Khóa luận Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam sau khi gia nhập WTO

Thành tựu của ngành công nghiệp dệt may là một điểm sáng dễ nhận thấy trong sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trước và sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Ngành công nghiệp dệt may, với tư cách là một ngành công nghiệp chủ lực, đã đóng góp rất nhiều vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá và chiến lược phát triển kinh tế chung của đất nước. Với những điều kiện, lợi thế nhất định, ngành dệt may Việt Nam trong những năm qua không chỉ đóng góp đáng kể vào việc phục vụ nhu cầu trong nước, giải quyết việc làm, mà còn tạo ra nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước. Hơn thế nữa, ngành dệt may Việt Nam đã tự vươn lên, khẳng định mình, chiếm được chỗ đứng trên thị trường dệt may thế giới. Việc trở thành ngành công nghiệp có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất cả nước và lọt vào top 10 quốc gia xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới là phần thưởng xứng đáng cho những nỗ lực của ngành dệt may. Tuy nhiên, những thành công bước đầu của ngành dệt may sau 1 năm gia nhập WTO chưa phải là một sự đảm bảo vững chắc cho sự phát triển của ngành trong tương lai. Chúng ta không thể phủ nhận thực tế là tuy có những điều kiện, lợi thế nhất định, song ngành dệt may còn không ít những yếu điểm, hạn chế cần khắc phục. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam còn rất yếu so với các đối thủ cạnh. Những hạn chế về vốn, nguồn nhân lực, khả năng cung ứng nguyên phụ liệu đầu vào, hoạt động marketing, cũng như những bất cập về mặt chính sách và nhiều hạn chế khác đã khiến cho năng lực cạnh tranh của ngành dệt may bị suy giảm và thấp hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Nếu như trước đây những hạn chế nêu trên làm ngành dệt may khó khăn một, thì hiện nay, trong bối cảnh đất nước đã gia nhập WTO, điều này sẽ làm những khó khăn của ngành nhân lên gấp bội. Gia nhập WTO đem lại cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và cho ngành dệt may nói riêng rất nhiều cơ hội và thách thức. Những cơ hội về thị trường, dỡ bỏ hạn ngạch, khả năng tiếp cận vốn và công nghệ hiện đại sẽ luôn đi kèm với những thách thức về cạnh tranh gay gắt, nguy cơ đánh mất thị phần ngay trên sân nhà Trước bối cảnh mới với những cơ hội và thách thức đan xen, yếu tố quyết định đến thành công hay thất bại của ngành dệt may chính là năng lực cạnh tranh thực sự của ngành. Chỉ bằng cách phát huy nội lực, nâng cao năng lực cạnh tranh, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam mới có thể tự đứng vững trên đôi chân của mình, đón nhận những cơ hội và hạn chế những thách thức do quá trình hội nhập mang lại.

doc62 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1670 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam sau khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những nội dung, mục đích hoạt động chính của WTO. Vì vậy, tham gia vào WTO, Việt Nam hy vọng sẽ được tham gia vào nhiều chương trình hợp tác khoa học kỹ thuật và cũng sẽ nhận được nhiều hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ do các dự án đầu tư, liên doanh với nước ngoài mang lại. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có cơ hội nhập khẩu các máy móc, thiết bị chất lượng với giá cả cạnh tranh. Thứ bảy, tham gia vào WTO là cơ hội để Việt Nam thúc đẩy quá tình cải cách ngành dệt may trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh. Việc gia nhập WTO, thực hiện tự do hóa thương mại trong lĩnh vực dệt may đã đặt các doanh nghiệp vào cuộc cạnh tranh khốc liệt với các đối thủ khác. Điều này cũng là một động lực thúc đẩy Việt Nam đẩy nhanh việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, giải quyết những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, hoạt động chủ yếu dựa vào sự ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước. Đây chính là cơ hội để ngành dệt may cải cách, nâng cao khả năng cạnh tranh để có thể tồn tại trong một môi trường khắc nghiệt. 3.2.2 Tác động tiêu cực Thách thức lớn nhất đối với ngành dệt may là vấn đề cạnh tranh quốc tế. Ngành công nghiệp dệt may tuy ngày càng trở thành động lực thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển, nhưng nhìn chung khả năng cạnh tranh của ngành còn thấp so với các nước khác trong khu vực. Gia nhập WTO, chúng ta được hưởng các ưu đãi thương mại giành cho các thành viên. Đổi lại, chúng ta cũng phải thực hiện cắt giảm một loạt thuế quan, các loại trợ cấp cũng như dỡ bỏ nhiều rào cản thương mại- những rào cản cho đến nay được dựng nên nhằm bảo vệ các doanh nghiệp trong nước trước các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Nếu như cái được lớn nhất đối với ngành dệt may khi gia nhập WTO là thị trường xuất khẩu, thì đổi lại, các doanh nghiệp cũng phải chia sẻ thị trường nội địa với các đối thủ nước ngoài. Hàng rào bảo vệ thị trường nội địa bằng thuế nhập khẩu đã giảm đến mức tối đa theo cam kết của WTO. Thuế nhập khẩu hàng dệt may giảm ngay tức thì từ ngày 11/1/2007 (thuế nhập khẩu hiện hành 40% với hàng dệt và 50% với hàng may mặc sẽ được giảm còn bình quân khoảng 15%) Biểu cam kết thuế của Việt Nam. Bộ Công thương. . Việc cam kết giảm thuế đối với mặt hàng dệt may và cam kết mở cửa thị trường sẽ khiến cho ngành dệt may phải cạnh tranh khốc liệt ngay trên thị trường nội địa. Hàng dệt may nước ngoài, đặc biệt là Trung Quốc, sẽ có điều kiện thuận lợi để xâm nhập, cạnh tranh mạnh mẽ với hàng nội. Đối với ngành dệt, việc cắt giảm thuế đối với hàng nhập khẩu sẽ khiến ngành gặp rất nhiều khó khăn, vì khoảng cách về trình độ phát triển giữa ngành dệt Việt Nam và các nước khá xa nhau. Vì thế, nguy cơ mất thị phần ngay trên sân nhà là có thật khi mà ngành dệt may Việt Nam chưa thật chiếm lĩnh được thị trường nội địa (tỉ lệ tiêu thụ nội địa của ngành dệt may hiện chỉ đạt khoảng 25%- xem phần trước). Ngoài những tác động tiêu cực do việc cắt giảm thuế quan, những cam kết của Việt Nam về việc chấm dứt toàn bộ trợ cấp bị cấm đối với ngành dệt may ngay khi gia nhập WTO cũng khiến các doanh nghiệp dệt may vấp phải nhiều khó khăn, làm tăng sức ép cạnh tranh. Từ đây, các chính sách hỗ trợ của chính phủ giành cho ngành sẽ không còn nữa. Một ví dụ điển hình về ảnh hưởng của những cam kết bỏ trợ cấp cho ngành dệt may là việc chính phủ đã chấm dứt hiệu lực Quyết định số 55/2001/QĐ-TTg về Chiến lược phát triển và một số cơ chế chính sách hỗ trợ thực hiện Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010. Như vậy, ngành dệt may sẽ không còn được hưởng ưu đãi từ việc vay vốn từ Quỹ Tín dụng ưu đãi với lãi suất thấp để thực hiện các dự án đầu tư và không được hưởng trợ cấp của chính phủ nữa. Bên cạnh đó, những hỗ trợ về chi phí xúc tiến thương mại cho ngành lấy từ khoản lệ phí hạn ngạch do doanh nghiệp nộp, chế độ thưởng xuất khẩu cho các doanh nghiệp có thành tích tốt cũng sẽ không còn. Mặc dù số tiền trợ cấp thực tế của chính phủ cho ngành dệt may không nhiều (trong 4 năm thực hiện Quyết định số 55, tổng số tiền chính phủ chi để bù lãi suất cho khoản vay ưu đãi của ngành chỉ khoảng 4 triệu USD mỗi năm, nếu tính thêm gần 1 triệu USD để thưởng xuất khẩu và hỗ trợ chi phí xúc tiến thương mại thì tổng số tiền ngành dệt may được trợ cấp mỗi năm là gần 5 triệu USD, trong khi doanh thu xuất khẩu của ngành dệt may hàng năm đạt gần 5 tỷ USD) PV. “Ngành dệt may ở vị trí nào khi Việt Nam gia nhập WTO?”. www.baocongthuong.com.vn , tuy nhiên khi bỏ trợ cấp theo cam kết cũng khiến cho một số doanh nghiệp khó khăn hơn, nhất là những doanh nghiệp được vay nhiều tín dụng ưu đãi. Bên cạnh sức ép lớn ở thị trường nội địa, đối với thị trường xuất khẩu, việc chế độ hạn ngạch dệt may được dỡ bỏ, ngoài những tác động tích cực, đồng thời cũng đem lại thách thức lớn cho ngành dệt may khi phải cạnh tranh trực diện với các nước xuất khẩu dệt may lớn. Trước kia, chế độ hạn ngạch một mặt khống chế lượng hàng dệt may xuất khẩu của ta, nhưng mặt khác cũng bảo đảm cho các doanh nghiệp Việt Nam một thị phần nhất định, không bị cạnh tranh bởi các đối thủ khác. Giờ đây, lượng thị phần tối thiểu được đảm bảo bởi chế độ hạn ngạch không còn nữa, các doanh nghiệp Việt Nam buộc phải cạnh tranh trực tiếp với các đối thủ lớn từ Trung Quốc, Ấn Độ và nhiều nước khác, trong khi năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam đa phần còn rất hạn chế, chỉ một số ít doanh nghiệp lớn có đủ khả năng cạnh tranh, chiếm giữ lượng thị phần ổn định. Một thách thức nữa đối với ngành dệt may Việt Nam là khi không còn rào cản về hạn ngạch thì các rào cản thương mại khác sẽ được các nước nhập khẩu dựng lên, như các vấn đề về môi trường, chống bán phá giá... Các rào cản kỹ thuật như sức khỏe, môi sinh, môi trường, và các vụ kiện về chống bán phá giá từ các nước phát triển nhằm để bảo hộ cho ngành công nghiệp dệt may trong nước thường khiến cho việc sản xuất và xuất khẩu của các nước đang phát triển gặp nhiều khó khăn. Đối với ngành dệt may Việt Nam, nếu phải chịu thuế chống bán phá giá, các doanh nghiệp sẽ không thể xuất khẩu được và sản xuất trong nước có thể bị đình trệ. Thực tế năm 2007 đã chứng minh cho điều lo ngại này. Ngay khi Việt Nam được dỡ bỏ hạn ngạch khi xuất khẩu vào Mỹ theo đúng cam kết của WTO thì dưới áp lực của các nhà sản xuất trong nước, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) đã ra một rào cản mới. Đó là việc xây dựng cơ chế giám sát chống bán phá giá hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ. Mỹ đã đơn phương áp đặt chương trình này từ đầu năm 2007 đối với năm nhóm hàng dệt may của Việt Nam gồm quần, áo sơmi, đồ lót, đồ bơi và áo len. Đến tháng 11/2007, Mỹ vẫn duy trì “Cơ chế giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam” đến hết năm 2008. Việc này đã khiến các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thị phần tại Mỹ chịu nhiều thiệt hại, không chỉ số lượng đơn hàng bị giảm (một số nhà nhập khẩu lớn đã tỏ ra dè dặt khi đặt hàng các doanh nghiệp Việt Nam, thậm chí họ còn rút một số đơn đặt hàng đã đặt trước đây để chuyển sang nước khác ít bị rủi ro hơn) mà còn làm uy tín của các doanh nghiệp này giảm sút trên thị trường thế giới. Ngoài thị trường Mỹ, ở hai thị trường lớn khác là EU và Nhật Bản, các rào cản kỹ thuật như sức khỏe, môi trường ngày càng nghiêm ngặt cũng khiến cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam gặp nhiều khó khăn hơn trong việc đáp ứng yêu cầu về chất lượng sản phẩm và quy trình sản xuất. Có thể thấy, khi không còn rào cản hạn ngạch, các rào cản kỹ thuật cũng như môi trường, sức khỏe… hay những rào cản thương mại như vấn đề chống bán phá giá do các nước dựng lên cũng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc xuất khẩu cũng như khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới. CHƯƠNG III CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO Mục tiêu của ngành dệt may giai đoạn sau khi gia nhập WTO Ngành dệt may Việt Nam đã có chiến lược phát triển đến năm 2010 xuất khẩu đạt 9– 10 tỷ USD. Tuy nhiên, trong năm 2007, ngành dệt may đã đạt được những thành tích nổi bật với kim ngạch nhập khẩu đạt 7,8 tỷ USD, tăng 31% so với năm 2006, là 1 trong 10 nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Đây được coi là kết quả không thể tốt hơn trong năm đầu tiên Việt Nam thực hiện các cam kết WTO. Mục tiêu trước mắt của ngành dệt may Việt Nam trong năm 2008 là đạt 9,5 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu. Nếu mục tiêu này được hoàn thành thì Việt Nam sẽ hoàn thành kế hoạch năm 2010 trước 2 năm. Ngày 10/3/2008, Chiến lược phát triển ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 36/2008/QĐ-TTg. Chiến lược đưa ra mục tiêu cụ thể giai đoạn 2008-2010, ngành dệt may tăng trưởng sản xuất hàng năm từ 16-18%, tăng trưởng xuất khẩu đạt 20%. Giai đoạn 2011-2020, tăng trưởng sản xuất hàng năm từ 12-14%, tăng trưởng xuất khẩu đạt 15%. Doanh thu toàn ngành đến 2010 đạt 14,8 tỷ USD, tăng lên 22,5 tỷ USD vào năm 2015 và lên 31 tỷ USD trong đó, xuất khẩu đạt 25 tỷ USD vào năm 2020. Việt Nam cũng phấn đấu trở thành 1 trong 5 nhà xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới vào giai đoạn 2015- 2020. Để đạt được mục tiêu đó, trước mắt, ngành dệt may sẽ thực hiện một số chương trình trọng điểm từ nay đến 2010, bao gồm: chương trình đầu tư sản xuất nguyên liệu sản xuất xơ sợi tổng hợp cho nhu cầu dệt và sản xuất bông xơ nội địa đáp ứng 15% nhu cầu kéo sợi đến 2010; đầu tư phát triển 1 tỷ mét vải thoi phục vụ xuất khẩu vào 2015; đầu tư hạ tầng, xây dựng 3 khu công nghiệp dệt nhuộm có hạ tầng cấp nước sạch và xử lý nước thải để thu hút đầu tư; chương trình nhanh chóng thời trang hóa ngành dệt may. Số liệu từ Vinatex, Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may VN sau khi gia nhập WTO 2.1 Chính sách của nhà nước Gia nhập WTO đồng nghĩa với việc đặt các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vào sân chơi toàn cầu được điều chỉnh bởi các luật lệ, nguyên tắc, hiệp định đa dạng, phức tạp, đòi hỏi có sự thực hiện nghiêm túc. Vì vậy, về phía chính phủ, việc có những hỗ trợ cho ngành dệt may bằng các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô là cần thiết, nhưng phải được cân nhắc kỹ lưỡng và tiến hành một cách cẩn trọng. Biện pháp được xem là hữu hiệu và có tính chất lâu dài hiện nay là hỗ trợ doanh nghiệp bằng cách cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô, tăng cường xây dựng môi trường pháp luật, chính trị, kinh doanh lành mạnh. Điều quan trọng là các biện pháp này của nhà nước phải hợp pháp, không trái với các qui định, nguyên tắc của WTO và những cam kết của Việt Nam khi gia nhập tổ chức này. Trước tiên, về mặt quản lý hành chính, những cải cách về thủ tục hành chính nên được tiếp tục tiến hành theo hướng giảm bớt các thủ tục rườm rà, phức tạp. Các khâu trong việc cấp phép đầu tư đối với các dự án của ngành dệt may nên được đơn giản hoá hoặc giảm bớt nhằm rút ngắn thời gian xem xét các dự án, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào ngành. Mặt khác, nhà nước nên có những cải cách về cơ chế quản lý xuất nhập khẩu theo hướng đơn giản hoá, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khi xuất, nhập khẩu hàng hoá bằng cách giảm bớt các thủ tục xuất nhập khẩu, thủ tục thu thuế rườm rà, bất hợp lý, cải thiện công tác kiểm định chất lượng, rút ngắn thời gian chờ kiểm định… Về môi trường pháp luật, những mâu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống pháp luật, trong đó có Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp nên được tiến hành rà soát, sửa đổi theo hướng ngày càng thông thoáng và minh bạch hoá. Việc rà soát, sửa đổi nên được tiến hành dựa trên những nghiên cứu kỹ lưỡng các nguyên tắc, quy định chung của WTO và luật pháp quốc tế. Nếu những bất cập, yếu kém trong hệ thống pháp luật được điều chỉnh, sửa đổi sẽ giúp cải thiện môi trường pháp luật, môi trường kinh doanh trong nước, tạo điều kiện cho việc thu hút vốn đầu tư vào ngành dệt may cũng như tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước được hưởng lợi ích từ môi trường kinh doanh lành mạnh. Ngoài ra, còn một yêu cầu quan trọng hiện nay là nhà nước cần nhanh chóng ban hành đạo luật về hiệp hội doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các hiệp hội, trong đó có Hiệp hội dệt may nâng cao địa vị pháp lý, phát huy vai trò của mình. Nhà nước cũng nên mở rộng sự tham gia của Hiệp hội vào quá trình hoạch định chính sách và luật pháp, nên lấy ý kiến của Hiệp hội trước khi ban hành các văn bản pháp luật mới liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp dệt may. Về chính sách thuế, bên cạnh việc thực hiện nghiêm túc những cam kết với WTO về cắt giảm thuế, bãi bỏ các loại phí, lệ phí hải quan, tính lại mức phí phù hợp với quy định của WTO, việc duy trì chính sách thuế ổn định đối với các mặt hàng liên quan đến ngành dệt may cũng nên được chú trọng. Ngoài ra, bất kỳ điều chỉnh nào về thuế suất đối với các mặt hàng này cũng cần được cân nhắc và có thông báo trước, tránh tình trạng bị động cho các doanh nghiệp. Ngoài việc duy trì chính sách hoàn lại các khoản thuế gián thu, thuế xuất, nhập khẩu đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may, thì vấn đề truy thu thuế nhập khẩu phế liệu đối với các doanh nghiệp cần được cân nhắc kỹ lưỡng, sao cho hợp lý, đặc biệt trong bối cảnh ngành dệt may đang phải cạnh tranh để tồn tại trong bối cảnh gia nhập WTO: thuế nhập khẩu bị cắt giảm ngay với tỷ lệ cao, mọi trợ cấp bị bãi bỏ. Cụ thể là, mức thuế suất truy thu cần được tính toán lại, giảm bớt theo đúng giá trị của phế liệu chứ không phải ở dạng nguyên liệu nữa và việc truy thu cũng không nên áp dụng trong khoảng thời gian quá dài (5 năm) sẽ gây thiệt hại lớn cho các doanh nghiệp, ảnh hưởng đến chiến lược phát triển lâu dài của ngành nói chung. Ngoài ra, do dệt may là ngành công nghiệp trọng điểm, được ưu tiên, nhà nước nên có sự điều chỉnh, giảm nhẹ các điều kiện để được hưởng ưu đãi vể thuế, như bỏ bớt điều kiện về số lượng lao động (thay vì phải có đủ 3 điều kiện về ngành nghề, địa bàn, số lượng lao động sử dụng bình quân trong năm) Bộ Tài chính. Nghị định 164/2003/NĐ- CP và 152/2004/NĐ-CP, hướng dẫn thi hành chi tiết Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp (TNDN). . Như vậy, sẽ giúp cho các doanh nghiệp dệt may vừa và nhỏ dễ dàng đạt được những ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp. Ngoài ra, trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu, nhà nước cũng nên xem xét việc đưa ra những biện pháp hỗ trợ hợp pháp đối với hàng dệt may trong nước khi có sự cạnh tranh không lành mạnh của hàng nhập khẩu được sản xuất có sự trợ cấp của chính phủ nước xuất khẩu hàng hoá đó. Trường hợp cần thiết, nhà nước có thể áp dụng các biện pháp tự vệ để bảo vệ ngành dệt may trong nước theo những qui định của WTO. Bên cạnh đó, chính sách giá cũng nên được điều chỉnh hợp lý để giúp các doanh nghiệp dệt may có thể cắt giảm chi phí sản xuất ở mức tối ưu. Hiện tại, chi phí vận chuyển, điện, nước và nước thải đang áp dụng đối với các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam vẫn cao hơn so với mức trung bình của khu vực là 30-35% EU Economic and Commercial Counsellors, 2005 Report on Vietnam. . Đặc biệt, trước tình hình lạm phát cao như hiện nay thì việc bình ổn mặt bằng giá cả là một yêu cầu cấp bách nhằm tránh tình trạng giảm cạnh tranh của ngành dệt may do tác động của việc tăng chi phí sản xuất, vận chuyển. Vì vậy, nhà nước nên có những biện pháp ở tầm vĩ mô để bình ổn hoặc trong chừng mực nào đó, giảm bớt phí sử dụng cơ sở hạ tầng, giá điện, nước, nhiên liệu sao cho giá những dịch vụ này đối với ngành dệt may Việt Nam không quá chênh lệch so với các nước khác. Một yêu cầu quan trọng nữa là nhà nước cần có chính sách hỗ trợ và hướng dẫn, giúp đỡ các doanh nghiệp dệt may nhanh chóng xác lập và đăng ký tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tê (ISO 9000, ISO 14000, SA 8000…), bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, bản quyền, ghi nhãn, mã số, mã vạch theo quy chế và sớm đăng ký nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp tại thị trừơng quốc tế mà trước hết là các thị trường trọng điểm như Mỹ, EU, Nhật Bản. Đây là một việc làm cần thiết, đặc biệt khi Việt Nam đã là thành viên WTO, tham dự vào một sân chơi mới với những nguyên tắc, quy định phức tạp, khắt khe, vì nó giúp doanh nghiệp bảo vệ quyền lợi, thương hiệu, đồng thời là một công cụ đảm bảo cho uy tín, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp trước sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ lớn trên một sân chơi mới. 2.2 Các biện pháp của doanh nghiệp Về phía các doanh nghiệp, yêu cần đặt ra hiện nay là phải xây dựng được chiến lược kinh doanh và sản xuất phù hợp. Theo số liệu điều tra, hiện có tới 65% các doanh nghiệp chưa có chiến lược xuất khẩu hàng hoá cho riêng mình Nguyễn Văn Hồng, Đề tài NCKH cấp Bộ “ Một số giải pháp hoàn thiện công tác xây dựng chiến lược xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam”, 2005 . Có một số doanh nghiệp đã có chiến lược song nội dung lại chưa đầy đủ và thiếu khả thi. Để có một chiến lược xuất khẩu phù hợp, khắc phục được mặt hạn chế, nâng cao năng lực cạnh tranh một cách tối ưu, các doanh nghiệp cần nghiên cứu nghiêm túc, kỹ lưỡng nhằm tìm ra những biện pháp hữu hiệu. Dưới đây là các nhóm giải pháp cụ thể các doanh nghiệp có thể sử dụng để nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực xuất khẩu hàng dệt may. Cải thiện yếu tố đầu vào Về vấn đề vốn, theo Chiến lược phát triển ngành dệt may đến năm 2010, huy động vốn cho toàn ngành dệt may giai đoạn 2001-2005 là 35 ngàn tỷ đồng, 2006-2010 là 30 ngàn tỷ đồng. Trong đó, chủ yếu là vốn đầu tư nước ngoài và tư nhân. Trong 4 năm 2002-2005, nguồn vốn vay từ ngân sách nhà nước chỉ khoảng 1.900 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số vốn cần huy động Số liệu từ Hiệp hội dệt may Viêt Nam. http:// www.vietnamtextile.org.vn . Có thể thấy, nguồn vốn đầu tư từ khu vực tư nhân và nước ngoài đóng vai trò quan trọng nhất trong cơ cấu vốn của các doanh nghiệp dệt may, đặc biệt là sau việc chấm dứt hiệu lực của Quyết định số 55/2001/QĐ-TTg khiến nguồn vốn vay ưu đãi từ ngân sách nhà nước không còn nữa. Vì vậy, các doanh nghiệp cần có biện pháp thu hút vốn đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó chú trọng khai thác nguồn vốn từ khu vực tư nhân, đầu tư nước ngoài, các tổ chức tín dụng… Một mặt, các doanh nghiệp cần phát huy tối đa nội lực, thay đổi mô hình quản lý, huy động nguồn vốn trong nội bộ doanh nghiệp. Mặt khác, cần đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá để thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước, đẩy mạnh các hình thức liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài để thu hút nguồn vốn nước ngoài. Đồng thời, các doanh nghiệp cần phải có kế hoạch, biện pháp sử dụng vốn vay hiệu quả, tránh tình trạng lãng phí, ứ đọng vốn hoặc rơi vào cơ cấu vốn mạo hiểm. Về nguồn nhân lực, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn tự đánh giá đây là ưu thế lớn của ngành dệt may và quá phụ thuộc vào lợi thế này. Tuy nhiên, những đánh giá và kiểm chứng thực tế thị trường dệt may thế giới và Việt Nam kể từ khi Hiệp định ATC chấm dứt hiệu lực đã cho thấy lợi thế lao động rẻ và dồi dào không còn là yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh, mà thay vào đó là yếu tố năng suất lao động. Vì vậy, tăng năng suất và chất lượng lao động được coi là biện pháp tối ưu để tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Để khắc phục tình trạng nhân lực cho ngành dệt may vừa thừa, vừa thiếu do tay nghề, trình độ kém, các doanh nghiệp cần chú trọng việc đào tạo lao động, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý một cách bài bản thông qua việc phối hợp với nhà nước, hiệp hội ngành để huy động các nguồn lực, đầu tư mở rộng các hình thức đào tạo, hệ thống các cơ sở đào tạo bồi dưỡng tay nghề. Các doanh nghiệp cũng nên có sự hợp tác, liên kết với các doanh nghiệp may và các cơ sở đào tạo của các nước tiên tiến để cùng tham gia, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, học hỏi thêm kinh nghiệm từ các nước, xoá dần sự chênh lệch về trình độ, tay nghề lao động so với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng cần mạnh dạn cắt giảm số lao động dư thừa hoặc điều chuyển sang bộ phận phù hợp, tránh tình trạng lãng phí, sử dụng lao động kém hiệu quả. Ngoài ra, cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ các nhà thiết kế mẫu hiện đang rất thiếu và yếu bằng cách mở các lớp tập huấn, mời chuyên gia nước ngoài giảng dạy hoặc gửi sang đào tạo ở nước ngoài. Các doanh nghiệp cũng cần cân nhắc việc có những chế độ đãi ngộ, trả lương, thưởng phạt thích đáng để khuyến khích, phát huy năng lực của cán bộ, công nhân viên, mạnh dạn trả lương cao để thu hút những người có năng lực, chuyên môn, trong đó bao gồm cả những nhà quản lý, chuyên gia nước ngoài, tránh tình trạng chảy máu chất xám và tình trạng công nhân bỏ việc, bãi công. Về nguồn nguyên phụ liệu, đây được coi là vấn đề quyết định khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam. Nếu không giải quyết được vấn đề nguồn nguyên liệu thượng nguồn cho sản xuất hàng dệt may xuất khẩu thì ngành dệt may Việt Nam sẽ không thể cạnh tranh được với các đối thủ lớn, có khả năng tự cung cấp nguyên phụ liệu đầu vào như Trung Quốc, Ấn Độ, và như vậy, ngành dệt may Việt Nam sẽ mãi chỉ là công xưởng gia công cho ngành công nghiệp dệt may thế giới. Vì vậy, nhiệm vụ cơ bản và lâu dài hiện nay là phải đảm bảo được nguồn cung cấp nguyên liệu cho ngành dệt và ngành may. Đề làm được điều này, ngành dệt may cần tiếp tục triển khai chiến lược phát triển ngành đến năm 2010 và 2015, trong đó tập trung vào chương trình đầu tư sản xuất nguyên liệu sản xuất xơ sợi tổng hợp cho nhu cầu dệt và sản xuất bông xơ nội địa (mục tiêu đặt ra là đáp ứng 15% nhu cầu kéo sợi đến 2010); đầu tư phát triển 1 tỷ mét vải thoi phục vụ xuất khẩu vào 2015 Số liệu từ Vinatex, .Bên cạnh đó, ngành dệt may cần khẩn trương đầu tư hạ tầng, xây dựng trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu dệt may tại ba trung tâm lớn là Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng kết hợp với việc di dời sản xuất về các vùng phụ cận của ba trung tâm trên, tạo thành các cụm công nghiệp dệt may. Biện pháp này sẽ giúp giải bài toán hóc búa về đầu ra cho ngành dệt cũng như nguồn nguyên phụ liệu cho ngành may, tiến tới tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm may mặc xuất khẩu, tạo thành một chu trình sản xuất khép kín, đồng thời tạo được sự phối hợp, liên kết giữa các doanh nghiệp để cùng thực hiện được những đơn hàng lớn. Tuy nhiên, để xây dựng được những cụm công nghiệp dệt may qui mô như vậy, một mình ngành dệt may không thể thực hiện được mà cần có những hỗ trợ từ phía nhà nước. Vì vậy, nhà nước nên đưa ra một số biên pháp hỗ trợ như: việc khuyến khích, tạo điều kiện cho đầu tư FDI vào các lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn như xơ sợi, dệt nhuộm, hoàn tất và sản xuất phụ liệu nhằm cung cấp kịp thời nguyên liệu cho may xuất khẩu. Nhà nước cũng nên có những chính sách hỗ trợ di dời các xí nghiệp của ngành ra khỏi trung tâm thành phố về nông thôn để cân đối nhân lực vùng này với các khu công nghiệp. Về trang thiết bị và công nghệ, các doanh nghiệp dệt may, đặc biệt là các doanh nghiệp dệt cần tập trung vốn để đổi mới máy móc, công nghệ, giảm bớt tình trạng tiêu hao năng lượng, sản phẩm chất lượng kém do máy móc, thiết bị lạc hậu, cũ kỹ. Biện pháp trước mắt là ngành dệt may phải làm tốt công tác nhập khẩu máy móc, thiết bị phụ tùng sản xuất, đặc biệt chú trọng đến khâu thẩm định chất lượng công nghệ để nhập các thiết bị phù hợp, tránh tình trạng trở thành bãi rác công nghệ do nhập phải những máy móc, thiết bị lạc hậu, kém chất lượng từ các nước khác. Tuy nhiên, về lâu dài, ngành công nghiệp cơ khí phục vụ ngành dệt may cũng cần được chú trọng đầu tư phát triển, vì đây cũng được coi là một trong những ngành công nghiệp phụ trợ, cung cấp yếu tố đầu vào quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của ngành dệt may. 2.2.2 Nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm Yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh của hàng hoá chính là chất lượng sản phẩm và giá thành. Hiện nay, cả hai yếu tố này ngành dệt may Việt Nam đều còn thiếu và yếu. Để giải quyết tình trạng này ngành dệt may cần phải đạt được các mục tiêu sau: duy trì và nâng cao chất lượng sản phẩm ở mức cao và ổn định; nghiên cứu phát triển sản phẩm mới có chất liệu độc đáo, khác biệt; thiết kế và phát triển mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm mới; giảm giá thành, đưa ra được mức giá cạnh tranh. Để thực hiện các mục tiêu trên, cần phải có các giải pháp hoàn chỉnh, được thực hiện một cách đồng bộ. Thứ nhất, giải pháp nhằm nấng cao chất lượng sản phẩm. Như trên đã trình bày, nguyên nhân gây ra tình trạng chất lượng sản phẩm thấp (đặc biệt là sản phẩm dệt) là do máy móc thiết bị của ngành cũ kỹ, lạc hậu, không thể sản xuất được các loại vải đòi hỏi kỹ thuật cao, chất lượng ổn định. Vì vậy, trước tiên, ngành dệt may cần ưu tiên tập trung vốn để đầu tư thay mới máy móc, thiết bị để đảm bảo chất lượng sản phẩm đồng đều, đặc biệt là các máy móc thiết bị phục vụ ngành dệt như máy dệt khổ rộng, thiết bị kéo sợi với cọc sợi chải kỹ, chỉ số cao dùng cho dệt kim và vải cao cấp, thay mới dây chuyền nhuộm hoàn tất. Các doanh nghiệp cần thực hiện chuyên môn hoá sản phẩm để tăng năng suất và duy trì sự ổn định về chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, cần tiếp tục duy trì mở rộng và thường xuyên cải tiến hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn tiên tiến như ISO 9001:2000, ISO 14000, SA 8000… Bởi vì trong giai đoạn hội nhập, tham gia vào WTO, việc duy trì áp dụng các tiêu chuẩn này không những giúp doanh nghiệp dệt may vượt qua những rào cản kỹ thuật về thương mại (TBT) mà còn giúp doanh nghiệp tổ chức sản xuất kinh doanh hiệu quả, giảm thiểu sản phẩm hỏng, duy trì được chất lượng và tính ổn định của sản phẩm. Thứ hai, giải pháp nhằm nghiên cứu, phát triển các sản phẩm mới, độc đáo và khác biệt. Tham gia vào WTO, đối mặt với cuộc cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, cộng thêm với việc vòng đời các sản phẩm ngày càng ngắn lại, cạnh tranh về chất lượng và giá cả đạt tới mức cân bằng thì sự khác biệt của sản phẩm sẽ là yếu tố thu hút sự quan tâm của người tiêu dùng. Vì vậy, các doanh nghiệp cần chú trọng vào việc thành lập các trung tâm nghiên cứu, thiết kế, tạo ra những sản phẩm mới, có chất liệu độc đáo, khác biệt, gắn với những tính năng mới nhằm vừa kích cầu, vừa tránh bớt được áp lực cạnh tranh. Bên cạnh việc duy trì, củng cố các tính năng cơ bản của sản phẩm như: độ bền, độ hút ẩm, độ hấp thụ nhuộm,… các sản phẩm mới cần được tăng cường thêm các tính năng khác như sự thoải mái (trọng lượng nhẹ, chống nhàu, chống xước…), tính năng vệ sinh (chống khuẩn, chống mùi hôi, chống dị ứng…), tính năng an toàn (chống mưa, chịu nhiệt, chống sóng điện tử…) . Thứ ba, giải pháp nhằm phát triển mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm. Như đã đề cập ở trên, một trong những điểm yếu của hàng dệt may Việt Nam là kiểu dáng, mẫu mã nghèo nàn, trong khi đặc điểm của mặt hàng này lại mang tính thời trang cao, đòi hỏi mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng thường xuyên thay đổi. Muốn giải quyết tình trạng này, các doanh nghiệp cần phải tạo dựng và phát triển đội ngũ các nhà thiết kế thời trang thông qua việc thành lập các trung tâm đào tạo dưới hình thức liên kết đào tạo trong và ngoài nước, thông qua tuyển chọn từ các cuộc thi VN Collection. Việc đầu tư đào tạo chuyên sâu các nhà tạo mẫu, thiết kế thời trang là việc làm cần thiết, nhằm sáng tạo ra những sản phẩm riêng biệt đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng khó tính cũng như để định vị trên thị trường thế giới và làm tăng gía trị gia tăng của sản phẩm. Trong thời gian đầu, nếu chưa thể thành lập các trung tâm đào tạo quy mô, chất lượng, chúng ta nên kết hợp việc cử người đi đào tạo ở những nước có công nghiệp thời trang phát triển (như Italia, Pháp,…) và mời các chuyên gia nước ngoài sang làm việc, giảng dạy tại Việt Nam. Thứ tư, giải pháp nhằm hạ giá thành sản phẩm. Để góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp cần cố gắng giảm giá thành sản phẩm thông qua các biện pháp như tăng năng suất lao động, giảm chi phí cố định trong quản lý, tiết giảm tiêu hao năng lượng điện trong sản xuất. Đối với ngành dệt, cần thay cải tiến, thay mới các máy móc cũ tiêu hao nhiều hoá chất, thuốc nhuộm, dẫn đến chi phí cao. Các doanh nghiệp dệt may cũng cần xây dựng kê hoạch cắt giảm 15-20% tiêu hao năng lượng và giảm chi phí nguyên vật liệu trên một đơn vị sản phẩm. Một biện pháp hữu hiệu khác là thực hiện vịêc chia sẻ giữa các doanh nghiệp về chi phí tiếp thị, chi phí thông tin thị trường, nhằm hạ giá thành sản phẩm đến mức tối đa. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý và điều hành sản xuất vì nếu khâu điều hành, quản lý yếu kém sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới năng suất và chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Một điểm lưu ý nữa là, các doanh nghiệp, trong khi cố gắng giảm giá thành sản phẩm bằng cách cắt giảm chi phí sản xuất, cần phải đảm bảo chất lượng sản phẩm tốt. Các doanh nghiệp không nên vì muốn hạ giá thành mà làm giảm sút chất lượng sản phẩm, làm mất uy tín với khách hàng. Mặc dù giá cả là một yếu tố quan trọng trong cạnh tranh, nhưng đôi khi, sản phẩm có chất lượng cao cấp, kiểu dáng, mẫu mã sang trọng thì dù giá cao sẽ vẫn được khách hàng ưa chuộng hơn là sản phẩm giá rẻ nhưng chất lượng kém, mẫu mã không đẹp. Nâng cao hiệu quả hoạt động marketing, phát triển thị trường Mục tiêu lâu dài các doanh nghiệp may Việt Nam cần phấn đấu là có thể kinh doanh trực tiếp thay cho hoạt động gia công. Để thực hiện mục tiêu này, bên cạnh việc phải có sự đầu tư mạnh mẽ về tài chính để xây dựng những dây chuyền sản xuất lớn và chuyên nghiệp thì một yêu cầu hết sức quan trọng nữa là phải tiếp cận được với khách hàng, tạo dựng được thương hiệu riêng và duy trì, phát triển được thị trường. Muốn đạt được mục tiêu này, các doanh nghiệp cần phải thực hiện các giải pháp cho vấn đề marketing, phát triển thị trường và tạo dựng thương hiệu một cách đồng bộ. Kỹ năng và kinh nghiệm Marketing của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nói chung còn thấp. Mặc dù các doanh nghiệp đã nhận may gia công sản phẩm từ rất nhiều năm nay nhưng vẫn không thể tiếp cận được với khách hàng tiêu dùng những sản phẩm của mình, sản phẩm tuy sản xuất tại Việt Nam nhưng khi đến tay khách hàng lại dưới tên gọi, nhãn hiệu của các hang thuê chúng ta gia công. Nguyên nhân của tình trạng này là do đội ngũ làm công tác marketing của các doanh nghiệp còn rất yếu và thiếu, kinh nghiệm, kỹ năng làm việc hầu như không có, thêm vào đó là tình trạng thiếu thông tin về khách hàng, thị trường. Để giải quyết vấn đề này, các doanh nghiệp cần quan tâm nhiều hơn đến việc bồi dưỡng kỹ năng, nâng cao trình độ cho đội ngũ marketing. Về lâu dài, ngành dệt may cần có trung tâm đào tạo chuyên ngành dệt may nhằm đào tạo các chuyên viên cao cấp về: cán bộ mặt hàng (merchandiser), tiếp thị hàng hoá (markerter)… Bên cạnh đó, các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần hợp tác, chia sẻ với nhau trong các hoạt động thu thập thông tin, nghiên cứ thị trường, chi phí tiếp thị… Về vấn đề thị trường, trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO, chế độ hạn ngạch đã được dỡ bỏ, Việt Nam có cơ hội lớn để mở rộng thị trường. Tuy nhiên, sản phẩm dệt may Việt Nam lại đang vấp phải sự cạnh tranh gay gắt từ những đối thủ lớn cũng là thành viên WTO mà điển hình là Trung Quốc, đồng thời vấp phải khó khăn ở nhiều thị trường trọng điểm như việc Mỹ áp dụng cơ chế giám sát đối với hàng dệt may Việt Nam, Nhật Bản đạt được thoả thuận với sáu nước ASEAN về xoá bỏ thuế quan đối với hàng dệt may (đã đề cập ở chương II). Để tháo gỡ những khó khăn trên, ngành dệt may cần xây dựng chiến lược tập trung vào ba mục tiêu chính: duy trì thị phần trên các thị trường truyền thống, tìm kiếm thị trường mới và không để mất thị trường nội địa. Đối với mục tiêu thứ nhất, các doanh nghiệp cần có biện pháp riêng để tháo gỡ khó khăn ở từng thị trường. Ví dụ ở thị trường Mỹ, điều quan trọng là các doanh nghiệp cần thực hiện nghiêm túc cơ chế tự giám sát, hợp tác chặt chẽ với các nhà sản xuất Hoa kỳ để thực hiện các đơn hàng lớn, có giá trị và chất lượng cao, nhưng không được vượt quá khả năng sản xuất của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần tuyệt đối tránh nhận những đơn hàng đơn giản, giá trị thấp làm ảnh hưởng đến mức giá bình quân của cả nước, là cơ sở để phía Mỹ khởi kiện chống bán phá giá. Hiện nay, Bộ Công thương cũng đã thành lập tổ kiểm tra cơ động hàng dệt may xuất khẩu để kiểm tra đột xuất và có biện pháp xử lý mạnh đối với các doanh nghiệp có dấu hiệu nhận đơn hàng giá quá thấp, hoặc những đơn hàng vượt quá khả năng sản xuất của doanh nghiệp nhằm tránh hành vi gian lận thương mại và cạnh tranh không công bằng Vân Anh. “Mục tiêu 9,5 tỷ USD và những khó khăn của ngành dệt may”. T/chí Ngoại thương, số 2 và 3 (1/2008) . Nếu các biện pháp trên được thực hiện tốt sẽ phần nào giúp cho các doanh nghiệp dệt may vô hiệu hoá được cơ chế giám sát của Mỹ. Đối với thị trường Nhật Bản, một mặt, chính phủ Việt Nam cần tích cực đàm phán để ký kết Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam- Nhật Bản (VJEPA) trong năm 2008 theo đó hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản không chịu thuế suất. Tuy nhiên, do phía Nhật còn đang yêu cầu Việt Nam phải đảm bảo về xuất xứ “hai công đoạn” là sản phẩm phải được sản xuất từ nguồn nguyên liệu của Việt Nam, Nhật Bản hoặc các nước ASEAN- đây là yêu cầu khó vì khoảng 70% nguyên liệu của Việt Nam là nhập khẩu từ ngoài các thị trường trên. Để đối phó với vấn đề này, các doanh nghiệp nên thực hiện theo đề xuất sử dụng quy tắc xuất xứ cộng gộp ASEAN- Nhật Bản, bằng cách nhập nguyên phụ liệu từ hai thị trường này. Nếu thực hiện được đề xuất này, hàng dệt may của Việt Nam sẽ đáp ứng được tiêu chí giá Nhật Bản đưa ra và được hưởng thuế suất 0%. Đây là cơ sở để hàng dệt may Việt Nam cạnh tranh tốt hơn với các nước ASEAN và Trung Quốc, tăng thị phần trên thị trường Nhật Bản. Đối với thị trường EU, việc EU dỡ bỏ hạn ngạch cho Trung Quốc sẽ khiến thị phần của Việt Nam bị ảnh hưởng đáng kể. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều sản phẩm dệt- may của Trung Quốc bị từ chối hoặc đòi bồi thường vì không đảm bảo các tiêu chí về an toàn sức khỏe và môi trường Nguyễn Hoàng Khung. “Xuất khẩu dệt- may: Một năm vượt khó vươn lên”. T/chí Thương mại, số 1+ 2 (2008). . Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần xác định, với thị trường EU, hàng dệt may Việt Nam cạnh tranh với Trung Quốc về giá cả là rất khó bởi Việt Nam chưa có nguồn cung ứng nguyên liệu tại chỗ như Trung Quốc. Do đó, để cạnh tranh với hàng Trung Quốc, các doanh nghiệp Việt Nam cần đặt chất lượng và sự sáng tạo trên mỗi sản phẩm lên hàng đầu đối với sản phẩm xuất khẩu sang các nước EU. Các doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng sản phẩm, một mặt nhằm tranh thủ tạo dựng uy tín, lấy lại thị phần, đồng thời tránh nguy cơ hàng dệt- may của Việt Nam cũng nằm trong diện bị điều tra của EU và bị áp các biện pháp tự vệ hạn chế nhập khẩu. Ngoài ra, đối với thị trường EU, các doanh nghiệp cần chú trọng việc phân đoạn thị trường, tập trung vào các thị trường ngách với nhiều đối tượng khách hàng khác nhau nhằm tăng thêm thị phần. Doanh nghiệp cần đa dạng hoá cơ cấu sản phẩm để phục vụ nhiều đối tượng khách hàng như: dòng sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã sang trọng phục vụ khách hàng có thu nhập cao và dòng sản phẩm phục vụ khách hàng có thu nhập thấp, yêu cầu về chất lượng và mẫu mã cũng vừa phải. Trong đó, doanh nghiệp cần xác định mục tiêu lâu dài là tập trung vào sản xuất các sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã đa dạng, giá trị gia tăng lớn thay vì chỉ tập trung vào sản xuất, xuất khẩu các mặt hàng tầm trung như hiện nay nhằm gia tăng lợi nhuận và tránh cạnh tranh trực diện với Trung Quốc và các nước vốn cũng đang có ưu thế về xuất khẩu các mặt hàng bình dân. Bên cạnh việc duy trì các thị trường truyền thống, các doanh nghiệp cũng cần mở rộng xuất khẩu sang các thị trường mới như Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ… Trong bối cảnh gia nhập WTO, cơ hội về thị trường cho dệt may Việt Nam là rất lớn, vì vậy, các doanh nghiệp không nên quá chú trọng vào các thị trường truyền thống mà bỏ lỡ cơ hội ở nhiều thị trường mới, nhiều tiềm năng. Các doanh nghiệp nên đầu tư thoả đáng vào việc nghiên cứu, tìm hiểu thông tin nhằm tiếp cận nhiều thị trường mới. Giải pháp này vừa giúp Việt Nam gia tăng kim ngạch xuất khẩu, giảm bớt áp lực cạnh tranh trên các thị trường truyền thống, đồng thời giảm bớt rủi ro do các thị trường như Mỹ, EU áp dụng các biện pháp tự vệ hạn chế nhập khẩu, hoặc khởi kiện chống bán phá giá. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần tăng cường mối liên hệ với các tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới bởi các tập đoàn này có nhiều điều kiện trong việc thu thập thông tin về thị hiếu, kiểu dáng mới và mở rộng mạng lưới tiếp thị ra nhiều thị trường mới, đưa ra quyết định sản xuất với các doanh nghiệp. Đối với thị trường trong nước, ngành dệt may cần khẩn trương xây dựng và phát triển hệ thống phân phối, bán lẻ hàng dệt may của toàn ngành nhằm tránh để mất thị phần ngay trên thị trường nội địa. Thị trường trong nước với 36% là độ tuổi 23- 35 Nguồn số liệu từ Tổng cục thống kê, , với thu nhập ngày càng cao và nhu cầu mua sắm hàng may mặc lớn sẽ là thị trường bán lẻ hấp dẫn. Vì vậy, ngành dệt may cần nhanh chóng đầu tư, mở rộng mạng lưới phân phối, hệ thống các cửa hàng bán lẻ trên toàn quốc nhằm nhanh chóng nắm giữ thị trường nội địa trước khi các đối thủ cạnh tranh nước ngoài tràn vào. Tuy nhiên, dù xây dựng được đội ngũ marketing chuyên nghiệp, phát triển được nhiều thị trường nhưng hàng dệt may Việt Nam vẫn chỉ dừng ở mức độ may gia công thì vẫn không thể có chỗ đứng vững chắc trên thị trường quốc tế, và tất cả các nỗ lực trên sẽ đem lại lợi nhuận cho các nước trung gian chứ không phải cho các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy, vấn đề xây dựng, quảng bá thương hiệu vẫn là yếu tố then chốt để nâng cao năng lực cạnh tranh của dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế. Hiện nay, một số sản phẩm dệt may của Việt Nam đã xây dựng cho mình thương hiệu riêng trên thị trường trong nước và quốc tế như sản phẩm của May Việt Tiến, May 10, gấm Thái Tuấn… nhưng hầu hết đều chưa thật sự nổi tiếng và chưa nhiều. Để khắc phục tình trạng này, bước đầu các doanh nghiệp có thể tập trung quảng bá thương hiệu cho sản phẩm mình nhận may gia công để giành được đơn hàng, tạo uy tín với khách hàng. Sau đó, các doanh nghiệp phân loại các nhóm khách hàng, xác định tập trung vào nhóm khách hàng nào doanh nghiệp định hướng tới. Tiếp đến, các doanh nghiệp cần tập trung sản xuất các sản phẩm phù hợp với nhóm khách hàng đó. Khi sản phẩm đã có chỗ đứng, doanh nghiệp chọn các sản phẩm chủ lực để mua bản quyền thương hiệu, sau đó có thể liên kết sản xuất với các công ty lớn như các công ty thuộc Vinatex nhằm nâng cấp và đảm bảo chất lượng ổn định. Sau đó, các doanh nghiệp thực hiện chiến lược quảng bá thương hiệu và sản phẩm của mình trên các kênh như phương tiện truyền thông, website, triển lãm và hội chợ thời trang các nước TS. Võ Phước Tấn. “Các giải pháp chiến lược nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam”. T/chí Phát triển kinh tế, số 197 (2007). …Ngoài giải pháp mua lại bản quyền thương hiệu, các doanh nghiệp cũng cần chủ động trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, thiết kế, cho ra nhiều mẫu mã mới của riêng mình, chủ động tìm kiếm thị trường, tiếp cận khách hàng để tự gây dựng được thương hiệu cho riêng mình. Bên cạnh việc xuất khẩu thông qua thương hiệu và kênh phân phối của nước ngoài, ngành dệt may cũng cần nhanh chóng xây dựng kênh phân phối riêng, thông qua việc khuyến khích các doanh nghiệp mở các chi nhánh, văn phòng đại diện, cửa hàng giới thiệu sản phẩm tại nước ngoài để thu hút thêm lượng khách hàng trực tiếp. 2.2.4 Thiết lập, củng cố quan hệ liên kết trong và ngoài ngành Hiện nay, đại đa số các doanh nghiệp dệt may trong cả nước là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nguồn lực còn nhiều hạn chế. Vì vậy, khi tham gia vào WTO, các doanh nghiệp cần liên kết hoặc sát nhập lại với nhau để tận dụng được lợi thế của mỗi bên, giảm chi phí sản xuất, tăng năng lực đầu tư phát triển và khai thác thị trường, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh với các đối thủ lớn hơn bên ngoài. Về các quan hệ liên kết, vấn đề mấu chốt hiện nay là ngành dệt may phải giải quyết tốt mối quan hệ liên kết dọc dệt- may. Để có thể giải được bài toán nguyên phụ liệu cho ngành may, thực hiện một chu trình sản xuất khép kín, các doanh nghiệp dệt may cần có sự liên kết, phối hợp với nhau. Hiện nay, mối liên kết này đã bắt đầu được các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh lớn đặc biệt chú trọng. Một ví dụ điển hình là Tổng công ty dệt may Việt Nam Vinatex với một chiến lược bài bản, chú trọng đầu tư nâng cấp các nhà máy nhuộm và dệt nhằm tăng cường khả năng cung cấp vải cho ngành may. Các doanh nghiệp dệt may, muốn nâng cao năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh cũng cần giải quyết tốt mối quan hệ ngang giữa các doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực. Một giải pháp hữu hiệu đã được thực tế kiểm chứng đem lại hiệu quả tốt đó là thực hiện mô hình mẹ- con. Đối với các doanh nghiệp dệt, nếu áp dụng thành công mô hình liên kết này sẽ giúp ngành dệt tập trung được nguồn lực, nâng cao hiệu quả một cách đáng kể. Các doanh nghiệp dệt nếu liên kết lại, cùng chia sẻ chi phí tìm kiếm thông tin thị trường, hợp tác và phân công hoá trong đầu tư và sản xuất sẽ làm giảm tình trạng trùng lặp, dư thừa, cạnh tranh nội bộ không cần thiết. Thay vào đó, các doanh nghiệp sẽ tiếp kiệm được chi phí trong việc tìm kiếm thông tin, đưa ra kế hoạch sản xuất phù hợp, cùng hợp tác để thực hiện những đơn hàng khối lượng lớn. Đối với ngành may, mô hình liên kết vệ tinh (các doanh nghiệp quốc doanh chủ đạo là công ty mẹ, các doanh nghiệp nhỏ ở địa phương và các thành phần kinh tế khác là công ty con) cần được tiếp tục duy trì và mở rộng. Các doanh nghiệp may vừa và nhỏ cần liên kết với nhau hoặc liên kết với một doanh nghiệp lớn hơn để tận dụng lợi thế về vốn, kỹ thuật. Đây là biện pháp hết sức cần thiết, vì khi Việt Nam đã gia nhập WTO, chúng ta sẽ phải cạnh tranh với nhiều đối thủ có tiềm lực rất lớn, các doanh nghiệp Việt Nam nếu không liên kết lại sẽ dễ bị mất thị phần, có thể dẫn đến phá sản do không thể cạnh tranh nổi. Vì vậy, liên kết theo mô hình công ty mẹ- con được coi là giải pháp tối ưu, giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ tận dụng tối đa lợi thế của công ty mẹ vốn có tiềm lực về vốn, kỹ thuật, trình độ quản lý và thế mạnh trong giao dịch thương mại, giúp tìm kiếm hợp đồng về cho các công ty con. Một giải pháp hữu hiệu khác là các doanh nghiệp dệt may cần chú ý phát triển mối liên kết ngược với khách hàng. Các doanh nghiệp cần tạo dựng mối liên hệ với các khách hàng, thiết lập các kênh thông tin riêng với khách hàng để cùng thiết kế, phát triển sản phẩm, nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh biện pháp mở rộng quan hệ liên kết giữa các doanh nghiệp, việc mở rộng quan hệ ngoài ngành cũng cần được các doanh nghiệp chú trọng. Các doanh nghiệp cần tạo dựng mối liên hệ chặt chẽ với các tổ chức, trung tâm xúc tiến thương mại, đồng thời thiết lập mạng lưới thông tin với các tổ chức này cũng như với các doanh nghiệp trong ngành để có được những thông tin kịp thời, chính xác, đồng bộ về thị trường và sản phẩm. Ngoài ra, để giúp các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh, việc phát huy vai trò của Hiệp hội dệt may là rất cần thiết. Hiệp hội cần tăng cường hoạt động, làm tốt chức năng trao đổi, cung cấp thông tin kinh tế kỹ thuật giữa các doanh nghiệp để kết hợp thế mạnh, nguồn lực của các doanh nghiệp, tư vấn cho các doanh nghiệp trong việc lựa chọn phương án kinh doanh phù hợp, điều tiết sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Để nâng cao vai trò, năng lực hoạt động, Hiệp hội cũng cần thu hút thêm nhiều hội viên, kể cả những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khuyến khích sự tham gia của các thành viên là nhà quản lý, chuyên gia am hiểu lĩnh vực dệt may. Hiệp hội cũng cần phát huy mạnh hơn vai trò đại diện cho các doanh nghiệp thành viên khuyến nghị với Chính phủ về hoàn thiện các chính sách vĩ mô liên quan đến ngành. Bên cạnh đó, để hỗ trợ các doanh nghiệp khắc phục khó khăn ở thị trường bên ngoài, Hiệp hội nên chú trọng tham gia hoạt động ở các tổ chức dệt may khu vực và quốc tế như như Liên đoàn Dệt may Đông Nam Á (AFTEX), Ủy ban quốc tế về dệt may (ITCB), Liên đoàn May mặc quốc tế (IAF)… để vận động, bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp trong chính sách thương mại khu vực và thế giới. Vai trò của các tổ chức hỗ trợ, đại diện thương mại, thương vụ tại nước ngoài Bên cạnh các giải pháp từ phía nhà nước, doanh nghiệp thì các hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại từ phía các tổ chức hỗ trợ, đại diện thương mại tại nước ngoài cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may, đặc biệt trong việc tìm kiếm thông tin thị trường và quảng bá thương hiệu dệt may Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động quảng bá thương hiệu, xúc tiến thương mại qua các kênh này hiện vẫn chưa thực sự hiệu quả, doanh nghiệp dệt may trong nước vẫn chưa tận dụng được nguồn thông tin cũng như cơ hội quảng bá hình ảnh của mình. Nguyên nhân của tình trạng này một phần là do các doanh nghiệp chưa thực sự nhanh nhạy, chủ động liên kết với các kênh này, mặt khác, các tổ chức hỗ trợ, đại diện thương mại, thương vụ của Việt Nam tại nước ngoài hoạt động chưa thực sự hiệu quả. Trong bối cảnh đất nước đã gia nhập WTO, ngành dệt may vấp phải sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, thì các tổ chức hỗ trợ xúc tiến thương mại cần có những giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động, giúp nâng cao hiệu quả cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới. Thứ nhất, nhà nước và các doanh nghiệp trong ngành dệt may cần có những khoản đầu tư, hỗ trợ thích đáng cho các tổ chức hỗ trợ, thương vụ tại các nước, đặc biệt là thương vụ tại các nước là thị trường xuất khẩu chính của hàng dệt may Việt Nam để giúp các tổ chức, thương vụ có thêm nguồn lực, kinh phí để hoạt động hiệu quả, có khả năng tổ chức được các hoạt động quy mô, chất lượng hơn. Thứ hai, để nâng cao chất lượng thông tin về thị trường, sản phẩm, một mặt cần đầu tư vào hoạt động nghiên cứu, thu thập thông tin tại các tổ chức này, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp mở văn phòng đại diện, chi nhánh, trung tâm xúc tiến thương mại để cùng hỗ trợ, chia sẻ thông tin với các tổ chức hỗ trợ, đại điện thương mại và thương vụ của nhà nước, tạo thành một mạng lưới thông tin quy mô, đồng bộ và gắn kết, đảm bảo tính liên tục. Thứ ba, các tổ chức, thương vụ tại nước ngoài cần tranh thủ lực lượng Việt kiều trong việc giúp tìm hiểu thông tin thị trường, mở kênh tiêu thụ, vận động sự ủng hộ tại nước sở tại… Đây là một kênh xúc tiến thương mại hiệu quả, nhanh và tốn ít chi phí do lực lượng Việt kiều ngày càng đông, lại có lợi thế phân bố rộng, thông thạo ngôn ngữ, am hiểu thị trường và tập quán, thị hiếu của các đối tượng tiêu dùng tại nước sở tại. Thứ tư, các tổ chức hỗ trợ, đại diện thương mại, các thương vụ cần đầu tư, nâng cao hoạt động quảng bá thương hiệu, sản phẩm của các doanh nghiệp dệt may trong nước dưới nhiều hình thức khác nhau như: tổ chức các hội chợ triển lãm giới thiệu hàng hoá, thời trang, tổ chức các hoạt động quảng bá, giới thiệu hàng hoá trong tuần lễ văn hoá Việt Nam tại các nước, tìm hiểu, cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam tham gia vào các cuộc triển lãm, hội chợ, tuần lễ thời trang quốc tế tại nước sở tại… KẾT LUẬN Thành tựu của ngành công nghiệp dệt may là một điểm sáng dễ nhận thấy trong sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trước và sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Ngành công nghiệp dệt may, với tư cách là một ngành công nghiệp chủ lực, đã đóng góp rất nhiều vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá và chiến lược phát triển kinh tế chung của đất nước. Với những điều kiện, lợi thế nhất định, ngành dệt may Việt Nam trong những năm qua không chỉ đóng góp đáng kể vào việc phục vụ nhu cầu trong nước, giải quyết việc làm, mà còn tạo ra nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước. Hơn thế nữa, ngành dệt may Việt Nam đã tự vươn lên, khẳng định mình, chiếm được chỗ đứng trên thị trường dệt may thế giới. Việc trở thành ngành công nghiệp có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất cả nước và lọt vào top 10 quốc gia xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới là phần thưởng xứng đáng cho những nỗ lực của ngành dệt may. Tuy nhiên, những thành công bước đầu của ngành dệt may sau 1 năm gia nhập WTO chưa phải là một sự đảm bảo vững chắc cho sự phát triển của ngành trong tương lai. Chúng ta không thể phủ nhận thực tế là tuy có những điều kiện, lợi thế nhất định, song ngành dệt may còn không ít những yếu điểm, hạn chế cần khắc phục. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam còn rất yếu so với các đối thủ cạnh. Những hạn chế về vốn, nguồn nhân lực, khả năng cung ứng nguyên phụ liệu đầu vào, hoạt động marketing, cũng như những bất cập về mặt chính sách và nhiều hạn chế khác đã khiến cho năng lực cạnh tranh của ngành dệt may bị suy giảm và thấp hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Nếu như trước đây những hạn chế nêu trên làm ngành dệt may khó khăn một, thì hiện nay, trong bối cảnh đất nước đã gia nhập WTO, điều này sẽ làm những khó khăn của ngành nhân lên gấp bội. Gia nhập WTO đem lại cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và cho ngành dệt may nói riêng rất nhiều cơ hội và thách thức. Những cơ hội về thị trường, dỡ bỏ hạn ngạch, khả năng tiếp cận vốn và công nghệ hiện đại sẽ luôn đi kèm với những thách thức về cạnh tranh gay gắt, nguy cơ đánh mất thị phần ngay trên sân nhà… Trước bối cảnh mới với những cơ hội và thách thức đan xen, yếu tố quyết định đến thành công hay thất bại của ngành dệt may chính là năng lực cạnh tranh thực sự của ngành. Chỉ bằng cách phát huy nội lực, nâng cao năng lực cạnh tranh, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam mới có thể tự đứng vững trên đôi chân của mình, đón nhận những cơ hội và hạn chế những thách thức do quá trình hội nhập mang lại. Để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp dệt may Việt Nam, yêu cầu quan trọng nhất hiện nay là phải tiến hành những giải pháp mang tính đồng bộ từ cấp vĩ mô như nhà nước, các bộ, ngành, đến cấp thấp hơn như các doanh nghiệp, các tổ chức hỗ trợ… Các giải pháp nhằm huy động vốn, nâng cao khả năng cung ứng nguyên phụ liệu, nâng cao kỹ năng, trình độ lao động, quản lý, hiện đại hoá thiết bị, công nghệ, thúc đẩy hoạt động marketing, xúc tiến thương mại cùng với những cải cách về chính sách, thủ tục hành chính cần được phối hợp thực hiện một cách đồng bộ, hợp lý, hiệu quả. Hy vọng rằng, với việc tìm ra và thực hiện những giải pháp hiệu quả, phù hợp với điều kiện mới của đất nước, ngành dệt may Việt Nam sẽ có thể cất cánh trong tương lai.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVKT076.doc
Tài liệu liên quan