hiện đại hóa và đơn giản hóa trong thủ tục Hải quan * Phương pháp làm việc hiện đại: Cùng với việc hiện đại hóa ngành Hải quan các trang thiết bị Hải quan ngày càng hiện đại và đổi mới để phù hợp với sự phát triển của Việt Nam nói chung và hoạt động của Hải quan thế giới, do đó nhân viên Hải quan cũng phải thành thạo trong việc ứng dụng những công nghệ hiện đại trong hoạt động Hải quan như sử dụng hệ thống máy tính, máy chuyên dùng như máy soi. Ngoài ra phương pháp làm việc còn phải mang tính khoa học, nắm bắt tình hình nhanh chóng, chính xác, đề ra quyết định đúng đắn theo cương vị của mình. Điều này đòi hỏi lãnh đạo trong ngành phải chú ý đến: 1/ Sắp xếp cán bộ nhân viên phù hợp về trình độ và đáp ứng được yêu cầu công việc. 2/ Thường xuyên giáo dục tư tưởng chính trị cho đội ngũ cán bộ nhân viên Hải quan. 3/ Có chế độ đãi ngộ thích hợp với đội ngũ công chức Hải quan 4/ Đề cao liêm chính Hải quan, năng cao uy tín và sự tin tưởng vào liêm chính Hải quan trong cộng đồng doanh nghiệp và xã hội. * Phong cách làm việc mới: Luôn đề cao trách nhiệm cá nhân và thái độ làm việc của công chức Hải quan. Tạo ra phong cách làm việc nhanh, gọn, đúng pháp luật và luôn tạo thuận lợi cho các bên có liên quan. Giải pháp luân chuyển cán bộ Một biện pháp có thể làm tăng trình độ năng lực, cơ sở kinh nghiệm tổng thể là tạo điều kiện để cán bộ có những kinh nghiệm công tác đa dạng thông qua hình thức luân chuyển nhiệm vụ. Việc này đem lại lợi thế hai mặt để phát triển các cá nhân trong nội bộ cơ quan trong khi đồng thời đem lại những kinh nghiệm mới và đa dạng cho các mảng công việc liên quan. Lợi thế khác có thể thấy là việc luân chuyển có thể hỗ trợ cho công tác đấu tranh chống tham nhũng, giảm nếp suy nghĩ “cục bộ” và tạo điều kiện thích nghi nhanh với những đổi mới. Hải quan cần xem xét một chính sách linh hoạt để khuyến khích các cán bộ có được các kinh nghiệm phong phú, đa dạng thông qua luân chuyển công việc. Chủ đề luân chuyển cán bộ cũng đã được đề cập đến trong việc xem xét đổi mới về vấn đề nhân sự ngành Hải quan. Tiếp tục tăng cường nghiên cứu, thực hiện các cam kết, công ước và tham gia vào các tổ chức quốc tế về lĩnh vực Hải quan Thực hiện lộ trình thực hiện Hiệp định trị giá GATT/ WTO Hiện nay, Tổng cục Hải quan đang tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai thực hiện tốt Hiệp định trị giá gatt/WTO. Trong thời gian qua, Tổ công tác về thực hiện trị giá WTO đã làm việc tích cực để xây dưng lộ trình, phương án khả thi thực hiện Hiệp định trị giá trình Chính phủ.Tổng cục Hải quan đã dự thảo, sau đó đã ban hành nghị định 60/NĐ-CP về việc xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu theo Hiệp định trị giá GATT/WTO và đưa ra lộ trình thực hiện tiếp Hiệp định trong những năm tiếp theo Năm 2003 + Rà soát lại các văn bản về trị giá, kiểm tra sau thông quan qua một thời gian thực hiện để tiến hành hiệu chỉnh cần thiết; + Mở rộng các đối tượng được áp dụng Nghị định về xác định trị giá tính thuế hàng hóa XNK đối với hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ, hàng hóa nhập khẩu của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ; + Phát triển hệ thống thông tin dữ liệu giá- Giai đoạn 2; + Tiếp tục xem xét cắt giảm danh mục mặt hàng nhà nước quản lý giá tối thiểu; + Soạn thảo sổ tay Hiệp định trị giá GATT/WTO dành cho cán bộ Hải quan + Qui hoạch cán bộ làm công tác định trị giá, kiểm tra sau thông quan. Năm 2004 + Sửa đổi Nghị định, Thông tư hướng dẫn tính giá trị tính thuế theo Hiệp định trị giá GATT/ WTO để chuẩn bị áp dụng cho tất cả hàng hóa nhập khẩu ; + Sắp xếp lại hệ thống xác định trị giá tính thuế thống nhất trên toàn ngành; + Danh mục mặt hàng nhà nước quản lý giá tối thiểu chỉ giữ lại một số mặt hàng có nguy cơ gian lận cao; + Ứng dụng kỹ thuật quản lý rủi ro để chống gian lận trị giá; + Phát triển chiến lược tự nguyện tuân thủ của cộng đồng doanh nghiệp. Năm 2005 + Thực hiện đầy đủ Hiệp định trị giá Hải quan GATT/WTO + Hoàn thiện toàn bộ hệ thông văn bản pháp luật về xác định trị giá tính thuế hàng hóa XNK. Phương hướng tiếp tục thực hiện Công ước HS -Như đã trình bày ở trên, Việt nam đã tham gia Công ước HS từ năm 1998, Công ước có hiệu lực đối với Việt Nam từ 1/1/2000 -Tổng cục Hải quan đã phối hợp các Bộ, ngành trong nước xây dựng chương trình kế hoạch triển khai thực hiện Công ước. Đã thành lập tổ công tác liên Bộ về HS để hoàn chỉnh các văn bản pháp lý. Dự thảo Nghị định về việc phân loại hàng hóa XNK trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để triển khai thực hiện. Hiện nay, Tổng cục Hải quan đang lấy ý kiến thẩm định lần cuối của Bộ tư pháp, và các Bộ, ngành khác có liên quan. Phối hợp trong nội bộ Bộ tài chính tham gia đàm phán xây dựng danh mục Biểu thuế hài hòa AESEAN, ký Nghị định thư thực hiện AHTN. Việt Nam dự kiến có thể áp dụng AHTN từ ngày 1/1/2003 và hiện nay đang tiến hành các công việc chuẩn bị cần thiết như sửa đổi các văn bản pháp luật có liên quan đến biểu thuế xuất nhập khẩu, rà soát lại Danh mục Biểu thuế quốc gia cho phù hợp với AHTN, tuyên truyền và đào tạo AHTN cho các cán bộ Hải quan và cộng đồng doanh nghiệp. Thực hiện và chuẩn bị tham gia một số Công ước quốc tế có liên quan đến Hải quan Công ước Kyoto Việt Nam đã tham gia Công ước Kyoto từ năm 1997, Công ước đã được sửa đổi vào năm 1999, hiện nay, Tổng cục Hải quan đang tiến hành nghiên cứu và tham khảo ý kiến của các Bộ, ngành hữu quan để trình Chính phủ về việc tham gia Công ước Kyoto sửa đổi 1999. Về Công ước ATA Tổng cục Hải quan phối hợp với Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam và một số Bộ ngành hữu quan nghiên cứu chuẩn bị làm tờ trình Chính phủ về việc Việt Nam gia nhập Công ước ATA. Về hiệp định TRIPs Trong thời gian qua, Tổng cục Hải quan đã phối hợp cùng với Bộ Khoa học-Công nghệ và Môi trường, Bộ Văn hóa –Thông tin hướng dẫn về thực thi quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa XNK. Biện pháp cải thiện mối quan hệ phối hợp của cơ quan Hải quan với cấp uỷ chính quyền địa phương và bộ, ngành liên quan - Để giải quyết mối quan hệ công tác giữa cơ quan Hải quan với cấp uỷ chính quyền đại phương các tỉnh, thành phố nơi có tổ chức Hải quan hoạt động thì cần phải có văn bản qui định của cấp có thẩm quyền về mối quan hệ công tác này, để đảm bảo chỉ đạo thống nhất của ngành trong triển khai thực hiện Luật Hải quan. - Một số nội dung cần phối hợp trong nội bộ Bộ Tài chính để trình cơ quan có thẩm quyền về: Thực hiện thời điểm ra thông báo thuế đối với lô hàng nhập khẩu thuộc diện phải kiểm tra thực tế hàng hóa, song phải chờ kết quả giám định mất nhiều ngày mới thực hiện được việc kiểm tra , để đảm bảo vừa phù hợp giữa những qui định của nghị định hướng dẫn thực hiện Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu và của Bộ Tài chính với qui định của Nghị định 101/NĐ-CP và của Tổng cục Hải quan. Việc xây dựng bảng giá tối đa đối với hàng xuất khẩu thuộc đối tượng được hoàn thuế VAT nhằm chống gian lận về giá. Quan hệ với các cơ quan kho bạc các cấp để phối hợp trao đổi số liệu nộp thuế của các doanh nghiệp qua kho bạc, để chuyển vào tài khoản chuyên thu cơ quan Hải quan qua mạng tin học. Thẩm quyền phạt vi phạm qui định về thuế theo các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế quan và trong lĩnh vực Hải quan. - Để phục vụ kịp thời việc triển khai công tác nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan, cần thống nhất với Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn việc cung cấp số liệu chứng từ, kiểm tra và xác minh các chứng từ thanh toán qua ngân hàng theo qui định tại Nghị định 102/NĐ-CP. Thống nhất với Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, một số cơ quan có chức năng kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa XNK, người và phương tiện xuất nhập cảnh như kiểm dịch động vật, kiểm dịch y tế, hàng không để hướng dẫn các lực lượng quản lý trực thuộc tại các cửa khẩu đường bộ, đường biển, đường hàng không, bưu điện quốc tế, cửa hàng miễn thuế thực hiện qui định và trách nhiệm về quan hệ phối hợp với cơ quan Hải quan trong cung cấp thông tin, số liệu liên quan về hàng hóa XNK và phương tiện xuất nhập cảnh, về quản lý giấy phép và làm thủ tục Hải quan theo qui định của pháp luật. KẾT LUẬN Trong điều kiện hội nhập kinh tế , với chủ trương thực hiện cải cách một bước nền hành chính, ngành Hải quan đã tiến hành cải cách hành chính với trọng tâm là cải cách thủ tục Hải quan, theo hướng đơn giản hóa, hiện đại hóa. Những năm gần đây cùng với những biến chuyển mạnh mẽ về kinh tế, và các hoạt động tham gia hội nhâp kinh tế của nước ta, thì những cải cách thủ tục Hải quan đã có những kết quả nhất định, tạo điều kiện để phát triển giao lưu thương mại quốc tế đồng thời với quản lý hoạt động Hải quan có hiệu quả. Những thành công ban đầu đã cho thấy bước đi đúng hướng của Hải quan Việt Nam trong công cuộc cải cách thủ tục Hải quan và đòi hỏi phải thực hiện cải cách sâu rộng, mạnh mẽ hơn nữa. Công cuộc cải cách thủ tục Hải quan liên quan trực tiếp đến quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước trên thể giới. Vai trò của Hải quan được xem như “người gác cửa về kinh tế của đất nước”, trong điều kiện hội nhập kinh tế thì người gác cửa cũng chính là những người chào đón, và do đó càng phải thể hiện đúng với tinh thần hữu nghị, hợp tác, các bên đều có lợi, và tinh thần hiếu khách của người Việt Nam, điều này đòi hỏi ngành Hải quan, kết hợp với các bộ ngành liên quan, cùng tiến hành có hiệu quả cải cách không chỉ thủ tục Hai quan mà cả các lĩnh vực khác trong ngành Hải quan, để Ngành Hải quan thực sự là cầu nối giữa các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường thế giới bằng tính hiệu quả và cạnh tranh của nền kinh tế. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Cải cách hành chính thủ tục Hải quan, NXB Tài chính ,Hà Nội 1999 2. Tài liệu dự án VIE/97/059 do UNDP tài trợ “Tăng cường năng lực cho Hải quan Việt Nam” 3. Báo cáo về hoạt động thường niên của Tổng cục Hải quan Việt Nam 1994- 2000 4. Kế hoạch phát triển ngành Hải quan Việt Nam 2001- 2005 5. Việt Nam hội nhập ASEAN, NXB Hà Nội, 1997; và các tài liệu về Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 6 cùng tuyên bố Hà Nội ngày 23/7/2001. 6. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế của Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1999, trang 25, 126-129 7. Chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế của Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế, Hà Nội tháng 10/1999 8. Luật Hải quan và các văn bản hướng dẫn thi hành Thủ tục Hải quan, phương pháp xác định giá tính thuế, NXB Lao động- Xã hội, Hà Nội 2002 9. Luật Doanh nghiệp 10. Luật thuế xuất nhập khẩu và các Luật sửa đổi bổ sung 11. Luật Hải quan các nước ASEAN 12. Pháp lệnh Hải quan 1990 13. Công ước Kyoto về đơn giản và hài hòa thủ tục Hải quan 14. Công ước quốc tế về Hệ thống hài hòa trong mô tả và mã hóa hàng hóa ( Công ước HS) 15. Hiệp định trị giá GATT/WTO 16. Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ 17. Cải cách hành chính quốc gia là khâu đột phá để Việt nam hội nhập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997 18. Tài liệu bài giảng về kiểm toán Hải quan, Jica, Japan –Tổng cục Hải quan Việt Nam, 2001 19. Convention establishing Customs Co-operation Council, Brussels 1981, p 43-58 20. Uncitral Model Law on Electronic Commerce 21. Customs Technicque Trainning, Taejon, Korea 2000 22. Website: http//www.customs.gov.vn/

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc19326.doc
Tài liệu liên quan