Khóa luận Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, phát triển

Một nguyên nhân quan trọng khiến thị trường tiền tệ Việt Nam chậm phát triển là do lực lượng cán bộ hoạt động kinh doanh tiền tệ tại các tổ chức tín dụng còn yếu kém về năng lực và trình độ. Hầu hết là được đào tạo trong thời kỳ nền kinh tế được quản lý theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, vì vậy họ rất lúng túng khi chuyển sang hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường. Do đó cần có các giải pháp đồng bộ đào tạo đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ : Nhanh chóng nâng cao kiến thức về lĩnh vực tiền tệ cho họ thông qua đào tạo và đào tạo lại. Xây dựng các mô hình thực hành, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ; ban hành quy chế, quy trình hoạt động đối với cán bộ kinh doanh tiền tệ; tiến hành khen thưởng và xử phạt nghiêm minh. Thường xuyên thực hiện việc kiểm tra , kiểm soát và thực hiện luân phiên cán bộ thanh tra để hạn chế những tiêu cực. Bên cạnh việc nâng cao năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ, hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật cũng là một yêu cầu rất cấp bách. Kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường , hoạt động của các chủ thể kinh doanh trên thị trường tiền tệ đặc biệt là các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước, kho bạc Nhà nước đã được hiện đại hoá, tuy nhiên còn thấp so với yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động và còn khoảng cách khá xa so với khu vực và thế giới. Vì vậy, cần hiện đại hoá hoạt động kinh doanh tiền tệ nhằm tiến tới hội nhập với thị trường tiền tệ khu vực và thế giới. Trong đó cần hiện đại hoá hệ thống thông tin . Như vậy, hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam là một trong những yêu cầu cấp thiết đặt ra cho chúng ta trong giai đoạn hiện nay; vì một đặc điểm cơ bản diễn ra trong các nền kinh tế hiện này là xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập, mà trong bối cảnh hội nhập thì tài chính tiền tệ là lĩnh vực nhạy cảm, dễ bị ảnh hưởng nhất. Các giải pháp ấy phải đáp ứng nhu cầu về vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, phải tạo môi trường thuận lợi cho chính sách tiền tệ hoạt động có hiệu quả, phải phù hợp và thúc đẩy tiến trình hội nhập. Các giải pháp ấy là: hoàn thiện nền môi trường pháp luật liên quan, đổi mới điều chỉnh chính sách tiền tệ; hoàn thiện phát triển thị trường tiền tệ hiện có ở nước ta như thị trường tiền tệ sơ cấp, thứ cấp, thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường mua bán các chứng khoán ngắn hạn; nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành viên; đa dạng các công cụ của thị trường tiền tệ và hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực.

doc92 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2318 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thị trường tiền tệ Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quy chế hiện hành thì chỉ có các giấy tờ có giá ngắn hạn mới được mua bán ở thị trường mở, song cho đến nay, chỉ có tín phiếu kho bạc và tín phiếu Ngân hàng Nhà nước được mua bán. ấKhoảng cách thời gian giữa các phiên giao dịch vẫn còn dài. Điều này tạo ra quang cảnh khá “buồn tẻ của từng phiên chợ”. ấ Phương thức giao dịch còn hạn chế, hiện nay chỉ có 2 phương thức đó là giao ngay và giao dịch có kỳ hạn. ấ Số lượng thành viên tham gia còn quá ít. Trong số 21 thành viên tham gia thị trường mở thì chủ yếu là các ngân hàng thương mại quốc doanh,các ngân hàng này nắm giữ tới hơn 70% lượng tín phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước. Qua các phiên giao dịch, nhiều nhất có 5 thành viên và ít nhất là 1 thành viên tham gia. ´ Nguyên nhân nào dẫn đến sự đơn điệu, nghèo nàn của thị trường mở? Một trong những điều kiện tham gia nghiệp vụ thị trường mở là các thành viên phải có giấy tờ có giá để bán và chủ động được vốn khả dụng của mình. Nhưng các tổ chức tín dụng chưa đầu tư nhiều vào giấy tờ có giá ngắn hạn do họ chịu sự thiếu bình đẳng trong kinh doanh. Các ngân hàng thương mại quốc doanh được vay theo chỉ định nên có nhiều lợi thế trong giao dịch trên thị trường mở. Các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, quỹ tín dụng ít có ưu thế này. 3. Công cụ dự trữ bắt buộc. ?Ngày 10 /02/1999 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Quyết định số 51/1999/QĐ-NHNN1 về “ Quy chế dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng”. Quyết định này thay thế Quyết định số 396/1997/QĐ-NHNN1 ngày 1/12/1997 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành “Quy chế dự trữ bắt buộc đối với các Ngân hàng, tổ chức tín dụng” và có hiệu lực kể từ ngày 01/03/1999. Theo Quy định này thì tiền dự trữ bắt buộc được tính toán trên cơ sở số dư tiền gửi huy động bình quân trong kỳ (chứ không tính theo tổng số tiền cho vay của tổ chức tín dụng) nhân với tỷ lệ dự trữ bắt buộc được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định trong từng thời kỳ. C Những mặt được của việc sử dụng công cụ này: ẩ Từ năm 1995 đến nay, việc quy định thống nhất tài khoản tiền gửi thanh toán và tiền gửi dự trữ bắt buộc vào một tài khoản, từng bước mở rộng đối tượng áp dụng dự trữ bắt buộc và tỷ lệ được áp dụng linh hoạt đối với từng loại hình tổ chức tín dụng đã góp phần nâng cao khả năng dự đoán được nhu cầu về dự trữ của các tổ chức tín dụng, qua đó tăng cường vai trò kiểm soát tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Bên cạnh đó, việc quy định số tiền dự trữ bắt buộc được tính bình quân thay cho quy định khống chế theo ngày đã thực sự tạo điều kiện cho các ngân hàng sử dụng vốn linh hoạt hơn trước đây. ẩ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc liên tục được điều chỉnh bám sát với diễn biến thị trường. Lấy ví dụ: trong năm 2000 tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định là 5% trên tổng số dư tiền gửi dưới 12 tháng đối với các tổ chức tín dụng đô thị và 1% đối với các tổ chức tín dụng ở nông thôn. Đây là tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp nhất từ trước đến nay, từ đó khuyến khích ngân hàng thương mại mở rộng tín dụng cho nền kinh tế. Đối với ngoại tệ, từ tháng 10/2000 tiền gửi dự trữ bằng ngoại tệ được nâng từ 5% lên 8% và từ tháng 12/2000 được điều chỉnh lên mức 12 % trên tổng số dư tiền gửi bằng ngoại tệ dưới 12 tháng, áp dụng cho tất cả các tổ chức tín dụng. D Bên cạnh những mặt được đó thì việc sử dụng công cụ này của Ngân hàng Nhà nước còn bộc lộ một số khuyết điểm sau: ấTiền gửi dự trữ bắt buộc còn quy định hạn hẹp ở loại tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng trở xuống đã làm hạn chế khả năng kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền tệ M2 của Ngân hàng Nhà nước. ấ Ngân hàng Nhà nước trả lãi cho tiền gửi dự trữ bắt buộc đã không khuyến khích các ngân hàng thương mại tận dụng tối đa nguồn vốn của mình bởi vì việc để tiền không trong tài khoản của mình tại Ngân hàng Nhà nước cũng mang lại thu nhập cho các ngân hàng thương mại. Điều này dẫn đến tình trạng có thời kỳ các ngân hàng thương mại để dự trữ dư thừa nhiều, hạn chế hoạt động cho vay. 4. Công cụ tỷ giá. 6 Từ năm 1998 trở về trước, chế độ tỷ giá áp dụng ở nước ta thực chất là chế độ tỷ giá cố định, giá cả ngoại tệ do Ngân hàng Nhà nước quyết định, tỷ giá hối đoái cố định được ấn định rất cao, không phản ánh quan hệ cung cầu ngoại hối, không phản ánh đúng giá trị đồng nội tệ. Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam lúc bấy giờ thực chất chỉ là hệ số quy đổi để các công ty thương mại quốc doanh lập kế hoạch và tính toán nội bộ. Bên cạnh tỷ giá chính thức – tỷ giá mậu dịch, nhà nước còn đưa ra hai loại tỷ giá khác là tỷ giá phi mậu dịch và tỷ giá kết toán nội bộ, như vậy chế độ tỷ giá giai đoạn này còn là chế độ đa tỷ giá. Trước yêu cầu bức súc của việc đổi mới chính sách tiền tệ nói chung và chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối nói riêng, chế độ tỷ giá được điều chỉnh theo hướng ngày càng linh hoạt hơn. Kể từ ngày 20/10/1998, thực hiện Quyết định số 217/CTHĐBT của Chủ tịch hội đồng bộ trưởng, Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tỷ giá theo tín hiệu thị trường. Hàng ngày Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá chính thức giữa ngoại tệ và VND, tỷ giá mua bán trên thị trường bằng tỷ giá chính thức cộng với biên độ giao động được Ngân hàng Nhà nước công bố trong từng thời kỳ tuỳ thuộc vào mục tiêu của chính sách tiền tệ (lúc đầu là 0,5%, 11/1996 là 1%, 27/2 là +/-5%, 13/10/1997 là +/- 10%, 7/8/1998 là 7%). Thực tế, việc điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước trong giai đoạn này đã góp phần hạn chế ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực đến nền kinh tế Việt Nam, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định tiền tệ. 6 Từ năm 1999 đến nay, Ngân hàng Nhà nước thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá theo nguyên tắc thị trường: thông qua hình thức hàng ngày Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá chính thức là tỷ giá giao dịch bình quân trên TTNgTLNH của ngày giao dịch trước đó. Ngân hàng Nhà nước cũng quy định tỷ giá giao dịch giữa VND và USD của các tổ chức tín dụng không vượt quá 0,1% (và từ 1/7/2002 là 0,25%) so với tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước công bố và điều chỉnh linh hoạt các mức trần gia tăng tỷ giá đối với các giao dịch kỳ hạn , hoán đổi..). Tuy nhiên, cơ chế điều hành tỷ giá này còn bộc lộ một số hạn chế sự phát triển của thị trường tiền tệ. Đó là: ấ Mức chênh lệch về tỷ giá quá thấp không kích thích các hoạt động giao dịch nhằm mục đích kinh doanh trên thị trường. Đây chính là một nguyên nhân khiến cho hoạt động trên TTNgTLNH nói riêng và thị trường tiền tệ nói chung trầm lắng. ấ Biên độ giao động tỷ giá (trước kia là 0,1 %) là quá hẹp. Do đó tỷ giá trên thị trường hầu như vận động một chiều, làm cho các ngân hàng dễ dàng dự đoán được xu thế vận động của tỷ giá, vì vậy việc áp dụng các phương thức giao dịch ngoại hối hiện đại rất hạn chế. ấ Việc các ngân hàng thương mại được phép xác định tỷ giá các loại ngoại tệ ngoài USD tạo kẽ hở cho việc mua bán USD thông qua loại ngoại tệ khác với tỷ giá vượt trần quy định. ấ Tỷ giá trên TTNgLNH cũng chưa sát với tỷ giá thị trường. Tỷ giá các ngân hàng giao dịch với nhau trên TTNgTLNH bao giờ cũng kịch trần-là tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước công bố cộng thêm biên độ (từ 1/7/2002 là 0,25%). Nếu Ngân hàng Nhà nước lấy tỷ giá giao dịch thực này làm tỷ giá công bố cho ngày hôm sau thì mỗi ngày tỷ giá hối đoái sẽ tăng 38 Đồng/USD mà không phải ba, bốn ngày mới tăng vài đồng. Chính vì thế, tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước công bố này chỉ là tên gọi, thực chất đó là tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước ấn định hay nói cách khác là “tỷ giá của thống đốc”. 5. Công cụ tái cấp vốn. ? Trong quá trình kiểm soát và điều tiết tiền tệ, vai trò của công cụ tái cấp vốn vẫn còn hạn chế. Mặc dù cơ chế tái cấp vốn không có sự phân biệt đối với các ngân hàng khác nhau nhưng thực tế tái cấp vốn vẫn chủ yếu thực hiện đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh, các ngân hàng thương mại cổ phần ít được tái cấp vốn do thường không đủ các điều kiện tái cấp vốn. Lãi suất tái cấp vốn chưa gây tác động hiệu ứng đối với lãi suất thị trường và chưa phát huy tốt vai trò kích thích tăng giảm nhu cầu tiền tệ . < Nói tóm lại, qua những phân tích về những mặt được và những hạn chế của thị trường tiền tệ Việt Nam, có thể đánh giá, kết luận thị trường tiền tệ Việt Nam , như sau: thị trường tiền tệ Việt Nam chưa phát triển, phạm vi thị trường còn hạn hẹp: chủ yếu trong phạm vi hệ thống các tổ chức tín dụng; hàng hóa nghèo nàn về chủng loại và chất lượng chưa cao, vốn ngắn hạn luân chuyển trên thị trường kém linh hoạt, hiệu lực của các công cụ của chính sách tiền tệ phát huy chưa cao. Chính vì vậy, để khắc phục những hạn chế trên cần có những giải pháp đúng đắn để hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam. & Việc tìm hiểu những vấn đề cơ bản về thị trường tiền tệ và thực trạng thị trường tiền tệ Việt Nam sẽ là vô ích nếu chúng ta không đưa ra được những giải pháp để hoàn thiện và phát triển nó. Chương 3 này sẽ liệt kê, tổng hợp những giải pháp để hoàn thiện thị trường tiền tệ Việt Nam. Nội dung chương này được trình bày thành 2 phần: 1Yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam: đề cập đến các yêu cầu đặt ra khi đưa ra các giải pháp, chính sách để hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam. Các yêu cầu này được chia làm 4 nhóm yêu cầu cơ bản. 1 Các giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam: là 1 trong 2 nội dung chính của khoá luận này, phần này nêu lên những giải pháp cần thực hiện để hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam, đó là các giải pháp về môi trường pháp luật và cơ chế chính sách, hoàn thiện các loại thị trường hiện có ở nước ta hiện nay, nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành viên tham gia, đa dạng hoá của thị trường tiền tệ, hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và nhân lực. Sau đây là nội dung chi tiết được nêu ở trên: I. Yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện thị trường tiền tệ ở Việt Nam 1. Đáp ứng nhu cầu về vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. ? Đối với bất kỳ quốc gia nào, việc thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đều phụ thuộc rất nhiều vào chính sách huy động vốn và hiệu quả sử dụng vốn. Hiện nay, nước ta đang trong tình trạng thiếu vốn nên vấn đề huy động vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn lại càng có ý nghĩa quan trọng. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế được hoạch định cho giai đoạn 2001-2005 là 7.5%/năm, theo tính toán và dự báo khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển trong 5 năm tới vào khoảng 830-850 tỷ đồng (theo giá năm 2000) tương đương 59-61 tỷ USD. Vốn có thể huy động qua các kênh: tín dụng ngân hàng, thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán, viện trợ phát triển chính thức (ODA), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)… trong đó việc huy động vốn thông qua thị trường tiền tệ để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn là một kênh hết sức quan trọng. Hiệu quả sử dụng vốn cũng là một yếu tố quan trọng vì nó ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các doanh nghiệp các nhà đầu tư, đến những thành phần tạm thời thừa vốn. Thị trường tiền tệ phát triển sẽ góp phần khơi thông và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ngắn hạn tạm thời nhàn rỗi, đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. Ngược lại , nếu thị trường tiền tệ kém linh hoạt, thị trường thứ cấp chậm phát triển, công cụ nghèo nàn …sẽ làm cho hiệu quả sử dụng vốn giảm sút. Vì vậy, các giải pháp hoàn thiện thị trường tiền tệ phải nhằm vào việc tăng tính linh hoạt, khả năng điều hoà vốn ngắn hạn, đáp ứng được nhu cầu về vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 2. Tạo môi trường thuận lợi cho chính sách tiền tệ hoạt động hiệu quả. ? Chính sách tiền tệ là một chính sách điều khiển vĩ mô. Nó tạo ra những tác động nhằm định hướng và điều tiết nền kinh tế. Đối với Ngân hàng Trung ương, điều tiết kinh tế là điều tiết cung ứng tiền. Mọi hoạt động của Ngân hàng Trung ương đều ảnh hưởng mật thiết đến mức cung ứng tiền trong nền kinh tế. Khối lượng cung ứng tiền thay đổi ở mỗi thời kỳ tác động sâu sắc, toàn diện tới sản xuất, tiêu dùng, giá cả thông qua làm thay đổi độ khan hiếm của tiền, lãi suất và tỷ giá hối đoái. Những biến chuyển này tốt hay xấu phụ thuộc vào tính hợp lý của chính sách tiền tệ đối với tình hình thực tế của nền kinh tế. Thực tế cho thấy, thời gian qua, việc sử dụng các công cụ trực tiếp điều hành chính sách tiền tệ đã làm hạn chế sự phát triển của thị trường tiền tệ. Trong nền kinh tế thị trường, chính sách tiền tệ thực sự có hiệu lực khi sử dụng các công cụ gián tiếp là chủ yếu. Nghĩa là để thị trường tiền tệ phát triển thực sự, chính sách tiền tệ phát huy tác dụng như mong muốn của Ngân hàng Nhà nước thì các công cụ gián tiếp phải được sử dụng thường xuyên và linh hoạt hơn. Điều này chỉ thực hiện được khi các hàng hóa của thị trường tiền tệ có chất lượng, đa dạng về chủng loại và thị trường thứ cấp phát triển. 3. Phát triển hệ thống các tổ chức tài chính ? Thị trường tiền tệ là bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, do đó, sự phát triển của thị trường tiền tệ có ảnh hưởng và gắn liền với sự phát triển của toàn bộ hệ thống thị trường tài chính. Trên thực tế, sự phân định giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn chỉ là tương đối. Các chủ thể hoạt động trên thị trường tiền tệ đồng thời là các chủ thể hoạt động trên thị trường vốn, luồng vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ có mối quan hệ mật thiết với luồng vốn dài hạn trên thị trường vốn … Sự phát triển của thị trường tiền tệ đòi hỏi phải có hệ thống các tổ chức tài chính hoạt động trên thị trường phát triển. 4. Phù hợp và thúc đẩy tiến trình hội nhập ? Trong giai đoạn hiện nay, sự hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ ngoài việc đáp ứng yêu cầu nội tại của nền kinh tế còn phải đáp ứng yêu cầu hội nhập và tự do hoá về tài chính. Để đáp ứng yêu cầu này, thị trường tiền tệ phải phát triển và lành mạnh. Thị trường tiền tệ trong nước phát triển sẽ thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế nói chung và tài chính nói riêng. Mức độ hội nhập, mở cửa về tín dụng, tiền tệ và các dịch vụ ngân hàng của Việt Nam cho đến nay chưa tương thích, thấp hơn mở cửa thương mại và các dịch vụ khác. Đồng thời mức độ hội nhập quốc tế về ngân hàng của Việt Nam còn rất hạn chế, thấp hơn nhiều so với khu vực và thế giới. Như vậy, thị trường tiền tệ Việt Nam phải phát triển theo hướng tiến tới hội nhập với khu vực và thế giới. II. Các giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ ở Việt Nam 1 Các giải pháp về môi trường pháp luật và cơ chế chính sách. 1.1 các giải pháp về môi trường pháp luật. Để thị trường tiền tệ phát triển thì viêc hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan, điều chỉnh thị trường tiền tệ là điều phải làm đầu tiên. Việc điều chỉnh, hoàn thiện các quy định đó gồm: 1.1.1 Hoàn thiện và phát triển nền tảng pháp lý cho hệ thống ngân hàng. Đặc biệt sửa đổi, bổ sung luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng (được Quốc hội khoá X thông qua ngày 12/12/1997 và có hiệu lực từ 1/10/1998). Thực tế có rất nhiều bất cập trong cách quy định của hai luật này. Đối với luật Ngân hàng Nhà nước, những hạn chế tập trung ở 4 khía cạnh chủ yếu. Đó là: ấ Quy định về vị thế của Ngân hàng Nhà nước (Điều1) nhấn mạnh chủ yếu là cơ quan của Chính phủ, nhấn mạnh chức năng quản lý Nhà nước trực tiếp, xem nhẹ vai trò là Ngân hàng Trung ương của các ngân hàng . ấ Cũng do nhấn mạnh quá mức chức năng quản lý nhà nước trực tiếp mà nhiều điều khoản trong luật thể hiện mức độ can thiệp sâu vào các quá trình nghiệp vụ và quyết định kinh doanh của các ngân hàng thương mại. ấ Các quy định pháp lý về vận hành các công cụ của chính sách tiền tệ như chiết khấu, tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất cơ bản quản lý ngoại hối … vừa thiếu vừa không rõ ràng, vừa mang tính hành chính, các quan hệ thị trường còn rất hình thức. ấMột số quy định cụ thể khác như quy định về lãi suất cơ bản, về công cụ nghiệp vụ thị trường mở , về quản lý kinh doanh vàng có thể xem xét để huỷ bỏ. …. Đối với Luật các tổ chức tín dụng, cũng có những quy định không phù hợp như: ấ Luật này có rất nhiều điều quy định: các ngân hàng thương mại thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, chính sách của Chính phủ như là một bộ phận của chính sách tài khoá. Việc cơ cấu lại các ngân hàng thương mại quốc doanh và hiện đại hoá các ngân hàng này theo nguyên tắc thị trường và chuẩn mực quốc tế đòi hỏi phải tách bạch tín dụng thương mại và tín dụng chính sách .Vì vậy cần xem xét bỏ và sửa các quy định trên. ấ Thêm vào đó, các điều khoản của luật này còn không quy định thống nhất với nhau về một nôị dung nào đó chẳng hạn: liên quan đến vấn đề giải thể tổ chức tín dụng: điều dễ nhận thấy khi xem xét Luật các tổ chức tín dụng là có sự mâu thuẫn khó hiểu và tối nghĩa: tại điểm c khoản 1 điều 29 quy định “tổ chức tín dụng bị thu hồi giấy phép khi bị giải thể” nhưng tại khoản 3 điều 99 lại quy định “ tổ chức tín dụng bị giải thể khi bị thu hồi giấy phép” tính logic của hai quy định này chẳng khác gì “trứng có trước hay gà có trước”. G Theo ý kiến của Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Trần Minh Tuấn : sau 2 năm lấy ý kiến về quá trình thực hiện 2 luật này, nhiều đơn vị thành viên đã đề nghị sửa đổi luật. Dự kiến Luật các Tổ chức tín dụng và luật Ngân hàng Nhà nước (sửa đổi) sẽ được trình Quốc hôị vào tháng 11/2003. I Sau đây là một vài ý kiến mà các nhà soạn luật cần quan tâm khi sửa đổi hai Luật Ngân hàng này: $ Hệ thống hoá, rà soát các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành hai luật về Ngân hàng từ đó nghiên cứu để thể chế hoá các văn bản dưới luật vào hai luật này. $ Sưu tầm, hệ thống hoá và phân tích các kiến nghị sửa đổi bổ sung trong các công trình khoa học hoặc góp ý của các đơn vị trong ngành Ngân hàng. $ Tổ chức nghiên cứu một số chuyên đề xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn phục vụ cho việc sửa đổi 2 Luật. $ Tham khảo nhưng phải có chọn lọc một cách thận trọng kinh nghiệm nước ngoài trong quá trình sửa đổi bổ sung hai luật. 1.1.2 Đối với các quy định pháp lý khác: ỉ Tăng cường cơ sở pháp lý nhằm xác định đúng quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng Nhà nước với ngân sách Nhà nước với các cơ quan nhà nước để tăng cường tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước. Định rõ và đầy đủ địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước. Đề cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong điều chỉnh vĩ mô đối với lĩnh vực tiền tệ- tín dụng, giám sát đối với toàn bộ hệ thống tín dụng, ngân hàng và thị trường tiền tệ. ỉ Đảm bảo đầy đủ quyền tự chủ kinh doanh cho các ngân hàng thương mại, các ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh bình đẳng trước pháp luật. Đây là một yêu cầu hết sức cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành viên tham trên thị trường tiền tệ. Như phần trên đã phân tích, sở dĩ các ngân hàng thương mại quốc doanh là các ngân hàng chuyên cho vay tiền Đồng trên TTNTLNH, là các ngân hàng hoạt động chủ yếu trên thị trường mở, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, TTNgTLNH vì các ngân hàng thương mại quốc doanh dễ dàng tiếp cận với các khoản vốn vay từ Ngân hàng Nhà nước hơn. Để các tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh ỉ Tạo môi trường pháp lý thuận lợi, thu hút nhiều chủ thể tham gia kinh doanh trực tiếp trên thị trường tiền tệ để thị trường tiền tệ hoạt động sôi động, phát triển thị trường thứ cấp, nâng cao khả năng điều hoà vốn ngắn hạn trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Các chủ thể cần thu hút, ngoài các tổ chức tín dụng còn có: các tổ chức tài chính phi ngân hàng (công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, công ty chứng khoán, …) các tổ chức phi tài chính (các doanh nghiệp…); các nhà môi giới, các nhà đầu tư tư nhân. Đặc biệt, cần sửa đổi quy chế hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở, cho phép các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng, thậm chí cả các cá nhân tham gia. Điều này sẽ giúp cho hoạt động của thị trường mở sôi động hơn, từ đó hình thành và phát triển thị trường tiền tệ thứ cấp. ỉ Sửa đổi, bổ sung và sớm ban hành những văn bản hướng dẫn pháp lệnh thương phiếu, cho phép các tổ chức tín dụng phát hành chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng …để tạo hàng hoá cho thị trường tiền tệ. 1.2 Đổi mới điều hành chính sách tiền tệ. @Theo chiến lược đổi mới hoạt động ngân hàng giai đoạn 2001-2010 các công cụ của chính sách tiền tệ phải tập trung theo hướng: ỹ Thứ nhất: ổn định và giảm dần tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi nội tệ. Sử dụng linh hoạt dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ để từng bước hạn chế và xoá bỏ tình trạng Đô la hoá. ỹ Thứ hai: sử dụng linh hoạt và thường xuyên hơn các công cụ chiết khấu, tái chiết khấu, đặc biệt là công cụ nghiệp vụ thị trường mở. Hình thành trên thị trường tiền tệ 4 loại lãi suất chủ yếu: ú Lãi suất tái cấp vốn khẩn cấp nhằm hỗ trợ khả năng thanh toán của các ngân hàng thương mại. ú Lãi suất đấu thầu trái phiếu Chính phủ hoặc tín phiếu Ngân hàng Nhà nước. ú Lãi suất cho vay qua đêm của các ngân hàng thương mại, lãi suất này xoay quanh lãi suất đấu thầu hối phiếu hoặc tín phiếu nói trên. ú Lãi suất tiền gửi của các ngân hàng thương mại tại Ngân hàng Nhà nước. Đây là 4 loại lãi suất quan trọng nhất mà các Ngân hàng Trung ương các nước đang áp dụng để thực thi chính sách tiền tệ và điêù hành lãi suất, tỷ giá hối đoái trên thị trường. ỹ Thứ ba: Chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối: cơ chế điều hành tỷ giá cần được đổi mới theo hướng linh hoạt hơn, gắn với thị trường hơn, tiến tới tự do hoá tỷ giá, làm cho hệ thống tỷ giá của ta bắt nhịp được với hệ thống tỷ giá khu vực và thế giới. Tiếp tục thực hiện chính sách quản lý ngoại hối theo hướng nới lỏng để thu hút đầu tư nước ngoài, từng bước giảm tỷ lệ kết hối tiến tới xoá bỏ. 2 Hoàn thiện các loại hình thị trường hiện có ở nước ta hiện nay. 2.1 Hoàn thiện và phát triển thị trường sơ cấp. @ Hiện nay, thị trường tiền tệ Việt Nam mới ở dạng sơ khai, hàng hoá trên thị trường còn nghèo nàn về chủng loại và thấp về chất lượng, phạm vi thị trường bó hẹp trong phạm vi các tổ chức tín dụng. Vì vậy, để phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam, trước hết phải hoàn thiện, phát triển thị trường tiền tệ sơ cấp: để hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ sơ cấp cần phải: ỉ Chuẩn xác hoá, đa dạng hoá các công cụ : đối với tín phiếu kho bạc có thể phát hành loại có kỳ hạn ngắn nhằm giảm thiểu rủi ro về lãi suất, tăng tính hấp dẫn, và nâng cao khả năng thanh khoản. Đối với chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xem xét các ngân hàng thương mại nào đủ điều kiện để cho phép họ phát hành chứng chỉ. Đối với thương phiếu, cần sửa đổi những bất cập như đã nêu ở trên để chúng sớm được ra đời. Ngoài ra đây cũng là thời điểm để Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh cho ra đời các công cụ ngắn hạn khác, phiếu thuận trả của ngân hàng. Cho phép giao dịch trái phiếu Chính phủ mà thời hạn đáo hạn còn lại dưới 1 năm. ỉ Mở rộng phạm vi thị trường, đa dạng hoá các chủ thể tham gia: thị trường tiền tệ hiện nay mới chỉ bó hẹp trong phạm vi các tổ chức tín dụng và các chủ thể hoạt động trên thị trường chủ yếu là các ngân hàng thương mạ. Với phạm vi hẹp như vậy, thị trường tiền tệ không thể thực hiện tốt chức năng cung ứng và điều hoà vốn ngắn hạn cho nền kinh tế được. Cần có biện pháp tạo môi trường thuận lợi thu hút các tổ chức và cá nhân trực tiếp tham gia hoạt động kinh doanh tiền tệ trên thị trường tiền tệ như các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm, doanh nghiệp, nhà đầu tư tư nhân. ỉ Hoàn thiện phương thức phát hành: các loại công cụ như tín phiếu kho bạc cần được phát hành đều đặn, với số lượng đủ lớn làm phát sinh và nuôi dưỡng các giao dịch trên thị trường. Hoàn thiện và phát triển thị trường thứ cấp. @Điều cơ bản để phát triển một thị trường nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng là giá cả hàng hoá (trong trường hợp thị trường tiền tệ là lãi suất) phải phản ánh được quan hệ cung cầu và môi trường cạnh tranh phải lành mạnh, sân chơi phải bình đẳng. Để phát triển thị trường thứ cấp, phải thực hiện bằng được các công việc chủ yếu sau: ỉ Thực hiện khẩn trương đề án hệ thống thanh toán liên ngân hàng kể cả thanh toán tổng (quầy điện tử) và thanh toán lẻ, coi đó là cơ sở hạ tầng quan trọng nhất của hệ thống thị trường thứ cấp. ỉ Cơ cấu lại và đổi mới cơ bản ngân hàng thương mại quốc doanh hoạt động theo nguyên tắc thị trường, buộc các ngân hàng này thực sự tham gia vào thị trường thứ cấp như là một hoạt động thiết yếu nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh và an toàn hoạt động. ỉ Tạo ra sự phong phú của hàng hoá bằng hai cách: thứ nhất: cho phép một số tổ chức tín dụng đủ điều kiện được phát hành các giấy tờ có giá ngắn hạn như chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng, thương phiếu…thứ hai:tổ chức thường xuyên hơn các phiên giao dịch, đấu thầu , chẳng hạn nghiệp vụ thị trường mở sẽ được tổ chức hàng ngày chứ không phải 2 phiên 1 tuần như hiện nay. ỉ Cơ sở vật chất của thị trường này phải được đầu tư hiện đại hơn để tạo sự nhanh chóng và dễ dàng cho các phiên giao dịch. Hoàn thiện, phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng. @Đi vào hoạt động từ tháng 7 năm 1993 nhưng đến nay quy mô thị trường này vẫn còn nhỏ, kém linh hoạt. Trong thời gian tới, để phát triển thị trường này cần tập trung thực hiện các vấn đề sau: ỉĐẩy mạnh việc củng cố hệ thống ngân hàng, tăng cường sức cạnh tranh tài chính giữa các ngân hàng và thực hiện giám sát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng nhằm đảm bảo sự lành mạnh và an toàn của cả hệ thống và tạo ra những thành viên có đủ uy tín trên thị trường. ỉáp dụng kỹ thuật , công nghệ thanh toán hiện đại để đảm bảo việc thanh toán , chuyển vốn được thực hiện nhanh gọn, chính xác có như vầy các giao dịch vay mượn rất ngắn từ 1 ngày đến 1 tuần mới có thể phát triển, đặc biệt là những giao dịch vốn qua đêm, một bộ phận chiếm tỷ trọng rất lớn trong thị trường liên ngân hàng. ỉTiếp tục củng cố và hoàn thiện việc cung cấp thông tin của trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng. ỉSửa đổi , bổ sung và ban hành lại các văn bản pháp quy về thanh toán bù trừ liên ngân hàng cho phù hợp với tình hình mới. Mở rộng cho phép các thành viên khác của thị trường tiền tệ được tham gia thanh toán bù trừ , nhất là các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Khuyến khích các tổ chức tín dụng hoàn thiện cơ sở vật chất , trang thiết bị kỹ thuật để tiến tới thực hiện phương thức thanh toán chuyển tiền điện tử trong toàn bộ hệ thống thay cho phương thức thanh toán thủ công và bán thủ công đang áp dụng. 2.3 Hoàn thiện thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thiết lập thị trường ngoại hối phát triển. ỉ Nâng cao vai trò giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại, nhất là trong việc chấp hành trạng thái ngoại tệ ở mức cho phép và việc tận dụng trạng thái ngoại tệ để đầu cơ kiếm lời. ỉThực hiện nới lỏng dần các quy định về quản lý ngoại hối cho phù hợp với thông lệ quốc tế, nhất là phù hợp với các quốc gia trong khu vực, như nới lỏng các quy định đối với quyền mua bán ngoại tệ của các tổ chức kinh tế, mở rộng phạm vi được vay ngoại tệ bao gồm cả vay ngoại tệ để thực hiện dự án , vay để kinh doanh xuất nhập khẩu, góp vốn liên doanh ra nước ngoài…không nên chỉ hạn chế cho vay nhập khẩu hàng hoá , dịch vụ từ nước ngoài như hiện nay. ỉNgân hàng Nhà nước cần chủ trì điều hành TTNgTLNH, đảm bảo mua hết nguồn ngoại tệ và bán đủ cho yêu cầu ngoại tệ giúp cho thị trường hoạt động được liên tục và thống nhất, tránh tình trạng một chiều:bán ngoại tệ cho Ngân hàng Nhà nước thì được nhưng khi cần mua ngoại tệ thì không được đáp ứng, hoặc được mua với số lượng ít không đủ nhu cầu thanh toán, từ đó gây nên những ách tắc trong hoạt động của TTNgTLNH. ỉCó sự phối hợp điều chỉnh lại việc thực hiện cơ chế mua bán các khoản thu, chi bằng ngoại tệ của ngân sách nhà nước theo hướng tập trung quản lý ngoại tệ về 1 đầu mối là Ngân hàng Nhà nước, tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý và điều hành ngoại tệ của mình và có điều kiện tăng lượng dự trữ ngoại tệ, nâng cao khả năng can thiệp vào thị trường khi cần thiết. Còn Bộ Tài Chính chỉ kiểm tra việc quản lý dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước (đúng như khoản 2 và 5 điều 38 luật Ngân hàng Nhà nước đã quy định). Theo đó khi có phát sinh các khoản thu ngân sách Nhà nước bằng ngoại tệ thì Bộ Tài Chính (đại diện là kho bạc Nhà nước) sẽ bán lại số ngoại tệ đó cho Ngân hàng Nhà nước thu nội tệ để hạch toán ghi thu quỹ ngân sách Nhà nước theo tỷ giá liên ngân hàng tại thời điểm đó. Khi có nhu cầu chi ngân sách Nhà nước bằng ngoại tệ thì Bộ Tài Chính sẽ mua ngoại tệ từ Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm đáp ứng đầy đủ, kịp thời lượng ngoại tệ cho ngân sách Nhà nước theo tỷ giá bán của TTNTLNH . Làm như vậy sẽ tạo được một số ưu điểm sau: ỹ Thứ nhất: tạo ra sự quản lý tập trung, thống nhất ngoại tệ, tập trung được lượng lớn đủ để cung ứng cho các doanh nghiệp nhập khẩu khi cần thiết, tránh để tồn một lượng lớn ngoại tệ khá lớn tại quỹ của ngân sách Nhà nước. ỹ Thứ hai: đảm bảo việc hạch toán chi ngân sách Nhà nước được kịp thời đầy đủ vì theo quy định hiện nay, khi phát sinh các khoản thu ngân sách Nhà nước bằng ngoại tệ tại các kho bạc Nhà nước quận, huyện thì đơn vị này chưa được hạch toán thu ngân sách ngay mà phải chuyển về kho bạc Nhà nước tỉnh, thành phố mới hạch toán thu ngân sách Nhà nước, nên các khoản thu ngân sách Nhà nước bằng ngoại tệ chưa được phản ánh kịp thời vào quỹ ngân sách Nhà nước. ỹ Thứ ba: tránh được việc hạch toán thu, chi tại cùng một thời điểm lại được thực hiện theo hai tỷ giá khác nhau: các khoản thu được hạch toán theo tỷ gía hạch toán do Bộ Tài Chính công bố trong khi các khoản chi lại theo tỷ giá bán do Ngân hàng Nhà nước công bố , do vậy việc theo dõi, hạch toán và báo cáo thu chi ngân sách Nhà nước khá phức tạp, thường xuyên phải điều chỉnh, xử lý các khoản chênh lệch về tỷ giá. ỉ Phát triển thị trường giao dịch có kỳ hạn, quyền chọn, hoán đổi, kỳ hạn …để các NH có thể thực hiện các biện pháp nghiệp vụ phògn ngừa rủi ro đối với trạng thái ngoại tệ của họ. Trong đó cần mở rộng kỳ hạn cuả các hợp đồng kỳ hạn từ 1-365 ngày chứ không nên chỉ giới hạn kỳ hạn từ 30-180 ngày như hiện nay. ỉ Hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ thị trường mở để Ngân hàng Nhà nước có điều kiện can thiệp kịp thời, bơm hoặc rút tiền ra khỏi lưu thông, giảm áp lực tỷ giá lên xuống khi cung cầu ngoại tệ căng thẳng. ỉNghiên cứu tổng thể các loại hoạt động kinh tế đối ngoại. Theo dõi kiểm soát luồng ngoại tệ để điều hành tỷ giá. Chú ý đến mối quan hệ gắn bó giữa tỷ giá và lãi suất, giữa tỷ giá và lạm phát, tỷ giá và cán cân thanh toán , dự trữ ngoại tệ vì: Hoạt động của thị trường ngoại hối gắn liền trực tiếp với diễn biến cán cân thanh toán vãng lai của đất nước. Cán cân thanh toán mất cân đối lớn và triền miên có thể tạo ra một gánh nợ và đe doạ trực tiếp đến an ninh tài chính quốc gia. Về lãi suất, việc duy trì đồng Việt Nam không nên chênh lệch quá xa so với lãi suất quốc tế, như vậy sẽ tạo ra sự ổn định trong việc lưu chuyển các dòng ngoại tệ qua đó góp phần ổn định tỷ giá và hoạt động thị trường. ỉCần đào tạo một đội ngũ cán bộ kinh doanh hối đoái tinh thông nghiệp vụ và có khả năng làm chủ được các giao dịch mới như giao dịch swaps, option, overnight, future contract… 2.4 Hoàn thiện thị trường mua bán các chứng khoán ngắn hạn. 2.4.1 Thị trường tín phiếu kho bạc. @Các tín phiếu kho bạc có độ rủi ro thấp nên cũng rất được ưa chuộng trên thị trường tiền tệ, mặt khác chúng là công cụ được sử dụng để bù đắp cho thiếu hụt ngân sách Nhà nước, nên có thể nói đây là bộ phận thị trường quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trên thị trường tiền tệ. Các kiến nghị đưa ra để hoàn thiện thị trường này bao gồm: ỉTổ chức đấu thầu tín phiếu kho bạc một cách đều đặn, thường xuyên hơn , đồng thời đảm bảo cung cấp cho thị trường số lượng tín phiếu đủ lớn để làm phát sinh và nuôi dưỡng các giao dịch mua đi bán lại. Tuy nhiên quy mô phát hành tín phiếu phải được đặt trong mối quan hệ với nhu cầu của ngân sách Nhà nước. ỉ Phát hành tín phiếu kho bạc với thời hạn khác nhau như 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng hoặc 1 năm (nhưng chủ yếu là loại 3 và 6 tháng) với mức lãi suất xấp xỉ bằng mức lãi suất của tiền gửi có kỳ hạn cùng loại của ngân hàng để khuyến khích các chủ thể đầu tư vào công cụ này. ỉ Đẩy mạnh, phát triển các giao dịch thoả thuận mua lại vì đây là phương thức giao dịch phổ biến nhất đối với tín phiếu kho bạc trên thị trường thứ cấp. Muốn vậy, cần sớm ban hành các quy chế giao dịch cũng như các mẫu cụ thể của các hợp đồng mua lại. ỉ Hạn chế phát hành tín phiếu kho bạc ghi danh, mở rộng phát hành tín phiếu kho bạc vô danh có thể chuyển nhượng để tạo điều kiện cho chúng được trao đổi mua bán trên thị trường thứ cấp , cũng là để phát triển nghiệp vụ thị trường mở. ỉ Có các quy chế nới lỏng để mở rộng thành viên tham gia, đặc biệt là các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Xác định lãi suất thầu một cách hợp lý, theo xát thực tế thị trường để thu hút các thành viên tham gia. Lãi suất này sẽ là căn cứ , cơ sở để tác động đến lãi suất phát hành trái phiếu Chính phủ trên thị trường chứng khoán và các loại lãi suất cho vay ưu đãi khác từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Kinh nghiệm nước ta trong những năm qua cho thấy việc cố giữ lãi suất tín phiếu kho bạc thấp hơn lãi suất thị trường đã làm giảm đáng kể khối lượng tín phiếu bán ra và cản trở sự phát triển của thị trường thứ cấp. Do vậy, rất cần sự phối hợp giữa Bộ Tài Chính và Ngân hàng Nhà nước trong việc xây dựng tiêu chí và phương thức hình thành lãi suất cho phù hợp với thị trường. ỉĐẩy mạnh công tác môi giới trung gian các giao dịch mua bán lại tín phiếu sau khi đấu thầu cũng như công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến nghiệp vụ đấu thầu và mua bán lại sau khi đấu thầu. ỉPhát triển nghiệp vụ thị trường mở để tạo thị trường thứ cấp cho tín phiếu kho bạc hoạt động. ỉĐảm bảo sự hợp tác chặt chẽ giữa Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài Chính trong việc xây dựng kế hoạch và tổ chức phát hành tín phiếu kho bạc qua Ngân hàng Nhà nước một cách đều đặn, đồng thời đảm bảo sự phù hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. 2.4.2 Thị trường tín phiếu Ngân hàng Nhà nước. @Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước là công cụ có ruỉ ro thấp nên cũng được ưa chuộng trên thị trường tiền tệ. Tuy nhiên, khi mà bội chi ngân sách còn lớn, lạm phát trong tầm kiểm soát thì không nên phát hành công cụ này mà chủ yếu tập trung vào tín phiếu kho bạc Nhà nước. Việc phát hành song song tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và tín phiếu kho bạc vừa gây tốn kém cho ngân sách Nhà nước đồng thời lại tạo ra sự cạnh tranh không cần thiết và làm chia rẽ thị trường vốn ngắn hạn, Ngân hàng Nhà nước chỉ nên sử dụng công cụ này khi muốn thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, rút bớt tiền trong lưu thông để kìm chế lạm phát. Khi đó, để thị trường này hoạt động có hiệu quả cần tuân thủ các nguyên tắc sau: ỉ Thực hiện hình thức tín phiếu Ngân hàng Nhà nước ghi sổ để tạo điều kiện thuận tiện cho việc mua bán, chuyển nhượng trên thị trường thứ cấp. ỉCải tiến và thực hiện các thể thức mua lại thuận lợi thông qua phương thức tái cấp vốn, tái chiết khấu ngắn hạn để khuyến khích các ngân hàng mua tín phiếu Ngân hàng Nhà nước thay vì bắt buộc các ngân hàng phải mua như thời gian qua. 3 Nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành viên tham gia 3.1 Nâng cao năng lực hoạt động của Ngân hàng Nhà nước, xây dựng 1 Ngân hàng Nhà nước mạnh, có tầm cỡ. @ Với tư cách là Ngân hàng Trung ương, Ngân hàng Nhà nước trước hết phải tập trung thực hiện tốt các chức năng của một Ngân hàng Trung ương trong hoạt động của thị trường tiền tệ, phải đảm bảo là người can thiệp cuối cùng vào thị trường. Khi can thiệp, Ngân hàng Nhà nước chỉ nên sử dụng các công cụ quản lý gián tiếp để tác động, chi phối. Muốn vậy, phải tiến hành cải tiến và xây dựng hệ thống các công cụ chính sách tiền tệ hù hợp với điều kiện nước ta hiện nay, đặc biệt là các công cụ gián tiếp. ỉTrong điều hành, cần phải tôn trọng các quy luật khách quan và cơ chế thị trường trường. Đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh cho các tổ chức ngân hàng, tín dụng. ỉ Xây dựng chiến lược tổng thể để có kế hoạch, bước đi, chính sách phù hợp trong quá trình tạo dựng, phát triển thị trường tiền tệ. ỉ Đảm bảo bình đẳng theo pháp luật đối với mọi loại hình ngân hàng và tổ chức tín dụng, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh- đây là một tiền đề quan trọng cho thị trường tiền tệ phát triển. ỉThiết lập hệ thống thông tin, báo cáo mới giữa Ngân hàng Nhà nước với các Bộ, ngành và chính quyền địa phương để phôí hợp điều hành chính sách tiền tệ. ỉHiện đại hoá công nghệ thanh toán, xây dựng trung tâm thanh toán quốc gia tại Ngân hàng Trung ương, phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt để đảm bảo tính hiệu quả và tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn trong nền kinh tế. ỉTiến hành rà soát và bãi bỏ những công văn, chỉ thị trường , quyết định không còn phù hợp với tình hình hiện tại để tạo ra sự đồng bộ, thống nhất trong chính sách tiền tệ. ỉTừng bước cải tiến mô hình tổ chức, cấu trúc lại hệ thống ngân hàng từ trung ương đến địa phương theo hướng tinh giảm biên chế, khắc phục chồng chéo. 3.2 Chấn chỉnh, củng cố toàn diện hệ thống ngân hàng thương mại phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. @Trong nền kinh tế hội nhập, lĩnh vực tài chính ngân hàng được coi là nhạy cảm và dễ bị tổn thương nhất. Hiệp định thương mại Việt -Mỹ có hiệu lực, Việt Nam phải đối xử bình đẳng với các ngân hàng thương mại từ các nước khác tham gia kinh doanh loại hình dịch vụ này. Các ngân hàng ở Mỹ và EU thường rất mạnh, một chi nhánh của họ vốn tối thiểu là 15 triệu USD (theo Luật tổ chức tín dụng), nhưng ngân hàng mẹ thì vốn hàng tỷ USD. Trong khi đó, một ngân hàng thương mại quốc doanh của Việt Nam hiện nay vốn pháp định chỉ khoảng 80 triệu USD. Vì vậy, để thị trường tiền tệ tiếp tục phát triển thì việc tạo ra hệ thống ngân hàng thương mại vững mạnh, hiệu quả, sức cạnh tranh cao có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nhiệm vụ trong tâm hiện nay và những năm tiếp theo là phải đẩy mạnh và kiên quyết lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng, Để đạt được mục tiêu này cần: ỉCó biện pháp nâng cao tiềm lực tài chính, mức vốn tự có cho các ngân hàng thương mại. Đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh có thể bổ sung vốn tự có từ các nguồn sau: +Thực hiện cổ phần hoá một số ngân hàng thương mại quốc doanh để tăng vốn. + Phát hành trái phiếu Chính phủ để lấy nguồn bổ sung hoặc Ngân hàng Nhà nước cho vay dưới hình thức tái cấp vốn để tăng tiềm lực tài chính. + Cho phép các ngân hàng giữ lại một phần hoặc toàn bộ khoản nộp về sử dụng vốn ngân sách Nhà nước. Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần: + Giải thể hoặc sáp nhập các đơn vị yếu kém. + Thí điểm gọi vốn nước ngoài thông qua bán cổ phiếu cho người nước ngoài. + Phát hành cổ phiếu mới. +Tăng quy định về vốn pháp định đối với loại hình ngân hàng thương mại cổ phần ỉCủng cố và lành mạnh hoá tài chính của các ngân hàng thương mại trên cơ sở: +Cơ cấu lại nợ, thống kê phân loại nợ, phần nợ cho vay những Ngân hàng Nhà nước sẽ được tách bạch rõ ràng để xử lý. + Cải thiện chất lượng quản lý tài sản nợ của các ngân hàng thương mại đặc biệt là phân định rõ bản chất và mức độ rủi ro của các loại tài sản, tăng cường giám sát quản lý thu hồi nợ, cải tiến điều kiện tín dụng, trích lập quỹ để bù đắp các khoản vốn thất thoát. + Ban hành cơ chế xử lý tài sản thế chấp, phát triển các công ty mua bán nợ để tạo điều kiện cho các ngân hàng tiến hành phát mại được tài sản thế chấp do thu hồi các khoản nợ. +Xác định ngân hàng thương mại thực sự là ngân hàng thương mại: tách bạch chức năng chính sách ra khỏi thươg mại. Loại bỏ độc quyền nhằm tạo điều kiện và sức ép nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại quốc doanh. ỉáp dụng hệ thống kế toán theo thông lệ quốc tế , thực hiện kiểm toán định kỳ và công khai tài chính đối với các ngân hàng thương mại. ỉSớm thực hiện đề án ứng dụng công nghệ tin học vào dịch vụ thanh toán của toàn bộ hệ thống ngân hàng. ỉNâng cao năng lực quản trị, kinh doanh của ngân hàng thương mại, áp dụng các công cụ và cách thức quản lý mới cho phù hợp và theo kịp các nước trong khu vực. Đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo, nâng cao trình độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ, xử lý nghiêm minh những tổ chức và cá nhân có sai phạm. 3.3 Thành lập và phát triển các tổ chức môi giới trên thị trường tiền tệ. @ Để phát triển thị trường tiền tệ, cần thiết phải lập một mạng lưới các công ty môi giới. Trước mắt, nên thiết lập bộ phận môi giới tiền tệ như là một phòng ban của các công ty tài chính, công ty chứng khoán trực thuộc các ngân hàng thương mại. Như vậy, các công ty này có thể vừa môi giới trên thị trường tiền tệ, vừa môi giới trên thị trường chứng khoán bởi vì thời gian đầu cả 2 loại thị trường này đều chưa phát triển, việc môi giới chưa phức tạp. sau này khi thị trường tiền tệ đã phát triển thì có thể tách bộ phận này ra thành một công ty môi giới riêng hoạt động trên thị trường tiền tệ. Điều quan trọng là các công ty môi giới này phải được pháp luật thừa nhận. Khi thị trường phát triển đến một mức độ nhất định thì mạng lưới môi giới sẽ tự động phát triển theo như là một tất yếu của thị trường. 3.4 Hình thành và phát triển một số quỹ của thị trường tiền tệ. ỉCho phép thành lập Quỹ tương trợ thị trường tiền tệ dành cho những người gửi tiền nhỏ. Quỹ này sẽ phát hành các cổ phếu với một giá cố định (với số tiền 100.000 trở lên chẳng hạn) và sau đó sẽ dùng tiền huy động được để đầu tư vào các công cụ của thị trường tiền tệ như tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi , thương phiếu…như vậy sẽ mang lại cho người đầu tư một khoản lãi. Vì các cổ phiếu này không phải là tiền gửi nên không phải chịu các quy định về dự trữ bắt buộc do vậy chúng mang lại cho người đầu tư lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi không thanh toán , đồng thời chúng lại dễ chuyển nhượng vì mệnh giá nhỏ nên chúng có ưu thế phát triển. ỉThành lập quỹ trợ cấp việc làm và hưu trí. Quỹ này sẽ hoạt động kinh doanh trên cơ sở thu hút các nguồn vốn dự phòng mất việc làm hoặc khi nghỉ hưu. Trong cơ chế thị trường, rủi ro mất việc làm lớn và việc nghỉ do hết tuổi lao động hoặc trình độ không còn phù hợp là tất yếu, cho nên, nó sẽ là thị trường lớn cả trong hiện tại và tương lai. Mô hình này cũng sẽ đáp ứng một phần việc thay thế hình thức bảo hiểm xã hội hiện nay. Không những thế nó còn thu hút thêm nguồn vốn, đa dạng các loại hình kinh doanh bảo hiểm, đồng thời một lượng tiền tệ tạm thời nhàn rỗi được đầu tư vào thị trường tiền tệ sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường tiền tệ nước ta. 4. Đa dạng hoá và phát triển các công cụ của thị trường tiền tệ ? Công cụ của thị trường tiền tệ là hàng hóa của thị trường tiền tệ. Muốn thị trường tiền tệ phát triển thì hàng hoá của thị trường phải đa dạng, phong phú. Nhưng trên thực tế, như đã phân tích ở trên, hàng hoá của thị trường tiền tệ Việt Nam quá ít về chủng loại: chỉ có tín phiếu kho bạc Nhà nước và tín phiếu Ngân hàng Nhà nước được giao dịch . Còn các loại hàng hoá khác mới chỉ được điều chỉnh dưới dạng văn bản hoặc chưa có văn bản nào đề cập đến. Để phát triển thị trường tiền tệ nước ta, cần phải củng cố, hoàn thiện các công cụ đã có, đồng thời phải tạo thêm công cụ mới phù hợp với trình độ phát triển của thị trường tiền tệ. ỉĐối với chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng và thương phiếu, công cụ: cần nhanh chóng sửa đổi những bất hợp lý như đã nêu ở chương 2, tiến hành kiểm tra, giám sát tài chính đối với các tổ chức tín dụng để phân loại tổ chức tín dụng, đối với các tổ chức tín dụng đủ điều kiện thì Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép các tổ chức tín dụng này phát hành 2 loại công cụ trên. ỉĐối với các hợp đồng mua lại, phiếu thuận trả của ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước cần nhanh chóng soạn thảo và lấy ý kiến đóng góp để các công cụ này được đi vào thực tiễn. ỉĐối với tín phiếu kho bạc Nhà nước và tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, cần tổ chức thường xuyên hơn các phiên đấu thầu để tạo nhiều hàng hoá cho thị trường thứ cấp. ỉ Ngoài ra, để mở rộng hàng hoá cho thị trường tiền tệ, nên quy định cho các loại giấy tờ có giá khác hiện có ở Việt Nam như trái phiếu trung và dài hạn mà thời gian đáo hạn của chúng còn dưới một năm. 5.Hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực. ? Một nguyên nhân quan trọng khiến thị trường tiền tệ Việt Nam chậm phát triển là do lực lượng cán bộ hoạt động kinh doanh tiền tệ tại các tổ chức tín dụng còn yếu kém về năng lực và trình độ. Hầu hết là được đào tạo trong thời kỳ nền kinh tế được quản lý theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, vì vậy họ rất lúng túng khi chuyển sang hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường. Do đó cần có các giải pháp đồng bộ đào tạo đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ : ỉNhanh chóng nâng cao kiến thức về lĩnh vực tiền tệ cho họ thông qua đào tạo và đào tạo lại. ỉXây dựng các mô hình thực hành, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ; ban hành quy chế, quy trình hoạt động đối với cán bộ kinh doanh tiền tệ; tiến hành khen thưởng và xử phạt nghiêm minh. ỉThường xuyên thực hiện việc kiểm tra , kiểm soát và thực hiện luân phiên cán bộ thanh tra để hạn chế những tiêu cực. Bên cạnh việc nâng cao năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ, hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật cũng là một yêu cầu rất cấp bách. Kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường , hoạt động của các chủ thể kinh doanh trên thị trường tiền tệ đặc biệt là các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước, kho bạc Nhà nước đã được hiện đại hoá, tuy nhiên còn thấp so với yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động và còn khoảng cách khá xa so với khu vực và thế giới. Vì vậy, cần hiện đại hoá hoạt động kinh doanh tiền tệ nhằm tiến tới hội nhập với thị trường tiền tệ khu vực và thế giới. Trong đó cần hiện đại hoá hệ thống thông tin . < Như vậy, hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam là một trong những yêu cầu cấp thiết đặt ra cho chúng ta trong giai đoạn hiện nay; vì một đặc điểm cơ bản diễn ra trong các nền kinh tế hiện này là xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập, mà trong bối cảnh hội nhập thì tài chính tiền tệ là lĩnh vực nhạy cảm, dễ bị ảnh hưởng nhất. Các giải pháp ấy phải đáp ứng nhu cầu về vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, phải tạo môi trường thuận lợi cho chính sách tiền tệ hoạt động có hiệu quả, phải phù hợp và thúc đẩy tiến trình hội nhập. Các giải pháp ấy là: hoàn thiện nền môi trường pháp luật liên quan, đổi mới điều chỉnh chính sách tiền tệ; hoàn thiện phát triển thị trường tiền tệ hiện có ở nước ta như thị trường tiền tệ sơ cấp, thứ cấp, thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường mua bán các chứng khoán ngắn hạn; nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành viên; đa dạng các công cụ của thị trường tiền tệ và hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực. Kết luận Đối với nền kinh tế Việt Nam, vốn và hiệu quả sử dụng vốn luôn đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Điều này lại phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả của thị trường tài chính trong đó có thị trường tiền tệ. Hiện nay, thị trường tiền tệ Việt Nam vẫn ở dạng sơ khai: phạm vi của thị trường hạn hẹp, chủ yếu trong phạm vi các tổ chức tín dụng; hàng hoá nghèo về chủng loại và chất lượng, tính chuyển nhượng thấp; môi trường pháp lý liên quan còn thiếu, không đồng bộ và có nhiều bất cập. Chính vì vậy tính linh hoạt, khả năng luân chuyển, điều hoà vốn ngắn hạn của thị trường tiền tệ Việt Nam kém; hiệu lực thực thi của các chính sách tiền tệ hạn chế… Do đó, tìm ra các giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam là một yêu cầu bức xúc. Để thúc đẩy thị trường tiền tệ Việt Nam phát triển, trước hết cần tạo ra môi trường pháp luật và cơ chế chính sách thuận lợi cho các chủ thể hoạt động kinh doanh tiền tệ, hình thành các hàng hoá mới. Đối với các loại thị trường hiện có thì cần hoàn thiện cơ chế hoạt động, phương thức giao dịch, thanh toán, hiện đại hoá công nghệ…. Với một hệ thống các giải pháp đồng bộ nêu trên sẽ làm tăng tính linh hoạt và khả năng luân chuyển vốn của thị trường tiền tệ Việt Nam từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tài liệu tham khảo: Luật Ngân hàng Nhà nước được thông qua ngày 12/12/1997, có hiệu lực từ 1/10/1998. Luật các tổ chức tín dụng được thông qua ngày 12/12/1997, có hiệu lực từ 1/10/1998. Nghị quyết hội nghị Trung ương 2 khoá VI tháng 6/1987. Pháp lệnh thương phiếu số 17/1999/PL-UBTVQH10 ngày 24/12/1999. Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Nghị định số 32/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 5/7/2001 về hướng dẫn chi tiết thi hành pháp lệnh thương phiếu. Thông tư liên bộ số 01 NHNN-TC ngày 10/2/1995 của Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài Chính hướng dẫn về việc tín phiếu kho bạc Nhà nước. Quyết định số 132/QĐ-NH14 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước tháng 7/1993 về TTNTLNH. Quyết định 190/QĐ-NHNN14 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 6/10/1993 về TTNTLNH. Quyết định 203A/QĐ-NH13 ngày 15/10/1994 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước về TTNgTLNH. Quyết định số 101/1999/QĐNHNN13 ngày 26/3/1999 về quy chế tổ chức hoạt động của TTNgTLNH. Quyết định số 362/1999/QĐ-NHNN1 ngày 8/10/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về quy chế phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước. Quyết định 51/1999/QĐ-NHNN1 ngày 10/2/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về quy chế dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Quyết định 85/200/QĐ-NHNN14 ngày 9/3/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế nghiệp vụ thị trường mở. Sách “Tiền tệ, ngân hàng và tài chính” của Frederic.S.Minshkin, NXB khoa học kỹ thuật. Sách “Lý thuyết tài chính” ,NXB tài chính năm 2000. Giáo trình “Lý thuyết tài chính-tiền tệ” của trường ĐH Ngoại Thương, NXB giáo dục. Giáo trình “Thanh toán quốc tế trong ngoại thương” –PGS Đinh Xuân Trình, NXB giáo dục. Tài liệu “ Báo cáo tóm tắt những nội dung cơ bản của chiến lược đổi mới hoạt động ngân hàng giai đoạn 2001-2010. Tạp chí “Ngân hàng” số 1,2 năm 2000; số 1,2 ,12 năm 2001, số 1,2,3,4,5,6,7,8,9,10, năm 2002. Tạp chí “tài chính” số 4,7,10 năm 2001; số 1,2,3,4,5,6,7,8,9 năm 2002. Báo “Tài chính Việt Nam” ngày 24/4/2002. Thông tin của trung tâm truyền tin và dữ liệu VASC Orient. Thông tin trên mạng: www.vietcombank.com.vn ; www.icb.com.vn Chương I Những vấn đề cơ bản về thị trường tiền tệ Chương II Thực trạng thị trường tiền tệ Việt Nam Chương III Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docsua.doc
Tài liệu liên quan