Khóa luận Tìm hiểu một số đặc điểm nghệ thuật kịch và tiểu thuyết của Victor Hugo

Qua quá trình tìm hiểu đôi nét về sự nghiệp văn chương của Victor Hugo, ta thấy ở phương diện nào ông cũng có những đóng quan trọng cho nền văn chương Pháp và văn chương thế giới. Đặc biệt ở lĩnh vực kịch và tiểu thuyết. Ở lĩnh vực kịch, tuy chỉ sáng tác trong khoảng thời gian hơn mười năm nhưng với những cách tân nghệ thuật táo bạo ông đã gây tiếng vang lớn trên kịch trường và đưa trường phái lãng mạn đi tới đỉnh cao của sự toàn thắng. Bằng việc phá vỡ qui tắc “tam duy nhất” của chủ nghĩa cổ điển, ông mở đường cho sân khấu tự do phát triển theo hướng hiện đại. Một sáng tạo mới ở đây đó là việc ông đưa vào sân khấu hình ảnh “nhân vật nổi loạn” mà nhân vật này sẽ còn tiếp tục xuất hiện trong các tiểu thuyết sau này của ông. Ở lĩnh vực tiểu thuyết, lĩnh vực mà ông chỉ sáng tác ở giai đoạn cuối nhưng nó đem lại vinh quang rất lớn cho ông với hai kiệt tác “Nhà thờ Đức bà Paris”, “Những người khốn khổ” Với hàng loạt các thủ pháp nghệ thuật của chủ nghĩa lãng mạn như: sử dụng bút pháp tương phản, đề tài tình yêu, xây dựng nhân vật mang tính cách phi thường, cao cả .ông đã chuyển tải một cách đầy đủ và sâu sắc nội dung tư tưởng chứa đựng trong nó: lòng thương yêu con người, mong muốn xây dựng xã hội tốt đẹp bằng giải pháp tình thương Tác phẩm đã để lại âm vang trong lòng người đọc không chỉ ở tài năng viết tiểu thuyết độc đáo mà còn ở tấm lòng yêu thương nhân loại cần lao.

pdf104 trang | Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 1085 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu một số đặc điểm nghệ thuật kịch và tiểu thuyết của Victor Hugo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bức ai mà còn cố đem lại công ăn việc làm cho họ. “Ai túng đói thì cứ tìm đến đó, chắc chắn là sẽ có việc làm và có cơm ăn Không còn cảnh thất nghiệp, nghèo đói nữa. Không có túi áo xấu xí nào là không xủng xoảng ít tiền, không có nhà tranh tồi tàn nào là không có tiếng cười vui”. Năm 1820, ông có sáu mươi ba vạn France gửi ngân hàng, nhưng trong lúc để ra số tiền đó ông đã chi cho dân nghèo đến hơn một triệu. Ông quyên tiền cho nhà thương, lập thêm giường bệnh, ông xây dựng trường học mới. Xưởng máy của ông trở thành một trung tâm, chung quanh đó mọc lên một khu phố của những người nghèo khổ “quây quấn lấy ông”. Cả tỉnh được nhờ ông, “nhất là thợ thuyền làm trong xưởng thì thật quý mến ông”. Ở đấy, không có chuyện tư sản bóc lột công nhân!(trang 44, Victor Hugo, NXBGD 1978). Nhưng cái “vương quốc lý tưởng” đó nhanh chóng sụp đổ. Bởi nó như một ốc đảo bị chìm giữa biển sa mạc mênh mông của xã hội tư sản vô nhân đạo. Vai trò thị trưởng của Jean bị lung lay bởi phép thử lương tâm trước sự việc cứu hay không cứu Champmathieu: “Ông hỏi mình suy tính đến đâu rồi. Ông tự vấn xem “quyết định như thế nào”, thì rồi ra sao? Ông tự thú, công việc xếp đặt như thế là bất nhân. Cái lối để mặc cho công việc xảy ra, để yên cho Chúa định đoạt là một lối rõ ràng ghê tỏm. Cứ để mặc cho số phận và người đời nhầm lẫn, không ngăn cản nó lại, yên lặng để phụ họa với nó, không làm gì cả, tức là mình đã làm tất cả đấy! Đó là một việc gian giảo đê mạt nhất! Đó là một tội ác khốn nạn, hèn hạ, hiểm độc, đáng khinh, đáng tởm!” Sau một đêm dằng dặc, đấu tranh trong tâm tưởng và ông đi đến quyết định cuối cùng: “Dứt khoác rồi, phải theo con đường ấy! Phải làm bổn phận của mình.Phải cứu người ấy”. Thật đúng như lời nhận xét của tác giả: “Loài ngừơi biết suy nghĩ, ai cũng từng trải qua những phút mình nói với mình. Ngôn ngữ thật không bao giờ huyền diệu tuyệt vời bằng khi ở bên trong con người, nó như con thoi chuyển từ trí tuệ đến lương tâm, rồi từ lương tâm quay về với trí tuệ... Người ta tự nói với mình, tự bảo với mình, tự kêu lên với mình. Thật là ầm ĩ: cái gì trong ta cũng nói, chỉ miệng là không..” Còn gì đau khổ cho bằng một tâm hồn bị giằng xé giữa trận bão táp? Lương tâm con người là một cõi vô biên ghê rợn.Nhất là khi người ta phải lựa chọn giữa hạnh phúc và đạo đức. Và việc quyết định đến tòa án Arass- sự lựa Trang 50 chọn xuống địa ngục để thành thiên thần còn hơn sống ở thiên đàng để làm ác quỷ- chính là sự chiến thắng của tâm hồn hướng thiện của Jean. Sau vụ việc tại tòa án Arass, Jean trở lại thân phận của một cựu tù khổ sai lúc nào cũng bị rình rập bởi hiện thân pháp luật Javert. Thay đổi thân phận nhưng ánh sáng tâm hồn ông vẫn tỏa sáng như viên ngọc toàn bích. Ông đi tìm Cosette và cưu mang, nuôi dưỡng cô bé. Đó cũng là hành động của con người biết vượt lên nỗi đau khổ bản thân để thông cảm, cứu vớt cuộc đời của người khác. Yêu thương Cosette hết mực, ông lúc nào cũng mong muốn cho Cosette được hạnh phúc. Đôi khi vì lòng ích kỷ bản thân ông không muốn giao Cosette cho Marius. Nhưng ông không thể vui được khi Cosette thiếu đi hình bóng Marius. Không thể khoanh tay trước hạnh phúc của con bị đe dọa, một lần nữa ông lại phải hi sinh “là sự quên mình với những nỗi đau khổ rất trần thế” để lên chiến lũy cứu Marius, để rồi chấp nhận sự cô đơn hiu quạnh của lòng mình: “Tình yêu có những cái trẻ con, dục vọng có những cái nhỏ mọn. Xấu hổ thay những dục vọng làm con người nhỏ lại! Vinh dự thay! Tình yêu làm con người thơ ấu!”. “Yêu hoặc đã từng yêu, thế là đủ, không đòi hỏi gì thêm. Yêu đã là một sự hoàn tất”. Đến cuối đời, Jean Vajean đã tự thú với Marius như để tìm đến sự thanh thản tận cùng của tâm hồn và ra đi một cách thảnh thơi: “Tôi nguyên là thằng tù khổ sai. Tôi không là gì với Cosette cả. Lạnh giá là thành thực! Tôi là thằng tù khổ sai. Phải! Đúng! Động cơ rất lạ lùng chỉ vì lòng hướng thiệnGia đình không!Không! Tôi không có gia đình! Tôi không thuộc gia đình ông. Tôi không ở trong gia đình loài người. Tôi là con người thừa ở trong gia đình êm ấm của người ta”. Thật là đau xót cho số phận con người mong muốn có một mái ấm gia đình nhưng điều đó hình như xa vời với những con người vốn lầm lỗi như ông. Thương cảm trước con người đức hạnh này, Hugo đã viết nên những trang xé lòng: Jean nói: “Cái gì bắt buộc tôi nói? Một điều giản dị thôi: lương tâm tôi! Tôi mà muốn sung sướng ư? Tôi có quyền được sung sướng không chứ? Thưa ông, tôi ở ngoài rìa của cuộc đời rồi! Tự xé ruột xong thì lòng lại yên tĩnh với lòng. Fauchelevent cho tôi mượn cái tên, nhưng tôi không có quyền dùng cái tên ấy.Để sống xưa kia tôi ăn cắp một cái bánh, bây giờ để sống tôi không dám ăn cắp một cái tên”. Sau khi, Thenardier gặp Marius nói rõ tất cả : “Chàng thấy Jean Valjean là con người cao quý âm thầm”. “Chàng thấy trước mặt là một đạo đức phi thường, cao cả mà hiền từ, mênh mông mà khiêm tốn”. Mọi việc được tường tận Jean ra đi nhẹ nhàng bên vòng tay yêu thương của hai con. Những lời trăn trối cuối cùng của ông: “Cha chết trong sung sướng. Những chiếc đầu Trang 51 yêu quý của các con đâu, đưa đây cho cha đặt bàn tay lênCác con hãy yêu nhau mãi mãi. Trong đời chỉ có một điều ấy thôi: là yêu nhau” đã gói ghém triết lý sống của ông như một hành trang mà ông mang theo trong suốt cuộc đời mình. Phải chăng đó cũng chính là thông điệp mà Hugo gửi đến thế hệ mai sau? Qua những điều nói trên, ta thấy Jean là nhân vật lý tưởng của tác phẩm: có một sức khỏe phi thường, một trí tuệ, lòng nhân hậu, trái tim yêu thương, một khả năng nhẫn nại, một ước muốn vươn lên, một lòng thủy chung với lời hứa. Xây dựng nhân vật có tầm vóc phi thường như thế, Hugo muốn họ sẽ là những hình tượng nghệ thuật phản chiếu niềm hy vọng về sự xuất hiện những cõi lòng từ tâm sẽ đi khắp hang cùng ngõ hẻm để chia sẻ, an ủi, vực dậy những tâm hồn thất vọng, đưa người nghèo ra khỏi cảnh cùng khổ, bênh vực những kẻ thế cô khỏi tình trạng bị đè nén, bất công.Đây là kiểu nhân vật lãng mạn tiêu biểu của chủ nghĩa lãng mạn. 2.4.3. Nhân vật Gavroche Gavroche là một trong số những nhân vật lãng mạn tiêu biểu mang tính sáng tạo của Hugo. Lòng yêu đời, tính hóm hỉnh, sự tinh nghịch và tinh thần dũng cảm làm cho Gavroche lấp lánh ánh hào quang trên trang văn với những vẻ sáng rỡ của phẩm cách và tâm hồn. Dưới ngòi bút trìu mến của Hugo, Gavroche hiện ra với tất cả vẻ đẹp tinh thần của một thiếu niên nảy sinh từ đêm đen của xã hội, em trở thành biểu tượng của sự thanh khiết. Là “tên trộm cắp bé con hào hiệp” em đã cưu mang hai đứa trẻ mà em vừa mới quen nhưng thực chất là hai đứa em ruột của mình mà em nào hay biết. Gavroche đưa chúng về chỗ “cư ngụ” của em (một chỗ cư ngụ mà “đức chúa vĩ đại” đã ban tặng cho em. Đó là một cái hang với một cái lỗ nhỏ để chui vào). Thế nhưng, Gavroche vẫn tỏ ra là một ông chủ thật sự. Em nói với hai đứa trẻ với giọng nửa đùa nửa thật: “Chúng mình phải dặn người gác cổng có ai hỏi thì bảo là chúng mình đi vắng”. Cứ y như là một ông chủ lâu đài, một biệt thự nào đó thực sự nhưng khi biết “người gác cổng” của em chỉ là một mảnh ván dùng để đậy lỗ hổng dưới bụng voi là lối ra vào của Gavroche thì ta không khỏi buồn cười. Dù sao sự mộng mơ ấy cũng là phẩm chất lạc quan mang nét lãng mạn của em. Sau lời dẫn truyện về những gì đã xảy ra trước đó, tác giả đưa chúng ta đến chiến lũy. Nơi đó có sự hiện diện của Gavroche. Em chiến đấu với mục đích thiết thực, mong sao trong cái rổ của người nghèo có miếng ngon. Xuất phát từ việc số đạn của nghĩa quân đang cạn dần, em đã xin ra ngoài chiến lũy Trang 52 để nhặt đạn. Trước sự lo lắng của nghĩa quân trong tình thế hiểm nghèo của chiến trường nhưng em vẫn “nhởn nhơ ca hát”. Hành động của chú nhanh nhẹn như “con chim sẻ mổ người đi săn”: “chú nằm xuống, chú đang lên, chú lẩn sau hốc cửa rồi thình lình nhảy ra, chú ẩn, chú hiện, chú chạy đi rồi quay trở lại, chú xỉa tay lên mũi nhạo báng những tên bắn chú và trong lúc ấy chú không ngừng lục bị lấy đạn bỏ đầy giỏ”. Nhưng hình ảnh đó không được kéo dài, một phát đạn nhằm thẳng chú mà bắn. “Chú lảo đảo rồi ngã quỵ xuống. Toàn chiến lũy hét lên”. Tiếng hét đó phản ánh sự lo âu của toàn chiến lũy. Nhà văn so sánh em như: “chú lùn cổ tích khoác áo huyền thoại, chú mang đặc tính của thần Ăngte, chú trở thành Ăngte. Chú ngã xuống để mà chồm lên”. Trong tình thế đó, em cất tiếng hát, em trở thành hiện thân của nhân dân, của những khát vọng nhân dân. Bài hát cất lên trong hoàn cảnh đặc biệt. Nó tạo ra ấn tượng sâu sắc. Phẩm chất thần tiên của chú bé được khẳng định thêm. Trớ trêu thay “chú hát không hết” “một viên đạn thứ hai đã làm chú câm bặt”. Của “tên lính ấy” hàm chứa một sự khẳng định dứt khoát, chắc chắn. Nhưng tên lính nào? Tên lính đó không có tên cụ thể nói lên sự tàn bạo của kẻ thù. Do vậy, “lần này chú ngã sấp mặt xuống đường, không động đậy nữa”. Tác giả kể về cái chết của Gavroche một cách ngắn gọn, không tô vẽ. Gavroche ngoài “đứa trẻ ranh” còn có phẩm chất “thần tiên” nữa, vì thế em không chết cái “linh hồn bé bỏng vĩ đại ấy đã bay về trời”.. Tên tuổi của các nhà ánh sáng vĩ đại Voltair, Rousseau. vẫn vang lên như khát vọng đòi sống của những người khốn khổ. Sự đan kết giữa các thủ pháp tương phản- so sánh, giữa cảm quan hiện thực- huyền thoại đã tạo ra sự kì vĩ của hình tượng Gavroche. Từ đó, nó tạo ra những cảm nhận tốt đẹp về em, về “đứa trẻ ranh thần tiên”. Hình ảnh Gavroche thể hiện tư tưởng lãng mạn và những rung cảm hướng về tương lai của nhà văn. 2.5. Tiểu thuyết “Những người khốn khổ” là tiểu thuyết mang đậm chất thơ Hugo đã mở đầu tiểu thuyết bằng một lời đề từ rất đáng trân trọng: “Khi pháp luật và phong hóa còn đày đọa con người, còn dựng nên những địa ngục ở giữa xã hội văn minh và đem một thứ định mệnh nhân tạo chồng thêm lên thiên mệnh; khi ba vấn đề lớn của thời đại là sự sa đọa của đàn ông vì bán sức lao động, sự trụy lạc của đàn bà vì đói khát, sự cằn cỏi của trẻ nhỏ vì tối tăm, chưa được giải quyết; khi ở một số nơi đời sống còn nghẹt thở; nói khác đi và trên quan điểm rộng hơn, khi trên mặt đất đói khát và dốt nát còn tồn tại thì những quyển sách như loại này còn có ích”. Trang 53 Thật đúng vậy, tiểu thuyết đã gần như giải quyết được các vấn đề mà ông đã nêu ra ở trên. Toàn bộ tác phẩm chứa chan tinh thần nhân bản và tinh thần lãng mạn của Hugo. “Những người khốn khổ” mang lòng cảm thông sâu sắc đối với những con người bần cùng trong xã hội, ông luôn tin tưởng vào tâm hồn của họ vẫn tốt đẹp như: Jean Valjean bị xã hội giày xéo, bóp nghẹt, lùng bắt thì lại nảy sinh ra ngài Madelein sống bình dị, nhân hậu, sẵn sàng hi sinh vì những kẻ bị ruồng bỏ. Fantine bị xã hội đạp xuống bùn đen, vẫn là một tâm hồn thanh cao, sẵn sàng hi sinh cả thân mình vì con thơ... Có thể thấy, “tình thương” là nguyên tắc thẫm mĩ cơ bản mà ông thể hiện xuyên suốt trong tác phẩm. Ngoài ra, ông còn sử dụng tình thương như một giải pháp xã hội, là tư tưởng, là phương tiện đấu tranh nhằm mang lại bình đẳng và hạnh phúc cho mọi người. Chất thơ còn thể hiện ở niềm tin và lòng tự hào đối với Cách mạng. Cách mạng sẽ giải phóng con người ra khỏi cuộc sống phi nhân bản của xã hội tư sản, mang đến xã hội lý tưởng mà trong đó tình thương sẽ là nguyên tắc cao nhất. Trang 54 PHẦN KẾT LUẬN Qua quá trình tìm hiểu đôi nét về sự nghiệp văn chương của Victor Hugo, ta thấy ở phương diện nào ông cũng có những đóng quan trọng cho nền văn chương Pháp và văn chương thế giới. Đặc biệt ở lĩnh vực kịch và tiểu thuyết. Ở lĩnh vực kịch, tuy chỉ sáng tác trong khoảng thời gian hơn mười năm nhưng với những cách tân nghệ thuật táo bạo ông đã gây tiếng vang lớn trên kịch trường và đưa trường phái lãng mạn đi tới đỉnh cao của sự toàn thắng. Bằng việc phá vỡ qui tắc “tam duy nhất” của chủ nghĩa cổ điển, ông mở đường cho sân khấu tự do phát triển theo hướng hiện đại. Một sáng tạo mới ở đây đó là việc ông đưa vào sân khấu hình ảnh “nhân vật nổi loạn” mà nhân vật này sẽ còn tiếp tục xuất hiện trong các tiểu thuyết sau này của ông. Ở lĩnh vực tiểu thuyết, lĩnh vực mà ông chỉ sáng tác ở giai đoạn cuối nhưng nó đem lại vinh quang rất lớn cho ông với hai kiệt tác “Nhà thờ Đức bà Paris”, “Những người khốn khổ”Với hàng loạt các thủ pháp nghệ thuật của chủ nghĩa lãng mạn như: sử dụng bút pháp tương phản, đề tài tình yêu, xây dựng nhân vật mang tính cách phi thường, cao cả.ông đã chuyển tải một cách đầy đủ và sâu sắc nội dung tư tưởng chứa đựng trong nó: lòng thương yêu con người, mong muốn xây dựng xã hội tốt đẹp bằng giải pháp tình thươngTác phẩm đã để lại âm vang trong lòng người đọc không chỉ ở tài năng viết tiểu thuyết độc đáo mà còn ở tấm lòng yêu thương nhân loại cần lao. Nhìn chung, Victor Hugo là nhà văn, nhà thơ, nhà chính trị lớn của nước Pháp. Sự rộng lượng trong tư tưởng của ông, sự ân cần trong cách diễn tả đã làm rung động tâm hồn người đọc. Ông là một nhà thơ bình dân, đã viết văn và làm thơ với đặc tính giản dị nhưng bao hàm bên trong sức mạnh, đề cập cả niềm vui, nỗi buồn nhiều người. Di sản văn học mà ông để lại có giá trị về nhiều mặt, mà nổi bật lên là giá trị nhân đạo lớn lao. Với những gì đóng góp cho dân tộc và nhân loại, Hugo xứng đáng với danh hiệu “lương tâm của các dân tộc”. Nói đến Hugo là người ta nói đến chủ nghĩa nhân đạo, tấm lòng thương yêu của ông đối với những người lao động nghèo đói, bị áp bứcDù nhân loại có tiến bộ đến chừng nào đi chăng nữa thì chủ nghĩa nhân đạo của ông vẫn rất cần thiết cho mọi thời đại. Nó làm cho con người xích lại gần nhau, hiểu nhau hơn trong sự hòa nhập nền văn hóa toàn cầu. Trang 55 PHỤ LỤC 1 NIÊN BIỂU VICTOR HUGO 26/2/1802, lúc 22giờ 30 phút, Victo Hugo được sinh ra ở thành phố Bơ- dăng-xông, thủ phủ của tỉnh Frăngsơ Conate, phía đông nam thủ đô Paris. 1803 A-đen Phu-sê, vợ tương lai của V.Hugo ra đời. Lê-ô-pôn Hugo đưa vợ và các con đến doanh trại đảo Enbơ. 1804 Bà Tri-buy-sê dưa các con trở về Paris. Victo Hugo bắt đầu đi học tại trường ở phố Mông blăng. Lê-ô-pôn Hugo được thưởng Bắc đẩu bội tinh. 1806 Lê-ô-pôn Hugo tham gia chiến dịch đánh chiếm vương quốc Náp- lơ. Juy-li-en Gô-vanh (tương lai là Juy-li-et Đru-êt, thư kí và là người tình của V.Hugo) chào đời. 1807 Bà Tri-buy-sê đưa các con đến Náp-lơ theo yêu cầu của chồng. 1808 Bá Tri-buy-sê đưa các con về Paris. 1809 V.Hugo theo học dưới sự hướng dẫn của M.de La Riviere. Bố Hugo được phong chức Thiếu tướng và làm Tổng thanh tra quân đội ở Tây Ban Nha. 1811 Cả nhà lên đường đi đến Madrit. 1812 Bà Tri-buy-sê cùng Engene và Victo Hugo trở về Paris. Aben ở lại với bố. Ba mẹ con sống ở Fơi-ăng-tin. 1813 Aben trở về với mẹ và hai em. Gia đình chuyển đến khu phố Secsơ-Miđi. 1814 Bố mẹ V.Hugo li dị nhau. Tòa án Xen xử cho bà mẹ được nuôi các con. 1815 Ơ-gien và Victo chung nhau mua một sân khấu rối nhỏ. 1816 Ơ-gien và Victo học triết học tại trường Lu-i Đại đế. 1817 V.Hugo tham dự cuộc thi thơ vá đoạt giải Bông huệ vàng của Viện Hàn lâm Pháp. Tên V.Hugo xuất hiện lần đầu tiên trên báo chí. Ơ-gien và Victo cùng vượt qua lớp toán đặc biệt với ý muốn thi vào trường Đại học Bách khoa. 1819 V.Hugo và A-đen Phu-sê chính thức tuyên bố yêu nhau. Anh em Hugo sáng lập tờ tạp chí Người bảo thủ văn học. Người bảo trợ cho tờ báo là Sa-tô-bri-ăng. Trang 56 1820 Tờ báo Moniteur giới thiệu V.Hugo như một tác giả mới của thời đại. 17/6/1820, tiểu thuyết Bug-Jargal xuất hiện trong số 15 của Người bảo thủ văn học. 1821, ngày 27/6, mẹ Hugo mất. Ngày 30/6, Victo và Ađen bí mật đính ước với nhau. Ngày 31/3, tạp chí Người bảo thủ văn học bị đình bản.V.Hugo bắt đầu viết lại Hand Islande, cuốn tiểu thuyết đã chiếm nhiều thời gian của ông trong năm 1821. 1822 Tập thơ đầu tiên của Hugo Đoản thi và Tạp thi. Kết hôn với Ađen Phusê. Tháng 2/1822, Hand Island được xuất bản và tới tháng 7 thì được tái bản. 1824, ngày 7/3 tập Đoản thi và Tạp thi mới được công bố. Ngày 28/8,con gái đầu lòng Lê-ô-pôn-đin Hugo ra đời. 1825 Được thưởng Bắc đẩu bội tinh. 1826, ngày 7/11, tập Đoản thi và Balat được xuất bản. Tiểu thuyết Bug- Jargal được công bố lần thứ hai nhưng không đề tên tác giả. 1827 Kịch Crômoen và Tựa Crômoen. 1828 Bố Hugo mất ngày 28/1. Lần đầu tiên V.Hugo gửi thư cuo Ban- dắc.Xuất bản Odes và Ballades. Bắt tay khởi thảo Nhà thờ Đức Bà Paris và Ngày cuối cùng của một người bị kết án. 1829 Tập thơ Những bài thơ phương Đông, truyện vừa Ngày cuối cùng của một người bị kết án, kịch Mariông dơ Lormơ. Xuất hiện nhiều bài báo công kích Ngày cuối cùng của một người bị kết án. V.Hugo đọc kịch Hec-na- ni cho các bạn hữu. 1830 Kịch Hernani được diễn liên tiếp 36 buổi từ 25/2 đến 26/2. 1831 Tiểu thuyết Nhà thờ Đức Bà Paris, tập Lá thu. Xanhtơ Bơvơ trở thành tình nhân của Ađen Phu-sê. 1832 Kịch Nhà vua hành lạc. V.Hugo và Vi-nhi đọan giao. 1833 Kịch Luycrexơ Borgia, Mari Tuyđo, Giuyliet Đurê đi vào đời sống của Hugo. Lần đầu tiên Hugo gặp Juy-li-et Đru-et trong vai Nữ quận chúa Nê-grô-ni của vở Luycrexơ Borgia. 1834 Truyện vừa Clôt Gơ ra mắt độc giả ngày 6/9. 1835 Kịch Angiêlô, bạo chúa ở Pađu, tập thơ Tiếng hát hòang hôn. Ngày 24/10, Hugo nộp đơn xin vào Viện Hàn lâm. Trang 57 1837 Tập thơ Tiếng nói nội tâm được xuất bản ngày 26/6. 1838 Kịch Ruy Blax được diễn lần đầu tiên ngày 8/11 tại rạp Phục hưng. 1840 Tập thơ Tia sáng và Bóng tối ngày 16/5. 1841 Gia nhập Viện Hàn lâm Pháp với 17 phiếu thuận và 15 phiếu chống. 1843 Kịch Buyếc-gra-vơ bị thất bại. Lêopônđin, con gái lớn cùng chồng là Sác-lơ Vac-cơ-ri tại sông Xen ngay trong tuần trăng mật. 1845 Được bầu vào Viện Nguyên lão. Khởi thảo tiểu thuyết Những người khốn khổ. 1846 V.Hugo nhìn thấy một người bị kết án vì tội ăn cắp một chiếc bánh mì. 1848 Chính quyền Lu-i Phi-lip bị lật đổ. 1851 Cuộc đảo chính ngày 2 tháng Mười Một của Lui Bônapac. Hugo tổ chức cuộc kháng chiến chống lại Lui Bonapac. bắt đầu viết Lịch sử một tội ác.Cuộc sống lưu vong lần đầu tiên ở Bruycxen. 1852 Chuyển sang sống lưu vong lần thứ hai ở Giecxây. Viết Napoleon tiểu đế. 1853 Tập thơ Trừng phạt. 1855 Cuộc sống lưu vong lần thứ ba ở Ghecnơxây. Aben Hugo chết. Hòan thành tập Trầm tư. 1856 Tập thơ Trầm tư. 1858 Ađen và con gái trở lại Pa-ri. 1859 Tập thơ Truyền kì các thế kỉ ra mắt ngày 3/4. 1862 Tiểu thuyết Những người khốn khổ được hoàn thành và được bán cho nhà sách Lac-roa với giá 3000.000fr. 1863 Ađen, con gái thứ hai của Hugo (sinh năm 1830) trốn khỏi Ghecnơxây, trở lại năm 1872 và bị giữ lại điều trị trong một nhà chữa bệnh thần kinh. Công bố cuốn V.Hugo được kể từ một chứng nhân. 1864 Chuyên luận Uyliem Sêcxpia đồng thời viết Lời nói đầu cho các tác phẩm của Sêcxpia mà ông đã dịch. Trang 58 1865 Tập thơ Những bài ca phố phường và rừng núi. Hòan thành Những người lao động miền biển. 1866 Tiểu thuyết Những người lao động miền biển. 1868 Ađen Phu-sê, vợ Hugo chết ngày 27/8 tại Bruc-xen và được cải táng đưa về Vi-lê-quy-ê. 1869 Tiểu thuyết Người cười được xuất bản. Viết Tor-kê-ma-đa. 1870 Nền cộng hòa thiết lập ở Pháp. Ngày 4/9, Hugo trở về Paris sau 19 năm lưu vong. 1871 Công xã Paris bùng nổ, Saclơ Hugo, con trai lớn của Hugo (sinh năm 1826) chết. Hugo sống lưu vong lần thứ tư ở Bỉ, rồi sang Luyxămbua. Ông bênh vực và bảo vệ cho các nhà Công xã. 1872 Tập thơ Năm khủng khiếp ra mắt ngày 20/4. 1873 Frăngxoa Victo Hugo, con trai thứ hai (sinh năm 1828) chết. 1874 Tiểu thuyết Chín mươi ba ra mắt ngày 19/2. 1875-76 Tác phẩm Hành động và lời nói (tập 1,2,3,). 1876 Hugo trở thành nghị sĩ. Ông đấu tranh ân xá cho các chiến sĩ Công xã Paris. 1877 Tập tiếp theo Truyền kì các thế kỉ, tập thơ Nghệ thuật làm ông, tập Lịch sử một tội ác (phần 2). 1878, ngày 29/4 xuất bản tập Giáo hòang. 1879, ngày 28/2 xuất bản tập Tình thương tột đỉnh 1880, tháng 4, xuất bản tập Các tôn giáo và Tôn giáo. Kỉ niệm lần thứ 50 ngày công diễn Hec-na-ni. 1881 Ngày hội quần chúng mừng Victo Hugo 80 tuổi. Tập thơ Bốn luồng gió của tinh thần được xuất bản ngày 31/5. 1882 Torkêmađa ra mắt ngày 26/2. 1883 Giuyliet Đruê chết kết thúc 50 năm 3 tháng chung sống với V.Hugo. 1884 V.Hugo đi du lịch Thụy sĩ. 1885 Ngày 12 tháng Năm, V.Hugo viết những dòng chữ cuối cùng. Ngày 14/5, ông bị chứng xung huyết phổi. Ngày 22 tháng Năm vào lúc 13 giơ Trang 59 30, Victo Hugo mất. Ngày 1/6 lễ quốc tang được cử hành trọng thể. Linh cữu V.Hugo được đặt trên một chiếc xe tang trần trụi, chiếc xe tang của kẻ khó như lời Di chúc của ông.Đám tang đông tới hai triệu người đứng vòng trong vòng ngòai tại Khải hòan môn nơi đặt linh cữu, kéo dài cho tới điện Păngtêông, nơi an nghỉ cuối cùng của ông. Trang 60 PHỤ LỤC 2 Danh mục toàn bộ tác phẩm V. Hugo Thơ (Nguyên văn tựa đề tiếng Pháp) Tiếng việt 1. Odes et poésies diverses (1822) 2. Nouvelles Odes (1824) 3. Odes et Ballades (1826) 4. Les Orientales (1829) 5. Les Feuilles d’automne (1831) 6. Les Chants du crépuscule (1835) 7. Les Voix intérieures (1837) 8. Les Rayons et les ombres (1840) 9. Les Châtiments (1853) 10. Les Contemplations (1856) 11. Première série de la Légende des Siècles (1859) 12. Les Chansons des rues et des bois (1865) 13. L'Année terrible (1872) 14. L'Art d'être grand-père (1877) 15. Nouvelle série de la Légende des Siècles (1877) 16. Religions et religion (1880) 17. Les Quatre Vents de l'esprit (1881) 18. Série complémentaire de la Légende des Siècles (1883) 19. La Fin de Satan (1886) 20. Toute la Lyre (1888) 21. Dieu (1891) 22. Toute la Lyre - nouvelle série (1893) 23. Les Années funestes (1898) 24. Dernière Gerbe (1902) 25. Océan. Tas de pierres (1942) 1. Những khúc hoan ca và các dạng thơ 2. Những tân khúc hoan ca 3. Những khúc hoan ca và các bài thơ sự tích 4. Các mệnh phụ Đông phương 5. Chiếc lá mùa thu 6. Tiếng hát của hoàng hôn 7. Lời nói tự tâm hồn 8. Ánh sáng và Bóng tối 9. Trừng phạt 10. Trầm tư mặc tưởng 11. Các bài thơ đầu tiên của truyền thuyết các thế kỉ 12. Bài hát của những con đường và các rừng cây 13. Năm tháng kinh hoàng 14. Nghệ thuật làm ông 15. Loạt bài thơ mới của truyền thuyết các thế kỉ 16. Tôn giáo và lòng tín ngưỡng 17. Bốn dòng tư tưởng 18. Loạt bài thơ bổ sung của truyền thuyết các thế kỉ 19. Ngày tàn của quỷ Satan 20. Đàn Lyre 21. Thượng đế 22. Đàn Lyre- loạt bài thơ mới 23. Những năm tháng thảm họa 24. Bó cuối cùng 25. Đại dương- Rất nhiều đá Kịch (Nguyên văn tựa đề tiếng Pháp) Tiếng Việt 1. Cromwell (1827) 2. Hernani (1830) 3. Marion Delorme (1831) 4. Le Roi s'amuse (1832) 5. Lucrèce Borgia (1833) 6. Marie Tudor (1833) 7. Angelo, tyran de Padoue (1835) 8. Ruy Blas (1838) 9. Les Burgraves (1843) 10. Torquemada (1882) 11. Théâtre en liberté (1886) 1. Cromwel 2. Hernani 3. Marion Delorme 4. Vua hề 5. Lucrece Borgia 6. Marie Tudor 7. Angelo, bạo chúa thành Padoue 8. Ruy Blas 9. Nhà Burgraves 10. Torquemada 11. Sân khấu tự do Trang 61 Tiểu thuyết Tiếng Việt 1. Bug-Jargal (1820) 2. Han d'Islande (1823) 3. Le Dernier Jour d'un condamné (1829) 4. (Notre-Dame de Paris) (1831) 5. Claude Gueux (1834) 6. (Les Misérables) (1862) 7. Les Travailleurs de la mer (1866) 8. (L'Homme qui rit) (1869) 9. (Quatre-vingt-treize) (1874) 1. Bug- Jargal 2. Han d’Islande 3. Ngày cuối cùng của tên tội phạm 4. Nhà thờ Đức Bà Paris 5. Claude Gueux 6. Những người khốn khổ 7. Ngư dân trên biển 8. Người cười 9. Chín mươi ba Tiểu luận nghiên cứu phê bình Tiếng Việt 1. Étude sur Mirabeau (1834) 2. Littérature et philosophie mêlées (1834) 3. Le Rhin (1842) 4. Napoléon le Petit (pamphlet, 1852) 5. Lettres à Louis Bonaparte (1855) 6. William Shakespeare (1864) 7. Paris-Guide (1867) 8. Mes Fils (1874) 9. Actes et paroles - Avant l'exil (1875) 10. Actes et paroles - Pendant l'exil (1875) 11. Actes et paroles - Depuis l'exil (1876) 12. Histoire d'un crime - 1re partie (1877) 13. Histoire d'un crime - 2e partie (1878) 14. Le Pape (1878) 15. L'Âne (1880) 16. L'Archipel de la Manche (1883) 17. Euvres posthumes 18. Choses vues - 1re série (1887) 19. Alpes et Pyrénées (1890) 20. France et Belgique (1892) 21. Correspondances - Tome I (1896) 22. Correspondances - Tome II (1898) 23. Choses vues - 2e série (1900) 24. Post-scriptum de ma vie (1901) 25. Mille Francs de récompense (1934) 26. Pierres (1951) 27. Mélancholia 1. Nghiên cứu về Mirabeau 2. Cuộc hỗn chiến giữa văn học và triết học 3. Sông Rhin 4. Napoleon tiểu đế 5. Những bức thư gửi Louis Bonaparte 6. William Shakespeare 7. Pari- sách hướng dẫn 8. Những đứa con trai của tôi 9. Hành động và lời nói- Trước khi lưu đày 10. Hành động và lời nói- Trong khi lưu đày 11. Hành động và lời nói- Kể từ khi lưu đày 12. Câu chuyện một tội ác- Phần thứ nhất 13. Câu chuyện một tội ác- Phần thứ hai 14. Đức giáo hoàng 15. Con lừa 16. Quần đảo vùng biển Manche 17. Những tác phẩm xuất bản sau khi tác giả qua đời 18. Những điều trông thấy- Bộ đầu tiên 19. Dãy núi Alpes và Pyrenes 20. Pháp và Bỉ 21. Những lá thơ- tập 1 22. Những lá thơ- tập 2 23. Những điều trông thấy- Bộ 2 24. Tái bút cuộc đời 25. 1000 France tiền thưởng 26. Những hòn đá 27. Melancholia (Người dịch: Ths. Phan Tuệ Châu GV Bộ môn Ngoại Ngữ Đại học An Giang) Trang 62 PHỤ LỤC 3 CẤU TRÚC VÀ ĐỀ MỤC CỦA TIỂU THUYẾT “NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ” I. PHẦN THỨ NHẤT: PHĂNG TIN Quyển 1: Một chính nhân quân tử 1. Ông Mirien. 2. Ông Mirien thành Đức cha Biêngvơnuy. 3. Giám mục giỏi thì địa phận khó. 4. Nói làm sao vậy. 5. Đức cha Biêngvơnuy dùng áo lâu quá. 6. Ông Mirien giao nhà cho ai giữ. 7. Cavơvat. 8. Triết lý sau bữa ăn. 9. Cô em tả ông anh. 10. Ông giám mục đứng trước một ánh sáng khác lạ. 11. Một điểm giới hạn. 12. Sự cô quạnh của Đức cha Biêngvơnuy. 13. Ông tin gì. 14. Ông nghĩ gì. Quyển 2: Sa ngã 1. Sau một ngày đường. 2. Khuyên người hiền phải đề phòng. 3. Dũng cảm nhắm mắt vâng lời. 4. Chi tiết về những xưởng phó mát ở Pôngtacliê. 5. Tĩnh mịch. 6. Giăng Vangiăng. 7. Bên trong tuyệt vọng. 8. Biển cả và đêm tối. 9. Lại gặp bất công. Trang 63 10. Thức dậy. 11. Hành động. 12. Ông giám mũc làm việc. 13. Bé Giecve. Quyển 3: Trong năm 1817 1. Năm 1817. 2. Hai bộ tứ. 3. Tay tư và tay tư. 4. Tôlômiet vui quá hát một bài hát Tây Ban Nha. 5. Ở quán Bôngbácđa. 6. Thương yêu nhau. 7. Triết lý của Tôlômiet. 8. Ngựa chết, hết chuyện. 9. Cuộc vui tàn trong cảnh vui vẻ. Quyển 4: Gửi trứng cho ác 1. Một người mẹ gặp một người mẹ. 2. Vài nét phác họa đầu tiên về hai bộ mặt khả nghi. 3. Sơn ca. Quyển 5: Xuống dốc 1. Quá trình cải tiến nghề làm thủy tinh đen. 2. Ông Madelain. 3. Tiền gửi ngân hàng Lafit. 4. Ông Madơlen để tang. 5. Chân trời có dạng chớp. 6. Cụ Phôsơlơvăng. 7. Phôsơlơvăng thành người làm vườn ở Paris. 8. Mụ Vituyếcniêng tiêu 35 France về khoản đạo đức. 9. Mụ Vituyếcniêng thành công. Trang 64 10. Hậu quả của thành công. 11. Chúa giải thoát chúng ta. 12. Gã Bamataboa vô công rỗi nghề. 13. Giải quyết mấy vấn đề cảnh sát thành phố. Quyển 6: Javert 1. Bắt đầu yên nghỉ. 2. Thế nào mà Giăng lại hóa ra Săng Quyển 7: Vụ án Săngmachiơ 1. Bà xơ Xempơlit. 2. Sự tinh ý của người chủ xe Xcôfơle. 3. Một trận bão táp trong đầu. 4. Những hình thái của khổ đau trong giấc ngủ. 5. Gậy chọc bánh xe. 6. Bà xơ Xempơlit được thử thách. 7. Vừa đến đã chuẩn bị đi ngay. 8. Đặc cách được vào. 9. Nơi người ta đã bắt đầu tin chắc. 10. Phương pháp chối cãi. 11. Săngmachiơ mỗi lúc một thêm ngạc nhiên. Quyển 8: Hậu quả 1. Ông Madơlen nhìn tóc mình ở cái gương nào. 2. Fantine sung sướng. 3. Javert đắc ý. 4. Người cầm quyền khôi phục uy quyền. 5. Chỗ chôn thích đáng. II. PHẦN THỨ HAI: CÔDÉT Quyển 1: Oateclô 1. Người ta thấy gì khi đi từ Niven đến. Trang 65 2. Hugomông 3. 18 tháng 6 năm 1815. 4. A. 5. Trận đánh có điểm mờ mịt. 6. Bốn giờ chiều. 7. Napoleon vui vẻ. 8. Hoàng đế hỏi người dẫn đường Lacôt. 9. Điều bất ngờ. 10. Cao nguyên Monde Saint Jean. 11. Hướng đạo của Napoleon tồi, hướng đạo của Buylôtốt. 12. Đoàn cận vệ. 13. Đổ vỡ. 14. Đội hình vuông cuối cùng. 15. Căngbơrôn. 16. Bao nhiêu quyển sách trong tâm hồn. 17. Có nên cho Oateclô là tốt không. 18. Quân quyền thần thánh lại được đề cao. 19. Chiến trường ban đêm. Quyển 2: Chiếc tàu Oriông 1. Số 24.601 trở thành số 9.430. 2. Nơi có 2 câu thơ có lẽ là của quỷ sứ. 3. Xiềng sắt mà đập một búa đã gãy tan thì chắc là đã có kẻ chuẩn bị bẻ từ trước. Quyển 3: Giữ lời hứa với người đã khuất 1. Vấn đề nước ăn tại Môngfecmây. 2. Hoàn thành hai bức chân dung. 3. Phải có rượu cho người, nước cho ngựa. 4. Một con búp bê lên sân khấu. 5. Một mình con bé. Trang 66 6. Có lẽ Bulatơnuyen cũng thông minh thật. 7. Côdét đi cạnh người lạ trong bóng tối. 8. Phải tiếp trong nhà một kẻ nghèo mà có lẽ giàu thì thật là phiền. 9. Tenacdiê giở thủ đoạn. 10. Tham thì thâm. 11. Con số 9.4300 lại xuất hiện, côdét trùng số ấy. Quyển 4: Căn nhà nát Góocbô 1. Ông biện lý Goócbô. 2. Tổ dành cho cú và bạc má. 3. Hai bất hạnh hợp thành hạnh phúc. 4. Những nhận xét của bà chánh trưởng. 5. Một đồng năm France rơi xuống đất kêu thành tiếng. Quyển 5: Đàn chó phải thầm lặng trong cuộc săn đuổi tối tăm 1. Chiến lược quanh co. 2. May mà cầu Auxtéclit có xe cộ đi lại. 3. Xem bản đồ Paris năm 1727. 4. Mò mẫm để trốn. 5. Nếu đường phố thắp đèn khí thì không thể thế được. 6. Bí mật bắt đầu. 7. Bí mật còn tiếp. 8. Bí mật càng tăng. 9. Người đeo nhạc. 10. Vì sao Javert đi không về rồi. Quyển 6: Nhà tu Pơti Pichpuýt 1. Ngõ Pichpuýt, số 62. 2. Tiểu tu viện của Mattanh Vécga. 3. Những điều nghiêm khắc. 4. Những niềm vui. Trang 67 5. Những trò giải trí. 6. Tu viện nhỏ. 7. Vài hình dáng của cái bóng tối ấy. 8. Sau quả tim đá. 9. Một thế kĩ sau tấm mạng. 10. Nguồn gốc dòng “Chầu Mình thánh hàng ngày”. 11. Tu viện Pơti Pichpuýt không còn nữa. Quyển 7: Trong dấu ngoặc đơn. 1. Nhà tu ý niệm. 2. Nhà tu sự kiện lịch sử. 3. Tôn trọng quá khứ với điều kiện nào. 4. Nhà tu về phương diện nguyên tắc. 5. Sự cầu nguyện. 6. Cầu nguyện là một điều hay tuyệt đối. Phải thận trọng khi cảnh cáo. 7. Lòng tin, kỷ luật. Quyển 8: Ai cho cái gì, nghĩa địa nhận cái ấy 1. Vào nhà tu bằng cách nào. 2. Cụ Phôsơlơvăng đứng trước khó khăn. 3. Mẹ Inôxăngtơ. 4. Jean Valjean có vẻ đã đọc lầm Ôtstanh Catstilegiô. 5. Nghiện rượu chưa đủ để trở thành bất tử. 6. Trong bốn tấm ván. 7. Nguồn gốc thành ngữ: không để mất thẻ. 8. Việc xét hỏi thành công. 9. Nơi cấm địa. III. PHẦN THỨ BA: MARIUS Quyển 1:Paris xét qua một hạt bụi của nó. 1. Parvulus. Trang 68 2. Một vài dấu hiệu đặc biệt của nó. 3. Nó thật dễ thương. 4. Nó cũng có thể có ích. 5. Biên giới của nó. 6. Một ít lịch sử. 7. Bầy nhóc con có thể có vị trí trong bảng phân loại tầng lớp xã hội ở Ấn Độ. 8. Câu nói lý thú của ông vua vừa qua. 9. Hồn xưa của xứ Gôlơ. 10. Paris đây, người đây. 11. Nhạo báng, trị vì. 12. Tương lai tiềm tàng trong quần chúng nhân dân. 13. Chú bé Gavơrốt. Quyển 2: Nhà đại tư sản 1. 90 tuổi với 32 chiếc răng. 2. Người làm sao, nhà làm vậy. 3. Luc expri. 4. Con người gần trăm tuổi. 5. Batscơ và Nicolet. 6. Thoáng bóng mụ Manhông và hai đứa trẻ. 7. Nguyên tắc: chỉ tiếp khách buổi tối. 8. Hai mà không nên cặp. Quyển 3: Ông và cháu 1. Một phòng khách ngày trước. 2. Một cái bóng ma đỏ hồi ấy. 3. Họ yên nghỉ rồi. 4. Ngày cuối cùng cuả tên giặc cướp. 5. Đi lễ nhà thờ lại có lợi để trở thành người Cách mạng. 6. Gặp một ông quản lý nhà chung thì có tác dụng gì? Trang 69 7. Chiếc váy nào đây. 8. Cẩm thạch chọi hoa cương. Quyển 4: Những người bạn cuả nhóm ABC 1. Một nhóm suýt có tên tuổi trong lịch sử. 2. Bôtxuyê đọc văn tế Bơ lông đơ. 3. Những sự ngạc nhiên của Marius. 4. Buồng trong của tiệm cà phê Muydanh. 5. Chân trời mở rộng. 6. Gia tài chẳng có gì? Quyển 5: Nghèo khổ lại hóa hay. 1. Marius túng quẫn. 2. Marius nghèo. 3. Marius trưởng thành. 4. Ông Mabơp. 5. Nghèo, láng giềng gần của khổ. 6. Người thay chân. Quyển 6: Hai ngôi sao gặp nhau 1. Biếm danh: cách hình thành của tên tộc họ. 2. Ánh sáng đã đến. 3. Vì một ngày xuân. 4. Bắt đầu tương tư. 5. Sét nổ trên đầu mụ Bugông. 6. Thành tù binh. 7. Chuyện của chữ U theo phỏng đoán. 8. Thương binh cũng có thể sung sướng. 9. Mất hút. Quyển 7: Patơrông Minet 1. Mỏ và thợ mỏ. Trang 70 2. Tầng đáy. 3. Babe, Gơlơme, Colacơxu và Môngpacnaxơ 4. Tổ chức của bọn này. Quyển 8: Anh nhà nghèo bất hảo 1. Marius đi tìm cô gái đội mũ hoa lại gặp ông già đội mũ lưỡi trai. 2. Bắt được của. 3. Bốn vẻ. 4. Đoá hoa hồng trong cảnh cùng khổ. 5. Lỗ hổng chúa trổ trên vách. 6. Con người- thú trong hang. 7. Chiến lược và chiến thuật. 8. Tia sáng trong ổ chuột. 9. Giôngđơrét hầu như muốn khóc. 10. Giá thuê xe nhà nước: 2 France 1 giờ. 11. Nghèo đói giúp đau khổ. 12. Năm France của ông Lơ Blăng dùng làm gì. 13. Một mình một bóng cũng không nghĩ tới cầu Chúa. 14. Một cảnh binh tặng một luật sư hai quả đấm. 15. Giôngđơrét sắm sửa. 16. Một bài hát theo điệu Anh thịnh hành khoảng 1832. 17. Đồng năm France của Marius tiêu vào việc gì? 18. Hai chiếc ghế của Marius đặt đối diện nhau. 19. Chú ý đến những xó tối. 20. Cuộc mai phục. 21. Đáng lẽ phải bắt nạn người trước. 22. Đức bé kêu khóc ở tập III. Trang 71 IV. PHẦN THỨ TƯ: TÌNH CA PHỐ PƠLUYMÊ VÀ ANH HÙNG CA PHỐ XANH ĐƠNY. Quyển 1: Mấy trang sử. 1. Khéo cắt. 2. Vung may. 3. Luy Philip. 4. Nứt rạn từ móng. 5. Những sự việc làm nên lịch sử nhưng lịch sử lại không biết đến. 6. Angiônrát và các phó tướng. Quyển 2: Epônin. 1. Cánh đồng sơ ca. 2. Các vụ cướp của giết người được thai nghén trong nhà tù như thế nào? 3. Cụ Mabớp thấy ma hiện. 4. Marius cũng thấy ma. Quyển 3: Ngôi nhà phố Pơluymê. 1. Ngôi nhà có bí mật. 2. Jean Valjiean quốc dân quân. 3. Cành lá rườm rà. 4. Thay đổi chấn song. 5. Hoa hồng nhận thấy mình là một cái máy chiến tranh. 6. Cuộc chiến đấu bắt đầu. 7. Kẻ buồn người lại ủ ê. 8. Xiềng xích. Quyển 4: Người giúp nhà mà có thể là trời giúp. 1. Lở ở ngoài, lánh ở trong. 2. Bà Pơluytác chẳng lúng túng chút nào khi giải thích một hiện tượng. Quyển 5: Đoạn cuối và đoạn đầu khác nhau. 1. Vừa quạnh hiu vừa gần doanh trại. Trang 72 2. Côdét sợ hãi. 3. Bà Tútxanh lại bàn thêm vào. 4. Một trái tim dưới hòn đá. 5. Côdét đọc xong thư. 6. Trời sinh các ông già để đi vắng phải lúc. Quyển 6: Chú bé Gravrốt. 1. Trận gió tinh quái. 2. Chú Gravrốt tí hon lợi dụng Napolêong vĩ đại. 3. Diễn biến của cuộc vượt ngục. Quyển 7: Tiếng lòng. 1. Nguồn gốc. 2. Cội rễ. 3. Tiếng lóng khóc và tiếng lóng cười. 4. Hai nhiệm vụ: cảnh giác và hy vọng. Quyển 8: Sướng vui và buồn khổ. 1. Ánh sáng tràn ngập. 2. Ngây ngất vì hạnh phúc vẹn tràn. 3. Bóng tối bắt đầu. 4. “Cab” tiếng Anh thì lăn, tiếng lóng thì sủa. 5. Chuyện đêm. 6. Marius trở lại thiết thực quá đến nỗi cho Côdét biết địa chỉ của mình. 7. Lòng già lòng trẻ đối nhau. Quyển 9: Họ đi đâu? 1. Jean Valjean. 2. Marius. 3. Cụ Mabớp. Quyển 10: Ngày 5 tháng 6 năm 1932. 1. Bề mặt của vấn đề. Trang 73 2. Bề sâu của vấn đề. 3. Một đám tang: cơ hội để tái sinh. 4. Những sôi sục ngày xưa. 5. Vẻ độc đáo của Paris. Quyển 11: Hạt bụi kết thân với bão táp. 1. Vài điểm sáng tỏ về nguồn gốc thơ của Gravrốt: Ảnh hưởng của một viện sĩ hàn lâm đối với thứ thơ này. 2. Gravrốt hành quân. 3. Sự căm phẫn chính đáng của một anh phó cao. 4. Chú bé ngạc nhiên vì cụ già. 5. Cụ già. 6. Lính mới. Quyển 12: Côranh. 1. Lịch sử Côranh từ ngày được xây dựng. 2. Những cuộc vui mở đầu. 3. Đêm tối bắt đầu xuống với Gơrăngte. 4. Thử an ủi bà Huysơlu. 5. Công việc chuẩn bị. 6. Trong khi chờ đợi. 7. Người mới tuyển ở phố Bidét. 8. Nhiều dấu hỏi về tên Lơ Cabuyc mà có lẽ không phải tên là Lơ Cabuyc. Quyển 13: Marius trong bóng tối. 1. Từ phố Pơluymê đến khu Xanh Đơni. 2. Paris dưới cánh cú bay. 3. Mép bờ cuối cùng. Quyển 14: Những nét vĩ đại của thất vọng. 1. Lá cờ dưới màn 1. 2. Lá cờ dưới màn 2. Trang 74 3. Giá Gavrốt nhận khẩu cacbin của Ăngiônratx thì hơn. 4. Thùng thuốc súng. 5. Những vần thơ của Giăng Pruve chấm dứt. 6. Cái chết hấp hối sau cuộc sống thoi thóp. 7. Gavrốt ước lượng xa gần rất thạo. Quyển 15: Phố Lumacmê. 1. Giấy thấm mách thầm. 2. Chú bé thù địch của ánh sáng. 3. Trong lúc Côdét và bà Tútxanh ngủ. 4. Gavrốt tích cực quá mức. V. PHẦN THỨ NĂM: JEAN VALJEAN. Quyển 1: Chiến tranh trong bốn bức tường. 1. Nước xoáy ở Ô Xanh Angtoan và đá ngầm ở Tăngpơlơ. 2. Làm gì dưới vực, nếu không kháo chuyện. 3. Hé sáng rồi tối sầm. 4. Bớt 5, thêm 1. 5. Trên đỉnh chiến lũy nhìn thấy chân trời nào. 6. Marius như người mất hồn, Javert nói năng cụt ngủn. 7. Tình hình thêm nghiêm trọng. 8. Bọn pháo thủ làm cho người ta không dám coi thường. 9. Lại dùng tài sản bắn trộm và súng bá phát bá trúng đã ảnh hưởng đến bản án năm 1796. 10. Bình minh. 11. Bắn đâu trúng đó nhưng không giết một ai. 12. Hỗn độn bảo vệ cho trật tự. 13. Ánh sáng lướt qua. 14. Tình nhân của Angionratx. 15. Gavrốt ra ngoài. 16. Làm anh rồi lại làm cha. Trang 75 17. Cha qua đời chờ con sắp chết. 18. Ác điểu trở thành miếng mồi. 19. Jean Valjean báo thù. 20. Người chết đúng mà người sống cũng không sai. 21. Những người anh hùng. 22. Từng tấc đất. 23. Đôi bạn kẻ đói người say. 24. Tù binh. Quyển 2: Ruột gan con quái khổng lồ. 1. Đất trút của va biển. 2. Cổ sử về cống vãnh. 3. Bnuynơdô. 4. Những chi tiết không ai biết. 5. Tiến bộ ngày nay. 6. Tiến bộ tương lai. Quyển 3: Bùn đấy nhưng lại là tâm hồn. 1. Những điều bất ngờ dưới cống. 2. Giải thích. 3. Người bị theo dõi. 4. Người ấy cũng vác thánh giá. 5. Có thứ cát mịn mà nguy hiểm, cũng như có người đàn bà tế nhị mà giảo quyệt. 6. Khoảng đất sụt. 7. Có khi tưởng cập bến lại hóa mắc cạn. 8. Vạt áo rách. 9. Dưới con mắt một người thành thạo, Marius có vẻ như đã chết rồi. 10. Đức con phung phí cuộc đời nay lại trở về. 11. Cái tuyệt đối bị lung lay. 12. Người ông. Trang 76 Quyển 4: Javert mất hướng. Quyển 5: Ông và cháu. 1. Lại thấy cái cây có gắn miềng keôn. 2. Marius vừa ra khỏi nội chiến lại chuẩn bị cuộc chiến tranh trong nhà. 3. Marius tấn công. 4. Rốt cuộc dì Gilơnormăng không thấy khó chịu khi ông Phôsơlơvăng vào nhà lại ôm theo một cái gói. 5. Thà gửi tiền ở khu rừng ấy còn hơn gửi ông Nô-te ấy. 6. Hai cụ già, mỗi người một lối, làm tất cả để Côdét được sung sướng. 7. Bóng dáng giấc mê trong hạnh phúc. 8. Hai người không tìm ra được. Quyển 6: Đêm trăng. 1. Ngày 16 tháng 2 năm 1833. 2. Jean Valjean vẫn buộc cánh tay. 3. Người tri kỷ. 4. Đau khổ bất diệt. Quyển 7: Dốc cạn chén tân toan 1. Vòng địa ngục thứ 7 và tầng trời thứ 8. 2. Nói hết rồi mà vẫn còn có những chỗ mờ ám. Quyển 8: Bóng ngả hoàng hôn. 1. Gian buồng bên dưới. 2. Lại những bước thoái lui nữa. 3. Họ nhớ lại cái vườn phố Pơluymê. 4. Thu hút và tàn lụi. Quyển 9: Đêm tối cuối cùng, bình minh cuối cùng. 1. Thương xót người đau khổ, rộng lượng với người sung sướng. 2. Ngọn đèn cạn dầu thoi thóp. 3. Ngày xưa nhấc cả cỗ xe bò, bây giờ cầm một quản bút thấy nặng. Trang 77 4. Chai mực chỉ làm trắng thêm. 5. Ánh sáng chan hòa đứng sau đêm tối. 6. Cỏ che, mưa xóa. Trang 78 PHỤ LỤC 3 Anh đã hái hoa này (J'ai cueilli cette fleur pour toi sur la colline) Thơ Victor Hugo J'ai cueilli cette fleur pour toi sur la colline Anh đã hái hoa này (Người dịch: Xuân Diệu) J'ai cueilli cette fleur pour toi sur la colline. Dans l'âpre escarpement qui sur le flot s'incline, Que l'aigle connaît seul et seul peut approcher, Paisible, elle croissait aux fentes du rocher. L'ombre baignait les flancs du morne promontoire ; Je voyais, comme on dresse au lieu d'une victoire Un grand arc de triomphe éclatant et vermeil, À l'endroit où s'était englouti le soleil, La sombre nuit bâtir un porche de nuées. Des voiles s'enfuyaient, au loin diminuées ; Quelques toits, s'éclairant au fond d'un entonnoir, Semblaient craindre de luire et de se laisser voir. J'ai cueilli cette fleur pour toi, ma bien-aimée. Elle est pâle, et n'a pas de corolle embaumée, Sa racine n'a pris sur la crête des monts Que l'amère senteur des glauques goémons ; Moi, j'ai dit: Pauvre fleur, du haut de cette cime, Tu devais t'en aller dans cet immense abîme Où l'algue et le nuage et les voiles s'en vont. Va mourir sur un coeur, abîme plus profond. Fane-toi sur ce sein en qui palpite un monde. Le ciel, qui te créa pour t'effeuiller dans l'onde, Te fit pour l'océan, je te donne à l'amour. - Le vent mêlait les flots; il ne restait du jour Qu'une vague lueur, lentement effacée. Oh! comme j'étais triste au fond de ma pensée Tandis que je songeais, et que le gouffre noir M'entrait dans l'âme avec tous les frissons du soir ! Anh đã hái đoá hoa này trên đồi ấy cho em Trong khoảng cheo leo nhìn xuống sóng nghiêng, Mà chỉ có con diều biết rõ và tới được, Giữa khe đá to bình yên hoa mọc. Bóng tối dầm những sườn đá đìu hiu; Anh nhìn thấy; như ở nơi mừng thắng trận Một khải hoàn môn huy hoàng thắm đậm Ở chốn kia mặt trời đã lặn chìm Đêm dựng lên một cổng lớn mây chen. Những cánh buồm bay ra xa, dần nhạt, Dăm mái nhà dưới lũng sâu lát đác Như sợ loé lên và sợ lộ mình. - Anh đã hái hoa này, cho em của anh. Hoa lọt lạt, mà cũng không thơm nữa, Bởi rễ nó mọc ở trên vách đá Chỉ hít mùi đằng đít của rong xanh. Anh bảo thầm: -Hoa tội nghiệp! từ trên đỉnh gập ghềnh Đáng lẽ em phải về nơi mênh mông vực thẳm Mà rong với mây với buồm rong ruổi Nhưng thôi em hãy chết trên một trái tim, vực thẳm sâu hơn Em hãy đến tàn trên ngực phập phồng Trời sinh em ra để rã cánh vào sóng nước, Trời uỷ em cho đại dương, ta uỷ em cho tình ái. Gió khi ấy trộn các đầu sóng rối Ngày chỉ còn một thoảng sáng dần phai Ôi!trong đáy hồn anh buồn biết bao nhiêu Anh nghĩ ngợi và vực đen trong lúc ấy Vào giữa hồn anh cùng với vạn hơi chiều run rẩy! Trang 79 Đôi ta đã chạm môi (Puisque j'ai mis ma lèvre à ta coupe encor pleine) Thơ Victor Hugo Puisque j'ai mis ma lèvre à ta coupe encor pleine Đôi ta đã chạm môi (Người dịch: Hoài Anh) Puisque j'ai mis ma lèvre à ta coupe encor pleine ; Puisque j'ai dans tes mains posé mon front pâli ; Puisque j'ai respiré parfois la douce haleine De ton âme, parfum dans l'ombre enseveli ; Puisqu'il me fut donné de t'entendre me dire Les mots où se répand le coeur mystérieux ; Puisque j'ai vu pleurer, puisque j'ai vu sourire Ta bouche sur ma bouche et tes yeux sur mes yeux ; Puisque j'ai vu briller sur ma tête ravie Un rayon de ton astre, hélas ! voilé toujours ; Puisque j'ai vu tomber dans l'onde de ma vie Une feuille de rose arrachée à tes jours ; Je puis maintenant dire aux rapides années : - Passez ! passez toujours ! je n'ai plus à vieillir ! Allez-vous-en avec vos fleurs toutes fanées ; J'ai dans l'âme une fleur que nul ne peut cueillir ! Votre aile en le heurtant ne fera rien répandre Du vase où je m'abreuve et que j'ai bien rempli. Mon âme a plus de feu que vous n'avez de cendre ! Mon coeur a plus d'amour que vous n'avez d'oubli ! Bởi môi ta đã chạm chén vàng Bởi tay ta đặt trán nàng xanh xao Bởi ta thở hơi ngọt ngào Tự hồn nàng, hương lẫn vào bóng đêm Bởi ta từng lắng nghe êm Những lời thốt tự trái tim tuyệt vời Thấy em khóc, thấy em cười Mắt trên mắt, môi trên môi gắn liền Bởi ta thấy ánh sao huyền Nàng soi lên trán bỗng nhiên tối mờ Thấy trên dòng sóng vật vờ Cánh hồng nàng rứt trên bờ tặng ta Hỡi tháng năm cứ trôi qua Ta không còn sợ tuổi già nữa đâu Cứ trôi với cánh hoa rầu Hồn ta một đóa ban đầu mãi tươi Cánh thời gian khó hất rơi Nước bình ta uống chẳng vơi bao giờ Hồn ta lửa nhiều hơn tro Tim ta tình chấp mọi đều lãng quên. Trang 80 PHỤ LỤC 4 Nhà thờ Đức Bà Paris (tiếng Pháp: Cathédrale Notre-Dame de Paris) là một nhà thờ Thiên Chúa giáo tiêu biểu cho phong cách kiến trúc gothic trên đảo Île de la Cité (nằm bên dòng sông Seine) của Paris. Thế kỷ 12, Paris là một thành phố quan trọng của Cơ Đốc giáo. Đây cũng là giai đoạn thành phố có những phát triển mạnh mẽ về cả dân số và kinh tế. Nhà buôn và thợ thủ công tập trung tại chợ lớn bên bờ phải sông Seine. Trường học của nhà thờ tạo được uy tín. Vương triều Capet cũng quay trở lại Paris. Ngày 12 tháng 10 năm 1160, dưới thời Louis VII, Maurice de Sully trúng cử giám mục Paris. Cùng với các tu sĩ, Maurice de Sully đã có một quyết định quan trong: xây dựng trên quảng trường Saint-Etienne một nhà thờ mới lớn hơn nhiều so với nhà thờ cũ. Nhà thờ sẽ thờ Đức Mẹ và theo phong cách kiến trúc mới, về sau được gọi là kiến trúc Gothic. Cùng với việc xây dựng nhà thờ là cả một dự án quy hoạch đô thị. Trang 81 PHỤ LỤC 5 Những người khốn khổ (Les Misérables) Chân dung "Cosette" do Emile Bayard vẽ, trong phiên bản đầu tiên của Les Misérables (1862) Bé Cosette Trang 82 (Trong tranh, nguyên mẫu Gavroche giơ súng, đứng sau lưng Nữ thần Tự do trên chiến lũy - Tranh của Eugène De Lacroix) Chuyển thể Những người khốn khổ là tác phẩm đã được chuyển thể rất nhiều lần, một phần hoặc toàn bộ tiểu thuyết, thành các tác phẩm sân khấu và điện ảnh. Điện ảnh Phim Những người khốn khổ phiên bản 1995 của Jean-Paul Belmondo Trang 83 1. 1907, On the barricade, đạo diễn Alice Guy Blaché 2. 1907, Le Chemineau 3. 1909, Les Misérables, đạo diễn J. Stuart Blackton 4. 1911, Les Misérables, đạo diễn Albert Capellani 5. 1913, Les Misérables, đạo diễn Albert Capellani 6. 1913, The Bishop's Candlesticks, đạo diễn Herbert Brenon 7. 1917, Les Misérables, đạo diễn Frank Lloyd 8. 1922, Les Misérables 9. 1923, Aa Mujo, đạo diễn Kiyohiko Ushihara và Yoshinobu Ikeda 10. 1925, Les Misérables, đạo diễn Henri Fescourt 11. 1929, The Bishop's Candlesticks, đạo diễn Norman McKinnell, chuyển thể điện ảnh có tiếng đầu tiên của tác phẩm 12. 1929, Aa mujo, đạo diễn Seika Shiba 13. 1931, Jean Valjean, đạo diễn Tomu Uchida 14. 1934, Les Misérables, đạo diễn Raymond Bernard 15. 1935, Les Misérables, đạo diễn Richard Boleslawski 16. 1937, Gavrosh, đạo diễn Tatyana Lukashevich 17. 1938, Kyojinden, đạo diễn Mansaku Itami 18. 1943, Los Miserables, đạo diễn Renando A. Rovero 19. 1944, El Boassa, đạo diễn Kamal Selim 20. 1947, I Miserabili, đạo diễn Riccardo Freda 21. 1949, Les Nouveaux Misérables, đạo diễn Henri Verneuil 22. 1950, Re mizeraburu: Kami to Akuma, đạo diễn Daisuke Ito 23. 1950, Ezai Padum Pado, đạo diễn K. Ramnoth 24. 1952, Les Misérables, đạo diễn Lewis Milestone 25. 1955, Kundan, đạo diễn Sohrab Modi 26. 1958, Les Misérables, đạo diễn Jean-Paul Le Chanois 27. 1967, Les Misérables, đạo diễn Alan Bridges 28. 1967, Os Miseráveis 29. 1967, Sefiler 30. 1972, Les Misérables, đạo diễn Marcel Bluwal 31. 1973, Los Miserables, đạo diễn Antulio Jimnez Pons 32. 1977, Cosette, hoạt hình 33. 1978, Les Misérables, đạo diễn Glenn Jordan 34. 1978, Al Boasa 35. 1979, Jean Valjean Monogatari, đạo diễn Takashi Kuoka, hoạt hình Nhật Bản 36. 1982, Les Misérables, đạo diễn Robert Hossein 37. 1985, Les Misérables, đạo diễn, phiên bản truyền hình của bộ phim năm 1982 38. 1988, Les Misérables, đạo diễn, hoạt hình Nhật Bản 39. 1990, Les Misérables, đạo diễn Jean-Paul Rappeneau 40. 1995, Les Misérables, đạo diễn Claude Lelouch (bối cảnh phim được chuyển dịch về thế kỷ 20) Trang 84 41. 1998, Les Misérables, đạo diễn Bille August, có sự tham gia của Liam Neeson 42. 2000, Les Misérables, phim truyền hình, có sự tham gia của Gérard Depardieu, Christian Clavier, John Malkovich,...) 43. 2007, Les Misérables: Shōjo Cosette, Japanese animated TV series by Nippon Animation Sân khấu chuyển thể tác phẩm Hugo Nổi tiếng nhất có lẽ là vở nhạc kịch cùng tên Những người khốn khổ do Claude-Michel Schönberg sáng tác. Đây có lẽ là vở nhạc kịch Pháp nổi tiếng nhất và là một trong những vở nhạc kịch (opera) độc đáo nhất thế giới. Vào ngày 8 tháng 10 năm 2006, vở diễn kỉ niệm tròn 21 năm ngày ra mắt lần đầu tiên. Những người khốn khổ đang giữ kỷ lục là vở nhạc kịch được diễn liên tục lâu nhất ở sân khấu West End, Luân Đôn. * Trang 85 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1994. Văn học nước ngoài. NXB Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An. Đặng Anh Đào. Cuộc đời và tác phẩm Victor Hugo. Đặng Thị Hạnh và Lê Hồng Sâm. 1985. Văn học lãng mạn và văn học hiện thực Phương Tây thế kỉ XIX. NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp Hà Nội. Hoàng Nhân, Nguyễn Ngọc Ban, Đỗ Đức Hiểu. 1979. Lịch sử văn học Phương Tây 2. NXB Giáo dục. Lưu Đức Trung. 1998. Văn học Nước ngoài. NXB Giáo dục. Lưu Đức Trung. Văn học Thế giới tập II – sách dùng cho Cao đẳng Sư phạm. Lý luận văn học tập 2. Minh Chính. 2002. văn học Phương Tây giản yếu. NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Nhiều tác giả. 1990. Lịch sử văn học Pháp thế kỉ XIX. Nxb Ngoại văn. Nhiều tác giả. 1997. Văn học Phương Tây. NXB Giáo dục. Phê bình bình luận văn học Balzac và Hygo. NXB Tổng hợp KH. Phùng Hoài Ngọc. Giáo trình văn học Phương Tây 2. Phùng Văn Tửu. 1978. Victo Hugo. NXB Giáo dục. Tạp chí văn học. 6/2002. Từ điển văn học bộ mới. NXB Thế giới 2004. Và các tác phẩm văn học của Victor Hugo đã đề cập trong luận văn. ---------W“X---------

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfXT1274.pdf
Tài liệu liên quan