Luận án Thơ nôm đường luật (từ Hồ Xuân Hương Đến Trần Tế Xương)

Đường luật là thiên nhiên khách thể và cụ thể chứ không chỉ là thiên nhiên chủ - thể, không phải là thiên nhiên quan hệ. Không gian vũ trụ, thời gian vũ trụ tuần hoàn theo chu kỳ, ngôn ngữ có tính hàm súc, có sức gọi, mang tính khái quát, ước lệ, bộ phận từ Hán - Việt, câu thơ mang tính chất vô nhân xưng, . thường gắn bó với đề tài vịnh sử, vịnh truyện, chủ đề triết lý nhân sinh, khắng định đạo lý và khí tiết nhà Nho, góp phần khẳng định chỗ gần gũi với Đưòng thi, Đưòng luật Hán, chứng tỏ thể loại này thuộc phạm trù văn chương Trung đại. Không - thời gian sinh hoạt đời thường và tâm trạng cá nhân, không gian xã hội nông thôn - đô thị, thời gian sự kiện lịch sử, ngôn ngữ văn học dân gian, nhũng lớp từ thuộc bộ phận khẩu ngữ, nói lái, chơi chữ, sự xuất hiện ngày càng nhiều đại từ nhân xưng, hư từ, từ tượng thanh, từ thuần Việt, trong đó có vai trò quan trọng của từ láy âm, danh từ riêng chỉ người và địa điểm, . lại là những nét cơ bản làm nên đặc trưng thể loại, thuồng là gắn với đề tài tự vịnh, tự thuật, tự trào, hoặc cuộc sống xã hội, đất nước, chủ đề tâm sự, khát vọng cá nhân, . và chủ đề yêu nước, đều nhấn mạnh phạm vi hậu trung đại, và là những yếu tố dự báo cho nền văn chương hiện đại. Về nhịp điệu câu thơ Nôm Đường luật thế kỷ XIX, nhìn chung là gần gũi với Đường thi ở nhịp 4-3, hoặc 2-2-3, hoặc 2-5 (chẵn trước, lẻ sau) và rất Việt nam ở nhịp 3-4, như một phản mã Đường thi, thiên về kiến trúc đối xứng và thường có một hư từ, đặc biệt là quan hệ từ "mà"ở vị trí âm tiết thứ 4. Về ngôn ngữ, có thể nói đây là thứ ngôn ngữ phức hợp, chứa trong nó cái độ căng (tension) thể loại.

pdf220 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 1104 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Thơ nôm đường luật (từ Hồ Xuân Hương Đến Trần Tế Xương), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
át và thống kê của chúng tôi, thấy rằng việc sử dụng hƣ từ càng rất phổ biến. Mặc dù cho đến nay, các nhà nghiên cứu về t iếng Việt vẫn chƣa thống nhất về cách xác định các loại hƣ từ , Luận án dựa vào "Giáo trình tiếng Viêt"(Bùi Tất Tƣơm chủ biên) và "Tiếng Việt hiện đại ' (Nguyễn Hữu Quỳnh) cho rằng phó từ (phụ từ , trạng từ), quan hệ từ , t rợ từ là những loại từ thuộc hƣ từ . Theo cách hiểu khác thì hƣ từ gồm các loại từ: từ cảm, từ đệm, từ kèm, từ nối . Bằng sự tài hoa của mình, tận dụng sự phong phú đa dạng của các từ loại, các nhà thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX đã có những câu thơ hay nhờ giỏi sử dụng hƣ từ , tạo thành một hệ thống của thủ pháp nghệ thuật. Đây là mộ t biểu hiện cụ thể về tính chất phản mã Đƣờng thi của thể loại. Trong khi Đƣờng thi hầu nhƣ chỉ sử dụng thực từ thì ngƣợc lạ i , thơ Nôm Đƣờng luật sử dụng cả thực từ lẫn hƣ từ . Thử khảo sát một câu thơ của Hồ Xuân Hƣơng: Chị cũng xinh mà em cũng xinh. (Tranh tố nữ) Quả thật, hƣ từ "mà" ở đây rất đặc sắc, phát huy đƣợc cái hay của từ quan hệ , đọc lên ngẫm đƣợc bao nhiêu lình tứ , ỡm ờ, đùa bỡn, oái ăm, rái ý v ị , rất đắt . Những hƣ lừ "chi dám", "thôi đành" trong bài Ihd này cũng luyệi hay nhƣ vậy. Đây là vài dẫn chứng khác, chẳng hạn trong thơ Bà Huyện Thanh Quan: Ồ hay, cảnh cũng ƣa ngƣờ i nhỉ! 181 Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn nga (Tức cảnh chiều thu) Trong thơ Phạm Thái: Năm bảy năm nay những loạn ly, Cũng thì duyên phận cũng thì thì. (Tự trào) Hay trong thơ Nguyễn Khuyến: Đời trƣớc làm quan cũng thế a? (Kiều bán mình) Nhƣ vậy nhận định của chúng tôi hoàn loàn tƣơng phản vớ i ý kiến của ông Lạc Nam. Trong chƣơng bốn- "Thơ Đường Luật" - cuốn "Tìm hiểu các thể thơ ông viế t:" Tóm lại ,một bài thơ hay phải có lời hay ý đẹp mà sâu sắc(. ..) tránh dùng những từ đệm hoặc bắc cầu hay đưa đẩy như : thì , mà, là, cũng, đả.. .thường gọi là hư từ , làm mất nhiều ý và làm giảm giá tr ị của bài thơ." [59: 110] Ngƣợc lại ,có thể thây rỏ sự nhất trí của Luận án vớ i ý kiến sau đây của Gs Nguyển Kim Thản:" Hệ thống ngữ pháp Việt coi trật tự và việc sử dụng các từ có tác dụng ngữ pháp (hư từ) là biện pháp quan trọng nhất"[80: 124] * Đặc trưng thứ tư: Do gắn bó chặt chẽ với cuộc sống đời thƣờng nên thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX đả sứ dụng một số từ loại có phần khác biệt với Đƣờng thi, mà trƣớc hết và nổi bật là đạ i từ nhân xƣng xuất hiện ngày càng nhiều . Hiện tƣợng này theo chúng tôi là phù hợp với xu thế chung của quá trình giải phóng cá nhân. Một khi con ngƣời từ chỗ là con ngƣời vũ t rụ , là chủ thể t rữ tình hòa mình làm một với thiên nhiên vũ trụ , chuyển đổi thành con người cá nhẫn cá thể thì lất nhiên là t ính vô ngã mờ 182 dần để nhƣờng chổ cho tính hữu ngã. Thử khảo sát ngôn ngữ thơ Nguyễn Khuyến và Tú Xƣơng xem sao. Nguyễn Khuyến dùng những đại từ nhân xƣng ngôi thứ nhất: tôi , tớ , mình, ta, ông, lão, em... Chẳng hạn: Em cũng chẳng no mà chẳng đói, Thung thăng chiếc lá rƣợu lƣng bầu. (Gử i bác Châu Cầu) Thì Tú Xƣơng lại dùng: tôi, tớ , mình, ta, ông, anh . . . với số lƣợng thống kê đáng lƣu ý : ta :17 lần, ông : 9 1ần, tôi: 7 lần, tớ : 5 lần, mình : 1 lần. Tổng cộng là 40 lần xuất hiện đại từ nhân xƣng ngôi thứ nhất trong thơ Tú Xƣơng, thƣờng nằm trong những bài thơ tự t rào, tự thuật , tự vịnh .. . Đại từ nhân xƣng ngôi thứ 3 liên quan đến đối tƣợng phản ánh cũng chiếm t ỉ lệ đáng kể với tần số xuất hiện 37 lần, trong đố đạ i từ xác định "ông" và không xác định "ai" chiếm ưu thế : ông: 7 lần, ai: 5 lần, chị: 4 lần, người ta : 2 lần, bác: 2 lần, người : 2 lần, em : 2 lần và I lần ở mỗi từ sau đây : thằng ông, nó, ch ị ả , bu nó, người kia, hắn, chúng nó, cô, cô mình, bà, cậu. Còn đạ i từ nhân xƣng ngôi thứ 2 xuất hiện củng khá phổ biến ở thơ Tú Xƣơng với số lƣợng 21 lần, trong đó đại từ "ông" có lần số cao nhất là 7 lần, bác: 4lần, mày. 2 lần, chúng mày: 2 lần, và 1 lần ở những từ sau đây : bay, em, ch ị em, mình, cô, anh. Nhƣ vậy, có một điều rất thú v ị thể hiện cái tài hoa của Tú xƣơng là đạ i từ "ông" (đại từ xác định) lại đƣợc dùng ở cả 3 ngôi tùy theo chu cảnh. Ngoài việc sử dụng đại từ nhân xƣng, theo chúng tôi , thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX còn có chỗ khác với Đƣờng thi ở một vài từ loại khác. Nếu Đƣờng thi có nhu cầu sử dụng nhiều danh từ và tính từ chỉ phẩm chất để thể hiện trạng thái trầm tƣ, tĩnh lự của tâm tình thì thơ Nôm 183 Đƣờng luật thế kỷ XIX lại có nhu cầu sử dụng loại tính từ chỉ trạng thái , động từ và phó từ nữa. Dƣờng nhƣ nhờ vậy mà thể loại này mới có thể phản ánh biết bao nhiêu cái biến động của l ịch sử , của cuộc sống giữa một thời đại đầy bão táp, cả những gian truân, những lăn lóc của biết bao cuộc đời và thân phận con ngƣời ở thế kỷ XIX. Bên cạnh những động từ ch ỉ hoạt động tâm thức nhƣ ở Đƣờng thi, thể loại này còn có cả những động từ chỉ hoạt động cơ năng khiến lời thơ cựa quậy nhƣ những bức tranh sinh động của cuộc sống đang xảy ra trƣớc mắ t: Bỏ nhà, lũ trẻ lơ xơ chạy, Mất ổ bầy chim dáo dát bay. (Chạy giặc - Nguyễn Đình Chiểu) * Đặc trưng thứ năm : Nằm trong khuynh hƣớng tiếp cận ngôn ngữ cuộc sông, thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX đã có hẳn một lớp từ độc đáo : từ tƣợng thanh, tức mô phỏng một số âm thanh tự nhiên. Trong Đƣờng thi, nhà thơ "loại bỏ những từ lượng hình, tượng thanh, ch ỉ còn lại ý nghĩa chung nhất, chân như.... Đó là sự lắng lọc của tư duy, để đi dần về trạng thái tĩnh, sự cân bằng." [27:247]. Trong khi ở đây - trong thể loại thơ Nôm Đƣờng luật - không hiếm từ tượng hình, từ tượng thanh, vần và thanh, âm và thanh trong các lớp từ này tạo nên sự hài hòa về ngữ âm và ngữ nghĩa, bộc lộ rất rõ tiếng nói của dân lộc, của đời sống Việt Nam. Chẳng hạn: - Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo, Đƣờng đi thiên thẹo, quán cheo leo. (Quán Khánh - Hồ Xuân Hƣơng) Đây là một dẫn chứng khác về câu thơ có từ tƣợng thanh : - Gió đập sƣờn non đua lắc cắc, 184 Sóng dồn mặt nƣớc vỗ long bong. (Kẽm Trống - Hồ Xuân Hƣơng) Vậy thì phải chăng có thể coi những từ tƣợng thanh, từ tƣợng hình trong ngôn ngữ thơ Nôm Đƣờng luật nhƣ một phản mã Đƣờng thi ? Qua khảo sát và phân tích, rõ ràng là không ch ỉ từ tƣợng hình, từ tƣợng thanh mà cả hệ thống ngôn ngữ đời thƣờng, thậm chí cả ngôn ngữ văn học dân gian và bộ phận từ thuần Việ t . Tất cả đều thuộc về hệ thống ngôn ngữ dân tộc, chứa trong nó một số nội dung dân chủ . Nó liên quan mậ t thiết tới sự hiện hữu của nền văn chƣơng trào phúng và góp phần khẳng định xu thế chung của quá trình giải phóng cá nhân suốt hai thế kỷ XVIII và XIX, khẳng định nền thi văn hai thế kỷ này là thuộc về giai đoạn hậu trung đạ i , dự báo một nền văn chƣơng hiện đạ i ở thế kỷ XX. 5.3 Câu thơ Nôm Đƣờng luậ t Trên đây là những khảo sát thiên về mặt từ ngữ với hai nét lớn : vừa gần với Đƣờng thi , vừa xa Đƣờng thi. Để tìm hiểu ngôn ngữ thể loại , Luận án còn muốn tiếp cận nó từ một góc độ khác : về mặt câu thơ Nôm Đƣờng luật . Trong công trình "Ngôn ngữ thơ", nhà nghiên cứu Nguyễn Phan Cảnh đã chỉ ra hệ thống tổ chức ngôn ngữ trong thơ cổ điển là : "Cả hai hệ lựa chọn và kế t hợp đều được tập trung khai thác đồng thời . Những hình tượng cổ điển, vì thế vừa có t ính chất ẩn dụ , vừa có tính chất hoán dụ . Nói cách khác, cổ điển vừa vặn từ vừa vặn câu"[5:23l] . Khảo sát hệ thống ngôn ngữ thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX, chúng tôi nhận thấy đúng là bên cạnh hệ lựa chọn, nhà thơ vẫn quan tâm đến hệ kết hợp. Nói 185 cách khác, họ thƣờng dày công tìm kiếm những lối diễn tả đặc biệt nhằm gây một hiệu quả nghệ thuậ t , nhắm vào cảm xúc hay tƣởng tƣợng của ngƣời đọc, làm tăng giá tr ị câu thơ, thể hiện qua cách đặt câu. Đó là cú cách (figure de construction), là cách xếp đặt chữ trong câu để gây một ấn tƣợng. Qua sự khảo sát , chúng tôi nhận thấy nó có mấy đặc trƣng sau đây: Một là, cũng nhƣ trong thơ Đƣờng luật nói chung, các dòng thơ luôn luôn độc lập vớ i nhau về mặt ngữ pháp, có nghĩa là mỗi dòng thơ chính là một câu thơ. Đây là chỗ khác biệt với thơ hiện đại thế kỷ XX. Ở đây, các dòng tự có một hình ảnh độc lập, ít khi nối vớ i nhau bởi các quan hệ từ nhƣ và, cùng, hay, của, vì , tuy, vì. . . nên, nếu . .. thì, tuy .. . nhưng, không những... mà. Những câu thơ nhƣ sau rất hiếm: - Bởi đuổi hƣơu Tần nên mỏi gối , Vì lo kh ỉ Sở mới dùng da. (Chó già - Huỳnh Mẫn Đạt) - Vì danh chửa đạt mới tai ngơ. (Họa thơ Tôn Thọ Tường , II - Lê Quang Chiểu) -Vì tòa liêm phóng phải vời anh. ( V ịnh Phạm Văn Thụ - Nguyễn Thiện Kế) Riêng ở liên 2 và liên 3 bài bát cú, nhờ t ính chất đối t rong từng cặp câu thơ, lời thơ thƣờng tạo nên những tầng nghĩa mới , những "ý tạ i ngôn ngoại", những sự cộng hƣởng ý cho nhau rất thú v ị không thấy ở bất cứ thể loại nào khác mà Luận án đã khảo sát trong phần phân tích cấu trúc bài thơ. Hai là, xét về mặt cú pháp, xuất hiện ở đây cả loại câu chỉ quan hệ lẫn loại câu trần thuật . 186 - Loại câu ch ỉ quan hệ khá đa dạng với các kiểu quan hệ ngữ pháp. Thƣờng thì mệnh đề chính đứng sau hỏi t rọng tâm ý nghĩa bài thơ đƣờng nhƣ thiên về các vế sau, nơi gieo vần. Tuy nhiên, nếu cấu trúc câu thơ có sự biến đổi khi nhà thơ sử dụng phép đảo trang (inversion ) thì có thể cái hay của câu thơ lạ i dồn về những đảo ngữ đứng ở đầu câu thơ. Nhà thơ có khi cũng mạnh dạn sử dụng loại câu cầu khiến, thể hiện đƣợc mối quan hệ gần gũi, sự liên hệ tƣơng hỗ giữa chủ thể và khách thể những khi muốn bộc lộ tâm tình. Chẳng hạn: - Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ, Lại đây cho chị dạy làm thơ. ( Mắng kẻ chơi trèo-Hồ Xuân Hƣơng ) - Văng vẳng tai nghe tiếng chích chòe, Lặng đi kẻo động khách lòng quê. ( Về hay ở - Nguyễn Khuyến ) - Loạ i câu trần thuật hay câu kể cũng có mặt trong thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX, trong đó, phổ biến nhất là câu tả mang nộ i dung miêu tả , tự sự , phản ánh hiện thực cuộc sống của con ngƣời đời thƣờng một cách cụ thể và khiến cho lời thơ nghe nhƣ lời nói thƣờng.Chẳng hạn: - Tết đến ngƣời cho một chậu trà, Đƣơng say ta chẳng biết rằng hoa. (Tạ lại ngườ i cho hoa trà -Nguyễn Khuyến ) - Quanh năm buôn bán ở mom sông , Nuôi đủ năm con với một chồng. (Thương vợ- Tú xƣơng ) 187 Ba là, trong cấu trúc câu thơ, thƣờng có sự trùng điệp (répéii iion ) lặp lại từ hoặc ngữ mộ t cách nghệ thuật , mang sắc thái tu từ . Chúng tôi nhận định rằng hiện tƣợng sử dụng điệp từ, điệp ngữ là một đặc trƣng thể loạ i , khu biệt nó với Đƣờng thi và Đƣờng luật Hán. Sự lặp lại từ ngữ ở đây thƣờng có tác dụng nhấn mạnh. Chẳng hạn : - Chẳng phả i rằng ngây, chẳng phải đần. ( V ịnh cảnh nghèo - Nguyễn Công Trứ ) - Sanh có ngày, âu thác có ngày. (Ngọa bịnh ngâm thi -Bùi Hữu Nghĩa ) - Đứa thì làm tƣớng, đứa làm yêu. ( Tức cảnh ban chiều - Học Lạc ) Lờ i thơ nhấn mạnh, tác động, hằn sâu vào ngƣờ i nghe hay ngƣời đọc một cảm giác, một ấn tƣợng khó phai mờ. Đây là một t rong những biện pháp ngôn ngữ khiến thơ Nôm Đƣờng luật gần gũi với sáng tác dân gian, với nhân dân, và chắc chắn là đƣợc nhân dân ƣa chuộng. KẾT LUẬN CHUNG VỀ NGỒN NGỮ THƠ NÔM ĐƢỜNG LUẬT 1. Cũng nhƣ ngôn ngữ Đƣờng thi, ngôn ngữ thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX có đặc điểm : số lƣợng từ trong bài thơ rất tiết kiệm nhƣng lại có cấu trúc rất chặt chẽ và ý nghĩa hàm súc, kết tinh. Nó nói rất ít mà gợ i vô cùng, nhấ t là ở những từ đa ngữ nghĩa và những từ ngữ mang tính khái quát. Nhà thơ sử dụng thành công và gây đƣợc hiệu quả nghệ thuật ở những thực từ . Nhà thơ cũng sử dụng những từ ngữ đối lập với tỷ lệ cao nhất so với các thể loại khác. Đó là thứ ngôn ngữ chính xác, tinh tế, tao nhã và mang tính ƣớc lệ . Nhà thơ cũng thƣờng sử dụng cách "lấy chữ ", 188 điển cổ, điển tích văn học. Lời thơ, câu thơ lại có cấu trúc độc đáo là sự lƣợc bỏ chủ ngữ . Ngoài ra, sự tồn tạ i của hệ thống từ Hán - Việt đem lại màu sắc trừu tƣợng khái quát cho tình điệu thẩm mỹ của bài thơ. Tất cả góp phần khẳng định thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX là thuộc phạm trù văn chƣơng trung đại với đặc trƣng về tính vô ngã và tính qui phạm của nó. 2. Mặt khác, lại là mặt chủ yếu, ngôn ngữ thơ Nôm Đƣờng luật cơ bản nằm trong hệ thống ngôn ngữ dân tộc, thể hiện tính dân tộc, t ính nhân dân và tính dân chủ trong cả nộ i dung lẫn hình thức của nó. Đúng nhƣ nhà nghiên cứu Tạ Ngọc Liễn đã viế t t rong bài: " Về t ính dân tộc trong thơ cổ, trung đại Việt Nam "; "... cấu trúc ngôn ngữ có l iên quan chặt chẽ tới những quá trình tâm lý sâu xa. Ngôn ngữ Nôm là ngôn ngũ của người nước Nam. Bở i vậy thơ văn Nôm là tài liệu l ịch sử thể hiện sâu sắc nhất nếp tâm lý dân tộc, tức tính cách dân tộc ta." |47:22]. Và cũng đúng nhƣ GS Bùi Duy Tân đã nh ận xét: "Sử dụng ngôn ngữ dân lộc, tức tiếng mẹ đẻ thì có thể phản ánh hiện thực cuộc sống bình thường của nhân dân một cách linh hoạt và cụ thể hơn, có thể xây dựng những hình tượng văn học đậm đà màu sắc dân tộc hơn, và do đó dễ thấm sâu hơn vào cảm quan của công chúng. Cho nên nếu như tính dân tộc, tính nhân dân có thể thấy được ở cả hai bộ phận của văn học viết , thì lại có thể dễ thấy hơn ở văn học Nôm. Hơn nữa, chính vì sứ dụng ngôn ngữ văn học dân tộc nên văn học Nôm cổ những nét riêng, độc đáo, so với văn học chữ Hán. "[78:15]. Luận án đã có thể khẳng định rằng đặc trƣng nổi bật là vẻ đẹp rất riêng ấy của ngôn ngữ thể loại : Nó đã đƣợc dân tộc hóa, Việt hóa, nhân dân hóa và dân chủ hóa. Nó đã phá vỡ mộ t khoảng cách 189 dai dẳng lừ lâu nay vẫn ngự t rị trong l ịch sử thơ ca truyền thống là khoảng cách giữa thơ ca bác học và hiện thực trần trụ i của cuộc sống đời thƣờng. 3. Từ hai nhận xét trên, chúng tôi có thể rút ra một kế t luận mới: Phải chăng ngôn ngữ thơ Nôm Đƣờng luật là thứ ngôn ngữ phức hợp, chứa trong nó cái "độ căng " thể loại ? Trong công trình "Giớ i thiệu về nghiên cứu văn chương" (An introduction to the study of Literaturc), các tác giả Danziger Marlies K. và Johnson w. Slacy đã nhận thấy : "Bất cứ mộ t tác phẩm văn chương giá trị nào cũng là một phức hợp, nó bao gồm trong chính nó những xu hướng đa dạng, những sự khác nhau, những sự đối lập, ngay cả những sự phủ định có thể thấy rõ. Chẳng hạn, nó có thể biểu lộ độ căng giữa kỹ xảo nghiêm ngặt cuả hình thức (vần thơ, dòng thơ, câu thơ trọn nghĩa) và sự tự nhiên của ngôn ngữ . . . " (* ) Chúng tôi cho rằng, ngôn ngữ thơ Nôm Đƣờng luật là một t rong vài thứ ngôn ngữ văn chƣơng có khả năng bộc lộ cái tính phức hợp ấy, với sự xuất hiện khá nhiều độ căng. Nó vừa gần Đƣờng thi vừa phản mã Đƣờng thi, sử dụng thành công cả thực từ lẫn hƣ từ , vừa có tính khái quát vừa có t ính cụ thể vớ i tên riêng ch ỉ ngƣời , ch ỉ địa điểm, vừa tinh tế tao nhã vừa có lớp từ tục, từ chử i của đời thƣờng, sử dụng cả từ Hán Việt lẫn từ thuần Việt , vừa sử dụng điển tích văn học, điển cố , cách lấy chữ , vừa vận dụng thành ngữ , tục ngữ, ca dao, câu thơ vừa lƣợc bỏ chủ ngữ (vô nhân xƣng) vừa xuấ t hiện đại từ nhân xƣng, số lƣợng ngôn từ rất tiết kiệm mà vẫn thƣờng sử dụng phép trùng điệp . . . 190 PHẦN KẾT LUẬN 1. Thế giới nghệ thuật thơ Nôm Đƣờng luật ( thế kỷ XIX) Sau khi khảo sát hàng loạt các hệ thống, từ đề tài, chủ đề đến hình tƣợng không - thời gian, cấu trúc, nh ịp, ngôn ngữ, đến đây chúng tôi có thể tìm thấy cái gì là chung nhất, là bao quát, là đậm nét. Luận án khẳng định rằng: Thế giới nghệ thuật thơ Nôm Đường luật thế kỷ XIX là một thế giới của hiện lượng giao thoa phức hợp giữa phạm trù cái cao cả , vĩnh hằng, trang nghiêm, tĩnh tại . . . với cái bình thường thông tục, dân dã, sôi động, chứa trong nó chất hài. Thế giới này là bức tranh thu nhỏ của hiện thực cuộc sống, hòa tan trong thế giớ i tâm hồn rất đời thƣờng của con ngƣời , chứ không ch ỉ là thế giới sâu lắng trầm tƣ của con ngƣời vũ trụ . Tất nhiên là, trong thế giới nghệ thuật của thơ Nôm Đƣờng luật , có vẻ đẹp của sự hài hòa giữa cái tĩnh và cái động. Nhƣng có lẽ đây cũng là vẻ đẹp trong thế giới nghệ thuật thơ Đƣờng luậ t nói chung. Từ bài thơ "Phong Kiều dạ bạc" của Trƣơng Kế đến bài thơ "Thu vịnh" của Nguyễn Khuyến đều có vẻ đẹp của sự hài hòa ấy. Nhƣng nếu ở bài Đƣờng thi, nhà thơ tạo ra những mố i quan hệ để gợ i liên tƣởng cho ngƣời đọc về những vẻ đẹp của thế giới , của tình ngƣờ i , thì ở bài thơ Nôm Đƣờng luật, nhà thơ không lƣợc bỏ đi mà giữ lại rất nhiều những đƣờng nét, màu sắc, âm thanh của thiên nhiên, âm vang của cuộc sống đời thƣờng. Thế giới nghệ thuậ t này thực ra đã đƣợc chúng tôi hé mở qua việc khảo sát từng yếu tố , từng hệ thống. Ở hệ thống đề tài, chủ đề , đó là cái vẻ đẹp kỳ thú, bình d ị của thiên nhiên, thứ thiên nhiên cụ thể chứ không hắn chỉ là thiên nhiên quan hệ , là thiên nhiên khách thể chứ không ch ỉ là thiên nhiên chủ thể. Đó là cái thế giới 191 đƣợc diễn tả theo sự quan sát trực tiếp của nhà thơ, mang màu sắc dân tộc và ít nhiều đã xuất hiện nét cá thể hóa, mang tính chất trữ t ình thế sự , t rữ tình cá nhân và trữ t ình công dân. Đó còn là thế giới nội tâm, thế giới của tâm sự và khát vọng cá nhân. Quê hƣơng, đất nƣớc, hiện thực cuộc sống cũng ùa ngập vào những trang thơ Nôm Đƣòng luậ t , nhất là ở nửa sau thế kỷ XIX, thắp sáng những trái tim yêu nƣớc của nhà thơ và của con ngƣờ i một thời "khổ nhục mà vĩ đại". Trong thế giới nghệ thuật này, ngƣời đọc vẫn còn có thể cảm nhận về một không gian vũ trụ thiên nhiên, lữ thứ, nhƣng là thiên nhiên rất Việ t Nam và nhiều hơn là không gian đòi thƣờng với tâm trạng cá nhân con ngƣờ i , không gian sinh hoạt , xã hội, nghĩa là trong xu hƣớng thu hẹp không gian của thơ Nôm Đƣờng luật. Ngƣời đọc cũng còn có thể cảm nhận đƣợc thời gian tuần hoàn theo chu kỳ, thứ thời gian thiên nhiên quy phạm hóa, mang tính ƣớc lệ rất cao, nhƣng ngƣời đọc sẽ nghe rõ hơn nhịp đập của thời gian tâm trạng riêng - chung, thời gian quá khứ trôi rất chậm, hoặc rộn ràng hơn, sôi nổi hơn, nhức nhối hơn, tiếng thời gian của sinh hoạt đời thƣờng, thứ thời gian hiện tại , mang t ính thời sự của sự kiện l ịch sử , xã hội . Trong thế giớ i nghệ thuật này, nh ịp điệu thơ ca đƣợc xây dựng trên nền tảng nhịp điệu truyền thống của thể Đƣờng thi là nh ịp 4-3, nhƣng cũng uyển chuyển và sinh động hơn trong nhịp 3-4 rất độc đáo, rất Việt Nam. Xét từ bình diện ngôn ngữ nhƣ những chấ t liệu cụ thể cho thế giới nghệ thuật , t rong khi bộ phận từ Hán - Việt phả vào đây sắc thái ý nghĩa trừu tƣợng, gắn liền với tính chất tĩnh tại , không gợi hình, không mang tính chất miêu tả s inh động thì bộ phận từ thuần Việt - chiếm tỷ lệ áp đảo - đã rất tự nhiên, ung dung bƣớc vào "lãnh thổ" có lẽ đã dành sẵn cho mình, lập 192 tức hóa giải tình thế , mang lại cho bài thơ sắc thái ý nghĩa cụ thể , gắn l iền với tính chất sinh động, gợi hình. Những từ láy âm, tên riêng ch ỉ ngƣời và địa điểm, sự có mặt của folklore, khẩu ngữ , từ tục, từ chửi, chơi chữ, nói lái, đại từ nhân xƣng, từ tƣợng thanh . ..khiến ngƣời đọc không thể nhầm lẫn thế giới nghệ thuật thơ Nôm Đƣờng luật với mộ t thế giới nghệ thuật khác . Để sáng tạo đƣợc thế giới nghệ thuật riêng này, rõ ràng nhà thơ đã ti ếp nhận hoặc ch ịu sự tác động của các quy luật mỹ học trung đại và mỹ học dân gian . Mặc dầu vẫn còn giữ đƣợc những đặc trƣng của nền văn học trung đại , các nhà thơ Nôm Đƣờng luật đã từ nền thơ bác học trở về sát gần đến mức nhập thân vào nền văn hóa dân gian. Từ thơ Hồ Xuân Hƣơng đến thơ Trần Tế Xƣơng là một chặng đƣờng tốt đẹp của trào lƣu dân chủ hóa văn chƣơng, dân gian hóa thơ Đƣờng luật. Và để thử lý giải vì sao chƣa bao giờ văn học dân gian lại có mặt trong văn chƣơng viết nhƣ một t rong những nhân tố chủ lực nhƣ ở thế kỷ XIX, có thể nghĩ đến cơ sở thực tế xã hội Việt Nam bấy giờ : thời kỳ phát triển phong phú nhất của nền văn hóa dân gian . Có lẽ nhờ t iếp nhận cả hai nền mỹ học mà thế giớ i nghệ thuật này có sự phù hợp "Khoảng cách tâm lý" (Psychical distance). Một mặt nó tạo đƣợc mỹ cảm, khoảng cách hơi xa ra, mặt khác nó vẫn coi trọng hiện thực, lƣu tâm đến tính chất cá biệt , cụ thể của sự vật , nhờ vậy độc giả tuổi trẻ ngày nay vẫn có thể lĩnh hộ i . Nhờ có khoảng cách phù hợp, một khi bƣớc vào thế giới nghệ 193 thuật thơ Nôm Đƣòng luật, độc giả sẽ không đến nỗi đi nhầm từ thế giới mỹ cảm ấy vào thế giói hiện thực. Thế giới nghệ thuật này xét đến cùng là có những chỗ tương đồng nhưng chủ yếu là những nét d ị biệt với thế giới nghệ thuật Đường thi và cả với Đường luật Hán . Trong sự giao lƣu văn hoa ỏ đây, rõ ràng ảnh hƣởng của Đƣòng thi không nhất thiết để lại dấu vết trong thơ Nôm Đƣờng luật mà có rất nhiều dấu hiệu của Đƣờng thi đã đƣợc hòa tan trong sức sáng tạo cùa nhà thơ Nôm Đƣòng luật với tƣ cách chủ thể t iếp nhận. Thể loại này do vậy thực sự xứng đáng tiêu biểu cho hiện tƣợng vượt gộp hay t iếp biến t rong thi ca, rộng hơn là sự vượt gộp hay tiếp biến văn hóa (acculturation) thƣờng dƣợc nhắc đến trong văn hoa học. Thơ Nôm Đƣờng luật - trên cơ sở thế giới nghệ thuật này - là một t rong những bộ phận chủ yếu của nền vãn học dân tộc, nơi "bắt đầu cho một thái độ sống của tâm thức con người biết tư duy" [32:2] 2. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong thơ Nôm Đƣờng luật (thế kỷ XIX) Một mặt , thể loại thơ Nôm Đƣờng luật t rong phạm vi thế kỷ XIX vẫn còn bộc lộ quan niệm con người vũ trụ , con nguời vô ngã, con người tấm lòng . Nhà thơ đã hình dung con ngƣờ i xã hội thông qua con ngƣời vũ trụ , đúng nhƣ Trần Đình Sử nhận định : "Con người vũ trụ là mô hình cơ bản chi phối sự mô tả con người trong thơ văn cổ Việt Nam" . Đồng thời , hầu hết các nhà thơ thuộc kiểu con ngƣời nhà Nho, con ngƣời đứng trong trời đất , lấy tiêu chuẩn đạo lý làm ngƣời để phân biệt, đành giá ngƣời làm theo chuẩn mực và ngƣời bấ t cập chuẩn mực. Họ là những con ngƣời "sách vở" nên tấm lòng "ái 194 ưu" vẫn hằng canh cánh, ngay cả khi lâm vào cảnh ngộ bi đát , họ vừa than thở vừa giễu mình thi chƣa đỗ . . . Mặt khác, thể loại này ở thể kỷ XIX cũng đã bộc lộ sự đổi mới quan niệm con ngƣờ i . Bên cạnh con ngƣời tự nhiên (con ngƣơi vũ trụ), đã có thể nói đến sự xuất hiện quan niệm về con người cá nhân, con người hữu ngã , mà biểu hiện trƣớc hết là con người tự khẳng định, con người có cá tính , với tất cả khát vọng tự do và lòng tự tin, tự hào của nó. Tài hoa trong nghệ thuật là biểu hiện tài năng con ngƣời , rất đƣợc đề cao, đƣợc quan niệm nhƣ là một tiêu chuẩn đạo đức con ngƣời , nhất là vào nửa đầu thế kỷ. Chẳng phả i Hồ Xuân Hƣơng đã từng tự hào là ngƣời t rí thức của thời đại qua lời thơ : "Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ. Lại dây cho ch ị dạy làm thơ " đấy sao ? và chẳng phả i " Chí làm trai" nhƣ một mục tiêu của con ngƣờ i kẻ sĩ trong cuộc sống Nguyễn Công Trứ đấy sao ? Tất nhiên, khi đã có một quan niệm nhƣ vậy thì cái nhìn truyền thống bắt đầu lung lay, thay đổi là điều dễ hiểu, bởi đã có sự "chuyển hệ " tƣ tƣởng. Chẳng hạn, cái nhìn về "Ông trời" giờ đây đã khác hẳn với hàng chục thế kỷ trƣớc. Còn đâu ý nghĩa thiêng liêng cao cả trong hình ảnh đấng tối cao nắm giữ then tạo hóa chứng giám cho con ngƣời và muôn việc ở đời ! Nhà thơ quay về với cuộc sống đời thƣờng với biết bao ý nghĩa nhân bản của nó. Vào nửa sau thế kỷ XIX, sự thay hình đổ i dạng của xã hội Việt Nam đã làm thay đổ i quan niệm về con ngƣời . Hoà trong bức tranh chung của cái xã hội nửa Ta nửa Tây nhố nhăng loạn x ị là những con người-mà-chẳng-ra- người . Con ngƣời nho sĩ truyền thống từng xứng đáng đƣợc tôn vinh là hiện thân của trí thức, văn hóa, đạo đức, giờ đây bỗng trở nên trống rỗng, nhẹ 195 tâng, kể cả khi leo lên đến đỉnh cao danh vọng (Vịnh tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến) Nói chi đến những ông Cử chẳng ra ông Cử và quan cũng chẳng ra quan !. . Quả thật các nhà thơ đã tìm một định hƣớng dùng cho phƣơng thức tƣ duy nghệ thuật của mình, đi nhanh từ những gì là công thức ƣớc lệ đến với hiện thực ngồn ngộn của cuộc sóng. Nêu cho rằng:"Quan niệm thẩm mỹ thờ i phong kiên, nói chung lấy chuẩn mực của cái đẹp và chân lý ở quả khứ . Càng cố xưa càng coi là lý tưởng" [57:10-11] thì quan niệm thẩm mỹ (nghệ thuật) ỏ đây có khác, đã có nhiều biểu hiện phá vỡ hệ thống thi pháp cổ ấy. Chuẩn mực của cái Đẹp và chân lý nghệ thuật ỏ đây là con ngƣời , là cuộc sống thực tại , là vận mệnh nhân dân và dân tộc. 3. Kết luận chung Trên cơ sở sự khảo sát thể loạ i ở thế kỷ XIX, đến đây cũng có thể kết luận đƣợc về cái mã của thơ Nôm Đƣờng luật. Đó là sự chuyển hóa, sự hỗn dung, sự vượt gộp hay t iếp biến giữa cái mã Đường thi và cái phản mã Đường thi. Nhƣ vậy là: • Một mặt , nhà thơ vẫn chấp nhận "có một chân lý vĩnh viễn tồn tại xuyên qua những thay đổi bên ngoài" [ :72] Nhà thơ muốn thể hiện cái nội dung "khẳng định một sự bất biến của chân lý vạn vật nhất thể . . . •Mặt khác, nhà thơ lại có xu hƣớng phủ định hệ tƣ tƣỏng của Đƣờng thi, muốn phá vỡ những quy này phạm nọ . Có thể nói, sự hỗn dung trong quan niệm về lối sống là tiền đề cho sự hỗn dung trong kiểu tƣ duy nghệ thuậ t : giữa phong cách bác học và phong cách dân gian, trong đó, nổi trội hơn chính là phong cách dân gian, không ch ỉ ổ chỗ phong cách dân gian biểu hiện bằng nhiều mặt, đặc biệt là qua ngôn 196 ngữ , tồn tại trong đại đa số bài thơ, câu thơ, mà còn ở chỗ nó làm nên vẻ đặc sắc thể loại . Từ thơ Nôm Đƣờng luật , có thể nghĩ đến những đặc trưng của nền văn chương chữ Nôm. Nếu văn chƣơng chữ Hán, trong đó có thơ Đƣờng luật chữ Hán, thiên về mặ t bác học, ch ịu ảnh hƣởng của triết học phƣơng Đông, của ý thức hệ phong kiến, thì văn chƣơng chữ Nôm lại thiên về mặ t dân gian, chủ yếu là tiếp nhận đƣợc từ nhân dân, từ nền văn hóa dân gian những tƣ tƣởng, nghệ thuật nói chung là tiến bộ , lành mạnh. Từ thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX, cũng có thể xác định xu hướng văn chương thế kỷ XIX - là thế kỷ thức t ỉnh của bản ngã - trong quá trình phát triển l ịch sử văn học Việt Nam nhƣ nhà nghiên cứu Thái Hòa đã chỉ ra : "Có thể nói l ịch sử văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XX là quá trình con ngườ i "tự nhận thức", "tự khẳng định cái tôi" của mình. Ở thời kỳ đầu, cái "tôi" hòa nhập với cái "ta", mội thời kỳ văn chương vô ngã kéo dài, đến thế kỷ XVIII (rõ nhấ t là thế kỷ XIX), văn chương là con ngườ i tự khẳng định bản ngã của mình, để đến đầu thế kỷ thứ XX (nhất là từ 1930 - 1945) thì cái "tôi" mới thực sự hiện ra một cách rõ nét và điển hình nhất" [32:4] Từ thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX, có thể suy nghĩ về một quy luật trong giao lưu văn học. Nêu trong "Sổ tay văn hóa Việt Nam", mục "Văn học" nhận định: "Rõ ràng dù vay mượn, ông cha ta vẫn không giữ y nguyên cải vay mượn trong khuôn khổ đã quy định , mà lúc nào cũng có xu hướng phá vỡ ra, phát triển thêm, cải tạo cho phù hợp với cách thẩm âm, thẩm mỹ của người Việt Nam." [15:188] thì có thể nói thơ Nôm Đƣờng luật xứng đáng làm tiêu biểu cho mọi thể loại có hình thức là một thể thơ ngoại nhập, bởi nó 197 thể hiện tập trung nhất , thành công nhất quá trình Việt hóa thể thơ ấy. Hơn ở đâu hết , chính ở thể loại văn học dân tộc độc đáo này, có sự gặp gỡ, giao lƣu, chuyển hóa giữa hai nền văn chƣơng : bác học và dân gian. Từ thơ Nôm Đƣòng luật thế kỷ XIX, chúng tôi không thể không nghĩ đến Boileau và Diderot. Có thể nói, thể loại này, rõ nhất ở thế kỷ XIX, là thể loại vừa "cao quý" vừa "thấp kém" bởi nó vừa có chất bi vừa có chất hài , vừa có mảng thơ xƣng tụng giọng anh hùng ca về những con ngƣời trung nghĩa vừa có mảng thơ châm biếm trào phúng lũ ngƣờ i hèn hạ xấu xa. Trong quan niệm của nhà thơ, có sự gắn bó toàn diện, sâu sắc với hiện thực cuộc sống nhân dân, nhƣ Diderot (Ì713 -1784) của nền văn học hiện thực Pháp "Những gì thường gặp nhất trong tự nhiên đều đã từng làm mẫu mực đầu tiên cho nghệ thuật". (Dẫn theo Phƣơng Lƣu, "Một quan niệm văn nghệ góp phần báo hiệu cho Cách mạng Pháp", Tạp chí văn học số năm 198 , (tr. 13-14). Ở thể loại này không còn có sự xa cách giữa đề tài "cao quý" và "thấp hèn" - một sự phân biệt thiếu dân chủ. Ngƣợc lại, thơ Nôm Đƣờng luậ t , nhất là ở thế kỷ XIX, lại chứa đựng nội dung dân chủ và đậm đà tính nhân dân, đúng nhƣ nhận định của GS Lê Trí Viễn : "Thơ Đường cũng có phong cách trang trọng như phú, nhưng vào Việt nam, trong tay các thiên tài, nó sẵn sàng mở rộng lòng đón nhận bất kỳ nộ i dung nhân dân nào. Nhiều bài thất ngôn bát cú của Hồ Xuân Hương, của Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương đã đậm đà màu sắc quảng đạ i nhân dân" [90:145]. Tất nhiên là thơ Nôm Đƣờng luật không thể không ch ịu ảnh hƣỏng của tƣ duy nghệ thuật cổ trung đại phƣơng Đông, quan niệm nghệ thuật về thế giới và về con ngƣời của nhà thơ Dƣờng Trung Quốc, có sự vay mƣợn chai 198 liệu nghệ thuật và cả kỹ thuật làm thơ . .. nhƣ là một quy luật , rất phổ biến trong giao lƣu văn hóa, nhƣng dƣờng nhƣ chủ yếu là do mối quan hệ tƣơng đồng về điều kiện l ịch sử , xã hội, đặc điểm chung của tâm hồn con ngƣời Á Đông, nhƣ Nguyễn Văn Dân, trong công trình "Những vấn đề lý luận của văn học so sánh" đã khẳng định : "Người ta ch ỉ có thể vay mượn những gì đồng điệu với quan điểm tư tưởng của mình" [tr 46-47]. Hơn nữa, quan trọng nhất , đáng quí nhất là nhà thơ đã ti ếp nhận bằng con đƣờng Việt nam hóa, biết gạt bỏ những gì xa lạ vớ i cảm thức của ngƣờ i Việt nam, nghĩa là sự t iếp nhận có cách tân và đầy sáng tạo. Phải chăng chính nhờ vậy, mặc dù sinh mệnh nghệ thuật của thể loại thơ Nôm Đƣờng luật đã chấm dứt vào đầu thế kỷ XX nhƣng tinh hoa của nó vẫn mãi mãi tồn tại. Bài thơ "Sông Lấp" của Tú Xƣơng chẳng phả i là một thực tế hùng hồn chứng tỏ thơ Đƣờng luật đã phát huy ƣu thế của nó sang thể lục bát trong thủ pháp dồn nén cảm xúc xuống dòng thơ cuối cùng, tạo vẻ đẹp hàm súc, cô đọng - đó sao ? Trong nền văn chƣơng hiện dại Việ t Nam, thể thơ Đƣờng luậ t tồn tại t rong thể loại thơ Quốc ngữ luật đƣờng (hay thờ Đƣờng luật chữ quốc ngữ), nhất là trong thơ trào phúng. Nhƣ v ậy, "cho đến ngày nay, thơ Nôm luật Đường không phả i không còn có v ị trí trong nền thơ ca hiện đại" (39:I 24). Tóm lại, đối vớ i thể loại thơ Nôm Đƣờng luật , khi khảo sát giai đoạn từ Hồ Xuân Hƣơng đến Trần Tế Xƣơng, Luận án đã hệ thống hóa, so sánh, phân tích và lý giải : Thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX là một chỉnh thể nghệ thuật , tạo nên đƣợc một thế giới nghệ thuật riêng, bộc lộ một quan niệm nghệ thuật riêng về con ngƣời . Nhìn chung, có một sự thống nhất giữa các hệ thống, từ đề tài - chủ đề , không - thời gian đến ngôn ngữ. Thiên nhiên trong thơ Nôm 199 Đƣờng luật là thiên nhiên khách thể và cụ thể chứ không ch ỉ là thiên nhiên chủ - thể , không phả i là thiên nhiên quan hệ. Không gian vũ trụ , thời gian vũ trụ tuần hoàn theo chu kỳ, ngôn ngữ có tính hàm súc, có sức gọi , mang tính khái quát, ƣớc lệ , bộ phận từ Hán - Việt, câu thơ mang tính chất vô nhân xƣng, .. . thƣờng gắn bó với đề tài v ịnh sử , v ịnh truyện, chủ đề t riế t lý nhân sinh, khắng định đạo lý và khí tiết nhà Nho, góp phần khẳng định chỗ gần gũi với Đƣòng thi, Đƣòng luật Hán, chứng tỏ thể loại này thuộc phạm trù văn chƣơng Trung đại . Không - thời gian sinh hoạt đời thƣờng và tâm trạng cá nhân, không gian xã hội nông thôn - đô thị , thời gian sự kiện l ịch sử , ngôn ngữ văn học dân gian, nhũng lớp từ thuộc bộ phận khẩu ngữ, nói lái, chơi chữ , sự xuất hiện ngày càng nhiều đại từ nhân xƣng, hƣ từ , từ tƣợng thanh, từ thuần Việt, trong đó có vai trò quan t rọng của từ láy âm, danh từ riêng ch ỉ ngƣời và địa điểm, ... lại là những nét cơ bản làm nên đặc trƣng thể loại , thuồng là gắn với đề tài tự vịnh, tự thuật , tự trào, hoặc cuộc sống xã hội, đất nƣớc, chủ đề tâm sự , khát vọng cá nhân, .. . và chủ đề yêu nƣớc, đều nhấn mạnh phạm vi hậu trung đại , và là những yếu tố dự báo cho nền văn chƣơng hiện đại . Về nhịp điệu câu thơ Nôm Đƣờng luật thế kỷ XIX, nhìn chung là gần gũi với Đƣờng thi ở nhịp 4-3, hoặc 2-2-3, hoặc 2-5 (chẵn trƣớc, lẻ sau) và rất Việt nam ở nhịp 3-4, nhƣ mộ t phản mã Đƣờng thi, thiên về kiến trúc đối xứng và thƣờng có một hƣ từ, đặc biệt là quan hệ từ "mà"ở vị trí âm tiết thứ 4. Về ngôn ngữ , có thể nói đây là thứ ngôn ngữ phức hợp, chứa trong nó cái độ căng (tension) thể loại . Từ việc khẳng định những kết quả nghiên cứu nhƣ ở trên đã nêu, Luận án có những đóng góp mới trong lĩnh vực chuyên ngành Văn học Việt nam. 200 Một là, về lịch sử văn học, Luận án góp phần cho việc nghiên cứu giai đoạn văn học hạ trung đại (hoặc hậu trung đại) - mà vẫn có nhà nghiên cứu khẳng định là giai đoạn văn học phục hƣng của Việt Nam thêm rõ nét hầu có thể nhanh chóng đi đến sự nhất t rí giữa các nhà nghiên cứu. Hai là, về thi pháp học, Luận án là một thể nghiệm về cách t iếp cận thi pháp thể loại , góp phần bổ sung, hoàn ch ỉnh, làm phong phú thêm, rõ nét hơn di ện mạo thể loại thơ Nôm Đƣờng luật . Về ý nghĩa thực tiễn, Luận án có thể bổ sung chuyên đề giảng dạy về thể thơ Đƣờng luật , về thể loại và thi pháp thể loại , gợ i ý cho cán bộ giảng dạy và giáo viên trong giảng văn đối với những bài thơ từ Hồ Xuân Hƣơng đến Tú Xƣơng đƣợc làm theo thể Đƣờng luật . Ngoài ra, nên chăng coi thế kỷ XIX nhƣ một giai đoạn văn học trong khi phân kỳ lịch sử văn học? 201 THƢ MỤC THAM KHẢO A. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 1.Nguyên An - Cái độc đáo trong cấu trúc nghệ thuật của bài thpư Bạn đến chơi nhà - Văn nghệ số 28 (14-7-1990) 2. M.Bakhtin - Lý luận và thi pháp tiểu thuyết - Phạm Vĩnh Cƣ dịch, Trƣờng viết văn Nguyễn Du xb, Hn, 1992 3. Hoa Bằng - Quốc văn đời Tây Sơn , Sg, Vĩnh Bảo xb, 1950 4. Phan Kế Bính - Việt Hán văn khảo , Hn, Trung Bắc Tân Văn xb, 1930 5. Nguyễn Phan Cảnh - Ngôn ngữ thư- Hn , Nxb ĐH-GDCN, 1987 6. Nguyễn Sĩ Cẩn- Mấy vấn đề phương pháp dạy thơ" văn cổ Việt Nam . Hn, Nxb GD, 1984 7. Nguyễn Tài cẩn - Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt - Hn. Nxb, KHXH. 1979 8. Trần Duy Chân - Những bài giảng về thi pháp học cấu trúc - Chƣơng trình BTKT cho NCS. ĐHSP. TPHCM, 1995 9. Francois Cheng- Bút pháp thơ ca Trung Quốc (Ecriture poétique Chinoise) Nguyễn Khắc Phi d ịch. Paris, 1997 10. Nguyễn Huệ Chi (cb) Nguyễn B ỉnh Khiêm danh nhân văn hóa - Hn, Bộ VHTT-TT xb, 199] 11. Nguyễn Huệ Chi - Con đường giao t iếp của văn học cổ Trung đại Việt Nam nhìn trong mối quan hệ khu vực - Văn học số 1 - 1992 12. Nguyễn Huệ Chi (cb) Thi hào Nguyễn Khuyến, đời và thơ - Hn, Nxb KHXH, 1992 202 13. Trƣơng Chính - Cha ông ta đã phấn đấu như thế nào để ngôn ngữ văn học dân tộc ngày càng trong sáng và phong phú - Ngôn ngữ số 2 -1972 14. Trƣơng Chính - Cha ông ta đã vận dụng các thể loại văn học Trung Quốc như thế nào vào thơ Nôm? Văn học số 2 - 1973 15. Trƣơng Chính - (và. ..) Sổ tay văn hóa Việt Nam - Hn, Nxb Văn hóa, 1978 16. Trƣơng Chính - Thơ văn Nguyễn Công Trứ Hn, Nxb Văn học, 1983 17. Hƣ Chu - Để hiểu thơ" Đường luật - Nxb Nguyễn Hiến Lê. Sài Gòn, 1958. 18. Phan Trần Chúc - Văn chương quốc âm về thế kỷ XIX - Sài Gòn, 1960. 19. Hồng Dân - Bước dầu tìm hiểu về ngôn ngữ của Nguyễn Đình Chiểu . Ngôn ngữ số 3 - 1972. 20. Xuân Diệu - Các nhà thơ cổ điển Việt Nam . Tập I : 1981, Tập II : 1987 (tái bản) Hn, Nxb Văn học. 21. Lê Tiến Dũng - Tìm hiểu tác phẩm văn học . Nxb Tổng hợp Sông Bé, 1991. 22. Nguyễn Sĩ Đại - Một số đặc trưng nghệ thuậ t của thơ tứ tuyệt đời Đường . Luận án PTS. Hà Nội , 1995. 23. Trần Thanh Đạm - Sự chuyển tiếp của văn chương Việt Nam chương thời kỳ hiện đại . (chuyên đề) ĐH Sƣ phạm TP Hồ Chí Minh, 1995. 24. Nguyễn Kim Đính - Một số vấn đề về thi pháp của nghệ thuật ngôn từ - Văn học số 5,6/1985. 25. Trần văn Giàu - Triết học và tư tưởng . Nxb TP. HCM., 1988. 203 26. A.Gurevich - Những phạm trù văn hóa trung cổ . (Hoàng Ngọc Hiến dịch) Nxb Nghệ thuật M., 1972. (ĐHSP Hà Nội I quay ronéo). 27. Nguyễn Thị Bích Hải - Thi pháp thơ Đường. Nxb Thuận Hóa, Huế , 1995. 28. Nguyễn Thị Bích Hải - Thử đề xuất một hướng tiếp cận thơ Đường luật . Thông tin khoa học ĐHSP. TP. HCM., số năm 198 . 29. Dƣơng Quảng Hàm - Việt Nam Văn học sử yếu. Bộ GD (Sài Gòn). Trung tâm học liệu tái bản, 1968. 30. Dƣơng Quảng Hàm - Văn học Việt Nam. Bộ GD (Sài Gòn). Trung tâm học liệu tái bản, 1968. 31. Đỗ Đức Hiểu - Đổi mới phê bình văn học. Nxb KHXH - Nxb Mũi Cà Mau, 1993. 32. Thái Hòa - Nỗi giật mình của Nguyễn Công Trứ - Bách khoa văn học, số 8 - 1991. 33. Bùi Công Hùng - Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca , Nxb KHXH, Hà Nội , 1983. 34. Roman Jakobson - Thi pháp học. Trần Duy Châu d ịch. ĐHSP. TP. HCM, 1994. 35. Đinh Gia Khánh - Văn học cổ Việt Nam. Tập I. Hn. Nxb GD, 1964. 36. Đinh Trọng Lạc (chủ biên) - Phong cách tiếng Việ t . Hn. Nxb GD, 1993. 37. Thanh Lãng - Văn chương chữ Nôm. Phong trào Văn hóa xb, Sài Gòn, 1953 204 38. Đặng Thanh Lê - Hồ Xuân Hương và dòng thơ Nôm Đường Luật . Tài liệu bồi dƣỡng GV để dạy Văn 10 mới. ĐH Sƣ Phạm Hà Nội I, 1990. 39. Đặng Thanh Lê (và . . .) - Văn học Việt Nam nữa cuố i thế kỷ XVIII nửa đầu thể kỷ XIX. Hn. Nxb GD, 1990. 40. Đặng Thanh Lê - Tiếp cận một số vấn đề t iếp nhận ngôn ngữ và tư tưởng triết học Trung Quốc thời kỳ trung dại . Văn học số 2/1995. 41. I.S.Lisevich - Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa. ĐHSP. TP. HCM. xb, 1993. 42. D.X.Likhasev - Thi pháp văn học Nga cổ xưa. L.1967. Phan Ngọc dịch. ĐH Tổng Hợp Hà Nộ i , 1970. 43. Ngô Sĩ Liên - Đại Việt sử ký toàn thư. Tập II. Hn. Nxb KHXH tái bản, 1967. 44. Mai Quốc Liên - Nhà thơ, cơn bão, và những cánh hoa. Nxb TP. HCM., 1979. 45. Mai Quốc Liên - Ngô Thì Nhậm trong văn học Tây Sơn. Sở VH và TT Nghĩa Bình, 1985. 46. Mai Quốc Liên - Dưới gốc me vườn Nguyễn Huệ . Sở VH - TT Nghĩa Bình, 1986. 47. Tạ Ngọc Liễn - Về t ính dân tộc trong thơ cổ, trung đại Việt Nam. Văn học số II/1994. 48. Nguyễn Lộc - Văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX. (G.trình) TTĐTTX Đại Học Huế xb, 1995. 49. Phan Trọng Luận (và .. .) - Môn Văn và Tiếng Việt . Tập I. Hn. Bộ GD và ĐT xb, 1995. 205 50. Luận Ngữ . Trí Đức tòng thơ xb, Sài Gòn. (Dịch giả: Đoàn Trung Còn). 51. Phƣơng Lựu - Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc. Hn. Nxb GD, 1989. 52. Phƣơng Lựu - Nhìn qua lý luận thơ cổ điển Việt Nam. Văn nghệ (HNV) số 25 ngày 23-6-1990 . 53. (Phƣơng Lựu ) Bùi Văn Ba - Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại Việt Nam . Luận án Tiến sĩ . Hn, 1991 (Ký hiệu LA 6603 Thƣ viện Khoa học Tổng hợp TP Hồ Chí Minh) 54. Đặng Thai Mai -Mối quan hệ lâu đời và mật thiết giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc. Nghiên cứu văn học số 7/1961. 55. Đặng Thai Mai - Nguyễn Trãi. Văn học số 6/1976. 56. Đặng Thai Mai - Xã hội sử Trung Quốc . Hn. Nxb KHXH, 1994. 57. Nguyễn Đăng Mạnh - Dạy văn ở trường phổ thông cấp 2. Vụ giáo viên, Bộ GD và ĐT,Hn ,1993 58. Mạnh Tử (Thƣợng) - Trí Đức tòng thơ xb, Sài Gòn (Dịch giả : Đoàn Trung Còn ) 59. Lạc Nam - Tìm hiểu các thể thơ, từ thơ cổ phong đến thơ luật . Hn. Nxb Văn học, 1993 . 60. Nguyễn Nam - Bước đầu tìm hiếu phương thức thể hiện từ láy trên chữ Nôm . Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông. Viện Ngôn ngữ học, Hà nội , 1986. 61. Nguyễn Phong Nam -Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX (Giáo trình). TTĐTTX. Đại Học Huế , 1995. 206 62. Phan Ngọc ( Nhữ Thành) - Tìm hiểu tứ thơ của thơ Đường - Văn học số 1/1982. 63. Phan Ngọc - Tìm hiểu sự đối xứng trong văn học . Văn học số I/1983. 64. Phan Ngọc - Suy nghĩ về thể loại thơ song thấ t lục bát. Sông Hương số 9/1984. 65. Phan Ngọc - Thơ là gì ? . Văn học số I/1991. 66. Phan Ngọc - Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học. Nxb Trẻ , TP. HCM, 1995. 67. Phạm Thế Ngũ - Khảo luận về thơ cũ Trung Hoa. Phạm Thế xb, Sài Gòn, 1968. 68. Bùi Văn Nguyên (và .. .) - Thơ ca Việt Nam - Hình thức và thể loại . Hn . Nxb KHXH, 1971. 69. Bùi Văn Nguyên ( và . . .) - Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XVIII. Hn. Nxb GD, 1989. 70. Óoc-lốp - Nhịp điệu, thời gian , không gian - (Biên bản phiên họp của Hội đồng nghiên cứu Tổng hợp về sự sáng tạo nghệ thuật Liên Xô- Nedelia) - Nguyễn Văn Kiệm dịch. Thƣ viện Viện Văn học DL 1987. 71. M.F.Ốp-xi-a-nhi-cốp -(chủ biên )- Mỹ học Mác-Lê nin. Tập I. Phạm Văn Bích d ịch. Hn. Nxb Văn hoá, 1987. 72. Nguyễn Tƣờng Phƣợng ( và .. .) - Văn học sử Việt Nam hậu bán thể kỷ XIX. Sài Gòn, 1956. 73. Nguyễn Ngọc San - Từ Hán Việt và từ thuần Việt . Văn nghệ (HNV) số 38 ra ngày 17/9/1994. 74. Trần Đình Sử ( và . . .) - Lý luận văn học (3 tập) - Hn. Nxb GD, 1987. 207 75. Trần Đình Sử - Những thế giớ i nghệ thuật thơ. Hn. Nxb GD, 1995. 76. Bùi Duy Tân - Vấn dề thể loại trong Văn học Việt Nam thời cổ . Văn học số 3 - 1976. 77. Bùi Duy Tân - Mối quan hệ về thể loại giữa văn học Trung Quốc và văn học Việt Nam thời Trung đại: Tiếp nhận -cách tân -sáng tạo. Văn học số I/1992. 78. Bùi Duy Tân - Văn học chữ Hán trong mối tương quan với văn học Nôm ở Việt Nam. Văn học số 2/1995. 79. Bùi Duy Tân - Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến giữa thể kỷ XVII (Giáo trình ). Đạ i Học Huế , 1995. 80. Nguyễn Kim Thản - Các ngôn ngữ , chữ viết ở Việt Nam. Việt Nam, đất nước, l ịch sử,văn hóa (Nhiều tác giả) Hn. Nxb Sự Thật , 1991 . 81. Lã Nhâm Thìn - Thơ Nôm Đường luật , từ Quốc âm thi tập của. Nguyễn Trãi đến thơ Hồ Xuân Hương. Luận án PTS. ĐHSP Hà Nội I, 1993. 82. Đồ Kim Th ịnh - Quan niệm đạo đức và thẩm mỹ của Nguyễn B ỉnh Khiêm - Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật số 6 - 1991. 83. Chu Quang Tiềm - Tâm lý Văn nghệ - Khổng Đức Đinh Tấn Dung d ịch. Nxb.TP. HCM, 1991. 84. Cù Đình Tú - Phong cách học và đặc điểm tu từ t iếng Việt - Hn. Nxb GD, 1994. 85. Từ điển Văn học (2 tập). Hn. Nxb KHXH. Tập I : 1983, Tập II : 1984 86. Từ điển Thuậ t ngữ Văn học. Hn. Nxb GD, 1992 208 87. Ủy ban khoa học xã hội - Lịch sử Việt Nam . TậpI, Hn. Nxb KHXH, 1971. 88. Lê Trí Viễn - Vài ý kiến về câu thơ lục bát và câu thơ lục bát của Nguyễn Du. Tập San Đạ i học Sư phạm Hà Nội I năm 1974. 89. Lê Trí Viễn - Những bài giảng văn ở Đại học . Hn. Nxb GD, 1982 90. Lê Trí Viễn - Đặc điểm l ịch sử văn học Việt Nam. Hn. Nxb ĐH và THCN, 1987. 91. Lê Trí Viễn - Thơ Hồ Xuân Hương (chuyên đề sau Đại học) ĐH Sƣ Phạm TP. HCM, 1989. 92. Lê Trí Viễn -Hiểu văn học trung đại trong văn học Việt Nam như thế nào cho phải ? Khoa học xã hội số 2/1989. 93. Lê Trí Viễn - Đặc trưng của văn học trung đạ i Việt Nam (chuyên đề NCS) ĐH Sƣ Phạm TP. HCM, 1995. 94. Lê Trí Viễn - Giáo trình tổng quan văn chương Việ t Nam. TTDTTX Đại Học Huế , 1995. 95. Lê Trí Viễn -Một đời với văn (2 tập) Nxb GD và ĐHSP TP. HCM. xb, 1989 97. Viện Khoa học xã hội - Sở Văn hoá thông tin TP. HCM - Nguyễn B ỉnh Khiêm trong l ịch sử phát triển văn hóa dân tộc. TT Nghiên cứu Hán Nôm, 1991. 98. Đông Chu (Nguyễn Hữu Tiến) - Cổ xúy nguyên âm. Cuốn thứ nhì. Hn. Đông kinh ấn quán, 1918. * CHỮ NÔM : 209 98. Nguyễn Văn San - Quốc văn tùng ký (Ký hiệu AB 383 Thƣ viện thông tin KHXH). B. TÀI LIỆU TIẾNG NƢỚC NGOÀI: I. Tiếng Anh : 99. Đoàn Văn An - A brief history of Vielnamese lilerature. Asian Culture . - Saigon, 1961, No 2. 100. Danziger Marlies K. Johnson W. Stacy - An introductitm to the study of literature . D.C. Heath and Co., Boston, 1965. II. Tiếng Pháp: 101. Nguyen Khac Vien et Huu Ngoc - Littérature Vietnamienne - Fleuve rouge, Editions en Langues étrangères.,1979. 102. Huu Ngoc et Francois Corrèze - Ho Xuân Huong ou le voile déchiré - Fleuve rouge, 1984. III. Tiếng Trung: 103 104 105 210 PHẦN PHỤ LỤC BẢNG BIỂU SỐ 1: HỆ THỐNG HÓA VỀ ĐỀ TÀI, CHỦ ĐỀ STT Tác gi ả t iểu b i ểu 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 1 Hồ Xuân Hƣơng 38 12 4 13 8 2 Phạm Th ái 3 1 1 1 3 Tr ịnh Hoà i Đức 6 5 1 4 Ngu yễn Công Chứ 40 3 13 6 18 5 Nguyễn Thị Hinh 6 6 6 Phan Thanh Giản 10 3 1 5 2 6 7 Bùi Hữu Nghĩa 13 2 6 4 1 3 6 8 Huỳnh Mẫn Đạt 11 5 4 1 1 3 9 Nguyễn Hữu Huân 4 1 4 4 10 Nguyễn Đình Chiểu 32 3 1 1 4 1 29 11 Tôn Thọ Tƣờng 14 3 10 1 12 Phan Văn Trị 32 7 25 10 26 13 Lê Quang Chiểu 15 4 10 11 14 Nguyễn Khuyến 68 12 8 3 16 33 22 22 15 Nguyễn Văn Lạc 9 3 3 1 5 3 16 Chu Mạnh Trinh 21 21 17 Nguyễn Thiện Kế 5 5 5 18 Trần Tế Xƣơng 107 8 35 65 6 19 Khu yế t danh và mấy bài thơ l ẻ 16 2 1 1 3 10 12 Tổn g Cộn g 450 48 67 56 62 64 122 118 131 93 125 Tỷ lệ % 10 ,7 14 ,8 12 ,4 13 ,8 14 ,2 27 ,1 26 ,2 29 ,1 20 ,7 27 ,7 211 Ghi chú : 1. Số bài thơ 2. Số bài thơ có đề tài, chủ đề thiên nhiên 3. Số bài thơ có đề tài, chủ đề vịnh sử , vịnh truyện, vịnh vật 4. Số bài thơ có đề tài, chủ đề triết lý nhân sinh, khẳng định đạo lý 5. Số trung bình của cột (3) và (4) 6. Số bài thơ có đề tài tự vịnh, tự thuậ t , tự t rào . . . 7. Số bài thơ có chủ đề tâm sự , khát vọng cá nhân. 8. Số bài thơ có đề tài cuộc sống xã hội, đất nƣớc, con ngƣờ i . 9. Số bài thơ có chủ đề yêu nƣớc. 10. Số t rung bình của các cột (6), (7) 11. Số t rung bình của các cột (8), (9) 212 BẢNG BIỂU SỐ 2 : HỆ THỐNG HÓA VỀ NGÔN NGỮ THƠ NÔM ĐƢỜNG LUẬT STT Tác giả tiêu biểu 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 1 Hồ Xuân Hƣơng 40 6 31 73 15 32 32 32 100 15 2 Phạm Thái 14 2 3 10 1 0 7 0 10 0 3 Trịnh Hoài Đức 27 6 10 15 2 0 2 0 10 2 4 Nguyễn Công Trứ 54 16 71 41 0 22 32 2 100 10 5 Nguyễn Thị Hinh 32 0 32 13 4 0 0 0 12 3 6 Phan Thanh Giản 5 8 8 11 4 1 5 0 22 2 7 Bùi Hữu Nghĩa 3 3 27 30 6 1 5 0 60 2 8 Huỳnh Mẫn Đạt 13 15 6 29 4 0 0 0 24 1 9 Nguyễn Hữu Huân 3 3 9 2 0 0 2 0 17 1 10 Nguyễn Đình Chiểu 20 41 27 26 17 5 16 0 50 5 11 Tôn Thọ Tƣờng 4 11 4 2 2 4 13 0 39 5 12 Phan Văn Trị 6 20 106 37 9 1 16 0 40 5 13 Lê Quang Chiểu 24 4 18 32 2 1 6 0 54 2 14 Nguyễn Khuyến 51 21 180 70 19 10 16 4 361 134 15 Nguyễn Văn Lạc 0 0 10 26 8 0 2 0 27 2 16 Chu Mạnh Trinh 37 14 14 33 3 3 6 0 47 9 17 Nguyễn Thiện Kế 0 0 10 6 19 0 5 0 20 3 18 Trần Tế Xƣơng 32 5 93 123 54 14 16 10 109 98 19 Khuyế t danh và mấy bài thơ lẻ 18 7 41 21 14 0 11 0 73 4 TỔNG CỘNG 383 182 807 600 183 94 190 48 1180 308 213 Ghi chú: 1. Tổng số từ mang tính ƣớc lệ 2. Tổng số điển cố, điển tích văn học 3. Tổng số từ Hán - Việ t 4. Tổng số từ láy âm 5. Tổng số danh từ r iêng ch ỉ nguôi và địa điểm 6. Tổng số thuộc bộ phận ngôn ngữ văn học dân gian 7. Tổng số khẩu ngữ 8. Tổng số từ nói lái, chơi chữ 9. Tổng số hƣ từ 10. Tổng số đại từ nhân xƣng. CÂU THƠ NGẮT NHỊP 3-4 1 . Thơ Hồ Xuân Hương - Chị cũng xinh / mà em cũng xinh 2. Thơ Trịnh Hoài Đức - Trọn đạo con / là trọn đạo tôi 3. Thơ Nguyễn Công Trứ - Những giữ miệng / đà không dám nói - Vƣòn hoa kia / để ai rong rả - Chửa chán ru / mà quấy mãi dây - Đà dễ rồi / còn muốn dễ dƣng - Vì chữ "thòi" / nên phả i chịu luồn - Phải giống sen / thời chẳng nhuần hùm - Bên văn sang / bên võ cũng sang 214 - Đứng núi nầy / trông núi nọ cao - Bạc qua vôi / mà mỏng quá mây - Danh chẳng ham / mà lợi chẳng mê - Ta mặc ta / mà ai mặc ai - Đem lạng vàng / mua lấy tiếng cƣờ i - Tình tự này / ai có biết chăng? 4. Thơ Nguyễn Quy Tân - Cu ở đâu / mà cu đến đây? - Đó một thì / đây cũng một thì - Uẩy đá kia / sao khéo bất bình 5. Thơ Bùi Hữu Nghĩa - Chồng nhớ vợ / lòng tớ bối rối - Con thƣơng mẹ / lụy ngọc tuôn dầm - Sanh có ngày / âu thác có ngày - Kho phong nguyệ t / hãy chan chan đó - Vƣờn cúc tòng / còn thớ i thới đây ! 6. Thơ Nguyễn Đình Chiểu - Bờ cõi xƣa / đà chia đất khác - Nắng sƣơng nay / há đội trời chung 7. Thơ Tôn Thọ Tường - Trời đất chi / xui đến nỗi này - Nghĩ việc đờ i / thêm hổ việc mình 8. Thơ Tú Quý - Chẳng ở biển / sao lạ i lên nguồn 215 9. Thơ Nguyễn Khuyến - Đã bấy lâu / nay bác tới nhà - Cũng chẳng giàu / mà cũng chẳng sang - Con có cha / nhƣ nhà có nóc - "Bồ tiên thi" / lại lấy vần bồ - Trời dẫu già / nhƣng núi vẫn non - Lại có ngƣờ i / theo khoét của mày - Ngƣời bảo rằng / thầy yêu cháu đây - T ỉnh ra / hỏi / đã thái bình chƣa? - Trời hẹn ngày, / cho ba vạn sáu - Ta chung tuổi / mới một trăm hai. 10. Thơ Nguyễn Văn Lạc - Chẩng biết mình / va cứt lộn đầu - Cảnh Thuộc Nhiêu/ nhiều khách ngợp trông 11. Thơ Chu Manh Trinh -Hết nghĩ gần / thôi lại nghĩ xa - Núi toát hớp / nhờ tay tạo hóa - Bể t rầm luân / thoát nợ phong trần 12. Thơ Nguyễn Thiện Kế - Dân sờ khố / ghé bên tai gửi Quan gật đầu , / vơ ních tráp vào 13. Thơ Trần Tế Xương - Đệ nhất buồn / là cái hỏng thi - Cơm hai bữa : / cá khô rau muống 216 Quà mộ t chiều : / khoai lang lúa ngô - Chẳng phả i quan / mà chẳng phải dân - Ngƣời có cô , / sao cháu không cô ? (2 lần ) - Ông tốt duyên / vì có nƣớc da - Chẳng biết rằng / dơ dáng , dại hình - Ấm Kỷ này / đây tớ bảo rằng - Tôi gớm gan / cho cái ch ị Hằng - Không biế t rằng / em bán thế nào ? - Có phải rằng / ông chẳng học đâu ? - Mã cũng chui / mà tốt cũng chui - Hễ cắn ai / thì sét mới tha - Có đất nào / nhƣ đất ấy không ? ( 2 lần ) - Thua bạc nhà / đi với mẹ nhà - Chỉ t rách ngƣời / sao chẳng trách mình ? - Cha thằng nào / có tiếc không cho - Nhân hậu thay / lòng quan thƣợng Cao ! - Ai xét soi / cho cảnh học trò - Chẳng sang Tàu / cũng tếch sang Tây - Huấn đạo nguyên/ ông huấn đạo già ! - Ai đẹp hơn / cô Cáy chợ Rồng 14. Thơ khuyết danh - Giận ngƣờ i sống / mất / suy ra nhục - Thƣơng kẻ thác / còn / nghĩ lạ i vinh - Trái phá Tây / chăm chực bắn vào 217 STT Tên nhà thơ Số câu thơ Số bài thơ Số câu thơ có nh ịp 3-4 Tỷ lệ bách phân 1 Hồ Xuân Hƣơng 252 38 1 2,6 2 Trịnh Hoài Đức 48 6 1 16,7 3 Nguyễn Công Chứ 320 40 13 32,5 4 Nguyễn Quý Tân 24 4 3 75,0 5 Bùi Hữu Nghĩa 104 13 5 38,5 6 Nguyễn Đình Chiểu 256 32 2 6,3 7 Tôn Thọ Tƣờng 112 14 2 14,3 8 Tú Quỳ 36 5 1 20,0 9 Nguyễn Khuyến 528 68 10 14,7 10 Nguyễn Văn Lạc 64 9 2 22,2 11 Chu Mạnh Trinh 168 21 3 14,3 12 Nguyễn Thiện Kế 40 5 2 40,0 13 Trần Tế Xƣơng 724 107 25 23,4 14 (Khuyế t danh) 80 10 3 30,0 Tổng Số 342 73 21,3% 450 73 16,2%

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5893.pdf