Khóa luận Quan hệ thương mại và đầu tư của Việt Nam với các quốc gia thuộc thị trường Bắc Mỹ

Các doanh nghiệp phải chú trọng vào công tác đào tạo để nâng cao năng lực cán bộ và công nhân kỹ thuật vì nguồn nhân lực chính là xương sống, là động lực của bất cứ một hoạt động kinh tế hay đầu tư nào. Không thể chỉ bằng lòng với trình độ của đội ngũ nhân công đang có, các doanh nghiệp cần luôn năng động trong việc nâng cao chất lượng chuyên môn của nguồn nhân lực. Phải biến đây thành chiến lược quan trọng hàng đầu của doanh nghiệp. Có thể thực hiện điều này bằng nhiều cách. Doanh nghiệp có thể xây dựng một chương trình tìm kiếm các tài năng trẻ để đào tạo và làm nòng cốt cho doanh nghiệp trong tương lai, hình thức này thường được biết tới như chiến dịch “săn đầu người”. Tuy nhiên, để làm được điều này không phải là đơn giản bởi hoạt động này đòi hỏi kinh phí lớn, hơn nữa yêu cầu mỗi doanh nghiệp phải có chính sách đãi ngộ hợp lý và lôi cuốn thì mới thu hút được các tài năng. Thực tế hình thức này mới chỉ thực sự mạnh tại các quốc gia phát triển. Tuy nhiên, đây cũng là một hình thức nên được các doanh nghiệp lưu tâm, nhất là những doanh nghiệp lớn, có tiềm lực tại thị trường Việt Nam. Bên cạnh việc tìm kiếm các tài năng thì việc quan trọng hơn cả là phải không ngừng nâng cao trình độ của đội ngũ nhân lực sẵn có. Đây mới là động lực và giá trị cốt lõi góp phần tạo nên thành bại của doanh nghiệp hiện tại. Mỗi doanh nghiệp phải dành một khoản kinh phí cho hoạt động này và phải biết tận dụng các chương trình đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật của Chính phủ để cử cán bộ của mình tham gia. Các doanh nghiệp phải quan tâm đào tạo cả cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý, cán bộ thương mại và công nhân kỹ thuật. Không những đã đào tạo mà hoạt động đào tạo lại cũng nên được triển khai định kỳ vì những thay đổi chóng mặt về hoạt động thương mại cũng như đầu tư đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn cập nhập và làm mới mình để thích ứng với thị trường. Hơn thế nữa, cần phải nâng cao và đặc biệt chú trọng vào công tác đào tạo ngoại ngữ cho đội ngũ nhân lực của mình. Hoạt động thương mại và đầu tư với thị trường Bắc Mỹ không chỉ đòi hỏi nguồn nhân lực có trình dộ chuyên môn, am hiểu thị trường, mà còn phải thật thành thạo về ngoại ngữ- đây vốn là yêu cầu giao tiếp tối thiểu song lại là điểm yếu cố hữu của các doanh nghiệp Việt Nam từ trước tới nay.

doc102 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1537 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Quan hệ thương mại và đầu tư của Việt Nam với các quốc gia thuộc thị trường Bắc Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u biểu. Bên cạnh đó, khi so sánh với các quốc gia mà Việt Nam đã có quan hệ đầu tư (như Đài Loan, Hồng Kông…) thì tổng vốn đầu tư và tổng số dự án đầu tư với các nước Bắc Mỹ nhìn chung còn thấp, quy mô các dự án còn khá nhỏ, kết quả kinh doanh của các dự án còn chưa cao. Một phần có thể do các dự án đang ở giai đoạn triển khai nên chưa thể giải ngân, phần khác là do cơ chế về đầu tư của Việt Nam vẫn còn hạn chế không lôi kéo được nhà đầu tư nước ngoài. Có rất nhiều nguyên nhân tồn tại và lý giải tại sao quan hệ thương mại cũng như đầu tư giữa Việt Nam với ba quốc gia Bắc Mỹ chưa phát triển như mong muốn. Nguyên nhân cơ bản đầu tiên phải kể đến là do những hạn chế về hệ thống chính sách còn chồng chéo, chưa chặt chẽ. Luật thương mại 2005 mặc dù đã có những sửa đổi nhưng vẫn còn khá đơn giản khi xét ở vai trò nguồn luật điều chỉnh các quan hệ và hoạt động ngoại thương. Về hoạt động đầu tư nước ngoài, mặc dù là một thị trường đang phát triển với rất nhiều tiềm năng và cơ hội, song môi trường tại Việt Nam vẫn chưa thực sự lôi cuốn các nhà đầu tư. Nguyên nhân cơ bản thứ hai xuất phát từ phía các doanh nghiệp. Doanh nghiệp Việt Nam còn rất thiếu hiểu biết về thị trường nước ngoài, về cơ chế luật pháp, những rào cản về kỹ thuật…Yếu cả về kinh nghiệm, tuổi đời cũng như vốn sống - điều này luôn đặt các doanh nghiệp Việt Nam vào thế bất lợi khi tham gia vào thị trường toàn cầu nói chung và quan hệ với từng nước Bắc Mỹ nói riêng. Triển vọng cho quan hệ thương mại và đầu tư của Việt Nam với các quốc gia Bắc Mỹ Định hướng phát triển kinh tế của Việt Nam với thế giới nói chung trong thời gian tới dựa trên nền tảng là các quan điểm chủ đạo trong hoạt động Ngoại thương của nhà nước ta, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm đầu thế kỷ 21 là “ Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, …, tạo nền tảng để đến năm 2010 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại…”. Đối với hoạt động đầu tư, trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội từ nay đến 2010 đã đề ra chủ trương: “Tiếp tục cải thiện đầu tư, hoàn thiện các hình thức đầu tư, nâng cao khả năng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài…Cải tiến nhanh các thủ tục hành chính để đơn giản hóa việc cấp phép đầu tư, thực hiện từng bước cơ chế đăng ký đầu tư. Chú trọng thu hút đầu tư của các công ty nắm công nghệ nguồn và có thị phần lớn trên thị trường thế giới”. Dựa vào mục tiêu cụ thể đó, quan hệ kinh tế về thương mại và đầu tư với thế giới nói chung và với các quốc gia Bắc Mỹ nói riêng đã có một tiền đề khá vững chắc để phát triển. Khi đề cập tới lĩnh vực thương mại giữa Việt Nam và Canada, hay Hoa Kỳ cũng như Mê-hi-cô, có thể thấy buôn bán của Việt Nam với các thị trường này chiếm tỷ trọng thấp trong tổng hoạt động ngoại thương của từng thị trường nói riêng. Nếu chỉ đánh giá từ bên ngoài thì sẽ thấy thật bi quan, song cũng phải lưu ý rằng các quốc gia Bắc Mỹ chủ yếu là đối tác thương mại của nhau. Đối tác thương mại lớn nhất của Hoa Kỳ là Canada và ngược lại, với con số về tỷ trọng xuất và nhập khẩu luôn ở trên mức 80%. Bên cạnh đó, Mê-hi-cô gần như chiếm vị trí đối tác quan trọng thứ hai của Hoa Kỳ cũng như Canada trong thời gian gần đây. Khi xem xét đánh giá, cần đặt Việt Nam trong mối tương quan với các thị trường giàu tiềm năng khác như Trung Quốc, và Nhật Bản (Trung Quốc chiếm 1,26% xuất khẩu và 6,8% nhập khẩu của Canada…). Qua đó có thể thấy quan hệ của Việt Nam với các thị trường lớn này không phải là quan hệ một chiều, và Việt Nam không lép vế trước các đối tác nước ngoài. Tiềm năng của mối quan hệ này là rất lớn, vấn đề ở đây chỉ nằm ở thời gian cũng như nỗ lực nội bộ của hai phía để đẩy nhanh tốc độ tận dụng tiềm năng to lớn ấy một cách tối đa có thể. Theo nhận định của một số chuyên gia, triển vọng cho quan hệ giữa Việt Nam với Bắc Mỹ nói chung là “rất sáng sủa” Nhận định của tiến sỹ Richard Barichello- giáo sư Đại học British Columbia- dữ liệu điện tử trực tuyến . Triển vọng này ngày càng được khẳng định thông qua những con số thống kê tích cực về quan hệ thương mại cũng như đầu tư của Việt Nam với từng quốc gia Bắc Mỹ. Có được triển vọng tươi sáng đó, một phần, theo các chuyên gia, là Việt Nam với các quốc gia Bắc Mỹ nói chung trên thực tế sản xuất những mặt hàng khá khác biệt nhau nên tiềm năng trao đổi và bổ sung cho nhau là rất lớn. Về tình hình đầu tư, trong những năm vừa qua, hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã tiếp tục có bước phục hồi rõ rệt từ sau khủng hoảng tài chính khu vực. Hơn nữa, Việt Nam may mắn do không nằm trong vùng động đất hay sóng thần- những sự kiện đã gây thiệt hại nặng nề về kinh tế cho các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á cũng như dòng vốn đầu tư từ nước ngoài vào khu vực này. Xét về tổng thể, cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài đã có chuyển biến tích cực, tỷ trọng đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp tiếp tục gia tăng, nhất là đã có một số dự án sử dụng công nghệ cao. Hơn nữa, Chính phủ cũng đã có những động thái tích cực để khuyến khích đầu tư, cụ thể là Nghị quết số 53/2004/QĐ- TTg về một số chính sách khuyến khích đầu tư tại khu công nghệ cao, theo đó nhà đầu tư sẽ được hưởng mức ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cao nhất (10% trong suốt thời gian thực hiện dự án, miễn 4 năm kể từ khi có thu nhập và giảm 50% trong 9 năm tiếp theo). Chính phủ cũng ban hành Luật đầu tư và Luật Doanh nghiệp nhằm đưa chính sách về đầu tư nước ngoài của nước ta theo hướng xóa bỏ phân biệt đối xử giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, minh bạch và hợp lý hơn với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Trong năm qua, Việt Nam đã gia nhập WTO, hứa hẹn trong tương lai không xa, Việt Nam sẽ là điểm đến lý tưởng cho các nhà đầu tư, không chỉ ở khu vực Bắc Mỹ, mà là trên toàn thế giới. II. CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VÀ ĐẦU TƯ GIỮA VIỆT NAM VỚI BA NƯỚC BẮC MỸ Nhóm giải pháp từ phía nhà nước Tăng cường mối quan hệ về chính trị Để có thể đạt được những bước tiến trong quan hệ kinh tế, không thể bỏ qua tầm quan trọng của việc củng cố mối quan hệ về chính trị, bởi đây là nền tảng, là khởi nguồn của các mối quan hệ hữu nghị hợp tác về mọi mặt. Trên thực tế, mối quan hệ về thương mại và đầu tư của Việt Nam với các quốc gia Bắc Mỹ đã được củng cố không ngừng thông qua những cuộc gặp chính trị. Có thể thấy rõ điều đó qua các cuộc hội đàm chính thức, các chuyến viếng thăm của quan chức chính phủ, như chuyến thăm Hoa Kỳ vừa qua của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tới Hoa Kỳ, hay chuyến thăm Việt Nam và hội đàm của Thủ tướng Canada Stephen Harper (t6/2007), hay các cuộc gặp gỡ của các nguyên thủ quốc gia tại hội nghị Thượng đỉnh APEC diễn ra tại Hà Nội cuối năm qua…Thông qua các cuộc gặp gỡ, các bên đã đi đến việc ký kết các Hiệp định quan trọng, như Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn mà Hoa Kỳ cho Việt Nam hưởng vào tháng 12/2006, hay Hiệp định khung về thương mại và đầu tư TIFA giữa năm 2007…Các cuộc tiếp xúc chính trị đã góp phần tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các nhà lãnh đạo và các nhà hoạch định chính sách của hai nước, đồng thời củng cố lòng tin và khuyến khích làm ăn lâu dài đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Thông qua các cuộc tiếp xúc đó mà đường lối, chính sách của Việt Nam dành cho Canada, Hoa Kỳ cũng như Mê-hi-cô cũng như thiện chí và sự đảm bảo mà nhà nước Việt Nam dành cho các doanh nghiệp nước ngoài có cơ hội được tuyên truyền đến các doanh nghiệp nước bạn, làm sang tỏ những khúc mắc mà các doanh nghiệp ấy đang có về môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Chính vì tầm quan trọng mang tính tiên phong trên mà quan hệ về chính trị của Việt Nam với từng quốc gia trong khối thị trường Bắc Mỹ không ngừng cải thiện trong thời gian qua. Mối quan hệ về chính trị này - được coi là nền tảng, là bản lề cho mọi quan hệ khác, cần phải được tăng cường ở mọi cấp, mọi ngành nghề liên quan đến việc hoạch định chính sách nhằm hỗ trợ tốt nhất cho các doanh nghiệp ở cả hai phía trong việc thâm nhập và đầu tư vào thị trường của nhau. Hoàn thiện hệ thống pháp lý cho sự phát triển quan hệ thương mại và đầu tư Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, nhất là sau khi Việt Nam đã ra nhập WTO, chúng ta không thể xem nhẹ môi trường pháp lý cũng như hệ thống chính sách. Việc nhà nước xây dựng một môi trường thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng không chỉ giúp các doanh nghiệp trong nước được tiếp xúc với cơ chế cởi mở với nhiều cơ hội, mà còn làm tăng tính năng động của chính bản thân các doanh nghiệp Việt Nam. Hơn nữa, đây lại là yếu tố đầu tiên mà các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm khi cân nhắc quyết định bỏ vốn đầu tư vào thị trường Việt Nam. Tạo lập môi trường pháp lý cho hoạt động thương mại và đầu tư đòi hỏi phải xây dựng hệ thống pháp luật kinh doanh hoàn chỉnh, thông thoáng. Điều này có nghĩa hệ thống luật pháp nước ta phải đảm bảo chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời phải đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế theo hướng tự do hóa thương mại, dỡ bỏ các lực cản tới hoạt động ngoại thương cũng như hoạt động đầu tư. Cụ thể như: - Tăng cường hơn nữa việc ký kết các thỏa thuận song phương cũng như đa phương: Trên phương diện quốc tế, do sự cạnh tranh diễn ra hết sức gay gắt, mà các doanh nghiệp Việt Nam, do yếu về kinh nghiệm cũng như hạn chế về trình độ quản lý, thường dễ bị thua thiệt. Vì vậy, để tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp nước nhà làm ăn ở nước ngoài nói chung và tại các quốc gia Bắc Mỹ nói riêng, cần có sự thỏa thuận, cam kết của chính phủ nước sở tại thông qua các điều WTO ước song phương cũng như đa phương. Khía cạnh này thuộc chức năng quan trọng của nhà nước. Hiện tại, Việt Nam đã đạt được khá nhiều thành công trong việc tăng cường các mối quan hệ trên, cụ thể là với Hoa Kỳ, với Canada, hay việc Việt Nam hoàn thành các cuộc đàm phán song phương với các quốc gia về việc ra nhập WTO. Tuy vậy, cũng nhận thấy rằng, mặc dù có nhiều thành tựu đáng ghi nhận trong quan hệ với Hoa Kỳ, có một số thành tựu trong quan hệ với Canada, song trong mối quan hệ với Mê-hi-cô, Việt Nam vẫn chưa tiến tới ký kêt được Hiệp định về thương mại song phương. Đây là một điều còn thiếu hụt trong hệ thống pháp lý làm hành lang cho sự phát triển quan hệ thương mại và đầu tư của Việt Nam và Mê-hi-cô trong tương lai. Hơn thế nữa, một điều được đặt ra là, việc hoàn chỉnh hệ thống các văn bản pháp luật kinh doanh, ký kết các Hiệp định thương mại và đầu tư, tham gia WTO là điều kiện cần cho việc tạo lập môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp cạnh tranh trên trường quốc tế, nhưng điều kiện đủ của nó là chúng ta sẽ thực hiện chúng nghiêm chỉnh ở mức độ nào. - Trong nội bộ Việt Nam, Chính phủ ta cần tăng cường hơn nữa việc đồng bộ các văn bản pháp luật về thuế, tài chính, ngân hàng, môi trường…Trên cơ sở đó sẽ thúc đẩy hoạt động ngoại thương cũng như hoạt động đầu tư phát triển. Riêng đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, biện pháp trên sẽ khuyến khích thêm các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài khác ở Việt Nam (như hình thức M & A…). Đặc biệt, nhà nước nên lưu tâm đến chính sách thuế đối với đặc điểm từng ngành để có sự phân hóa cho phù hợp, tạo điều kiện cho phát triển sản xuất cũng như đầu tư mà không làm ảnh hưởng đến các nhà nhập khẩu. Có thể đề cập đến ở đây trong lĩnh vực sản xuất ô tô, đây là một trong những ngành nằm trong chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế tạo của nước ta và cũng thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư lớn bao gồm Ford Motors (Hoa Kỳ) hay Toyota (Nhật Bản)…Với những dự án đặc biệt quan trọng như thế, Chính phủ cần xem xét đến chính sách thuế nhập khẩu linh kiện phục vụ cho ngành chế tạo ô tô để vừa tạo thuận lợi cho các nhà sản xuất nội địa cũng như vẫn khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục bỏ vốn và công nghệ vào lĩnh vực này. Hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động ngoại thương- Tập trung hóa và đa dạng hóa cơ cấu mặt hàng xuất khẩu Để có thể tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước xây dựng được chiến lược kinh doanh và đầu tư đúng đắn, thì trước hết, nhà nước cần có chiến lược dài hạn, để khắc phục tình trạng “thời vụ”. Cụ thể, nhà nước ta cần xây dựng chính sách xuất nhập khẩu ổn định cho nhiều năm với tầm nhìn chiến lược, có thể chia theo các giai đoạn 5 năm, 10 năm, 20 năm. Các Bộ, Ngành có liên quan cần tích cực vào cuộc hơn nữa trong việc nghiên cứu thực trạng và đưa ra chiến lược, tránh tình trạng đặt ra mục tiêu một cách vội vàng, cảm tính, đưa ra mục tiêu quá cao, hay quá thấp, mà không cẩn thận tính đến các tác động từ nhiều yếu tố khác nhau. Hơn nữa, các Bộ, Ngành cần phối hợp với cơ quan nhà nước hoàn thành quy hoạch theo giai đoạn về phát triển từng mặt hàng cụ thể, xây dựng cơ cấu mặt hàng và cơ cấu thị trường xuất cũng như nhập khẩu và xác định rõ lộ trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu cho từng năm, từng giai đoạn, và cả thời kỳ. Bên cạnh đó, Nhà nước cần sớm công bố dự kiến về hàng hóa xuất nhập khẩu thuộc diện quản lý chuyên ngành cho những thời kỳ 2010-2020 cũng như danh mục hàng hóa cấm xuất nhập khẩu để các doanh nghiệp chủ động xây dựng trước các chương trình kế hoạch kinh doanh gắn với chuẩn bị nguồn lực cho các chiến lược cạnh tranh trước mắt và trong tương lai ngắn, trung và dài hạn. Mặt khác, Nhà nước cũng phải linh động, nhạy bén với tình hình thực tế để điều chỉnh, bổ sung cơ chế điều hành theo từng thời kỳ khi có biến động xảy ra Về chính sách đối với mặt hàng xuất nhập khẩu: Để nâng cao hiệu quả xuất khẩu và tăng sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu, chính phủ cần chuyển dịch cơ cấu sản phẩm xuất khẩu sao cho khai thác được những tiềm năng của ba thị trường Hoa Kỳ, Canada và Mê-hi-cô. Trong cơ cấu ngành hàng xuất khẩu sang các thị trường này cần tăng dần tỷ trọng các mặt hàng chế biến, chế tạo, dần tiến tới sản xuất những mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật cao. Cũng cần phải lưu ý rằng Việt Nam hiện nay mạnh về một số mặt hàng nhất định, cụ thể là dệt may, giày dép và thủy hải sản. Tỷ trọng các mặt hàng này xuất sang Bắc Mỹ rất cao. Vì thế, Việt Nam cần tận dụng ưu thế này của mình hơn nữa, tức là tập trung nhiều nguồn vốn để nâng cao năng lực chế biến, khiến sản phẩm của Việt Nam không chỉ đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe từ những thị trường này mà còn có ưu thế cạnh tranh so với các sản phẩm cùng loại từ các nước xuất khẩu khác. Các mặt hàng như kể trên của Việt Nam, mặc dù có tỷ trọng cao trong kim ngạch xuất khẩu, song nhìn chung còn thua kém các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc, Thái Lan..về sự đa dạng mẫu mã, hay trình độ gia công chế biến. Chính vì thế, Nhà nước ta cần có chính sách cụ thể, tập trung hóa vào các sản phẩm thế mạnh có tính chiến lược này, để khẳng định lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường Bắc Mỹ. Để làm được điều này, Nhà nước cần tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp trong nước chuyên sản xuất những sản phẩm trên phát triển, cụ thể như hỗ trợ về thông tin thị trường, tiếp cận thị trường và đào tạo nguồn nhân lực… Tuy vậy, để nâng cao hiêu quả của hoạt động ngoại thương, thì song song với chính sách tập trung hóa phát triển những sản phẩm chủ lực, nhà nước còn phải thực hiện chính sách đa dạng hóa cơ cấu mặt hàng dành cho xuất khẩu. Ngoài những mặt hàng có tỷ trọng lớn, những mặt hàng có khả năng xuất khẩu sang các nước này, như chè, hạt tiêu, cao su… cũng cần được chú ý. Nhà nước cần xây dựng quy hoạch, lựa chọn và có chính sách cụ thể để khuyến khích đầu tư vốn, tạo ra các vùng sản xuất chuyên canh ứng dụng kỹ thuật tiên tiến, đảm bảo sau thu hoạch cho chất lượng đồng đều và khối lượng lớn. Còn đối với các mặt hàng công nghiệp mới, trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam có thể coi nhóm hàng điện tử, điện lạnh, là những nhóm hàng xuất khẩu khá mới mẻ của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu thuộc nhóm này là của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với hệ thống thị trường tiêu thụ ổn định. Việc xuất khẩu các mặt hàng như thế sang một thị trường nào đó thực chất đã nằm trong chiến lược của công ty. Chính vì vậy, các mặt hàng này thường không được xuất khẩu với thương hiệu Việt Nam. Đây cũng là một thách thức đòi hỏi nhà nước có hành động cụ thể để các sản phẩm trên được gắn thương hiệu Việt, có như thế, tầm ảnh hưởng của hàng hóa Việt Nam trên thị trường Bắc Mỹ mới được cải thiện, bởi các thị trường thường rất coi trọng những sản phẩm có công nghệ và hàm lượng kỹ thuật cũng như chất xám cao, đặc biệt là những nước công nghệ nguồn như Hoa Kỳ và Canada. Một điều cần lưu ý nữa trong cơ cấu mặt hàng và ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam- đó là hiện nay, tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu theo đơn gia công của Hoa Kỳ, Canada là rất lớn. Do gia công theo đơn đặt hàng và sản xuất theo kỹ thuật nước ngoài nên các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn bị động về mẫu mã, sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm. Nếu kéo dài tình trạng này sẽ rất bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam. Như vậy, nhà nước cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất, chứ không phải gia công, để làm tăng hàm lượng nội địa hóa trong mỗi mặt hàng xuất khẩu của mình. Cải thiện môi trường đầu tư Theo báo cáo điều tra đầu tư nước ngoài của Cơ quan bảo đảm đầu tư đa phương thì các yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới việc lựa chon địa điểm đầu tư tại Việt Nam của các nhà đầu tư nước ngoài bao gồm khả năng tiếp cận thị trường, sự ổn định chính trị và kinh tế, thuận lợi cho hoạt động kinh doanh và độ tin cậy của cơ sở hạ tầng và dịch vụ công ích. Bảng 32: Mười yếu tố quan trọng nhất trong việc lựa chọn địa điểm đầu tư Báo cáo điều tra đầu tư nước ngoài, tháng 1 năm 2003, Cơ quan bảo đảm dầu tư đa phương, tr.19 Khả năng tiếp cận khách hàng 77% Môi trường kinh tế chính trị ổn định 64% Thuận lợi cho hoạt động kinh doanh 54% Độ tin cậy về chất lượng cơ sở hạ tầng và dịch vụ công ích 50% Khả năng thuê các chuyên gia kỹ thuật 39% Khả năng thuê các chuyên gia quản lý 38% Mức độ tham nhũng 36% Chi phí lao động 33% Tội phạm và an ninh 33% Khả năng thuê lao động lành nghề 32% Hệ thống thuế quốc gia 29% - Về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ: Cũng trong điều tra này, các nhà đầu tư đã được hỏi về các yếu tố ảnh hưởng tới môi trường đầu tư tại Việt Nam. Theo đó, 88% được hỏi đã cho rằng đó là tính minh bạch và công khai, 91% trả lời đó là việc loại bỏ phân biệt và đối xử, 69% là áp dụng đăng ký cấp phép đầu tư và 72% đề cập đến tăng cường bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Những con số này nói lên điều gì? Đó không chỉ đơn thuần là những con số thống kê, mà đó cũng là cách nhìn và cách đánh giá chung của nhà đầu tư về tị trường Việt Nam. Hiện tại, với nỗ lực của chính phủ trong quá trình gia nhập WTO, cơ chế về thu hút đầu tư của Việt Nam cũng trở nên cởi mở và thông thoáng hơn rất nhiều mà biểu hiện cụ thể là dòng vốn đầu tư vào Việt Nam trong vài năm trở lại liên tục gia tăng. Song vấn đề để có một môi trường đầu tư thực sự hoàn thiện thì cần nhiều thời gian hơn nữa. Với việc xóa bỏ hoàn toàn cơ chế hai giá với doanh nghiệp trong và ngoài nước, loại bỏ phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư, Việt Nam đã là điểm đến hứa hẹn của các nhà đầu tư Hoa Kỳ, Canada cũng bắt đầu phát triển quan hệ đầu tư với Việt Nam. Tuy vậy, vấn đề nổi cộm hiện nay mà các nhà đầu tư rất quan tâm lại là vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Có thể thấy đây vẫn là yếu điểm của Việt Nam. Đặc biệt, vấn đề bảo vệ quyền sở hữu về trí tuệ trong lĩnh vực công nghệ thông tin còn khá yếu. Điều này đặt ra nhiều thách thức mà Chính phủ cần có quy định cụ thể, thông qua Luật sở hữu trí tuệ và triển khai hệ thống luật này một các hữu hiệu nhất. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là khó khăn với hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam, nhưng Chính phủ Việt Nam cần cố gắng nhiều hơn nữa để giảm tỷ lệ ăn cắp bản quyền và làm hàng giả trên thực tế. - Về thủ tục đóng thuế hay giải thể doanh nghiệp: Theo một báo cáo mới của Tập đoàn Tài chính Quốc tế (IFC) và Ngân hàng Thế giới (WB) về môi trường kinh doanh thì Việt Nam có những cải cách tác động tích cực đến các chỉ số kinh doanh như cấp phép và tuyển dụng, sa thải lao đông. Về cấp phép, Việt Nam đứng thứ 25/175 nước xếp hạng do đã bãi bỏ một số văn bản và giảm thời gian cấp phép xây dựng. Tuy nhiên, Việt Nam hiện còn xếp hạng thấp trong ba lĩnh vực: bảo vệ nhà đầu tư, giải thể doanh nghiệp và đóng thuế. Việc giải thể doanh nghiệp ở Việt Nam hiện vẫn còn nhiều bất cập. Cơ chế hiện tại cho việc giải quyết các vụ phá sản tại Việt Nam thường khó khăn và mất thời gian. Ví dụ, một trường hợp phá sản tại Việt Nam có thể mất 5 năm mà doanh nghiệp chỉ thu hồi lại được 18% nợ. Vì thế, rất ít doanh nghiệp giải thể theo đúng những quy định và thủ tục chính thức. Về đóng thuế, hiện tại các doanh nghiệp ở Việt Nam mất khá nhiều thời gian thực hiện các nghĩa vụ thuế. Tính trung bình, doanh nghiệp mất 1,050 giờ, tương đương với 130 ngày làm việc để hoàn thành các thủ tục liên quan đến đóng thuế. - Nhà nước nên đa dạng hóa hơn nữa các hình thức đầu tư nước ngoài đặc biệt là hình thức mua lại và sáp nhập (Merger & Accquisition- M & A). Đối với các liên doanh có vốn FDI, phần lớn phía đối tác Việt Nam là các doanh nghiệp nhà nước chiếm tới 92%-98% tổng số dự án liên doanh trong đó phần góp vốn chủ yếu bằng quyền sử dụng đất nên tỉ lệ góp vốn không đáng kể dẫn đến hiệu quả chuyển giao giữa các nguồn lực kinh doanh như vốn và công nghệ là không cao. Hình thức mới M & A mới được quy định trong Luật đầu tư 2005 nên còn khá mới mẻ, hơn nữa các doanh nghiệp Việt Nam không đủ tiềm lực tương ứng về vốn công nghệ để có thể triển khai hình thức này. Tuy nhiên, khi đã là thành viên của WTO, nhiều lĩnh vực kinh tế trước đây được bảo hộ mạnh như ô tô, xe máy sẽ được tự do hóa. Việc mở cửa thị trường đã buộc các doanh nghiệp trong nước phải tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, tìm hướng liên kết với nước ngoài. Do đó, nhà nước cần nghiên cứu sâu hơn về hình thức mới này để tạo điều kiện áp dụng sâu rộng tại Việt Nam làm thuận lợi cho sự di chuyển của dòng vốn FDI. - Bên cạnh đó, cần tích cực xây dựng chiến lược vận động thu hút nguồn vốn từ các công ty xuyên quốc gia - TNCs (Transnational Corporations) của các quốc gia Bắc Mỹ. Thu hút các dự án lớn từ các TNCs đem lại rất nhiều lợi ích to lớn về mặt kinh tế – xã hội do công nghệ mà các TNCs nắm giữ và chuyển giao là những công nghệ cao và ít gây ô nhiễm môi trường, khả năng kết nối nền kinh tế của các nước vào mạng lưới sản xuất và thị trường rộng lớn mà TNCs đang có trong tay. Từ đó, Chính phủ Việt Nam cần thiết phải xây dựng chiến lược mang tầm quốc gia về thu hút FDI từ các TNCs bằng cách tìn hiểu nhu cầu trong nước, xây dựng danh mục dự án kêu gọi đầu tư vào các ngành và lĩnh vực các TNCs có thế mạnh như: công nghệ thông tin, tài chính ngân hàng, dầu khí, xây dựng cơ sở hạ tầng… Để làm được điều này, cần có những ưu đãi đặc biệt cũng như sự hỗ trợ kịp thời từ các cơ quan quản lý cấp phép để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhà đầu tư. Nhìn một cách tổng thể khi đánh giá về mức độ thuận lợi của môi trường kinh doanh, có thể thấy tiến bộ tổng thể của Việt Nam trong cải cách môi trường đầu tư vẫn đi sau các quốc gia khác. Ở đây, vai trò vĩ mô của nhà nước và các Bộ, ban ngành một lần nữa lại được đặt ra, đòi hỏi phải có cơ chế hợp lý hơn và những quy định cụ thể để môi trường đầu tư tại Việt Nam lôi cuốn hơn nữa các nhà đầu tư trong giai đoạn từ năm 2007 về sau. Phát triển hệ thống xúc tiến thương mại và đầu tư cấp chính phủ Tăng cường hệ thống xúc tiến thương mại Xúc tiến thương mại là hoạt động rất quan trọng phục vụ cho thương mại hàng hóa cũng như dịch vụ giữa Việt Nam với các quốc gia Bắc Mỹ. Nhà nước ta cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xúc tiến thương mại nhằm giúp đỡ, tư vấn cho các doanh nghiệp trong việc tận dụng cơ hội và lợi thế do hội nhập kinh tế đem lại, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và hàng hóa Việt Nam trên thị trường Bắc Mỹ nói riêng và trên thế giới nói chung. Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn hạn chế, sản xuất manh mún. Chính vì thế chính phủ cần hỗ trợ trong việc định hướng chiến lược cụ thể cho từng ngành hàng, mặt hàng không nên dàn trải và phải phân bổ chi phí hiệu quả hơn. Cũng như vậy, đối với hoạt động đầu tư, để đầu tư hiệu quả kích thích được sự phát triển của từng vùng, từng ngành, từng lĩnh vực, đối tượng thì cũng phải xác định đâu là trọng điểm cần thu hút đầu tư. Để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập dễ dàng và có chỗ đứng trên thị trường Bắc Mỹ, nhà nước nên tăng cường chỉ đạo các biện pháp xúc tiến thương mại sang các thị trường này thông qua cơ quan Thương mại Việt Nam tại từng nước riêng lẻ. Cơ quan Thương mại phải thường xuyên thông báo về Bộ Thương mại Việt Nam những thông tin cập nhập về thị trường, đối tác, dự án đầu tư để nhà nước có thể nhanh chóng hướng dẫn các doanh nghiệp trong nước tiến hành hoạt động thương mại hay đầu tư một cách hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có thể mở rộng hình thức chợ xúc tiến xuất khẩu đối với các mặt hàng chủ lực (ngoài nông sản hiện đã có hình thức này, các mặt hàng khác như đồ gỗ gia dụng, hàng thủ công mỹ nghệ cũng nên áp dụng). Chính phủ Việt Nam cần chú trọng nâng cao phát triển thông tin chuyên ngành và tiếp thị phục vụ xuất khẩu. Điều này thực sự ý nghĩa trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay. Tuy nhiên, hiện tại, có thể thấy các doanh nghiệp Việt Nam còn biết rất ít các thông tin, và thường biết chậm, như thế đã bỏ lỡ rất nhiều các cơ hội kinh doanh. Hơn nữa, ngoài việc đẩy nhanh tiến độ cung cấp thông tin thị trường nước ngoài cho các doanh nghiệp trong nước, Chính phủ cũng cần có cơ chế thông thoáng hơn trong việc cung cấp thông tin. Trên các Website của các Bộ ngành có liên quan, một điều dễ nhận thấy là khả năng cập nhập thông tin của Việt Nam là vô cùng hạn chế. Những số liệu về thương mại và đầu tư hầu như luôn ở trong tình trạng cũ. Điều này không chỉ hạn chế tầm nhìn và sự truy cập của các đối tác nước ngoài, mà ngay cả trong nước, các doanh nghiệp khi muốn có những thông tin mới nhất để đánh giá hay xây dựng chiến lược cho mình lại gặp phải muôn vàn khó khăn. Trong thời đại hiện nay, công nghệ thông tin là một vũ khí vô cùng hữu hiệu, nên chăng nhà nước có sự lưu tâm đặc biệt tới việc nâng cấp và triển khai hệ thống thương mại điện tử một cách sâu rộng nhất có thể, vì đây là phương tiện xúc tiến thương mại cũng như đầu tư, đồng thời cũng là phương tiện tự quảng bá bản thân hữu hiệu nhất trong kỷ nguyên công nghệ số hiện nay. Củng cố hoạt động xúc tiến đầu tư Trên thực tế có rất nhiều các dự án đầu tư từ các quốc gia Bắc Mỹ nói riêng mà nhiều nước khác nói chung vào Việt Nam còn bỏ ngỏ do các nhà đầu tư vẫn còn thiếu thông tin và hiểu biết về thị trường Việt Nam. Vì thế, nhà nước ta cần tăng cường hoạt động quảng bá xúc tiến đầu tư, tăng cường vận động trực tiếp các tập đoàn lớn đầu tư vào các dự án cụ thể. Chúng ta nên có kế hoạch tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu về môi trường đầu tư ở cấp quốc gia cũng như cấp địa phương hay tại từng bang cụ thể tại các nước Bắc Mỹ có nhà đầu tư, trên cơ sở có sự nghiên cứu kỹ lưỡng về danh mục dự án đầu tư. Hiện tại công tác xúc tiến đầu tư của chúng ta còn thiếu chuyên nghiệp và quy mô chưa cao, chưa gây được mấy tiếng vang. Một phần là do chúng ta chưa có được một đội ngũ xúc tiến đầu tư chuyên nghiệp mà hầu như là cán bộ kiêm nhiệm dưới sự phân công của Chính phủ hay các địa phương riêng lẻ. Hơn nữa, quan niệm về xúc tiến đầu tư vẫn còn theo thói quen, trong khi thị trường Bắc Mỹ là thị trường rất phát triển về các hoạt động truyền thông và quan hệ công chúng (Public Relations). Do đó, điều đầu tiên Nhà nước cần làm là xây dựng đội ngũ xúc tiến chuyên nghiệp, là người có trình độ, có uy tín, hiểu biết về văn hóa kinh doanh của các bên. Bên cạnh đó, do hoạt động xúc tiến đầu tư hiện nay còn hạn chế một phần là do thiếu nguồn kinh phí hỗ trợ. Chính phủ cần có quy định về việc thành lập một Quỹ xúc tiến đầu tư để hỗ trợ cho các hoạt động quảng bá đầu tư của các địa phương cũng như cho đội ngũ xúc tiến đầu tư tại nước ngoài. Đối với hoạt động đầu tư của Việt Nam ra thị trường nước ngoài còn hạn chế, nhà nước cũng nên có Quỹ hỗ trợ đầu tư ra nước ngoài nhằm hỗ trợ về tài chính cũng như Bảo hiểm cho các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài. Có chính sách phát triển nguồn nhân lực Nâng cao hiệu quả sự hỗ trợ của nhà nước về nguồn nhân lực là một trong những nội dung quan trọng trong chính sách hỗ trợ và khuyến khích xuất khẩu của nhà nước. Đây là giải pháp có tính chiến lược, lâu dài. Có thể đề cập một số hướng như sau: Thứ nhất, tăng cường hơn nữa đào tạo nguồn lao động cơ bản cho các doanh nghiệp xuất khẩu bằng ngân sách nhà nước. Hàng năm, nhà nước cần tăng chỉ tiêu đào tạo bằng ngân sách của mình cho các trường đại học và dạy nghề với các chuyên ngành có liên quan Thứ hai, khuyến khích các đơn vị, doanh nghiệp đầu tư chi phí và phối hợp với nhà nước trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp. Như thế, phải dựa trên nhu cầu thực tế của thị trường, đào tạo ở những lĩnh vực mà thị trường đang cần và nhân lực đang thiếu, tránh đào tạo ồ ạt, hoặc nhỏ giọt, quá thừa hay quá thiếu. Thứ ba, nhà nước cần chú trọng tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu về thương mại và đầu tư cho cán bộ lãnh đạo và chuyên viên của các công ty, tổ chức. Muốn như thế cần có một chính sách bồi dưỡng, dào tao, đào tạo lại và tuyển chọn liên tục. Như thế mới tăng cường khả năng chuyên môn và làm tăng khả năng đóng góp của mỗi cá nhân cho sự phát triển của nước nhà. Có thể kết hợp hữu hiệu với việc cử các chuyên viên có năng lực sang đào tạo tại Hoa Kỳ, Canada hay Mê-hi-cô. Như thế vừa tăng cường khả năng hợp tác song phương, mà còn có thể nâng cao trình độ nhân lực do chúng ta có điều kiện làm việc và tiếp xúc trực tiếp với thực tế tại nước bạn, học hỏi được khoa học công nghệ, tác phong làm việc, tư duy, và cả kỹ năng quản lý từ những quốc gia hàng đầu trên thế giới. Nhóm giải pháp từ phía doanh nghiệp 2.1. Nâng cao năng lực quản lý để tạo nguồn hàng hợp lý với thị trường. Các quốc gia Bắc Mỹ, đặc biệt là Hoa Kỳ và Canada là những thị trường vô cùng khắt khe trên thế giới với rào cản kỹ thuật khó vượt qua, vì thế các doanh nghiệp Việt Nam không còn cách nào khác là phải đáp ứng được những tiêu chuẩn ấy bằng những nguồn hàng thích hợp của mình. Trước tiên, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng đầu tư sản xuất các sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế như: HACCP, ISO 9000, ISO 14000, SA 8000… Đây là một trong những đòi hỏi rất quan trọng vì các nước Bắc Mỹ có những yêu cầu rất khắt khe từ nguyên liệu đến thành phẩm phù hợp với các tiêu chuẩn về quản lý chất lượng, tiêu chuẩn về môi trường cũng như sức khỏe người tiêu dùng. Để thực hiện được những yêu cầu như vậy, các doanh nghiệp cần tập trung xây dựng các vùng nguyên liệu cho riêng mình, giảm nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài, giảm đi các chi phí đầu vào của quá trình sản xuất, tăng cường đổi mới công nghệ. Đó là bước khởi đầu để giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Ngay cả các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường nội địa cũng cần tăng cường phát triển theo xu hướng này để có thể cạnh tranh được với các mặt hàng nhập khẩu từ thị trường Bắc Mỹ ngay trên thị trường mình. Riêng các ngành sản xuất và cung cấp dịch vụ, các doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư nâng cấp chất lượng sản phẩm, giảm chi phí dịch vụ để cung cấp cho nước bạn. Có thể tăng cường phát triển việc cung cấp các dịch vụ ngay trên đất Việt Nam như dịch vụ du lịch, dịch vụ tư vấn, dịch vụ văn hóa, vận tải, giải trí… Một đặc điểm nói chung của các thị trường phát triển như ở Bắc Mỹ là việc người dân không chỉ quan tâm tới chất lượng sản phẩm, mà bên cạnh đó, họ rất quan tâm tới chất lượng phục vụ cũng như dịch vụ khách hàng, bao gồm cả dịch vụ hậu mãi, quảng cáo, tiếp thị, hay sự khác biệt với các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Có thể nói rằng hiện tại chất lượng dịch vụ khách hàng của Việt Nam vẫn còn hạn chế. Do vậy, yêu cầu đầu tiên của mỗi doanh nghiệp là cần phải nghiên cứu thị trường nước bạn một cách kỹ lưỡng, tìm hiểu nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng để cung cấp những sản phẩm người tiêu dùng cần chứ không phải là những sản phẩm mà mình sẵn có. Bên cạnh việc đáp ứng tiêu chuẩn về chất lượng của các nước Bắc Mỹ, các doanh nghiệp lại phải xem xét để cải tiến mẫu mã sản phẩm, cải tiến cách bao gói và sử dụng những bao bì có thể tái chế được và không gây ô nhiễm. Bắc Mỹ là thị trường rộng lớn, mỗi quốc gia lại là một tập thể nhiều bang, nhiều vùng với những tập quán và thói quen mua sắm tương đối khác nhau. Chính sự tiêu dùng đa dạng này đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải luôn nghiên cứu và cải tiến mẫu mã nhằm tạo sự phù hợp với người tiêu dùng. Hơn thế nữa, đối với các thị trường phát triển ở Bắc Mỹ như Hoa Kỳ và Canada với mức thu nhập của người dân nói chung là khá cao đồng nghĩa với nhu cầu cao về việc đảm bảo sức khỏe của cộng đồng. Hàng hóa nhập khẩu vào các thị trường này đều có đòi hỏi rất cao về vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái như sử dụng bao bì có thể tái chế, không gây ô nhiễm môi trường từ các yếu tố đầu vào cho đến khi thải bỏ sản phẩm. Đây lại chính là yếu điểm của doanh nghiệp Việt Nam. Mặc dù nhận thức được điều này nhưng trình độ công nghệ còn thấp cùng chi phí cao đã khiến các doanh nghiệp gặp không ít khó khăn trong việc đáp ứng tiêu chuẩn trên. Để có thể cải thiện được tình hình này nói riêng và nâng cao chất lượng sản phẩm nói chung, các doanh nghiệp vừa tăng cường đầu tư ban đầu, song song với đâu tư về công nghệ là đầu tư và hoàn thiện khả năng quản lý. Nếu một doanh nghiệp đã chú trọng đầu tư vốn và công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất, lại áp dụng một hệ thống quản lý thích hợp thì chất lượng đầu ra là hết sức khả quan. Tất nhiên, với việc tiến hành đầu tư trên quy mô toàn diện như thế đòi hỏi doanh nghiệp cần có nguồn vốn lớn. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, có thể tìm sự hỗ trợ từ phía nhà nươc, thông qua việc vay vốn, vì nhà nước ta khá cởi mở và tạo cơ hội cho doanh nghiệp xuất khẩu. Việc phải bỏ ra chi phí lớn ban đầu là không thể tránh khỏi, song đó là điều cần thiết, vì chỉ có đầu tư thì mới nâng cao được chất lượng, mới đem lại kết quả thành công như mong muốn. 2.2. Nghiên cứu kỹ thị trường và hệ thống luật tại các quốc gia Bắc Mỹ Có thể nói việc nghiên cứu kỹ hành lang pháp lý và hệ thống pháp luật tại từng quốc gia Bắc Mỹ là điều hết sức cần thiết. Như đã đề cập trong chương I, mỗi quốc gia Bắc Mỹ có một hệ thống luật đa dạng và phức tạp, đặc biệt là Hoa Kỳ và Canada. Chính sự đa dạng và phức tạp ấy đã tạo thuận lợi cũng như gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư Việt Nam. Chính vì hệ thống luật chặt chẽ nên các doanh nghiệp có cơ hội tiếp xúc với môi trường cạnh tranh bình đẳng, không có những khe nứt pháp luật tạo điều kiện cho những hoạt động tham nhũng hay trốn thuê. Tuy nhiên, hệ thống luật quá phức tạp, đa dạng, từ cấp Bang đến Liên Bang đã gây không ít khó dễ cho doanh nghiệp Việt Nam vì thực tế khả năng tường tận và am hiểu luật nước bạn của Việt Nam còn hạn chế. Sẽ không tránh khỏi những sai sót vì các doanh nghiệp không hiểu kỹ luật nước ngoài. Để tránh những sai sót và tranh chấp đó, trước khi đưa ra quyết định kinh doanh hay đầu tư nào vào ba quốc gia Bắc Mỹ, đầu tiên doanh nghiêp/nhà đầu tư Việt Nam nên có một thời gian nghiên cứu và một chương trình nghiên cứu có hệ thống. Cần có đội ngũ tư vấn, đội ngũ luật sư am hiểu luật nước bạn để giúp các doanh nghiệp có cái nhìn cụ thể, lường trước những tình huống khó khăn. Tất nhiên, đây không phải là vấn đề đơn giản có thể làm trong một sớm một chiều, bởi thực tế thì tại Việt Nam, lực lượng tư vấn luật và đội ngũ cố vấn luật, nhất là luật thương mại và đầu tư của nước ngoài còn thiếu và có trình độ còn hạn chế. Hơn nữa, việc thuê các tư vấn hay chuyên gia nước ngoài lại tiêu tốn một nguồn kinh phí không nhỏ chút nào. Chính vì thế, trước mắt, mỗi doanh nghiệp lại cần phải tự thân vận động, tự mình tìm hiểu thông qua việc chủ động liên hệ với các cơ quan đại diện chính phủ có liên quan tại Hoa Kỳ, Canada và Mê-hi-cô cũng như tìm kiếm sự hỗ trợ từ phía nhà nước Việt Nam. Hiện tại, nhà nước ta cũng đang tích cực cho hoạt động giúp đỡ doanh nghiệp tìm hiểu và tiếp cận thị trường nước ngoài. Các doanh nghiệp và nhà đầu tư Việt Nam nên tranh thủ lợi thế này và các mối quan hệ từ nhiều nguồn khác để có cái nhìn tương đối về hệ thống pháp lý nước bạn, để tránh những tranh chấp như đã xảy ra trong thời gian vừa qua trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ cũng như với Canada. 2.3. Tăng cường công tác xúc tiến thương mại và xúc tiến đầu tư. Bên cạnh việc tăng cường nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức cạnh tranh, việc nâng cao năng lực tiếp thị và xúc tiến thương mại cũng cần được các doanh nghiệp hết sức lưu tâm. Đối với hoạt động thương mại, doanh nghiệp cần chủ động tìm kiếm đối tác, chào hàng thông qua việc tham gia các hội chợ, triển lãm và hội thảo chuyên đề được tổ chức tại Việt Nam cũng như Hoa Kỳ, Canada hay Mê-hi-cô (như Hội chợ quốc tế hàng năm tại La Puebla- Mê-hi-cô, Hội chợ quốc tế hàng may mặc Magic Show hay Hội chợ quốc tế Giày dép WSA Show tại Las Vegas vào tháng 2 và 8 hàng năm). Các doanh nghiệp nên trực tiếp và thường xuyên liên hệ với các đại sứ quán Hoa Kỳ, Canada cũng như Mê-hi-cô, hoặc có thể thông qua Cục xúc tiến thương mại - Bộ Thương mại, hay Cục xúc tiến đầu tư - Bộ Kế hoạch và đầu tư để kịp thời nắm bắt những thông tin kinh tế và thị trường nước bạn. Đây cũng là những cơ quan trung gian cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin chính xác về tình hình thị trường, nhu cầu thị hiếu của từng thị trường, giúp doanh nghiệp chủ động trong việc đưa ra các quyết định kinh doanh cũng như đầu tư với nước bạn. Đối với bản thân các doanh nghiêp, cũng cần chủ động tạo ưu thế cho mình thông qua việc nhanh chóng, kịp thời liên hệ và thành lập các văn phòng đại diện tại nước bạn; chủ động tìm kiếm đối tác có đủ năng lực tài chính, tin cậy làm đại lý cho mình. Đối với hoạt động đầu tư, doanh nghiệp cần tự quảng bá thông qua việc chủ động tìm kiếm cơ hội đầu tư tại nước bạn. Đầu tiên, để làm như thế, doanh nghiệp nên nghiên cứu trước về môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư tại từng quốc gia Bắc Mỹ nói riêng. Kế đó là việc chủ động liên hệ tìm kiếm cơ hội cho bản thân. Doanh nghiệp cần tranh thủ được sự chú ý từ chính quyền nước sở tại qua việc tự quảng bá bản thân, chứng minh khả năng tài chính cũng như khả năng chuyên môn về lĩnh vực muốn đầu tư. Bên cạnh đó, không quên việc nhấn mạnh quan điểm và mối lưu tâm tới những vấn đề công ích, vấn đề bảo vệ môi trường hay vì lợi ích cộng đồng tại địa phương muốn đầu tư, cũng như khẳng định việc nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của nước bạn. Như thế, doanh nghiệp Việt Nam đã tranh thủ và xây dựng được lòng tin đối với chính quyền nước và địa phương sở tại, tạo ưu thế so với các nhà đầu tư khác. 2.4. Tăng cường việc ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp Thị trường Bắc Mỹ là thị trường phát triển hoạt động thương mại điện tử, nhất là thương mại điện tử đối với hàng nông sản tương đối lớn trên thế giới. Hiện tại có khoản 43% số lượng trang trại tại khu cực này sử dụng Internet để giao dịch, mua bán nông sản và hàng hóa vật tư phục vụ sản xuất nông nghiêp. Con số này đã chứng minh thương mại điện tử có tầm ảnh hưởng quan trọng và phổ biến đến mức độ nào tại thị trường này. Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đẩy mạnh việc áp dụng thương mại điện tử vì hình thức này mang lại cho doanh nghiệp những lợi ích to lớn, đặc biệt là khi muốn thâm nhập thị trường xa xôi về địa lý này. Internet đem lại cho doanh nghiệp thế giới trong tầm tay, giúp các doanh nghiệp tiếp cận được kho tàng thông tin quý giá một cách nhanh chóng mà không một phương tiện truyền thống nào có thể bắt kịp được. Trang Web của mỗi doanh nghiệp được coi là văn phòng ảo, bởi nó góp phần xây dựng uy tín, đẳng cấp cho doanh nghiệp. Văn phòng ấy có thể hoạt động, tiếp nhận và cung cấp thông tin cho đối tác vào mọi thời điểm với chi phí rẻ hơn nhiều so với việc thiết lập một văn phòng đại diện thực tại nước ngoài. 2.5. Phát triển đội ngũ chuyên môn trong doanh nghiệp Các doanh nghiệp phải chú trọng vào công tác đào tạo để nâng cao năng lực cán bộ và công nhân kỹ thuật vì nguồn nhân lực chính là xương sống, là động lực của bất cứ một hoạt động kinh tế hay đầu tư nào. Không thể chỉ bằng lòng với trình độ của đội ngũ nhân công đang có, các doanh nghiệp cần luôn năng động trong việc nâng cao chất lượng chuyên môn của nguồn nhân lực. Phải biến đây thành chiến lược quan trọng hàng đầu của doanh nghiệp. Có thể thực hiện điều này bằng nhiều cách. Doanh nghiệp có thể xây dựng một chương trình tìm kiếm các tài năng trẻ để đào tạo và làm nòng cốt cho doanh nghiệp trong tương lai, hình thức này thường được biết tới như chiến dịch “săn đầu người”. Tuy nhiên, để làm được điều này không phải là đơn giản bởi hoạt động này đòi hỏi kinh phí lớn, hơn nữa yêu cầu mỗi doanh nghiệp phải có chính sách đãi ngộ hợp lý và lôi cuốn thì mới thu hút được các tài năng. Thực tế hình thức này mới chỉ thực sự mạnh tại các quốc gia phát triển. Tuy nhiên, đây cũng là một hình thức nên được các doanh nghiệp lưu tâm, nhất là những doanh nghiệp lớn, có tiềm lực tại thị trường Việt Nam. Bên cạnh việc tìm kiếm các tài năng thì việc quan trọng hơn cả là phải không ngừng nâng cao trình độ của đội ngũ nhân lực sẵn có. Đây mới là động lực và giá trị cốt lõi góp phần tạo nên thành bại của doanh nghiệp hiện tại. Mỗi doanh nghiệp phải dành một khoản kinh phí cho hoạt động này và phải biết tận dụng các chương trình đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật của Chính phủ để cử cán bộ của mình tham gia. Các doanh nghiệp phải quan tâm đào tạo cả cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý, cán bộ thương mại và công nhân kỹ thuật. Không những đã đào tạo mà hoạt động đào tạo lại cũng nên được triển khai định kỳ vì những thay đổi chóng mặt về hoạt động thương mại cũng như đầu tư đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn cập nhập và làm mới mình để thích ứng với thị trường. Hơn thế nữa, cần phải nâng cao và đặc biệt chú trọng vào công tác đào tạo ngoại ngữ cho đội ngũ nhân lực của mình. Hoạt động thương mại và đầu tư với thị trường Bắc Mỹ không chỉ đòi hỏi nguồn nhân lực có trình dộ chuyên môn, am hiểu thị trường, mà còn phải thật thành thạo về ngoại ngữ- đây vốn là yêu cầu giao tiếp tối thiểu song lại là điểm yếu cố hữu của các doanh nghiệp Việt Nam từ trước tới nay. KẾT LUẬN Khoảng thời gian ngắn hơn một thập kỷ qua đã chứng kiến rất nhiều đổi thay trong quan hệ thương mại và đầu tư của Việt Nam với các quốc gia khu vực Bắc Mỹ. Về thương mại, điều đáng ghi nhận nhất chính là việc Việt Nam liên tục trở thành quốc gia xuất siêu sang các thị trường Hoa Kỳ, Canada cũng như Mê-hi-cô với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu nhìn chung liên tục tăng. Nổi bật trong đó, quan hệ thương mại hai chiều của Việt Nam với đối tác lớn nhất- Hoa Kỳ không ngừng lớn mạnh sau khi Hiệp định thương mại song phương có hiệu lực. Với Canada cũng như Mê-hi-cô, mặc dù chưa có những dấu ấn như với Hoa Kỳ, song triển vọng của sự hợp tác thương mại này là rất sáng sủa. Trên lĩnh vực đầu tư, mặc dù đã có nhiều cố gắng trong thời gian qua, song Việt Nam vẫn chưa đủ lực để có thể trở thành một nhà đầu tư chiến lược sang thị trường rộng lớn Bắc Mỹ này. Thay vào đó, Việt Nam đón nhận các dòng vốn đầu tư từ các quốc gia Bắc Mỹ, chủ yếu là dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI. Trong số các chủ đầu tư từ Bắc Mỹ vào Việt Nam, cái tên Mê-hi-cô vẫn chưa hiện hữu do mối quan hệ của Việt Nam với quốc gia này mới chỉ ở giai đoạn đầu phát triển. Hơn một thập kỷ là một khoảng thời gian không dài để có thể đánh giá hết về quan hệ thương mại và đầu tư của Việt Nam với từng quốc gia của thị trường Bắc Mỹ nói riêng cũng như với toàn bộ thị trường này nói chung. Trong khoảng thời gian ấy, mặc dù còn có nhiều hạn chế, mối quan hệ thương mại và đầu tư còn chưa tương xứng với tiềm năng của mỗi quốc gia, bên cạnh đó còn có những khó khăn chưa vượt qua, song những gì mà Việt Nam cũng như các nước bạn đã làm được cho nhau thật đáng ghi nhận. Đây chính là nền tảng để chúng ta tiếp tục phát huy những gì đạt được nhằm thúc đẩy nhanh hơn, xa hơn và sâu rộng hơn mối quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư song phương đã có từ hơn thập kỷ qua. Trước mắt còn nhiều khó khăn và thách thức, các nhân tố từ môi trường quốc tế cũng như các nhân tố từ nội tại nền kinh tế mỗi nước luôn có tác động hai chiều đối với sự phát triển thương mại và đầu tư nói chung. Song với nỗ lực hết mình mỗi thành viên trong một mục tiêu hợp tác thân thiện, công bằng và bình đẳng, mối quan hệ kinh tế -thương mại - đầu tư của Việt Nam – Canada, Việt Nam – Hoa Kỳ, Việt Nam – Mê-hi-cô sẽ luôn được củng cố, phát huy và hứa hẹn sẽ giành được nhiều kết quả khả quan trong thời gian tới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVKT032.doc
Tài liệu liên quan