Khóa luận Một số vấn đề về cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Sự vững mạnh của các TCTD là một trong những tiền đề quan trọng để đảm bảo cho qúa trình tự do hóa lãi suất thành công. Để đạt được mục tiêu này, các TCTD cần thực hiên một số biện pháp sau: Hoạt động trên cơ sở đảm bảo đủ mức vốn pháp định theo quy định của Luật về tổ chức tín dụng và Nghị định số 82/1998/NĐ-CP ngày 3/10/1998 của Chính phủ “ về việc ban hành danh mục mức vốn pháp định của các TCTD ”. Thực hiện tốt các quy định của NHNN về các tỷ lệ an toàn trong hoạt động như tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung hạn và dài hạn, giới hạn cho vay tối đa đối với một khách hàng cuả mỗi TCTD, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, tỷ lệ về khả năng thanh toán. Thực hiện phân loại tài sản có và trích lập quỹ dự phòng rủi ro từ chi phí họat động theo quy định của NHNN để các TCTD có thể bù đắp được những rủi ro phát sinh trong hoạt động kinh doanh, đảm bảo hoạt động lành mạnh và có hiệu quả. Nâng cao năng lực phân tích khách hàng, thẩm định dự án trước khi đưa ra các quyết định đầu tư; thưc hiện tốt việc đa dạng hoá các danh mục đầu tư để phân tán rủi ro; Tham gia vào các hợp đồng lựa chọn và hợp đồng tương lai để bảo hiểm rủi ro; Xây dựng kế hoạch cân đối nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn phù hợp, đảm bảo kỳ hạn tài sản có luôn phù hợp với tài sản nợ để giảm thiểu rủi ro về lãi suất. Thực hiện hiện đại hoá công nghệ NH để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và từng bước hoà nhập với cộng đồng tài chính quốc tế. Công tác kế toán, hạch toán cần phải minh bạch, hạch toán của các TCTD phải được hạch toán độc lập, thường xuyên theo định kỳ. Thực hiện kiện toàn bộ máy tổ chức, nâng cao trình độ cán bộ, quan tâm công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ hệ thống NH ở cả cấp hoạch định chính sách và khâu tác nghiệp cụ thể.

doc81 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1596 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số vấn đề về cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phù hợp với điều kiện thực tế thị trường tiền tệ trong nước và các biến động của thị trường tiền tệ khu vực và thế giới. Cơ chế lãi suất mới vừa có yếu tố thị trường, vừa có yếu tố quản lý, bước đầu lãi suất kinh doanh của các TCTD đã gắn với lãi suất cơ bản. Nhìn chung cơ chế điều hành lãi suất mới tạo sự chủ động cho các TCTD trong việc xác định lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn phù hợp với cơ chế thị trường nhưng vẫn đảm bảo vai trò quản lý của Nhà nước. Qua một thời gian thực hiện cơ chế lãi suất mới cho thấy mặt bằng lãi suất trên thị trường không bị xáo trộn, lãi suất cơ bản do NHNN công bố hàng tháng khá phù hợp, cùng với việc thực hiện giải pháp kích cầu về tiền tệ tín dụng theo nghị quyết của chính phủ trong 6 tháng đầu năm 2000, liên tiếp trong các tháng 8; 9; 10 năm 2000, NHNN đã ban hành hơn 10 văn bản pháp lý mới quan trọng về cho vay. Các quyết định, thông tư trên cùng hàng loạt văn bản pháp lý khác đã tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về hoạt động tín dụng đã có tác dụng mạnh mẽ, tạo điều kiện cho việc tăng trưởng huy động vốn va cho vay của các TCTD. Dư nợ cho vay trong các tháng cuối năm 2000 đã tăng lên nhanh hơn so với các tháng đầu năm. Đến hết tháng 12/2000 dư nợ cho vay tăng 25% so với kế hoạch là 18-20% và vốn huy động tăng 29%( kế hoạch là 18-20%) so với 31/12/1999. Tương ứng, đến hết tháng 12/2001, dư nợ cho vay tăng 23,1% so với kế hoạch đề ra là 22% nhưng tổng nguồn vốn huy động chỉ tăng 24,5% so với kế hoạch là 26%. Nếu so sánh với mức tăng của các chỉ tiêu tương tự trong 3 năm gần đây: 1997;1998;1999( khi thực hiện điều hành theo lãi suất trần ) ta thấy: Tốc độ tăng trưởng huy động vốn và cho vay của các TCTD qua các năm Đơn vị tính: %/năm Năm 1997 1998 1999 2000 2001 Tốc độ tăng trưởng HĐV 25,7 34,0 34,0 29,0 24,5 Tốc độ tăng trưởng cho vay 22,0 16,4 19,2 25,0 23.1 (Nguồn : Thời báo kinh tế Việt nam 2001-2002) Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay luôn có mức tăng cao so với tốc độ tăng tương ứng của các năm '96-'99, điều đó cho thấy cơ chế lãi suất mới đã thúc đẩy việc mở rộng cho vay của các TCTD. Tuy nhiên sang năm 2001, tốc độ tăng trưởng huy động vốn giảm xuống so với năm 2000 nhưng vẫn đạt kế hoạch. Nguyên nhân tăng trưởng chậm lại của nguồn vốn huy động là do huy động từ các TCKT giảm mà nguồn vốn huy động từ dân chúng vẫn tăng khá. Tuy nhiên khi thực hiện chính sách lãi suất cơ bản ta thấy vẫn còn một số hạn chế nhất định: Về thực chất, cơ chế lãi suất cơ bản vẫn còn sự can thiệp của Nhà nước, thể hiện ở việc khống chế biên độ. Do khống chế biên độ làm cho các TCTD phản ứng không kịp thời để phòng ngừa rủi ro về lãi suất và thanh khoản khi lãi suất thị trường tiền tệ trong và ngoài nước biến động theo hướng tăng, chênh lệch lãi suất cho vay và huy động bị thu hẹp do lãi suất huy động tăng nhưng lãi suất cho vay không tăng. Không phát huy và khắc phục được nội lực vì với tư cách là" hàng hoá " nó vận hành theo quan hệ cung cầu, nếu lãi suất thấp việc huy động vốn sẽ rất khó khăn. Ngày 31/1/01 cục dự trữ liên bang Mỹ ( FED ) đã bất ngờ giảm tiếp lãi suất chỉ đạo làm cho lãi suất USD trên thị trường tiền tệ quốc tế giảm mạnh. Dưới tác động kép: tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao, lãi suất USD trên thị trường thế giới ở mức thấp đã buộc các NHTM phải hạ lãi suất huy động tiết kiệm USD từ đầu tháng 02/2001. Như vậy, sự can thiệp này đã làm dịu đi cuộc chaỵ đua giữa các NHTM tích cực huy động tiết kiệm USD, sự cân bằng giữa USD và VND dần được thiết lập, kết quả cao nhất là ngăn chặn một bộ phận dân cư chuyển nguồn tiết kiệm VND sang USD. Tháng 06/01 NHTW bỏ cơ chế quy định khống chế biên độ cho các NHTM, TCTD dựa trên lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu nguồn vốn ngoại tệ trong nước để thoả thuận với khách hàng mức lãi suất cho vay phù hợp. Sau một thời gian thực hiện cơ chế tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ cho thấy tỷ giá và thị trường ngoại hối ổn định và hoạt động bình thường, không có tác động gì xấu đến nền kinh tế. Đồng thời còn tạo điều kiện cho NHTM ấn định lãi suất hoạt động cho vay phù hợp với khả năng của ngân hàng mình với nhu cầu vốn của nền kinh tế. Ngày 01/06/02 lãi suất thoả thuận bằng VND ra đời. Lãi suất cơ bản và lãi suất cho vay bình quân Thời gian Lãi suất cơ bản Ls cơ bản cộng (+) biên độ LS cho vay bình quân khu vực thành thị LS cho vay bình quân khu vực nông thôn Cho vay ngắn hạn Cho vay dài hạn 8/2000-2/2001 0,75 1,05 1,25 0,775 1,10 March-01 0,725 1,025 1,225 0,75 1,10 Apr-01 0,70 1,0 1,20 0,75 1,05 5/2001-9/2001 0,65 0,95 1,15 0,75 1,05 10/2001-5/2002 0,60 0,9 1,10 0,725 0,9 (Nguồn: NHNH, tháng 6/2002) II/ Qúa trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam 1. Quá trình đổi mới cơ chế điều hành lãi suất tín dụng để tiến tới tự do hoá lãi suất Thời kỳ 1992-1995: NHNN đã thực hiện một bước chuyển đổi quan trọng, chuyển từ chính sách lãi suất âm sang chính sách lãi suất dương. Đây là giai đoạn khởi đầu tạo cơ sở cho việc theo đuổi mục tiêu tự do hoá lãi suất, tạo đòn bẩy cho các NHTM chuyển hoạt động kinh doanh từ thua lỗ sang có lãi. Thời kỳ 1996 đến tháng 7 -2002: Đây là thời kỳ tiến hành tự do hoá lãi suất tiền gửi và thực hiện cơ chế trần lãi suất cho vay với việc áp dụng các mức trần khác nhau cho các khu vực thành thị, nông thôn hoặc các loại hình TCTD khác nhau trong cùng thời hạn nhất định. Việc chỉ khống chế lãi suất cho vay tối đa, không quy định lãi suất tiền gửi nhằm hoàn thiện công cụ lãi suất tiến tới mục tiêu tự do hoá lãi suất. Thời kỳ từ 8/2000 đến 5/2001: NHNN đã chuyển từ cơ chế điều hành trần lãi suất sang cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với lãi suất cho vay ngoại tệ. Đặc biệt thời kỳ từ 6/2001 đến nay, cơ chế điều hành lãi suất ngoại tệ đã có những thay đổi quan trọng mà theo đó lãi suất cho vay đô la Mỹ nói riêng và cho vay ngoại tệ nói chung đã hoàn toàn được tự do hoá. Các TCTD cho vay bằng đô la Mỹ theo lãi suất thoả thuận với khách hàng dựa trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầy vốn tín dụng bằng ngoại tệ ở trong nước. Riêng lãi suất cho vay bằng đồng Việ Nam đối với nền kinh tế vẫn còn bị khống chế mặc dù một bộ phận lớn lãi suất tiền gửi bằng đồng Việt Nam (trừ lãi suất kỳ phiếu, trái phiếu của NHTM), lãi suất thị trường nội tệ liên Ngân hàng đã được tự do hoá. Như vậy , có thể nói rằng tự do hoá lãi suất cho vay bằng đồng Việ Nam là khâu cuối cùng của tiến trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam. 2. Tác động tích cực của việc thay đổi cơ chế lãi suất theo hướng thị trường Đối với các nước, việc thực hiện cơ chế lãi suất thị trường là yếu tố có tính "hạt nhân" để thúc đẩy thị trường tài chính phát triển theo chiều sâu, làm tăng cạnh tranh, thúc đẩy các dịch vụ tài chính khác phát triển, góp phần ổn định và phát triển kinh tế vĩ mô, hội nhập kinh tế quốc tế (thể hiện ở chỉ tiêu M2 /GDP - phản ánh mức độ huy động vốn trong nước của khu vực tài chính chính thức tăng lên, như Thái Lan tăng từ 52% lên 80% năm 1994, Singapore tăng từ 58% lên 84.4% so sánh giữa trước và sau thời điểm tự do hoá lãi suất...) Đối với Việt Nam, quá trình thay đổi cơ chế lãi suất theo hướng thị trường có những tác động tích cực đối với kinh tế vĩ mô và thị trường tài chính - tiền tệ, biểu hiện như sau: Một là, việc "nới lỏng" cơ chế điều hành lãi suất theo hướng thị trường đã tạo khả năng cho thị trường tài chính phát triển theo chiều sâu, thể hiện trong biểu đồ biến động tăng chỉ tiêu M2/GDP( hình trên ) Hai là, sự thay đổi của chính sách lãi suất là phù hợp với diến biến kinh tế vị mô, nhưng cũng chính là yêu cầu phát triển nền kinh tế, tiền tệ hoá các mối quan hệ kinh tế và sự hình thành các nhân tố kinh tế thị trường đã buộc chính sách laĩ suất phải có sự "nới lỏng" để chuyển dần sang cơ chế lãi suất thoả thuận nhằm tạo điều kiện cho việc huy động tối đa nguồn lực trong nước phục vụ cho đầu tư phát triển và đồng bộ với tổng thể chính sách kinh tế - tài chính - đối ngoại (vốn huy động và tín dụng đối với nền kinh tế tăng trưởng trên 20%/năm; vốn tín dụng cung ứng cho nền kinh tế tuy tăng trưởng ở mức cao, nưm 1991 tương đương 21% GDP, năm 2001 là 42%). Nguồn: Tạp chí ngân hàng số tháng 7 năm 2002 Ba là, việc "nới lỏng" cơ chế lãi suất, làm cho lãi suất tự điều chỉnh linh hoạt và phù hợp hơn với quan hệ cung cầu vốn thị trường, các luồng vốn được lưu chuyển đến nơi có lợi nhuận cao với mức rủi ro thấp, nâng cao hiệu quả đầu tư, thúc đẩy việc các NHTM phát triển nhanh chóng mạng lưới chi nhánh ở thành thị, nông thôn, đưa ra các mức lãi suất, sản phẩm dịch vụ thích hợp với khách hàng. Điều này sẽ rất hạn chế, như thực tế những năm 1991-1995, NHNN khống chế chặt chẽ mức trần lãi suất cho vay ở mức thấp đã khuyến khích sự vay mượn lòng vòng trên thị trường không chính thức, chốn tránh sự kiểm soát, lãi suất tiền gửi tăng, nhưng lãi suất cho vay lại không tăng được và chênh lệch lãi suất chỉ đủ bù đắp chi phí kinh doanh, lợi nhuận rât thấp, khả năng tài chính của các NHTM bị yếu đi, dễ gây xáo trộn, tổn thương cho thị trường tài chính. Bốn là, quá trình chuyển dần sang cơ chế lãi suất thoả thuận đi liền với quá trình "nới lỏng", kiểm soát ngoại hối và thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt làm cho lãi suất trong nước bám sát hơn lãi suất quốc tế, việc huy động vốn ở trong nước và từ nước ngoài tăng lên để tài trợ cho nhu cầu tín dụng trong nước. Năm là, quá trình chuyển dần sang cơ chế lãi suất thoả thuận làm cho mức biến động ngày càng tăng của các luồng vốn đầu tư, NHNN phải sử dụng và phát huy hơn các công cụ gián tiếp để điều hành chính sách tiền tệ, tăng cường kiểm soát rủi ro tín dụng và phát triển đồng đều các bộ phận của thị trường tiền tệ. Sáu là, sau mỗi giai đoạn" nới lỏng" cơ chế điều hành lãi suất, việc huy động vốn và mở rộng cho vay của TCTD được thuận lợi hơn, người sản xuất và tổ chức kinh tế ở nông thôn được vay vốn nhiều hơn do khối lượng vốn chuyển về đầu tư cho khu vực nông thôn tăng lên. Bảy là, NSNN có điều kiện huy động được tối đa nguồn lực trong nước để bù đắp thâm hụt, thay vì đi vay nước ngoài quá lớn hoặc sử dụng tiền phát hành. Như vậy, với điều kiện kinh tế- xã hội và thị trưòng tài chính- tiền tệ trong những năm qua, việc áp dụng cơ chế điều hành lãi suất theo hướng thị trường là bước đi thích hợp. 3. Cơ chế điều hành Theo quyết định 718 ngày 29/05/2001, Thống đốc NHNNVN đã bãi bỏ cơ chế lãi suất cho vay ngoại tệ bằng lãi suất Sibor + biên độ cho phép. Kể từ ngày 01/06/2001, các TCTD được ấn định lãi suất cho vay bằng USD trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ ở trong nước, để thoả thuận với khách hàng mức lãi suất cho vay phù hợp. Đây được coi là cơ chế tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ. Tuy nhiên NHNN vẫn quy định mức lãi suất tối đa với tiền gửi bằng USD của pháp nhân, điều này thể hiện rõ trong điểm 3 điều 3 của quyết định số 243/2000/QĐ-NHNN, sau đó thay đổi hai lần tại QĐ số 238/2001/QĐ-NHNN ngày 28/03/2001 và quyết định số 02/200/QĐ-NHNN ngày 02/01/2002 của thống đốc NHNNVN, mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD tại các TCTD theo quy định của NHNN đang áp dụng: +Tiền gửi không kỳ hạn tối đa: 0,1%/năm +Tiền gửi có kỳ hạn đến 6 tháng: 0,5%/năm +Tiền gửi có kỳ hạn trên 6 tháng: 1,0%/năm Trong thực tế đô la Mỹ vẫn là sự lựa chọn số một trong thanh toán xuất nhập khẩu, cất trữ ngoại tệ của các pháp nhân, nhưng ngược lại lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại TCTD theo quy định trần lãi suất của NHNN là rất thấp so với tiền gửi USD của cá nhân, lãi suất tiền gửi của một số loại ngoại tệ khác mà NHTM hiện đang áp dụng, trên cơ sở đánh giá lãi suất tối đa USD của các pháp nhân do NHNN quy định với lãi suất tiền gửi của cá nhân và tiền gửi EUR của một số NHTM có sự chênh lệch đáng kể, sự chênh lệch này dẫn đến tình trạng " vượt rào" mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của các pháp nhân tại các TCTD là không tránh khỏi. Thực hiện cơ chế điều hành lãi suất thoả thuận không những khơi thông được những nguồn vốn trong và ngoài nước, chỉnh lưu các dòng chảy của vốn trong nền kinh tế, mà còn làm cho giá cả vốn trên thị trường được phản ánh một cách chính xác hơn. Cơ chế điều hành lãi suất đổi mới tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các TCTD theo định hướng thị trường thì việc can thiệp hành chính đối với lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân cũng cần thay đổi. Theo quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN, ngày 30/05/2002 của thống đốc NHNN kể từ ngày 01/06/2002, chính thức thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận bằng đồng Việt nam của các TCTD. Theo quyết định này, các TCTD được quyền chủ động xác định lãi suất cho vay nội tệ ( VND ) trên cơ sở cung cầu vốn và mức độ tín nhiệm với khách hàng. Tuy nhiên hàng tháng NHNN vẫn tiếp tục công bố lãi suất cơ bản trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm cácTCTD được lựa chọn, để các TCTD tham khảo và định hướng lãi suất thị trường. Đồng thời NHNN chủ động áp dụng các biện pháp để kiểm soát biến động thị trường, đảm bảo mục tiêu và yêu cầu của từng thời kỳ. Thực tế nhiều tháng nay đã xuất hiện nhiều điều kiện để chuyển sang cơ chế lãi suất theo diễn biến thị trường. Ngay từ đầu năm 2002, lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của các TCTD đã liên tục tăng cao, bỏ xa lãi suất cơ bản của NHNN. Lãi suất cho vay khách hàng tốt nhất của nhóm các TCTD được lựa chọn đã tăng lên trên 0,62%/ tháng và 0,65%/ tháng. Lãi suất huy động vốn cao nhất cũng đã lên tới 0,60%-0,65%/tháng. Trong khi lãi suất cơ bản của NHNN từ tháng 11/2001 đến nay vẫn giữ nguyên là 0,60%/tháng, nó trở nên không còn ý nghĩa với các TCTD. Với cơ chế lãi suất mới nói trên, nếu như trước đây các TCTD bắt buộc phải tuân thủ theo lãi suất cơ bản và chỉ được chủ động quy định trong khuôn khổ biên độ do NHNN quy định là không được quá 0,3%/tháng đối với cho vay ngắn hạn, thì từ ngày 01/06/2002, lãi suất cơ bản hoàn toàn chỉ là tham khảo, biên độ quy định chính thức được bãi bỏ. Điều đó có nghĩa là cácTCTD được quyền chủ động hoàn toàn, linh hoạt đưa ra các mức tiền gửi và cho vay của mình, cả nội tệ và ngoại tệ. Cơ chế lãi suất mới này phù hợp với cơ chế lãi suất các nước trong khu vực và tiến dần tới phù hợp với thông lệ quốc tế mà Việt nam đang định hướng hội nhập nền kinh tế của mình nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. NHNN chuyển dần sang thực hiện các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ, giảm sự can thiệp và điều hành bằng các công cụ hành chính vào công việc kinh doanh của các TCTD. Hiện nay, NHTW tiếp tục công bố lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn, nâng cấp và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường mở để thông qua đó bơm thêm vốn tín dụng ra hay thu hẹp về, can thiệp vào vốn khả dụng của các TCTD, hình thành nên lãi suất hợp lý. Đồng thời phát triển thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường liên ngân hàng để các TCTD vay vốn lẫn nhau, NHNN đóng vai trò là người cho vay và người đi vay cuối cùng. Tác động can thiệp vào lãi suất thị trường trong quý I/2002 vừa qua, thông qua nghiệp vụ thị trường mở NHNN đã mua vào khối lượng tín phiếu trị giá 3279 tỷ đồng, lớn hơn doanh số mua vào của cả năm 2001, trong hơn hai tháng 6 và 7/2002 cũng mua vào trên 1200 tỷ đồng. Lãi suất giao dịch phản ánh đúng diễn biến lãi suất trên thị trường. Cũng trong những tháng đầu năm nay, dư nợ cho vay nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn, gấp 3 tốc độ tăng vốn huy động. Tính đến hết 5/2002, tổng dư nợ của các TCTD tăng 8,7%, trong đó nội tệ tăng 8,5% và ngoại tệ tăng 9,4%, tổng nguồn vốn huy động tăng chỉ có 3,1%, trong đó nội tệ tăng 5,9% và ngoại tệ giảm 1,1%. Đây là nguyên nhân chủ yếu làm cho lãi suất có xu hướng tăng lên do nhu cầu vốn đầu tư của các thành phần kinh tế tăng lên. Cơ chế lãi suất thoả thuận sẽ có lợi chung cho nền kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của các TCTD, các doanh nghiệp và mọi thành phần kinh tế. Vấn đề đặt ra tiếp theo là phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành của NHNN, linh hoạt phối hợp điều hành các công cụ khác của chính sách tiền tệ, có biện pháp trợ giúp các doanh nghiệp tư nhân, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trợ giúp các NHTM cổ phần có quy mô vừa và nhỏ. 4.Thuận lợi và khó khăn a. Thuận lợi ở Việt nam, trải qua hơn mười năm năm đổi mới kinh tế cho đến nay, nền kinh tế đã có những dấu hiệu cho thấy có thể áp dụng lãi suất cho vay của NHTM đối với khách hàng theo lãi suất thị trường. Đó là: - Đối với Việt nam hiện nay, hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu. Sự di chuyển vốn giữa các quốc gia là tự do, lãi suất hoàn toàn được xác định theo quan hệ cung cầu. Các thị trường gắn kết với nhau trong xu thế nhất thể hoá, các đồng tiền quốc gia dần dần mất tính lịch sử của nó để tiến tới sử dụng một đồng tiền tập thể quốc tế trong từng khu vực. Giá vốn vì vậy cũng phải được tự do hoá, mà Việt nam không nằm ngoài quy luật đó. - Từ tháng 8/2000, NHNN đã áp dụng lãi suất cơ bản, mở đầu cho việc tiến tới việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia theo các công cụ gián tiếp. Đây là một xu hướng đúng và cần thiết. Bắt đầu 01/06/2001, lãi suất cho vay bằng của các TCTD đã được xác định trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ ở trong nước. Việc áp dụng cho vay theo lãi suất thoả thuận bằng đồng nội tệ đã bắt đầu có những tiền đề của nó, vì sức mua đối ngoại và sức mua đối nội bao giờ cũng có quan hệ chặt chẽ với nhau để đảm bảo sự bình ổn của sức mua đồng tiền. - Hiện nay, sự cạnh tranh giữa các NHTM và TCTD về lãi suất đang diễn ra khá gay gắt và mang tính không lành mạnh. Các ngân hàng coi lãi suất là công cụ cạnh tranh lợi hại để giữ gìn, gia tăng khách hàng và thị phần tín dụng. Sự cạnh tranh này đã khiến cho lãi suất thị trường từ tháng 11/2001 cho đến nay đang nóng dần lên, lãi suất tăng tới 0,65%-0,68%/tháng, thậm chí 0,705%/tháng đối với một số chi nhánh của NHNo&PTNN. Lãi suất cho vay hiện nay giảm hơn lãi suất huy động vốn, điều này có những điểm bất lợi riêng của nó mà các TCTD phải đương đâù và rất có lợi cho khách hàng. Trên thực tế, các TCTD đã cho vay đối với khách hàng theo lãi suất thoả thuận, ở địa bàn thành thị và nông thôn, các khoản vay đã thực hiện lãi suất theo quan hệ cung cầu. - Thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng ở Việt nam đã hoạt động từ năm 1993 và năm 1994. Các thị trường này, nhất là thị trường nội tệ liên ngân hàng, cùng với các thị trường tài chính khác như thị trường đấu thầu trái phiếu chính phủ, thị trường trái phiếu kho bạc đã bắt đầu tạo điều kiện cho khả năng điều hành lãi suất theo quan hệ cung cầu bằng VND. Những quyết định gần đây của NHNN trong việc điều hành lãi suất cũng đưa ra những tín hiệu đưa ra những tín hiệu cho vay theo lãi suất thị trường, ví dụ: Quyết định 1310/2001/QĐ-NHNN ngày 15/10/2001 về quy chế vay vốn giữa các TCTD, theo đó lãi suất cho vay do các bên thoả thuận và phù hợp với quy định của pháp luật ... Đây cũng là sự ghi nhận hoạt động mua bán vốn hiện đang diễn ra sôi động giữa các TCTD, khung lãi suất ở đây không vượt quá biên độ cho phép và số dư hàng tháng cũng vào khoảng 5.000 tỷ đồng. - Người vay vốn từ khu vực thành thị đến nông thôn đã quen và chấp nhận việc khác nhau về lãi suất cho vay giữa các TCTD khác nhau, nghĩa là sự chênh lệch lãi suất cho vay giữa các TCTD không tạo cho người dân cú sốc trong quan niệm. b. Khó khăn Việc cho vay theo lãi suất thoả thuận hiện nay tuy đã có được những thuận lợi nhất định song khó khăn cũng không phải là ít vì vậy đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực hơn nữa để hoàn thiện thêm các điều kiện kinh tế xã hội để việc tự do hoá lãi suất ở nước ta gặt hái được nhiều thành công. Những khó khăn đó là: - Lãi suất thoả thuận là lãi suất hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa hai bên trong hoạt động tín dụng. Do đó phải đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên người đi vay và người cho vay. Như vậy, khi áp dụng lãi suất thoả thuận, một TCTD sẽ có nhiều loại lãi suất khác nhau với nhiều đối tượng khác nhau. Một khách hàng sẽ có thể lựa chọn nhiều loại lãi suất khác nhau của nhiều TCTD. Giữa các địa bàn khác nhau sẽ có nhiều loại lãi suất khác nhau. Sự cạnh tranh giữa các TCTD về lãi suất đang gay gắt sẽ còn gay gắt hơn, sự đối phó với các NHTM nước ngoài khi mở cửa sẽ trở thành hiện thực. Trong cuộc cạnh tranh đó, các NHTMNN có ưu thế về vốn sẽ có nhiều lợi thế hơn các NHTM nhỏ. Các TCTD hiện nay quá coi trọng công cụ lãi suất để cạnh tranh với nhau, điều này không hoàn toàn lành mạnh, điểm cốt yếu không phải ở chỗ đó mà là ở chất lượng của các tiện ích ngân hàng. - Khả năng" tiêu hoá " vốn của người đi vay, nhất là ở khu vực nông nghiệp và nông thôn còn yếu. Nhu cầu về vốn của khu vực nông nghiệp và các doanh nghiệp Việt nam là rất lớn nhất cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cầu về vốn đầu tư ở nông nghiệp và nông thôn Việt nam là một trong những cầu về vốn đầu tư lớn nhất trong cả nước. Tuy nhiên các kênh huy động vốn hiện nay cũng chỉ đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu. Đối với họ, vấn đề quan trọng nhất là sử dụng vốn có hiệu quả, trong khi đó khả năng hạch toán và thông tin kế toán của bản thân NHTM và các TCTD hiện nay chưa đủ mức độ chính xác và cập nhật để có thể phân tích, đánh giá các dự án đầu tư. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa chứng minh được khả năng sử dụng vốn của mình trong các dự án có tính khả thi. Độ rủi ro trong nông nghiệp ở Việt nam là rất lớn do thiên tai, cơ sở vật chất thấp, trình độ nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp còn rất hạn chế. Vì vậy, khi thực hiện lãi suất thoả thuận thì có thể lãi suất ở địa bàn nông thôn sẽ tăng lên, gây khó khăn cho người nông dân và khả năng cung ứng vốn cho lĩnh vực này. - Khả năng hoạch định chính sách tiền tệ và chuyển tải các tín hiệu của NHNN tới các TNTM thông qua thị trường liên ngân hàng hiện nay còn rất yếu, chưa đủ sức để điều hành chính sách tiền tệ kịp thời trước những biến động nhanh chóng của thị trường. Như ta đã thấy, NHTW thường phát các tín hiệu của mình thông qua thị trường liên ngân hàng bằng lãi suất tái cấp vốn, hoạt động thị trường mở, tỷ lệ dự trữ bắt buộc ... Các nghiệp vụ này ở Việt nam đều đã áp dụng, nhưng có lẽ chủ yếu xuất phát từ nhu cầu của khách hàng. Thị trường nội tệ liên ngân hàng vẫn hoạt động nằm ngoài khả năng kiểm soát của NHNN giữa các NHTMNN, các ngân hàng có yếu tố nước ngoài, các NHTMCP dưới hình thức mua bán vốn. Điều này ảnh hưởng không tốt đến việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, khi mà NHNN không nắm được thực sự nhu cầu và khả năng vốn khả dụng của các NHTM. Các hoạt động mua bán giấy tờ có giá còn mờ nhạt, một phần do thiếu hàng hoá, một phần do khả năng của các NHTM làm cho hoạt động của thị trường mở còn chưa phát huy tác dụng vốn có của nó trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động thường xuyên và có hiệu quả, nhưng sự liên kết thị trường này với các thị trường khác chưa chặt chẽ. Bản thân các NHTMNN vẫn chưa xác định rõ động cơ hoạt động thực sự của mình trên các thị trường tài chính là nhằm quản lý mức thanh khoản trong tài sản của mình và thu lợi nhuận. Và nói chung, tác động qua lại giữa các thị trường tài chính ở Việt nam hiện nay chưa đồng bộ, tạo ra sự chuyển vốn trong nền kinh tế chưa linh hoạt, cách chuyển tải tín hiệu từ NHNN vì vậy còn ở mức độ khiêm tốn. - Sức ép trong cạnh tranh với các NHTM nước ngoài và giữa các NHTM ngày càng gay gắt. Rõ ràng là các NHTM nước ngoài có chất lượng phục vụ tốt hơn NHTM nội địa, tuy lãi suất của họ có thể cao hơn nhưng những khách hàng lớn vẫn tìm đến họ. Trong những năm tới, nền kinh tế mở của chúng ta sẽ có những hoạt động khẩn trương hơn thì đây sẽ là sức ép to lớn với ngân hàng nội địa. - Khả năng cạnh tranh của các NHTM đang có những tiến bộ đáng kể, các NHTM lớn đang có nỗ lực áp dụng các sản phẩm tài chính mới nhằm nâng cao thị phần và chất lượng phục vụ. Nhưng khi tình hình tài chính của họ chưa được cải thiện về chất, khả năng quản lý vốn khả dụng của cả hệ thống chưa cập nhật thì khó mà có thể áp dụng được cơ chế lãi suất thoả thuận có hiệu quả. - Trong địa bàn nông thôn, Nhà nước thường có các khoản cho vay chỉ định nhằm vào các chương trình kinh tế - xã hội. Cơ chế cho vay vẫn chưa có sự tách bạch rõ ràng giữa cho vay thương mại và cho vay theo lãi suất thoả thuận, giữa cơ quan phụ trách cho vay chỉ định và cho vay thương mại. Lãi suất hiện hành còn chịu ảnh hưởng của cơ chế ch vay này. Nếu áp dụng lãi suất thoả thuận thì điều này đòi hỏi phải có lãi suất riêng cho các chương trình của Nhà nước đối với đối tượng riêng. 5. Thành công ban đâù Qua một thời gian áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng bằng đồng Việt nam thay thế cho cơ chế điều hành bằng lãi suất cơ bản trước đây, mặc dù thời gian chưa nhiều nhưng những phản hồi ban đầu từ phía các TCTD và các doanh nghiệp cho thấy cơ chế lãi suất mới đang có tác động tích cực tới hoạt động tín dụng. Cơ chế lãi suất thoả thuận đã tạo điều kiện hạn chế được sự độc quyền của các TCTD trên thị trường tín dụng. Với cơ chế lãi suất này ngân hàng và doanh nghiệp đã được đặt ở vị trí ngang nhau, cho phép các khách hàng có quyền lựa chọn các TCTD để tìm ra lãi suất vay phù hợp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Bên cạnh đó, cơ chế lãi suất thoả thuận tạo điều kiện cho ngân hàng có thề chấp nhận các dự án có độ rủi ro cao. Điều đó đồng nghĩa với việc đáp ứng nhu cầu của người vay vốn mà không đáp ứng đủ những điều kiện quy định về đảm bảo tiền vay thông thường, tạo điều kiện cho những người kinh doanh hiện chưa khẳng định được uy tín của mình với ngân hàng trong quá trình vay vốn, không bị lỡ những cơ hội kinh doanh tốt. Bởi vậy, khi áp dụng cơ chế lãi suất mới, không chỉ các doanh nghiệp tỏ ra hồ hởi, nhiều hộ nông dân và hộ kinh doanh cá thể cũng bày tỏ sự tán đồng do cơ chế vay mới đã tạo điều kiện cho những người không có tài sản đảm bảo có cơ hội vay vốn của ngân hàng. Mặt khác, việc áp dụng cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD mở rộng mạng lưới để huy động vốn, cho vay vốn với mức lãi suất phù hợp với quan hệ cung cầu trên thị trường, người sản xuất và tổ chức kinh tế ở khu vực thành thị và nông thôn có nhiều khả năng và cơ hội vay vốn, đặc biệt là đối với địa bàn nông thôn. Các ngân hàng thương mại được chủ động quyết định mức lãi suất cho vay, phù hợp với mức lãi suất huy động trên từng địa bàn cụ thể và tương ứng với những món vay có tỷ lệ rủi ro cao hay thấp, chấm dứt tình trạng khách hàng có nhu cầu vay vốn với lãi suất cao ngân hàng cũng có khả năng cho vay được nhưng không thể cho vay vì " kịch trần ". Trong môi trường hoạt động theo lãi suất thoả thuận, buộc các ngân hàng phải giảm thiểu chi phí đầu vào, nâng cao chất lượng dịch vụ các ngân hàng, khả năng Marketing, nâng cao năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh, đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn và khả năng hội nhập với nền tài chính- tiền tệ quốc tế của các TCTD, để từ đó làm động lực thúc đẩy thực hiện thành công quá trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại Việt nam. chương 3 một số giải phápnhằm hoàn thiện thêm chính sách lãi suất hiện hay của việt nam Thực tế việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ thời gian qua ở Việt nam cho thấy chính sách lãi suất là một bộ phận quan trọng trong chính sách tiền tệ. Sự vận động, thay đổi của chính sách lãi suất có tác động nhanh và mạnh mẽ đến thị trường tiền tệ, tín dụng, tạo ra các hiệu ứng rõ rệt với hoạt động của hệ thống NH và tác động tới nền kinh tế. Quá trình đổi mới cơ chế lãi suất lãi suất tiến tới tự do hoá hoàn toàn lãi suất của Việt nam thời gian qua đã được thực hiện từng bước thận trọng, phù hợp với cơ chế kinh tế của Việt nam trong từng giai đoạn phát triển. Tuy vậy, để cơ chế lãi suất mới phát huy được hết tác dụng thì đòi hỏi chúng ta phải: Có nền kinh tế thị trường ổn định vững mạnh, thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô thận trọng. Nhà nước với các chính sách điều tiết vĩ mô nền kinh tế và định hướng cần tạo ra cho đất nước một thế đi lên vững mạnh trong cơ chế thị trường. Như vậy đòi hỏi ta phải có những phương án tổng thể đổi mới hoạt động hệ thống kinh tế quốc doanh theo hướng tinh gọn hiện đại, hiệu quả, nắm vững khâu then chốt của nền KTQD đóng vai trò định hướng đối với các thành phần kinh tế khác. Vấn đề là hiệu quả quản lý đạt tới mức độ đủ trang trải lãi suất cho người cấp vốn, làm nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, có lợi nhuận cho doanh nghiệp theo nguyên tắc tự hoàn vốn, tự tăng trưởng. Nó chính là nền tảng để ổn định xã hội, chấn hưng các quan hệ tài chính- tiền tệ trong nền kinh tế, là điều kiện mở rộng thị trường hàng hoá, thị trường tài chính, thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng và cũng là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện chính sách lãi suất, đưa ra được những mức lãi suất phù hợp với nền kinh tế. Đổi mới, củng cố và sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp Sự lành mạnh về tài chính của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế gốp phần quan trọng vào việc đảm bảo tính lành mạnh của hệ thống NH. Hiện nay các DNNN là khách hàng vay vốn chủ yếu của các TCTD mà phần lớn các DNNN hoạt động kém hiệu quả. Do vậy, Nhà nước cần củng cố, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng chỉ nên giữ lại nhứng doanh nghiệp hoạt động trong một số lĩnh vực công ích, những lĩnh vực nắm vai trò chủ đạo của nền kinh tế, đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Đồng thời, để phát triển doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, Nhà nước cần xây dựng, áp dụng một số cơ chế chính sách bình đẳng, thông thoáng cho mọi thành phần kinh tế, thực hiện cơ chế hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để tất cả các thành phần kinh tế phát triển. Các doanh nghiệp ( đặc biệt là doạnh nghiệp Nhà nước ) phải có cơ cấu nguồn vốn hợp lý giữa vốn tự có với vốn vay NH, vốn tự có so với vốn phát hành cổ phiếu, trái phiếu,... để từ đó giảm thiểu áp lực tăng lãi suất trong giai đoạn đầu thả nổi lãi suất.Hiện nay, đa số các doanh nghiệp hoạt động chủ yếu bằng nguồn vốn vay NH, như vậy sẽ chứa đựng nhiều rủi ro cho cả NH và khách hàng khi có biến động mạnh về lãi suất. Tự do hoá lãi suất là xu hướng tất yếu của quy luật kinh tế thị trường, với điều kiện kinh tế cụ thể của nước ta,việc tự do hoá lãi suất cũng đặt ra một số vấn đề cần xem xét: - Xu hướng muốn hạ quá đáng mức lãi suất huy động và nâng quá mức lãi suất cho vay vì lợi ích của một số TCTD, làm phương hại lợi ích của cá nhân doanh nghiệp vay vốn và người gửi tiền. Bởi vì, trong điều kiện các yếu tố cạnh tranh trên thị trường tiền tệ, thị trường tài chính còn yếu như ở nước ta, cả người thừa vốn và người cần vốn ít có cơ hội lựa chọn đầu tư có hiệu quả. Các nguồn cung vốn trong nước còn hạn chế, các doanh nghiệp, nhà sản xuất lại ít vốn tự có nhất là khu vực nông thôn, hộ sản xuất, dù lãi suất vay vốn cao đến đâu vẫn phải chấp nhận vay, dẫn đến các khoản nợ tăng cao, gây nguy cơ rủi ro lớn cho cả người vay lẫn ngân hàng. - Trong năm 2002 và những năm sắp tới mức độ hội nhập của nền kinh tế nước ta với khu vực và thế giới ngày càng tăng lên, xu hướng quốc tế hóa thị trường tài chính ngày càng tăng lên, tác động của yếu tố tỷ giá và lãi suất thị trường quốc tế tăng cao làm cho lãi suất thị trường trong nước tăng lên, cao hơn mức tỷ suất lợi nhuận bình quân và mức tăng trưởng kinh tế trong nước, làm tê liệt đầu tư thì cơ chế lãi suất thoả thuận không còn tác dụng nữa. Khi đó cả người đi vay và người cho vay đều chịu rủi ro lớn. - Xu hướng hình thành nhiều khu vực lãi suất theo cung cầu vốn và chi phí ngân hàng khác nhau: như khu vực nông thôn sẽ cao hơn thành thị, lãi suất cho vay TCTDCP sẽ cao hơn NHTMNN và sự cạnh tranh không cân sức về lãi suất giữa một bên là các HNTM lớn, có tiềm lực về vốn, công nghệ, kinh nghiệm và khả năng kinh doanh với một bên là các NHTM, TCTD cổ phần khả năng vốn và điều kiện kinh doanh còn hạn hẹp, sẽ luôn phải chịu thiệt thòi hoặc nguy cơ rủi ro cao trong kinh doanh, thị phần ngày càng có xu hướng bị thu hẹp. Cũng tương tự như vậy là cuộc cạnh tranh không cân sức giữa các TCTD Việt nam và các NHTM, TCTD nước ngoài. Với một số vấn đề đặt ra như trên và thực trạng hệ thống thị trường tiền tệ, thị trường tài chính nước ta hiện nay, để tạo điều kiện cho cơ chế lãi suất thoả thuận mới phát huy tốt hiệu quả chúng ta cần thực hiện một số giải pháp : 1. Củng cố, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của hệ thống ngân hàng - NHNN thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ tín dụng thông qua việc quản lý vĩ mô các NHTM, các TCTD bằng cách sử dụng các công cụ thuộc chính sách tiền tệ như chính sách phát hành, chính sách cung ứng tín dụng và lưu thông tiền tệ, chính sách quản lý ngoại hối, chính sách dự trữ bắt buộc, chính sách lãi suất,... Nhờ chính sách lãi suất NHTW sẽ là người cho vay cuối cùng, trong đó chính sách lãi suất tái chiết khấu được coi là công cụ hữu hiệu để điều tiết hoạt động tín dụng các NHTM. - Hệ thống NHTM là một kênh truyền dẫn quan trọng để các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ tác động vào lãi suất thị trường, mức cung tiền tệ và qua đó thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ. Các công cụ này phát huy tác dụng đến đâu hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ ứng xử cũng như chất lượng hoạt động của hệ thống ngân hàng. Một hệ thống ngân hàng yếu kém, khả năng cạnh tranh thấp, tình hình tài chính hạn hẹp, chất lượng hoạt động chưa cao, nợ quá hạn lớn,... thì việc áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận không phát huy được tác dụng. Do đó cần phải cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng. NHTM thực sự là ngân hàng kinh doanh tiền tệ. Kinh doanh tiền tệ trong ngân hàng là các hoạt động nhận gửi và cho vay, thực hiện cơ chế lãi suất thị trường đòi hỏi các NHTM phải củng cố các chế độ hạch toán kinh tế, sử dụng vốn một cách tiết kiệm, hiệu quả nhằm khai thác tối đa mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Một số giải pháp cần thiết để cơ chế lãi suất thoả thuận vận hành tốt + NHNN cần đưa ra mức lãi suất cơ bản làm tham chiếu phản ánh đúng giá cả và cân bằng cung cầu vốn trên thị trường. Muốn vậy thị trường tiền tệ phải được củng cố và tạo điều kiện tốt nhất để phát huy đầy đủ cơ chế cạnh tranh trên thị trường sao cho lãi suất cơ bản đưa ra là lãi suất trung bình của lãi suất tái chiết khấu, lãi suất thị trường mở, lãi suất thị trường liên ngân hàng và lãi suất tiền gửi tại NHNN. + Các TCTD ở khu vực nông thôn mở rộng đầu tư cho nông dân với lãi suất hợp lý, không bắt ép, bắt chẹt người vay. Cần tập trung hỗ trợ NHNo & PTNT thực hiện tốt đề án tái cơ cấu để tiếp tục là ngân hàng chủ đạo, chủ lực đủ sức đáp ứng cơ bản và điều hoà thị trường tài chính nông thôn : - Nâng cao hiệu lực tiếp cận nông dân cách phát triển thêm chi nhánh, phòng giao dịch, ngân hàng lưu động. - Tập trung các nguồn vốn uỷ thác, dự án với lãi suất hợp lý để phát triển nông nghiệp nông thôn cho NHNo, tăng vốn cho vay hộ nông dân, doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực nông thôn. - NHNo là NHTMNN nên có vai trò quan trọng trong thực hiện chính sách của Đảng, Chính phủ, NHNo cần xây dựng cơ chế tài chính hợp lý, tiết kiệm chi phí, đảm bảo mức chênh lệch thu chi hợp lý, tạo lãi suất cho vay hợp lý đối với nông dân. + Các NHTMNN cần mở rộng cho vay các hộ nông dân, kinh tế nông nghiệp ở các vùng như ven đô, ngoại ô thành phố, thị xã. + Cần đẩy mạnh tuyên truyền để mọi tổ chức cá nhân nhất là nông dân hiểu rõ cơ chế lãi suất thoả thuận là cơ chế có lợi cho nông dân, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp phát triển: - Lãi suất thoả thuận không phải là lãi suất cao tuỳ theo ý muốn của Ngân hàng. Đó chính là lãi suất phù hợp với nhu cầu của người vay, do người vay quyết định, đảm bảo có vốn cho sản xuất kinh doanh thu được lợi nhuận. - Các hộ nông dân nghèo, khó khăn vẫn được vay vốn duy trì sản xuất kinh doanh, xoá đói giảm nghèo với lãi suất ưu đãi của Ngân hàng phục vụ người nghèo và lãi suất thông thường của NHNo&PTNT. - ở các vùng sản xuất kinh doanh hàng hoá phát triển, khi người vay chấp nhận lãi suất cao thì ngân hàng cũng sẽ huy động với lãi suất cao hơn. Với tư cách là người gửi, người dân ở những vùng này cũng sẽ được hưởng lợi. + NHNN tăng cường thanh tra, giám sát hoạt động cho vay, lãi suất của các TCTD ở nông thôn, phát hiện ngăn chặn kịp thời các khuynh hướng không đúng. + Củng cố vai trò của hiệp hội ngân hàng, phối hợp chặt chẽ với các NHTM trên cùng địa bàn nhằm ổn định lãi suất kinh doanh, tránh tình trạng các NHTM cạnh tranh không lành mạnh, lôi kéo khách hàng của nhau làm cho thị trường vốn trở nên lộn xộn. + Cần có một cơ chế quản lý việc cho vay theo lãi suất thoả thuận của các TCTD thông thoáng nhưng lại phải chặt chẽ. Cơ chế này không có sự can thiệp sâu vào việc tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật của TCTD nhưng cũng không buông lỏng quản lý để cho các TCTD dùng công cụ lãi suất để cạnh tranh không đúng pháp luật. + Với phương châm" giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ " ngoài những yêu cầu báo cáo theo chế độ chung, nên yêu cầu các TCTD phải báo cáo những khoản cho vay thấp hơn chi phí và những khoản cho vay cao hơn lãi suất bình quân chung. Đồng thời thường xuyên kiểm tra việc cho vay theo lãi suất thoả thuận của từng TCTD và phải có chế tài đối với nhiều TCTD có nhiều khoản lỗ mà vẫn cho vay. 2. Phát huy vai trò của các công cụ gián tiếp Tự do hoá lãi suất là lãi suất được điều chỉnh theo quan hệ cung cầu đầu tư, mức tiết kiệm và thu nhập trong nền kinh tế. Chính vì vậy, chúng ta phải chuyển đổi hoàn toàn việc sử dụng các công cụ kiểm soát tiền tệ từ trực tiếp( hạn mức tín dụng, kiểm soát lãi suất, tỷ giá ) sang gián tiếp( nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn , dự trữ bắt buộc ) do cùng với sự phát triển của thị trường các công cụ kiểm soát lãi suất đã trở nên kém hiệu quả. * Đối với nghiệp vụ thị trường mở: Để thực hiện Luật NHNN và để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong điều hành chính sách tiền tệ, ngày 12/7/2000, NHNN đã chính thức khai trương nghiệp vụ thị trường mở. Đây là một bước tiến mới trong đổi mới điều hành chính sách tiền tệ theo hướng chuyển từ sử dụng công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp. Cho đến nay, nghiệp vụ thị trường mở đã được thực hiện an toàn, đúng quy định theo định kỳ một tuần một lần. Việc điều hành nghiệp vụ thị trường mở phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ, bám sát diễn biến thị trường, phần nào điều chỉnh vốn khả dụng của các TCTD( thu hút vốn thừa và bơm thêm vốn vào khi thiếu ). Tuy nhiên, hiện nay tác động của thị trường mở đến những điều kiện của thị trường tiền tệ là không đáng kể: thành viên tham gia còn hạn chế( chỉ bao gồm 21 TCTD trong đó có 4 NHTMQD, 10 NHTMCP, 1 ngân hàng liên doanh, 4 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 1 công ty tài chính và Quỹ tín dụng TW ), hàng hoá trên thị trường còn hạn hẹp( gồm tín phiếu NHNN và tín phiếu kho bạc Nhà nước ). Do vậy, trong thời gian tới cần thực hiện một số biện pháp hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở như sau: - Rà soát các cơ chế, quy chế làm cơ sở pháp lý cho hoạt động thị trường để kịp thời điều chỉnh theo hướng tạo điều kiện thu hút thành viên tham gia thị trường. - Tiếp tục nghiên cứu để mở rộng thêm nhiều loại hàng hóa( như các loại trái phiếu có thời hạn thanh toán dưới một năm, các chứng khoán do các TCTDNN phát hành,... ) có thể sử dụng trong các giao dịch thị trường mở. - Nâng cao chất lượng công tác dự báo, điều hành thị trường trên cơ sở nâng cao trình độ cán bộ dự báo, cải tiến chế độ cung cấp thông tin trong và ngoài ngành với sự phối hợp chặt chẽ với các đơn vị NHNN, các bộ ngành liên quan( Bộ tài chính, Kho bạc nhà nước ). - Tạo điều kiện cho thị trường liên ngân hàng( bao gồm thị trường nội tệ và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ) phát triển và hoạt động sôi nổi, phản ánh chính xác cung và cầu vốn trên thị trường để có thể cung cấp được các thông tin cấp thiết phục vụ cho việc dự báo vốn khả dụng cũng như cho việc điều hành nghiệp vụ thị trường mở. - Cải tiến hình thức đấu thầu tín phiếu kho bạc theo hướng xét thầu khối lượng tín phiếu kho bạc phát hành dự kiến để cho tín phiếu mang tính chất thị trường và thu hút được nhiều thành viên tham gia hơn. b. Công cụ tái cấp vốn : Để công cụ tái cấp vốn đóng vai trò là công cụ cấp tín dụng ngắn hạn của NHNN và cung ứng phương tiện thanh toán cho các NHTM và thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng, cần thực hiện các giải pháp: - Cơ chế tái cấp vốn cần được tiếp tục hoàn thiện, quy định rõ ràng từng loại hình tái cấp vốn như: + Tái cấp vốn theo hình thức chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. +Tái cấp vốn dưới hình thức cho vay hồ sơ tín dụng và cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. + Cho vay qua cửa sổ chiết khấu đặc biệt nhằm bù đắp thiếu hụt vốn tạm thời ngắn hạn trong thanh toán của các NHTM. + Cho vay với vai trò là người cho vay cuối cùng nhằm mục đích bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng. - Lãi suất tái cấp vốn cần được điều chỉnh linh hoạt trên cơ sở bám sát diễn biến thị trường và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. * Đối với công cụ dự trữ bắt buộc: Về cơ bản những quy định hiện tại về dự trữ bắt buộc là đảm bảo linh hoạt trong việc sử dụng vốn của các TCTD. Tuy nhiên, còn một số hạn chế như tiền dự trữ bắt buộc còn quy định hạn hẹp ở loại tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng trở xuống nên mối quan hệ giữa dự trữ bắt buộc với khối lượng tiền trong nền kinh tế chỉ dừng lại ở mối quan hệ với M1. Điều này dẫn đến khả năng kiểm soát M2 của NHNN còn hạn chế. Để khắc phục những hạn chế này, trong thời gian tới, NHNN nên mở rộng diện tiền gửi phải dự trữ bắt buộc từ dưới 12 tháng lên 24 tháng nhằm mở rộng khả năng kiểm soát của NHNN. 3. Phát triển thị trường tài chính đặc biệt là thị trường chứng khoán Nhanh chóng hoàn thiện một thị trường tài chính trong đó bao gồm cả thị trường tiền tệ và thị trường vốn, từ đó mới có thề hình thành một cơ chế lãi suất thực sự theo hướng thị trường và là môi trường hoạt động tốt cho chính sách lãi suất. Thị trường tài chính tạo điều kiện để người cần vốn và người có khả năng cung ứng vốn gặp nhau thoả mãn lợi ích và nhu cầu của nhau, là nơi diễn ra trao đổi mua bán quyền sử dụng các khoản vốn thông qua nhiều hình thức dưới dạng các chứng từ có giá. Sự ra đời và hoạt động hiệu quả của thị trường tài chính sẽ giúp ngân hàng có khả năng chi trả và đáp ứng hơn nhu cầu thanh khoản cấp bách. Sự nâng cấp của hệ thống thanh toán của ngân hàng cũng đòi hỏi đội ngũ nhân viên có trình độ, cởi mở nhiệt tình với khách hàng cũng là một vấn đề thuộc lĩnh vực kinh doanh. Sự linh hoạt đơn giản ở mức có thể trong thủ tục chi trả, cho vay góp một phần không nhỏ vào thành công của ngân hàng trong chiến lược huy động vốn. Bên cạnh mỗi ngân hàng phải có một kế hoạch riêng về chính sách lãi suất cạnh tranh nhằm thu hút khách hàng hiệu quả nhất. Thông qua các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ, NHTW điều tiết lượng tiền cung ứng tác động đến khả năng thanh toán của NHTM làm thay đổi lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất thị trường tiền tệ, lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay,... nhằm thiết lập lại cung cầu vốn trong nền kinh tế. Đặc biệt chúng ta cần thiết phải đẩy thị trường chứng khoán ở Việt nam phát triển, bởi vì: Quan hệ giữa NH và thị trường chứng khoán là mối quan hệ hai chiều, bổ trợ lẫn nhau. Khi hoạt động của các ngân hàng phát triển sẽ tạo ra những tiện ích mới, tạo điều kiện phục vụ cho những giao dịch trên thị trường chứng khoán và ngược lại khi thị trường chứng khoán phát triển, nó sẽ thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của các ngân hàng, giúp ngân hàng hoàn thiện hơn nữa vai trò của mình cũng như mở rộng phát triển các loại hình kinh doanh dịch vụ. Không chỉ riêng ở Việt nam mà ở các nước khác cũng vậy, nhìn chung các NHTW đều dựa vào hoạt động của thị trường chứng khoán để điều chỉnh chính sách tiền tệ. Sự thăng giảm của chỉ số chứng khoán phản ánh sự hợp lý hay chưa hợp lý của chính sách tiền tệ hiện hành. Trong điều kiện thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả, nếu giá cả chứng khoán tăng chứng tỏ chính sách tiền tệ đang có xu hướng thả lỏng và ngược lại chỉ số giả cả trên thị trường chứng khoán giảm chứng tỏ chính sách tiền tệ đang có xu hướng thắt chặt. Thị trường chứng khoán phát triển cũng làm cho nghiệp vụ thị trường mở phát triển. Bắt đầu đi vào vào hoạt động từ 12/07/2000 đến hết 6 tháng đầu năm 2001 NHNN đã tổ chức được hơn 30 phiên giao dịch với tổng lượng vốn mua bán trên thị trường đạt gần 4 tỷ đồng. Như vậy, để cơ chế tự do hoá lãi suất ở nước ta thực hiện được thành công đòi hỏi phải có sự nỗ lực đóng góp của nhiều ban ngành, phải thực hiện đồng bộ những giải pháp nêu trên để có được một nền kinh tế ổn định, đủ sức chịu đựng được các cú sốc từ bên ngoài với nền kinh tế khi thực hiện cơ chế tự do hoá lãi suất. 4. Nâng cao năng lực tài chính, năng lực quản lý và năng lực kiểm soát rủi ro của các TCTD Sự vững mạnh của các TCTD là một trong những tiền đề quan trọng để đảm bảo cho qúa trình tự do hóa lãi suất thành công. Để đạt được mục tiêu này, các TCTD cần thực hiên một số biện pháp sau: Hoạt động trên cơ sở đảm bảo đủ mức vốn pháp định theo quy định của Luật về tổ chức tín dụng và Nghị định số 82/1998/NĐ-CP ngày 3/10/1998 của Chính phủ “ về việc ban hành danh mục mức vốn pháp định của các TCTD ”. Thực hiện tốt các quy định của NHNN về các tỷ lệ an toàn trong hoạt động như tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung hạn và dài hạn, giới hạn cho vay tối đa đối với một khách hàng cuả mỗi TCTD, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, tỷ lệ về khả năng thanh toán. Thực hiện phân loại tài sản có và trích lập quỹ dự phòng rủi ro từ chi phí họat động theo quy định của NHNN để các TCTD có thể bù đắp được những rủi ro phát sinh trong hoạt động kinh doanh, đảm bảo hoạt động lành mạnh và có hiệu quả. Nâng cao năng lực phân tích khách hàng, thẩm định dự án trước khi đưa ra các quyết định đầu tư; thưc hiện tốt việc đa dạng hoá các danh mục đầu tư để phân tán rủi ro; Tham gia vào các hợp đồng lựa chọn và hợp đồng tương lai để bảo hiểm rủi ro; Xây dựng kế hoạch cân đối nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn phù hợp, đảm bảo kỳ hạn tài sản có luôn phù hợp với tài sản nợ để giảm thiểu rủi ro về lãi suất. Thực hiện hiện đại hoá công nghệ NH để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và từng bước hoà nhập với cộng đồng tài chính quốc tế. Công tác kế toán, hạch toán cần phải minh bạch, hạch toán của các TCTD phải được hạch toán độc lập, thường xuyên theo định kỳ. Thực hiện kiện toàn bộ máy tổ chức, nâng cao trình độ cán bộ, quan tâm công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ hệ thống NH ở cả cấp hoạch định chính sách và khâu tác nghiệp cụ thể. 5. Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý. Chuyển hoạt động ngân hàng sang hạch toán kinh doanh, cơ chế lãi suất chuyển sang cơ chế lãi suất thị trường nhưng hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ dẫn đến trách nhiệm của các chủ thể và khách thể trong quan hệ nhận tiền gửi và tín dụng chưa cao. Trong một số năm gần đây nợ nần dây dưa của các TCKT, ngân hàng và nợ của ngân hàng với khách hàng đã ảnh hưởng không tốt đến hoạt động kinh tế, không đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền cũng như của ngân hàng. Do đó cần nhanh chóng có đầy đủ luật lệ và thể chế đồng bộ các văn bản hướng dẫn về luật thương mại, phá sản, thế chấp, chuyển nhượng vốn, quyền lợi và trách nhiệm của người đi vay với người cho vay, môi giới. Nó phải được công bố một cách rộng rãi để mọi người dân, mọi doanh nghiệp lớn nhỏ hiểu rõ và chấp hành đúng. 6.Thực hiện tự do hoá lãi suất phải phù hợp với tình hình kinh tế tài chính thế giới và khu vực Để cụ thể hoá các giải pháp nêu trên, có thể thực hiện một số giải pháp cụ thể như sau: Thứ nhất, để tạo điều kiện cho việc chuyển đổi sang sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ gián tiếp, cần phát triển thị trường tiền tệ bằng các biện pháp sau: + Phối hợp với Bộ tài chính cải tiến đấu thầu tín phiếu kho bạc qua NHNN, lãi suất tín phiếu cần để cho thị trường quyết định. Khi thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc phát triển đầy đủ, NHNN nên hạn chế phát hành tín phiếu NHNN để không ảnh hưởng đến chi phí của NHNN và NHNN chỉ phát hành khi cần thiết. Để phát triển thị trường ngoại tệ liên NH, cần phát triển thị trường có kỳ hạn. Các thoả thuận thanh toán cần được cải tiến để các lệnh thanh toán được thực hiện một cách nhanh chóng , trôi chảy. + Từng bước sử dụng các công cụ tiền tệ mới như chứng chỉ tiền gửi, chấp nhận thanh toán của NH. + Hoàn chỉnh hệ thống thanh toán bù trừ để các NH tiến hành các giao dịch ngắn, phát triển nghiệp vụ vay mượn qua đêm. Thứ hai, Pháp lệnh thương phiếu đã ra đời, tuy nhiên đến nay vẫn chưa có văn bản thi hành. Vì vậy, NHNN cần phối hợp với các Bộ, ngành liên quan sớm ban hành các văn bản hướng dẫn, đảm bảo các khuôn khổ pháp lý cần thiết để các thương phiếu có điều kiện lưu thông trên thị trường. Khi đó, các NHTM có thể chiết khấu thương phiếu và khi cần có thể tái chiết khấu lại với NHNN, đồng thời tạo thêm công cụ cho nghiệp vụ thị trường mở. Thứ ba, thực hiện cơ câú lại các TCTD, đặc biệt là củng cố và sắp xếp lại các NHTMCP để đảm bảo tính an toàn hệ thống. Bởi vì, hiện tại số lương NH ở Việt nam đã tương đối nhiều nhưng năng lực tài chính và chất lượng hoạt động còn kém, nhiều NHCP khó có điều kiện trụ nổi trong môi trường cạnh tranh. Các tổ chức này cần có đủ năng lực tài chính, kinh nghiệm quản lý bởi vì hoạt động của NH mang tính đặc thù, nếu một NH hoạt động yếu kém dẫn đến phá sản để xảy ra tình trạng lan truyền do yếu tố tâm lý sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững của toàn bộ hệ thống NH. Do vậy, đối với các NHTMCP, NHNN cần thực hiện củng cố và sắp xếp lại bằng một loạt biện pháp như: thực hiện sáp nhập và mua lại, thu hồi giấy phép hoạt động, áp dụng các biện pháp kiểm soát đặc biệt, thay đổi nhân sự, tăng vốn điều lệ,... - Đối với NHQD cần được cơ cấu lại cả về quy mô và chất lượng bằng các biện pháp sau: tăng vốn điều lệ, làm sạch bản cân đối tài sản, áp dụng các biện pháp ngăn ngừa nợ xấu phát sinh, tách bạch tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại, thành lập công ty quản lý và khai thác tài sản thế chấp, tổ chức lại bộ máy, hiện đại hoá công nghệ NH.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKL.doc
  • docBia.doc
  • docloi noi dau.doc
Tài liệu liên quan