Luận văn Giải pháp áp dụng cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận tại các NHTM Việt Nam

-Cần có các biện pháp đẩy mạnh sự phát triển và phối hợp hoạt động trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán. Nếu phát triển được các thị trường này và có sự phối hợp chặt chẽ thì chính sách cho vay theo lãi suất thoả thuận sẽ thành công với các ý nghĩa: +Sự biến động lãi suất sẽ được giảm thiểu bởi sự biến động tương tác chu chuyển vốn giữa các thị trường. +ý muốn tác động tới lãi suất của NHNN và những tác động chính sách cần thiết khác sẽ có cơ chế thuận lơị để đi vào nền kinh tế. -Cần xây dựng một chiến lược phát triển cạnh tranh lành mạnh, không bị lao vào những cuộc chiến về lãi suất ngắn hạn, vừa ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế vĩ mô, vừa tốn sức lực, tiền của của ngân hàng. -Cần xây dựng bộ phận quản lý vốn khả dụng, nhằm đảm bảo việc xác định chính xác cung cầu vốn trên thị trường, qua đó xác -Nâng cao vai trò của Hiệp hội Ngân hàng nhằm phối hợp và thống nhất hoạt động giữa các NHTM.

doc65 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 627 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp áp dụng cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận tại các NHTM Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i lãi suất cao như vậy. Cuối cùng, điều này đã dẫn tới một cuộc khủng hoảng hệ thống tài chính, nhiều ngân hàng nhỏ yếu và các tổ chức môi giới đã bị sụp đổ. -Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh có hiệu quả và có khả năng tài chính: năng lực tài chính thực tế của các doanh nghiệp cần phải ở mức đáp ứng được các nhu cầu thanh toán thường xuyên để giảm thiểu áp lực của việc tăng lãi suất vào giai đoạn thả nổi. Nếu doanh nghiệp với khả năng tài chính yếu thì các khoản thanh toán lãi suất tăng lên và các doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn khi đương đầu với các biến động về lãi suất do tính không co dãn cầu về vốn của họ. -Tài chính công mạnh: thể hiện ở việc thâm hụt ngân sách Nhà nước ở giới hạn cho phép và có dự trữ tài chính để đáp ứng các chi tiêu đột xuất cho khắc phục hậu quả thiên tai, an ninh, quốc phòng. Chính phủ không sử dụng tiền phát hành để chi tiêu, chấm dứt các khoản bao cấp cho các DNNN. -Chính sách tỷ giá linh hoạt và sự ổn định của thị trường tiền tệ thế giới: Quá trình tự do hoá lãi suất đặt ra yêu cầu thực hiện cùng với chế độ tỷ giá linh hoạt, nhằm tăng khả năng huy động vốn từ nước ngoài, khuyến khích xuất khẩu và quan hệ lãi suất nội tệ- tỷ giá- lãi suất ngoại tệ không bị bóp méo, tránh tác động xấu đối với thị trường tiền tệ trong nước. -Tính minh bạch của thị trường được thực hiện trên thực tế: đảm bảo cho sự cạnh tranh bình đẳng giữa các định chế trung gian tài chính và Hiệp hội Ngân hàng thực hiện được vai trò thiết lập sự liên kết giữa các tổ chức tài chính trong việc áp dụng lãi suất cho vay thoả thuận và lãi suất tiền gửi nhằm chống phá giá. Các điều kiện nói trên, có điều kiện là yếu tố nôị sinh, có điều kiện là yếu tố ngoại sinh. Đối với các điều kiện mang tính ngoại sinh ( ổn định kinh tế vĩ mô, lãi suất thị trường tiền tệ quốc tế) giúp chúng ta lựa chọn thời gian và không gian thích hợp, kết hợp với điều kiện có tính nội sinh đã được tạo lập để thực hiện thành công quá trình tự do hoá lãi suất . Chương 2 Thực trạng áp dụng cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận bằng VNĐ tại các NHTM nói chung và tại Sở Giao dịch I- NHCT Việt Nam. 2.1. Khái quát về Sở Giao dịch I- Ngân hàng Công Thương Việt Nam.(SGD I- NHCTVN). 2.1.1. Khái quát về bộ máy tổ chức của SGD I- NHCTVN 2.1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của SGD I- NHCTVN Ngân hàng Công thương Việt Nam là một Ngân hàng thương mại quốc doanh lớn tại Việt Nam với tổng tài sản chiếm 25% thị phần trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng Việt Nam. NHCTVN có mạng lưới kinh doanh rộng khắp, với trụ sở chính đặt tại Hà Nội, hai Sở Giao dịch ( Sở Giao dịch I -tại Hà Nội và Sở Giao dịch II- tại thành phố Hồ Chí Minh), hơn 100 chi nhánh và gần 700 điểm giao dịch tại các tỉnh, thành phố lớn trên toàn quốc. Trong đó SGD I là thành viên hạch toán phụ thuộc của NHCTVN, là đơn vị luôn có nguồn vốn lớn nhất trong hệ thống NHCTVN. Từ 1988 trở về trước là Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm. Từ 1988 đến nay có thể phân thành ba giai đoạn chủ yếu: -Từ 1988 – 4/1993 là Ngân hàng Công thương Hà Nội. -Từ 4/1993-12/1998: giải thể Ngân hàng Công thương Hà Nội và sát nhập với NHCT Trung Ương và có tên gọi là Hội sở chính NHCT Việt Nam. -Từ 1/1999- nay, theo quyết định 134/QĐHĐQT-NHCTVN, Hôi sở NHCT Việt Nam được tách ra và mang tên SGD I- NHCTVN, đơn vị hạch toán phụ thuộc vào NHCTVN, có trụ sở đóng tại số 10 Lê Lai- Hà Nội. SGD I- NHCTVN có quyền tự chủ kinh doanh theo các nhiệm vụ được NHCTVN giao, chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi đối với NHCTVN. Sở là đầu mối cho các chi nhánh phía Bắc trong thanh toán ngoại tê theo uỷ quyền của NHCTVN, là nơi thử nghiệm và thực hiện các cơ chế chính sách, hệ thống công nghệ ngân hàng mới để rút kinh nghiệm, từ đó chỉ đạo triển khai ra toàn hệ thống. Khách hàng chính của Sở là các tổ chức kinh tế kinh doanh trong các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, thương mại, du lịch và các khách hàng là các cá nhân khác. 2.1.1.2. Nghĩa vụ và Quyền hạn của SGD I- NHCTVN 2.1.1.2.1. Nghĩa vụ -Sử dụng có hiệu quả, bảo toàn, phát triển vốn và các nguồn lực của NHCTVN. -Tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh đảm bảo an toàn hiệu quả phục vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước. -Thực hiện nghĩa vụ về tài chính theo quy định của pháp luật và của NHCTVN. 2.1.1.2.2. Quyền hạn -Nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế và dân cư trong và ngoài nước bằng VNĐ và ngoại tệ. -Phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng và các hình thức huy động vốn khác phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế và hoạt động kinh doanh của ngân hàng. -Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn bằng VNĐ & ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế theo cơ chế tín dụng của NHNN và quy định của NHCTVN. -Chiết khấu thương phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá theo quy định của NHNN & của NHCTVN. -Thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế: Thanh toán nhờ thu, L/C nhập khẩu, thông báo L/C xuất khẩu, bảo lãnh thanh toán, kinh doanh ngoại tệ theo quy định của NHCTVN. -Thực hiện các dịch vụ ngân hàng: Thanh toán, chuyển tiền trong và ngoài nước, chi trả kiều hối, thanh toán Séc... -Thực hiện chế độ an toàn kho quỹ, bảo quản tiền mặt, ngân phiếu thanh toán và các ấn chỉ quan trọng đảm bảo chi trả tiền mặt, Ngân phiếu thanh toán chính xác, kịp thời. -Thực hiện các dịch vụ tư vấn về tiền tệ, quản lý tiền vốn các dự án đầu tư phát triển theo yêu cầu của khách hàng. -Theo dõi kiểm tra các ấn chỉ của NHCTVN, đảm nhận xuất kho ấn chỉ quan trọng cho các chi nhánh NHCT phía Bắc. -Thực hiện một số nhiệm vụ khác do NHCTVN giao. 2.1.1.3. Tổ chức bộ máy điều hành của SGD I- NHCTVN 2.1.1.3.1. Sơ đồ bộ máy tổ chức: Ban lãnh đạo Gồm 1 GĐ & 3 PGĐ P. KD đối ngoại P. Tổ chức cán bộ P. Kiểm tra kiểm toán P. Ngân quỹ P. Điện toán P. Hành chính P. Kinh Doanh P. Kế Toán P. NV cân đối tổng hợp Bên cạnh đó, SGD I cho ra đời 1 phòng giao dịch vào 4/ 2002 và một tổ nghiệp vụ bán hàng. Tổng số cán bộ công nhân viên của SGD I là 279 người. 2.1.1.3.2. Nhiệm vụ các phòng ban: Phòng nguồn vốn và cân đối tổng hợp -Tổ chức huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế & dân cư bằng VNĐ & ngoại tệ theo hướng dẫn của Tổng giám đốc NHCTVN. -Trực tiếp điều hành lao động tại các quỹ tiết kiệm của SGD I đảm bảo an toàn tuyệt đối tài sản, tiền bạc của cơ quan và của Nhà nước tại quỹ tiết kiệm theo đúng chế độ hiện hành của Tổng giám đốc NHCTVN. -Lập kế hoạch kinh doanh tổng hợp, phân tích báo cáo mọi tình hình hoạt động của SGD I theo yêu cầu của Giám đốc SGD I, Giám đốc NHNN Hà Nội, Tổng giám đốc NHCTVN. -Tổng hợp báo cáo các vấn đề liên quan đến công tác thi đua, khen thưởng của SGD I. Phòng Kinh doanh -Thực hiện cho vay, thu nợ ngắn hạn, trung& dài hạn bằng VNĐ & ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế theo đúng cơ chế tín dụng của NHNN & hướng dẫn của Tổng giám đốc NHCTVN. -Thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cho các doanh nghiệp để tham gia dự thầu th0ực hiện hợp đồng, thanh toán mua hàng trả chậm theo đúng hướng dẫn của NHCTVN. -Chiết khấu thương phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu & các chứng từ có giá theo quy định của Thống đốc NHNN và Tổng giám đốc NHCTVN. -Nghiên cứu, đề xuất biện pháp giải quyết vướng mắc trong hoạt động kinh doanh của SGD, phản ánh kịp thời những vấn đề nghiệp vụ phát sinh để báo cáo Tổng giám đốc xem xét, giải quyết. -Phân tích hợp đồng kinh doanh của khách hàng vay vốn tại Sở, cung cấp kịp thời có chất lượng các báo cáo thông tin về công tác tín dụng cho lãnh đạo SGD I & các cơ quan hữu quan theo quy định của Tổng giám đốc NHCTVN. -Làm một số việc khác do giám đốc SGD I giao. Phòng Kế toán- Tài chính -Thực hiện mở tài khoản & giao dịch với khách hàng theo đúng quy định của Thống đốc NHNN & TGĐ NHCTVN, hạch toán kịp thơì, chính xác mọi biến động về vốn, tài sản của khách hàng tại Sở. -Thực hiện công tác thanh toán qua ngân hàng đối với các đơn vị, tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng & cá nhân kịp thời chính xác. -Tiếp nhận và xử lý hạch toán kế toán theo đúng quy định các hồ sơ vay vốn của khách hàng. -Phối hợp với phòng kinh doanh để thu nợ -Tính và thu lãi cho vay, phí dịch vụ, trả lãi tiền gửi đầy đủ, kịp thời. -Lập các báo biểu kế toán tài chính -Tham mưu cho Giám đốc trích lập, hạch toán sử dụng quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng. Phòng Kinh doanh đối ngoại -Xây dựng giá mua, giá bán và thực hiện mua bán ngoại tệ theo đúng quy định về quản lý ngoại hối. -Thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế và làm các dịch vụ đối ngoại Ngân hàng theo thông lệ quốc tế : mở, tiếp nhận L/C, thanh toán thẻ ( visacard, mastercard), nhờ thu ( nhập, xuất). Phòng tổ chức cán bộ & lao động tiền lương -Tham mưu với Giám đốc về vấn đề liên quan đến lao động, tiền lương -Tuyển dụng, điều động, bố trí lao động -Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Phòng Kiểm tra, Kiểm toán nội bộ -Thực hiện kiểm tra, kiểm toán toàn bộ hoạt động của Sở, báo cáo kết quả kiểm tra, kiểm toán với Giám đốc Sở -Giúp Giám đốc giải quyết các đơn thư khiếu nại của khách hàng, cán bộ nhân viên theo đúng thẩm quyền và quy định pháp luật. Phòng Ngân quỹ -Thực hiện thu chi tiền mặt, ngân phiếu bằng VNĐ và ngoại tệ -Tổ chức, điều chuyển tiền giữa quỹ của SGD I & NHNN thành phố Hà Nội an toàn -Thực hiện đúng quy định về an toàn kho quỹ -Bảo quản, nhập, xuất các loại ấn chỉ quan trọng và quản lý các hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố theo đúng chế độ quy định -Thực hiện mua tiền mặt, thu đổi Sec du lịch, thanh toán Visa -Chi tiếp quỹ, giao nhận tiền mặt, ngân phiếu thanh toán với các quỹ tiết kiệm an toàn, hiệu quả. Phòng điện toán -Triển khai & phát triển các phần mềm ứng dụng của NHCTVN -Đảm bảo an toàn bí mật về số liệu thông tin về hoạt động kinh doanh của SGD I Phòng Hành chính -Thực hiện mua sắm toàn bộ trang thiết bị, phương tiện phục vụ Sở -Theo dõi, bảo dưỡng, sửa chữa tài sản, công cụ lao động. -Tổ chức công tác văn thư lưu trữ theo đúng quy định. 2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của SGD I- NHCTVN 2.1.2.1. Tình hình huy động vốn SGD I- NHCTVN luôn coi trọng công tác huy động vốn vì nguồn vốn là yếu tố quan trọng đầu tiên của quá trình kinh doanh, quyết định đến sự tồn tại của ngân hàng. Cơ cấu nguồn vốn huy động hợp lý, chi phí huy động thấp sẽ là cơ sở để mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Với uy tín đã có từ lâu năm và nằm trên địa ban thuận lợi, công tác huy động vốn luôn là mặt mạnh nhất của Sở so với các ngân hàng khác trên cùng địa ban. Để đạt được tốc độ tăng trưởng nguồn vốn ( như ta thấy trong biểu 2.1), SGD I luôn phối hợp hài hoà những yếu tố tích cực như hình thức huy động vốn đa dạng, hấp dẫn; lãi suất tiền gửi hợp lý cho từng đối tượng khách hàng với các kỳ hạn khác nhau, đẩy mạnh việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng tiện ích, triển khai ứng dụng công nghệ tin học hiện đại vào công tác thanh toán nhất là áp dụng 100% quy trình giao dịch tức thời đối với nghiệp vụ huy động tiền gửi dân cư, phong cách giao tiếp văn minh lịch sự, tận tình, chu đáo, bên cạnh đó, SGD I thường xuyên bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tiết kiệm vững về nghiệp vụ chuyên môn, cao về ý thức trách nhiệm để có thể tư vấn cho khách hàng lựa chọn các hình thức, kỳ hạn tiền gửi phù hợp. Nhờ vậy, tổng nguồn vốn huy động của SGD I luôn chiếm tỷ trọng lớn trong mạng lưới Ngân hàng Công thương Việt Nam, thường chiếm từ 16 % - 20% tổng nguồn vốn huy động của hệ thống NHCTVN và từ 25% - 30% của các NHTM trên địa ban. Cơ cấu nguồn vốn: Tiền gửi không kỳ hạn tại Sở luôn chiếm tỷ trọng lớn ( trên 55% hàng năm) và tăng trưởng với tốc độ cao ( trên 20%/ năm). Đạt được kết quả đó là do khách hàng của Sở gồm nhiều doanh nghiệp lớn, các tổng công ty gửi tiền để thực hiện thanh toán, điều này cho thấy các dịch vụ ngân hàng của Sở đã mang lại cho khách hàng sự thuận tiện, an toàn và thành đạt. Tiền gửi có kỳ hạn tại Sở cũng tăng trưởng hàng năm ( trên 10%), nguồn vốn này tuy chi phí huy động cao hơn so với tiền gửi không kỳ hạn nhưng nó ổn định hơn và tạo điều kiện thuận lợi cho việc cân đối vốn tại Sở. Ngoài ra, Sở cũng thu hút được một lượng lớn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế bằng cách mở rộng phát hành kỳ phiếu, trái phiếu với nhiều kỳ hạn bằng VNĐ và ngoại tệ. Trong năm 2002, tình hình khan hiếm tiền mặt kéo dài, nhiều ngân hàng thương mại nâng lãi suất huy động tiết kiệm lên cao, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu lãi suất cao để thu hút vốn : như NHN0&PTNTVN, NHĐT&PT phát hành kỳ phiếu lãi suất 8.4% năm ( trả lãi sau)... Lãi suất huy động vốn của NHCTVN thấp hơn so với các ngân hàng trên : -Kỳ phiếu VND ghi danh ( 6 tháng), lãi suất 0.65% tháng ( lãi suất sau) -Trái phiếu 1 năm, lãi suất 8.1% năm ( lãi sau) Trái phiếu 2 năm, lãi suất 8.2% năm ( lãi sau) Từ ngày 5/12/2002 đến ngày 31/1/2003, NHCT Việt Nam phát hành tiết kiệm dự thưởng VND ( lãi suất hiện hành). Và vì vậy, nguồn vốn huy động của SGD I không những đáp ứng kịp thời đầy đủ nhu cầu vay vốn và thanh toán của mọi đối tượng khách hàng mà còn thường xuyên điều chuyển về Ngân hàng Công thương Việt Nam một lượng vốn lớn, góp phần cho vay phát triển kinh tế của cả nước. 2.1.2.2. Tình hình sử dụng vốn: Bằng nguồn vốn huy động dồi dào, hiện nay SGD I đã tiến hành cho vay và đầu tư đối với tất cả các thành phần kinh tế, góp phần phát triển kinh tế- xã hội thành phố Hà Nội và khu vực phía Bắc. Tuy nhiên, hiệu suất sử dụng vốn so với tổng nguồn vốn huy động chưa cao, khoảng gần 20%. Phần lớn nguồn vốn Sở huy động được điều chuyển về TW để hỗ trợ cho các khu vực khác. Biểu 2.2 cho thấy tình hình tín dụng của SGD I- NHCTVN. Cho vay nền kinh tế là hoạt động cơ bản, quan trọng tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Với mục tiêu “Tăng trưởng tín dụng đảm bảo yêu cầu về chất lượng tín dụng, lấy chất lượng tín dụng làm trọng, phù hợp với cơ chế quản lý, giám sát của ngân hàng” (báo cáo tổng kết công tác kinh doanh năm 2002 và triển khai nhiệm vụ kinh doanh năm 2003). SGD I đã chủ trương mở rộng cho vay đối với mọi đối tượng khách hàng thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Mọi đối tượng khách hàng đến SGD I đều được trân trọng và được cung cấp những sản phẩm dịch vụ tốt nhất. Quan điểm nhận thức đó đã được quán triệt trong quá trình chỉ đạo thực hiện của các phòng ban SGD I- NHCTVN. Tốc độ tăng trưởng tín dụng như trên đã thể hiện SGD I đang mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế ngoài quốc doanh, một lĩnh vực rộng lớn, có nhiều tiềm năng phát triển đang được chú ý thích đáng, thể hiện được sự đổi mới nhận thức trong công tác tín dụng của Sở. Trong năm 2002, SGD I đã chú trọng vào đầu tư những chương trình trọng điểm như: Cho vay hiện đại hoá hệ thống bưu chính viễn thông, mở rộng vùng phủ sang VINAPHONE 330 tỷ đồng. Xây dựng đường dây trạm điện khu vực miền Bắc, miền Trung 55,5 tyt đồng. Nhà máy sản xuất cáp điện 14 tỷ đồng. Bên cạnh việc cấp tín dụng dưới hình thức cho vay là chủ yếu, SGD I còn mở rộng cấp tín dụng thông qua hình thức tài trợ uỷ thác và dịch vụ bảo lãnh ( bảo lãnh L/C trả chậm và các loại bảo lãnh trong nước) góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Năm 2001, hoạt động cho vay từ quỹ tín dụng đào tạo ( cho vay sinh viên ) có tác dụng tạo việc làm và đáp ứng nhu cầu tín dụng đa dạng trong nền kinh tế. Chất lượng tín dụng: Với chiến lược chỉ đạo: Tăng trưởng tín dụng, đảm bảo yêu cầu về chất lượng. SGD I thường xuyên rà soát, sàng lọc, phân tích chất lượng tín dụng, theo dõi chặt chẽ quá trình sử dụng vốn của khách hàng để có quyết định kịp thời nhằm thu hồi được những khoản cho vay có vấn đề, áp dụng các chế tài tín dụng để tận thu nợ khó đòi. Nhờ đó, trong những năm qua, chất lượng tín dụng của SGD I được đảm bảo. Nợ quá hạn giảm cả về tỷ trọng và số tuyệt đối. Trong năm qua đã thu được gần 10 tỷ đồng nợ quá hạn, giảm tỷ lệ nợ quá hạn từ 3.6% (31/12/2001) xuống còn 3%(31/12/2002), tỷ lệ dưới giới hạn cho phép. 2.2. Diễn biến lãi suất ở Việt Nam từ trước tới nay: ` Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đề ra, chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, một nội dung đổi mới có tính then chốt là chuyển hệ thống ngân hàng từ 1 cấp sang 2 cấp, Ngân hàng Nhà nước với chức năng Ngân hàng Trung ương, Ngân hàng của các Ngân hàng và hệ thống Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh tiền tệ tín dụng. Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại có hệ thống bộ máy riêng, cơ chế hoạt động, điều hành, quản trị riêng, mặc dù vậy, cơ chế lãi suất bao cấp ( lãi suất âm, đầu vào lớn hơn đầu ra) vẫn kéo dài tới tận 6/1992. Điều này chứng tỏ việc thay đổi cơ chế lãi suất là vấn đề khó khăn và nhạy cảm nhất vì nó liên quan trực tiếp đến lợi ích của tất cả các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế xã hội và từng người dân. Từ đó đến nay cơ chế lãi suất được điều chỉnh thay đổi với các giai đoạn sau: 2.2.1. Giai đoạn từ 6/1992 đến cuối 1995: Tháng 6/1992, được coi là mốc đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong chính sách lãi suất theo cơ chế thị trường, NHNN đã chuyển sang thực hiện chính sách lãi suất thực dương, những điểm đổi mới cơ bản của chính sách lãi suất là: NHNN quy định mức sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay ngắn hạn và trung hạn; cho phép các TCTD tự ấn định mức lãi suất huy động bằng nhiều hình thức; chấm dứt bao cấp tín dụng thông qua lãi suất , lãi suất huy động gồm lãi suất thực cộng chỉ số trượt giá trên thị trường, lãi suất cho vay bình quân bằng lãi suất huy động bình quân cộng thêm tỷ lệ chi phí và lãi hợp lý của ngân hàng, lãi suất phải bảo toàn được vốn cho cả người vay và người gửi và có lãi thực. 2.2.2. Giai đoạn từ 1996- đến tháng 7/2000: Đến cuối năm 1995, chính sách lãi suất đã bộc lộ nhiều tồn tại, không phù hơp phù hợp với yêu cầu phát triển thị trường tiền tệ và mục tiêu của chính sách tiền tệ năm 1996 là góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, kiềm chế lạm phát ở mức một con số. Vì thế, tháng 1/1996, NHNN đã thay đổi chính sách lãi suất theo hướng “nới lỏng hơn”, cụ thể là: NHNN bỏ việc quy định sàn lãi suất tiền gửi, chỉ quy định trần lãi suất cho vay, trong đó trần lãi suất cho vay trung, dài hạn cao hơn trần lãi suất cho vay ngắn hạn, trần lãi suất cho vay ở khu vực thành thị thấp hơn khu vực nông thôn; lãi suất kinh doanh của TCTD bị khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân là 0,35%/ tháng. Phù hợp với diễn biến của nền kinh tế, NHNN điều chỉnh giảm nhanh trần lãi suất , từ 1/98 đến 7/2000 đã 6 lần điều chỉnh giảm. Có một số đặc điểm đáng lưu ý trong giai đoạn này: -Do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế khu vực và một số nguyên nhân, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm, nhu cầu đầu tư, vay vốn giảm, các NHTM cạnh tranh bằng cách hạ lãi suất cho vay. Tháng 12/2000, bốn NHTM Nhà nước phải ký thoả thuận khống chế mức lãi suất sàn tối thiểu 0,7%/ tháng. Tuy nhiên điều này không phù hợp với cơ chế thị trường, do đó đến tháng 4/2000 Thoả thuận phải xoá bỏ. -Trong khi đó, nhu cầu vốn ở các vùng sản xuất hàng hoá nông nghiệp như Đồng bằng Sông Cửu Long, miền Đông Nam bộ lại lớn và mạng lưới NHNo&PTNT lại chưa vươn tới hết được. Do đó một số ngân hàng nông thôn cổ phần, quỹ tín dụng tìm cách cho vay vượt trần lãi suất , thu lợi bất hợp pháp. 2.2.3. Giai đoạn từ 5/8/2000 đến nay: Chính sách lãi suất được thực thi trong giai đoạn 1996-7/2000 đã bộc lộ nhiều tồn tại, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường vì trần lãi suất là một biện pháp can thiệp hành chính của Nhà nước, làm cho lãi suất nhiêu khi không phản ánh đúng cung cầu vốn trên thị trường, hạn chế mức độ cạnh tranh... Do đó kể từ ngày 5/8/2000, NHNN chuyển sang thực hiện chính sách lãi suất mới, cụ thể là: Đối với lãi suất VNĐ: NHNN công bố lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay của các NHTM áp dụng đối với khách hàng có chất lượng và uy tín và một biên độ trên thích hợp thể hiện bằng số phần trăm tuyệt đối. Lãi suất cho vay và huy động của TCTD gắn với lãi suất cơ bản. Lãi suất cơ bản được công bố hàng tháng dựa trên các nhân tố chủ yếu : Tham khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường áp dụng đối với khách hàng có uy tín của 9 NHTM lớn và hoạt động kinh doanh bình thường; diễn biến về lãi suất và tiền tệ; diễn biến kinh tế vĩ mô; quan hệ với tỷ giá và chính sách quản lý ngoại hối. Biên độ trên được quy định ở mức nhằm đảm bảo cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện kinh doanh và mức độ rủi ro, đồng thời NHNN vẫn kiểm soát được lãi suất thị trường. Trong thời gian đầu, mức lãi suất cơ bản là 0,75%/ tháng sau đó giảm dần và nhiều tháng ở mức 0,60%/ tháng, trong mấy tháng đầu năm có tăng lên 0,62%/ tháng. Biên độ không thay đổi 0,3%/ tháng ngắn hạn và 0,5%/ tháng trung, dài hạn. Đối với ngoại tệ, áp dụng cho USD, tối đa: -Ngắn hạn: SIBOR 3 tháng + 1%/ năm -Trung, dài hạn: SIBOR 6 tháng + 2,5%/ năm Các loại ngoại tệ khác : Do Tổng Giám đốc được phép ấn định. Cơ chế lãi suất cơ bản cộng biên độ quy định đã tạo cho các TCTD linh hoạt trong việc ấn định lãi suất cho vay đồng thời tránh khuynh hướng bắt bí khách hàng vay lãi suất cao hoặc chạy theo vụ lợi dẫn đến rủi ro lớn trong tín dụng. 2.3. Việc thực hiện cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận tại SGD I 2.3.1. Các văn bản hướng dẫn về cơ chế lãi suất cho vay: Hiện nay vốn huy động của NHCT là nguồn vốn ngắn hạn, với cơ cấu huy động thời hạn cao nhất là 1 năm, trong khi đó trên 30% nguồn vốn ngắn hạn dùng để cho vay trung và dài hạn với thời hạn dài, từ 5 năm đến 7 năm, 8 năm, trên 10 năm, như vậy yếu tố rủi ro khi có sự biến động thị trường và lãi suất là rất lớn. Kế hoạch kinh doanh do HĐQT giao, chỉ tiêu dư nợ cho vay trung và dài hạn năm 2003 là 40% trên tổng dư nợ. Để tránh rủi ro về lãi suất cho ngân hàng cũng như khách hàng, đảm bảo hiệu quả trong kinh doanh, nâng cao chất lượng đầu tư tín dụng, Tổng Giám đốc NHCTVN đã gửi công văn hướng dẫn về cơ chế điều hành lãi suất cho vay đến SGD I như sau: Cho vay trung và dài hạn, Giám đốc SGD được quyền quyết định lãi suất cho vay cố định hoặc thả nổi, nhưng phải đảm bảo các nguyên tắc: -Không thấp hơn sàn lãi suất cho vay thấp nhất do Tổng Giám đốc thông báo trong từng thời kỳ; -Lãi suất cho vay đảm bảo thực dương; -Khi thực hiện lãi suất cho vay cố định, trong hợp đồng tín dụng ký với khách hàng, cần có điều khoản thoả thuận lãi suất cho vay hiện tại được điều chỉnh khi lãi suất cho vay trên thị trường tiền tệ Việt Nam thay đổi; -Tăng trưởng dư nợ đúng chỉ tiêu kế hoach của Tổng Giám đốc giao. Giám đốc SGD cần thoả thuận, đàm phán với khách hàng áp dụng phương thức lãi suất cho vay thả nổi, phương thức này cũng khuyến khích áp dụng đối với cho vay ngắn hạn có thời hạn trên 6 tháng đến 1 năm hoặc cho vay bằng ngoại tệ. Trường hợp khách hàng có uy tín, có tình hình tài chính lành mạnh, phải cho vay để giữ thị phần thì mới áp dụng phương thức lãi suất cho vay cố định. 2. Phương thức lãi suất cho vay thả nổi là lãi suất cho vay được ấn định tại các thời điểm giải ngân và định kỳ sau một thời gian nhất định tính từ ngày giải ngân, lãi suất các khoản cho vay được xác định lại. Công thức chung: Lãi suất cho vay = Lãi suất cơ sở + Phí ngân hàng. -Lãi suất cơ sở có thể coi là giá đầu vào của nguồn vốn cho vay được xác định bằng lãi suất huy động vốn có kỳ hạn( ví dụ: lãi suất huy động VNĐ, ngoại tệ có kỳ hạn 3-6-12 tháng của SGDI- NHCTVN), hoặc lãi suất thị trường quốc tế( ví dụ lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng Singapore- SIBOR) -Phí ngân hàng là một phần trăm cố định cấu thành bởi các chi phí các nghiệp vụ ngân hàng, dự phòng rủi ro, uy tín khách hàng... nhằm đảm bảo ngân hàng có lợi nhuận trong kinh doanh tín dụng. Cụ thể, lãi suất cơ sở được xác định như sau: -Cho vay ngắn hạn: lãi suất cơ sở là lãi suất huy động của NHCT kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng bằng VNĐ, EUR nếu là cho vay bằng VNĐ, EUR. Lãi suất cơ sở là SIBOR kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng nếu là cho vay bằng USD; -Cho vay trung hạn: lãi suất cơ sở là lãi suất huy động của NHCT kỳ hạn 6 tháng, 1 năm bằng VNĐ, EUR nếu là cho vay bằng VNĐ, EUR. Lãi suất cơ sở là SIBOR kỳ hạn 1 năm nếu là cho vay bằng USD; -Cho vay dài hạn: lãi suất cơ sở là lãi suất huy động của NHCT kỳ hạn 1 năm bằng VNĐ, EUR nếu là cho vay bằng VNĐ, EUR. Lãi suất cơ sở là SIBOR kỳ hạn 1 năm nếu là cho vay bằng USD. Khi đã xác định được lãi suất cơ sở, Giám đốc SGD tính toán, thoả thuận với khách hàng tỷ lệ phí ngân hàng sao cho lãi suất cho vay tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng không thấp hơn mức sàn mà Tổng Giám đốc đã uỷ quyền vừa đảm bảo lợi nhuận của ngân hàng. Khi giải ngân lãi suất cho vay bằng lãi suất đang huy động có kỳ hạn hay SIBOR tại thời điểm ngày giải ngân cộng tỷ lệ phí. Tất cả các khoản đã giải ngân, sau thời gian 3 tháng hoặc 6 tháng ( nếu là cho vay ngắn hạn), sau 6 tháng hoặc 1 năm ( nếu là cho vay trung hạn) và sau 1 năm ( nếu là cho vay dài hạn) tính từ ngày giải ngân, lãi suất sẽ được xác định lại. Lãi suất áp dụng cho 3 tháng, 6 tháng, 1 năm của kỳ hạn tiếp theo là lãi suất huy động có kỳ hạn hoặc SIBOR ngày đầu tiên của các kỳ hạn mới cộng tỷ lệ phí đã xác định. Trên đây là hướng dẫn về phương thức áp dụng lãi suất cho vay. 2.3.2.Tình hình thực hiện cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận : Hiện nay, cơ chế lãi suất cho vay của SGD I – NHCTVN đã chứa đựng yếu tố thoả thuận giữa khách hàng xin vay vốn và ngân hàng, đó là, về phía khách hàng, họ có thể cùng tham gia đàm phán để được chấp nhận vay với mức lãi suất mà đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh, mang lại lợi nhuận sau khi phải chi trả tiền lãi vốn vay cho ngân hàng. Khách hàng là các doanh nghiệp sẽ trình phương án sản xuất kinh doanh, dự tính lợi nhuận sẽ thu được nếu được vay với một mức lãi suất mà ngân hàng đưa ra lúc đầu, nếu mức lãi suất này chưa hợp lý, có nghĩa là nó làm cho doanh nghiệp hoạt động không có lãi hoặc lãi ít thì doanh nghiệp có thể đề nghị ngân hàng xem xét ra quyết định về một mức lãi suất thấp hơn. Còn về phía ngân hàng, căn cứ vào chi phí huy động nguồn, chi phí nghiệp vụ, uy tín của khách hàng, dư nợ cho vay sẽ đưa ra một mức lãi suất thực dương mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, phù hợp với quy định của Tổng giám đốc NHCTVN trong từng thời kỳ. Tổng Giám đốc căn cứ vào lãi suất huy động vốn bằng Đồng Việt Nam và mặt bằng lãi suất trên thị trường thông báo sàn lãi suất cho vay áp dụng trong hệ thống NHCT kể từ ngày 15/3/2003 : Mức lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VNĐ thấp nhất là 0,68%/ tháng (8,16%/ năm). Mức lãi suất cho vay trung dài hạn bằng VNĐ thấp nhất là 0,73%/ tháng ( 8,76%/ năm), ngoại trừ các loại cho vay ưu đãi ( tín dụng xuất khẩu, cho vay chương trình tín dụng Việt Đức, cho vay ưu đãi tạo việc làm, cho vay theo chương trình tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ với đối tác ngân hàng hợp tác Quốc tế Nhật Bản, cho vay đối với học sinh sinh viên, cho vay chỉ định...). Đó là mức sàn lãi suất mà NHCT VN đưa ra trong từng thời kỳ để hướng dẫn các chi nhánh áp dụng trong hoạt động cho vay, các giám đốc chi nhánh có quyền chủ động đưa ra mức lãi suất phù hợp với tình hình thực tế. Cụ thể, trưởng phòng Kinh doanh của Sở, nơi thực hiện các nghiệp vụ tín dụng căn cứ vào mức lãi suất huy động tiền gửi, vào tình hình áp dụng lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại trên địa bàn Hà Nội vào thời điểm hiện tại đề nghị Giám đốc SGD I- NHCTVN xem xét điều chỉnh lãi suất cho vay VNĐ đối với từng đối tượng khách hàng. Sự thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng đạt được để đi đến kết quả làm hài lòng cả khách hàng và bảo đảm đem lại lợi nhuận cho ngân hàng đó là sau quá trình cán bộ tín dụng báo cáo tình hình với trưởng phòng kinh doanh, trưởng phòng kinh doanh trình lên Giám đốc Sở, cùng với sự có mặt của Ban Giám sát sẽ xem xét đề nghị của khách hàng có giải quyết và chấp nhận được hay không. Với các khách hàng truyền thống, lâu năm có uy tín như Công ty thực phẩm miền Bắc, Công ty Than nội địa, Công ty XNK Vật tư hoá chất, Công ty dịch vụ Thương mại số 1..., họ được thoả thuận một mức lãi suất là 0,68%/ tháng đối với vay ngắn hạn, Nhà xuất bản giáo dục, Công ty Thiết bị Kỹ thuật điện... là 0,7%/ tháng. Có thể thấy rằng các doanh nghiệp Nhà nước, một số các công ty liên doanh như Công ty liên doanh Hanoi Heritage Hotel, Công ty United motor Việt Nam có uy tín và quan hệ truyền thống lâu năm với ngân hàng, hoạt động kinh doanh hiệu quả sẽ được ưu đãi trong việc thoả thuận hơn là các doanh nghiệp tư nhân, như Công ty TNHH Tân Liên, Công ty TNHH Thanh Hương, Công ty cổ phần giao thương... thường vay ngắn hạn với mức lãi suất 0,8%/ tháng. Tuy vậy khách hàng đến với Sở vẫn chấp nhận được mức lãi suất mà ngân hàng đưa ra bởi mức lãi suất này khá hợp lý và thuộc vào loại thấp so với các ngân hàng khác. Có được điều này là do SGD I có được nguồn vốn huy động dồi dào từ các doanh nghiệp (74%) và dân cư (26%) với tổng số vốn huy động được năm 2002 là 14.605 tỷ đồng, nằm ở trung tâm thủ đô Hà Nội, địa điểm giao dịch thuận lợi, thêm vào đó là thái độ nhiệt tình, chu đáo, trình độ chuyên môn sâu của đội ngũ cán bộ tín dụng cũng như các phòng ban khác đã tạo ra một lợi thế to lớn trong hoạt động kinh doanh của Sở, trong việc thoả thuận một mức lãi suất hợp lý với khách hàng và ngân hàng. Tuy nhiên, việc thoả thuận lãi suất giữa khách hàng và ngân hàng còn gặp một số khó khăn: -SGD I phải đối mặt với sự thay đổi thường xuyên của lãi suất thị trường, mà sự thay đổi này sẽ dẫn đến rủi ro lãi suất . Điều này đòi hỏi Sở phải hết sức năng động trong quản lý tín dụng; phải có chiến lược kinh doanh một cách tỷ mỉ. Vấn để quản lý khe hở nhạy cảm lãi suất đòi hỏi không thể thờ ơ. Sở có thể phải quan tâm đến việc định giá lại tài sản và những khoản nợ khi có sự tăng giảm lãi suất . -Tính xã hội của lãi suất cũng là một vấn đề, đó là chính sách ưu đãi của Chính phủ; tính đồng bộ giữa chủ trương và văn bản pháp quy đi kèm bao giờ cũng không được tuân thủ kịp thời. Vấn đề này ít nhiều gây khó khăn trong khi vận hành. -Nguồn vốn huy động tuy tăng nhanh nhưng cơ cấu chưa hợp lý, nhất là nguồn vốn dài hạn chiếm tỷ trọng thấp; Dư nợ đầu tư, cho vay chưa phù hợp với nguồn vốn, mới đạt 19,2% tổng nguồn vốn huy động. -Công tác xử lý thu hồi nợ quá hạn, nợ khó đòi chậm do gặp nhiều khó khăn vướng mắc, mà một trong những điều kiện để áp dụng cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận là hệ thống ngân hàng lành mạnh, hoạt động có hiệu quả, do đó quá trình tái cơ cấu ngân hàng sẽ gặp khó khăn. -Hoạt động dịch vụ được tăng cường nhưng chưa đa dạng, phong phú, cơ sở vật chất kỹ thuật chưa đáp ứng được với yêu cầu của một ngân hàng hiện đại, do đó ảnh hưởng đến sức cạnh tranh mà sự cạnh tranh về chất lượng dịch vụ, sản phẩm tiện ích mà ngân hàng cung cấp là một trong những điều kiện để áp dụng có hiệu quả cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận. Chương 3 : Một số giải pháp áp dụng cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận tại các NHTM Việt Nam 3.1. Điều kiện kinh tế- xã hội hiện nay: 3.1.1. Những khó khăn và thách thức chung tác động đến SGD I- NHCTVN Hoàn cảnh và điều kiện kinh tế- xã hội Việt Nam hiện nay có những khó khăn và thách thức cho quá trình tự do hoá lãi suất mà lãi suất cho vay thoả thuận là bước đầu tiên trong tiến trình đó, cụ thể là: -Kinh tế vĩ mô của Việt Nam thời gian qua tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng, biểu hiện xu thế ổn định song chưa đủ bền vững, còn tiềm ẩn những nhân tố rủi ro như lạm phát, cán cân thương mại còn lớn, sức ép về thất nghiệp và việc làm tăng lên. -Hệ thống tài chính chưa mạnh, năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của các tổ chức tín dụng còn nhiều yếu kém, chênh lệch nhau khá lớn; vốn tự có nhỏ ( tỷ lệ vốn tự có so với tài sản có của phần lớn các NHTM dưới 7%) làm giảm khả năng mở rộng tín dụng, rủi ro tín dụng tăng; nhiều tồn tại cũ về tài chính ( nợ tồn đọng, nợ quá hạn, nợ nần dây dưa...) chưa được giải quyết; trình độ, kỹ năng và kỹ thuật, công nghệ còn nhiều bất cập, hạn chế; việc cải cách, tái cơ cấu các NHTM đang ở giai đoạn đầu... -Trong hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ, vai trò và tác động của các công cụ trực tiếp còn lớn, các công cụ gián tiếp còn sơ khai hoặc chưa đủ sức để tác động mạnh đối với thị trường tiền tệ; thị trường nội tệ liên ngân hàng, thị trường đấu thầu trái phiếu kho bạc chưa được tổ chức tốt làm cơ sở cho việc điều hành chính sách lãi suất theo tín hiệu thị trường. -Năng lực tài chính và khả năng thanh toán cũng như hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp, cá nhân trong nền kinh tế còn nhiều khó khăn, ở mức thấp, đang trong quá trình tìm hiểu và chuyển đổi. -Các luật, văn bản pháp qui về hoạt động thương mại, phi thương mại trong cơ chế thị trường, cách xử lý vi phạm chưa minh bạch, thiếu đồng bộ, thậm chí còn chồng chéo. 3.1.2. Định hướng, mục tiêu của SGD I- NHCTVN với quá trình thực hiện cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận: Cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận có nhiều mặt tích cực và cũng là yêu cầu của nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường. SGD I- NHCTVN cũng có thể coi là một ngân hàng thương mại trong hệ thống các NHTM Việt Nam, hoạt động kinh doanh tự chủ và tuân theo sự quản lý, giám sát của NHCT VN và NHNN Việt Nam, thực hiện đúng chính sách tiền tệ trong đó chính sách lãi suất được thực thi thời gian qua đã đi theo hướng tự do hoá, từ tháng 6/2002, với việc NHNN ban hành Quyết định số 546/2002/QĐ- NHNN ngày 30/5/2002 “về thực hiện cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng”, SGD I thực hiện đúng quy chế áp dụng cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận, bước đầu tiên trong quá trình tự do hoá lãi suất để trong những năm tới đây NHNN có những bước đi nhanh hơn nhưng phải đảm bảo an toàn và phát triển thị trường tài chính theo chiều sâu. Bước vào năm 2003, SGD I đề ra nhiệm vụ kinh doanh đó là nguồn vốn huy động tăng 5%- 10% so với năm 2002; Dư nợ cho vay tăng 15%- 20% so với năm 2002; Lợi nhuận hạch toán nội bộ tăng 5% so với kế hoạch; Nợ quá hạn dưới 3% tổng dư nợ; Xử lý nợ tồn đọng cũ 5 tỷ đồng, nâng cao chất lượng tín dụng, áp dụng công nghệ tin học trong hoạt động. Tất cả nhiệm vụ mục tiêu trên là nhằm đưa SGD I- NHCTVN cùng hệ thống NHCTVN phát triển hơn nữa, tăng năng lực tài chính, nâng cao sức cạnh tranh để tránh được những tác động tiêu cực của quá trình tự do hoá lãi suất mà thực hiện cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận là một bước tiến trong tiến trình này. 3.2. Những giải pháp : Điều kiện chung nhất khi quyết định tự do hoá lãi suất là kinh tế vĩ mô phải ổn định. ổn định kinh tế vĩ mô biểu hiện là : Nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao, liên tục, bền vững; kiểm soát được lạm phát ở mức dưới 5%; kiểm soát mức thâm hụt ngân sách Nhà nước ở mức không vượt quá 5% so với GDP; tỷ lệ thất nghiệp ở mức dưới 6%. Đây là điều kiện có tính chát tiền đề quan trọng để lựa chọn bước đi tự do hoá lãi suất thích hợp mà thực hiện lãi suất cho vay thoả thuận là một bước tiến quan trọng trong tiến trình này. Về mặt nào đó, điều kiện này là nhân tố “ngoại sinh”- vì nó tồn tại độc lập với thị trường tiền tệ, không phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng của Chính phủ và ngành Ngân hàng. Do đó chúng ta phải tận dụng thời cơ kinh tế vĩ mô ổn định để tiến hành áp dụng cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. 3.2.1.Giải pháp đối với SGD I – NHCTVN: -Tiếp tục đẩy mạnh công tác huy động vốn, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, trong đó chú trọng huy động vốn tại chỗ, mở thêm từ 1 đến 2 quỹ tiết kiệm hoặc phòng giao dịch ở địa ban có môi trường kinh doanh, dân cư đông nhằm chiếm lĩnh thị trường huy động vốn. Có phương án linh hoạt về chính sách và kỳ hạn thích hợp để đàm phán thu hút vốn, nhất là đối với các đơn vị có số dư tiền gửi lớn. Trên cơ sở nguồn vốn dồi dào, SGD I sẽ mở rộng cho vay, tăng hiệu quả cho các nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế, vốn sẽ được chu chuyển đến những nơi hợp lý, đó cũng là mục tiêu của việc áp dụng cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận. -Như đã phân tích, một điều kiện quan trọng để thực hiện lãi suất cho vay thoả thuận đó là hệ thống ngân hàng lành mạnh và có tính cạnh tranh. Vì vậy SGD cần tiếp tục bám sát chương trình cơ cấu lại nợ theo chủ trương của NHNN và hướng dẫn của NHCT Việt Nam, đồng thời thực hiện các biện pháp kiên quyết để thu hồi nợ quá hạn, nợ khó đòi, phấn đấu hạ tỷ lệ nợ quá hạn thời điểm 31/12/2003 xuống dưới 3% tổng dư nợ. -Để tăng tính cạnh tranh cho ngân hàng, không dùng lãi suất là công cụ cạnh tranh thu hút khách hàng, mở rộng tín dụng mà phải mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng để thích ứng với môi trường kinh doanh mới. Trong năm 2003, sẽ triển khai áp dụng mạng dịch vụ thanh toán “home banking- ứng dụng công nghệ tin học trong hoạt động thanh toán với khách hàng” đối với các Tổng công ty và một số doanh nghiệp có doanh số hoạt động vay vốn và thanh toán lớn. Mở thêm các tiện ích ngân hàng...Cạnh tranh bằng lãi suất là sự cạnh tranh không lành mạnh vì: +Không kể những tổ chức tín dụng tiết kiệm chi phí đầu vào để có nguồn vốn đủ đáp ứng lãi suất thoả thuận, còn tổ chức tín dụng có khả năng tài chính có thể lấy nguồn thu khác để bù chênh lệch âm cho những khoản cho vay theo lãi suất thấp. Khả năng tài chính hiện thời của một số TCTD có thể hơn một số khác nhưng nhìn tổng thể thì khả năng tài chính của hầu hết các TCTD Việt Nam chưa thực mạnh. Việc bù này kéo dài chỉ làm cho các TCTD ngày càng yếu đi, thiệt hại quyền lợi của Nhà nước, của chính TCTD đó. +Việc cho vay lãi suất thấp hoặc lãi suất cao hơn mức bình quân đều tiềm ẩn rủi ro cao. Không kể những ngành nghề mà mức sinh lời không cao, còn hầu hết khách hàng chỉ mong được vay với lãi suất thấp đều có vấn đề, đó là tư tưởng ỷ lại, chông trờ vào nguồn vốn lãi suất thấp mà thiếu sự năng động, sáng tạo, giám chấp nhận lãi suất bình quân. Còn đối với những khách hàng chấp nhận vay với lãi suất trên mức bình quân chung cũng là những khách hàng chấp nhận mạo hiểm, dễ đổ bể. Nếu không có những biện pháp đảm bảo vốn vay chặt chẽ thì việc mất vốn dễ xảy ra. Giảm thiểu chi phí hoạt động đặc biệt là các chi phí quản lý hành chính, chi phí nhân lực. Hạ thấp chỉ tiêu về chi phí nghiệp vụ trên tài sản có tương đương mức bình quân của khu vực ( 2-3%), trên cơ sở đó giữ vững và mở rộng thị trường, nâng cao khả năng sinh lời và sức cạnh tranh. -Cần có quy trình tín dụng thật chặt chẽ, quy định rõ trách nhiệm quyền hạn của cán bộ trong từng khâu công việc; sự phối hợp đồng bộ trong các phòng ban; thẩm quyền xét duyệt cho vay theo lãi suất thoả thuận, nhất là những khoản vay theo lãi suất thấp hơn mức bình quân đầu vào của ngân hàng hoặc lãi suất cao hơn mức bình quân chung. -Tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ phù hợp với tiến trình hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, đầu tư máy móc, thiết bị, công nghệ kinh doanh hiện đại trong kinh doanh ngoại hối, tỷ giá, lãi suất ..., cung ứng dịch vụ mới cho khách hàng, chủ yếu là khâu thanh toán, thu thập thông tin để nâng cao hiệu quả điều hành kinh doanh bắt kịp tiến trình hội nhập với Ngân hàng khu vực và thế giới. -Nâng cao khả năng điều hành, quản lý của HĐQT và Giám đốc nhằm xây dựng tốt định hướng hoạt động của ngân hàng và quyết định những vấn đề xảy ra khi áp dụng cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận. -Tinh gọn bộ máy đi đôi với cải tiến thủ tục, giảm bớt phiền hà. 3.2.2.Giải pháp đối với NHNN: Lãi suất thoả thuận không phải là lãi suất cao tuỳ ý theo ý muốn của đơn phương một bên trong quan hệ tín dụng, mà nó phải phù hợp với người vay, do người vay chấp nhận và vẫn đảm bảo quyền lợi của người cho vay. Mặt khác lãi suất phải nằm trong chính sách lãi suất và chính sách tiền tệ chung của NHTW, không thể tự do quá mức, nhất là điều kiện Việt Nam hiện nay chưa cho phép. Để cho lãi suất thoả thuận có thể áp dụng có hiệu quả và lành mạnh, cơ chế hình thành và điều hành lãi suất cần phải thống nhất, khoa học và theo một kế hoạch cụ thể. -Trước hết NHNN cần chỉ đạo các NHTMQD ổn định mức lãi suất cho vay sau khi thực hiện lãi suất cho vay thoả thuận, tránh hiện tượng nâng lãi suất chấp nhận rủi ro cao vào những dự án kém hiệu quả, gây tác động xấu đến lãi suất thị trường và mức độ an toàn cho hoạt động của các TCTD. -Về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản: Để phù hợp với cơ chế thị trường ngày càng phát triển và hoàn thiện ở nước ta, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN cần tiếp tục đổi mới theo hướng sau: Trước mắt, cần sớm bỏ việc quy định giới hạn biên độ tối đa trong cơ chế điều hành lãi suất cơ bản hiện nay, vì: lãi suất cơ bản được cộng thêm biên độ (0,3% đối với cho vay ngắn hạn và 0,5% đối với cho vay trung và dài hạn) thực chất đã tạo nên một trần lãi suất tối đa cho các TCTD được phép cho vay. Nhu cầu mở rộng tín dụng phát triển nền kinh tế đòi hỏi phải huy động một lượng vốn lớn trong xã hội, do vậy các TCTD đẩy mạnh việc khai thác vốn bằng nhiều biện pháp, kể cả tăng lãi suất huy động vốn. Nhưng muốn tăng lãi suất huy động ( lãi suất đầu vào) thì cũng phải tăng lãi suất cho vay ( lãi suất đầu ra) thì mới đảm bảo kinh doanh không bị lỗ của các TCTD, trong khi đó lãi suất cho vay lại bị khống chế bởi mức trần tối đa, thì vô hình chung lãi suất huy động dù không bị quy định mức trần tối đa nhưng các TCTD cũng không thể tăng vượt quá mức. Vì vậy đã tạo quyền tự do xác định lãi suất huy động, thì cũng cần tạo quyền tự do xác định lãi suất cho vay. Hơn nữa, việc đặt ra trần lãi suất chủ yếu nhằm mục tiêu khống chế các TCTD không được phép cho vay với lãi suất cao vượt quá mức ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ và khả năng vay vốn của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, các NHTM sẽ ngày càng cạnh tranh quyết liệt thông qua hạ thấp lãi suất cho vay để thu hút khách hàng, các NHTM không dễ độc quyền tự do tăng lãi suất cho vay khi không được khách hàng và thị trường chấp nhận, vậy thì việc khống chế trần lãi suất cho vay sẽ không còn là vấn đề quan trọng khi nền kinh tế đã đặt các NHTM vào cuộc cạnh tranh để tìm kiếm khách hàng và thị phần tín dụng trong nền kinh tế. Và một thực tế là cơ chế tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ đã được áp dụng từ 1/6/2001, sau hơn 2 năm thực hiện, tỷ giá và thị trường ngoại hối vẫn đảm bảo ổn định, vì vậy để đảm bảo sự bình ổn sức mua đồng tiền ( sức mua đối ngoại và sức mua đối nội ), cần phải sớm tháo bỏ quy định biên độ giới hạn trần lãi suất cho vay hiện nay. Bỏ biên độ tức là bỏ nốt trần lãi suất cho vay nội tệ. Đây sẽ là một bước tiến tích cực nhằm loại bỏ những biện pháp cuối cùng có tính chất hành chính trong cơ chế điều hành lãi suất hiện nay. Thời gian tới, khi thị trường thực sự phát triển theo chiều hướng ổn định và có đủ điều kiện để tự do hoá lãi suất thì bỏ hẳn cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản mà chuyển hẳn sang cơ chế điều hành hệ thống lãi suất chỉ đạo của NHNN ( lãi suất tái chiết khấu và lãi suất qua đêm). Cơ chế này được thực hiện theo mô hình sau: -NHNN thực hiện tái cấp vốn cho các TCTD theo hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay bảo đảm bằng thế chấp hồ sơ tín dụng hoặc cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác và cho vay qua cửa sổ chiết khấu đặc biệt. Các hình thức này có thời hạn cho vay rất ngắn, vài ngày, thậm chí cho vay qua đêm để bù đắp thiếu hụt khả năng thanh toán sau khi các TCTD đã thực hiện vay mượn lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất các hình thức tái cấp vốn này thường cao hơn các mức lãi suất khác ( đường a) để nhằm thực hiện điêù tiết và chỉ đạo mặt bằng lãi suất trên thị trường cũng như thực hiện vai trò NHNN là người cho vay cuối cùng. -Mức lãi suất tiền gửi tại NHNN thường thấp nhất và luôn có khoảng cách nhất định với lãi suất tái chiết khấu và cho vay qua đêm (đường b). -Lãi suất thị trường mở là lãi suất đấu thầu các loại tín phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn (đường c). NHNN chi phối mức lãi suất đấu thầu. Mức lãi suất này thường nằm giữa 2 loại lãi suất tái chiết khấu, lãi suất qua đêm và lãi suất tiền gửi tại NHNN. -Lãi suất thị trường liên ngân hàng để thực hiện việc vay mượn ngắn hạn lẫn nhau (đường d) giữa các TCTD trong trường hợp thiếu vốn mà chưa đến phiên giao dịch nghiệp vụ thị trường mở. Do đó, lãi suất thị trường liên ngân hàng luôn dao động xung quanh lãi suất thị trường mở. Lãi suất thị trường liên ngân hàng có vai trò chi phối lãi suất huy động và cho vay của các NHTM với nền kinh tế theo hướng: LS Tiền gửi NHNN < LS huy động < LS thị trường LNH LS thị trường LNH < LS cho vay < LS tái chiết khấu của NHNN. Như vậy NHNN đã thực sự sử dụng các biện pháp kinh tế để tác động điều hành lãi suất thị trường thay thế cho các biện pháp mang tính can thiệp hành chính. Muốn vậy: +NHNN sửa đổi lại quy định tái cấp vốn, chiết khấu theo hướng mở rộng thêm loại giấy tờ có giá được sử dụng để tái cấp vốn, chiết khấu cho các TCTD, ngoài các chứng từ có giá là tín phiếu KBNN, tín phiếu NHNN như hiện nay sẽ mở rộng ra bao gồm giấy tờ có giá khác như trái phiếu chính phủ còn thời hạn thanh toán dưới 01 năm, các thương phiếu có độ tín nhiệm cao. +NHNN chú trọng phát triển các thị trường tiền tệ ( thị trường tín dụng, thị trường mở, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc và thị trường liên ngân hàng) Trong việc xác định lãi suất , các thị trường tiền tệ có ý nghĩa quan trọng. Thị trường nội tệ liên ngân hàng hiện nay hoạt động giữa các NHTM thông qua quan hệ vay mượn vốn trực tiếp lẫn nhau mà NHNN chưa thể nắm bắt được đầy đủ và cập nhật về doanh số cho vay vốn. Vì vậy, cần phải cải thiện lại thị trường liên ngân hàng, công bố các mức lãi suất cho vay theo thời hạn một cách công khai. Mức lãi suất này bao gồm cả lãi suất cho vay và lãi suất đi vay, sau đó NHNN tính ra lãi suất cho vay và đi vay bình quân theo từng thời hạn khác nhau. Đây sẽ là lãi suất cho vay và đi vay bình quân trên thị trường liên ngân hàng, dao động xung quanh lãi suất thị trường mở, và là lãi suất cơ sở để các NHTM cộng thêm vào các mức phụ phí khác để tính ra lãi suất cho vay và đi vay đối với khách hàng của mình. Lãi suất liên ngân hàng tổng hợp hơn, chỉ dẫn chính xác hơn về chi phí vốn vay của các ngân hàng. +Trong các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ thì nghiệp vụ thị trường mở có quan hệ trực tiếp tới lãi suất . Các hoạt động đấu thầu tín phiếu kho bạc trong nghiệp vụ thị trường mở đã xác định lãi suất và giá bán tín phiếu kho bạc, làm cơ sở cho lãi suất thị trường ngắn hạn. Vì vậy, một biện pháp cấp bách để điều hành lãi suất thoả thuận là phải chú trọng hoàn thiện thị trường mở. Trong khi đó, nghiệp vụ thị trường mở của chúng ta lại hoạt động yếu, khan hiếm hàng hoá, thiếu vắng sự đông đảo của TCTD, doanh số đấu thầu và trúng thầu nhỏ bé không đủ sức tạo nên chấn động trong điều hành chính sách tiền tệ Khi thị trường mở chưa phát triển mạnh thì NHNN có thể phát tín hiệu của mình về chính sách lãi suất , chính sách tiền tệ nới lỏng hay thắt chặt thông qua lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu đối với giấy tờ có giá ngắn hạn. +NHNN sớm đưa vào sử dụng cơ chế lãi suất cho vay qua đêm để phát huy vai trò của công cụ lãi suất điều hành của NHNN. +NHNN cần xây dựng hệ thống thông tin để kiểm soát, theo dõi thường xuyên hoạt động của thị trường liên ngân hàng. Có hệ thống thông tin kết nối với một số NHTM có thị phần hoạt động lớn và có khả năng chi phối hoạt động của thị trường tiền tệ, để đảm bảo cho NHNN nắm bắt đầy đủ, chính xác những nguyên nhân tác động đến sự biến động bất thường của lãi suất trên thị trường, qua đó có giải pháp điều tiết kịp thời và thích hợp. 3.3. Một số kiến nghị : 3.3.1. Đối với Chính phủ và các Bộ, Ngành -Nghiên cứu ban hành luật cạnh tranh và luật chống độc quyền để loại bỏ những tác động tiêu cực của cạnh tranh không lành mạnh. -Cần có cơ chế lãi suất riêng đối với các đối tượng cho vay chính sách. -Thực hiện phối hợp đồng bộ giữa NHNN và Bộ Tài chính nhằm tạo sự thống nhất giữa hai chính sách kinh tế cơ bản của nhà nước là chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá để có thể ổn định được thị trường lãi suất nếu có những cú sốc bất lợi khi thực hiện cho vay theo lãi suất thoả thuận. 3.3.2. Đối với NHNN: Củng cố và phát triển hoạt động thị trường tiền tệ, thị trường liên ngân hàng để NHNN có thể điều tiết được thị trường tiền tệ bằng các công cụ gián tiếp, cơ chế giám sát đủ mạnh để hạn chế rủi ro. -Cần tiến tới kết hợp với việc cải tiến cơ chế tỷ giá, sao cho tỷ giá phản ánh đúng các yếu tố cung cầu thị trường hơn nữa. -Rà soát và điều chỉnh hệ thống văn bản pháp quy cho phù hợp với cơ chế lãi suất mới. -Có hệ thống thông tin kết nối với hệ thống NHTM có thị phần lớn và có khả năng chi phối hoạt động thị trường tiền tệ để nắm bắt kịp thời nguyên nhân biến động bất thường của lãi suất trên thị trường, qua đó có giải pháp điều tiết kịp thời và thích hợp. -Cần ban hành một cơ chế quản lý việc cho vay theo lãi suất thoả thuận, cơ chế này cần thông thoáng, nhưng lại rất chặt chẽ, không can thiệp sâu vào tính tự chủ hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, nhưng cũng không buông lỏng quản lý để các TCTD dùng lãi suất làm công cụ cạnh tranh không đúng pháp luật. Có chế tài đối với các TCTD phá vỡ mặt bằng lãi suất tín dụng. 3.3.3. Đối với các NHTM: -Cần có các biện pháp đẩy mạnh sự phát triển và phối hợp hoạt động trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán. Nếu phát triển được các thị trường này và có sự phối hợp chặt chẽ thì chính sách cho vay theo lãi suất thoả thuận sẽ thành công với các ý nghĩa: +Sự biến động lãi suất sẽ được giảm thiểu bởi sự biến động tương tác chu chuyển vốn giữa các thị trường. +ý muốn tác động tới lãi suất của NHNN và những tác động chính sách cần thiết khác sẽ có cơ chế thuận lơị để đi vào nền kinh tế. -Cần xây dựng một chiến lược phát triển cạnh tranh lành mạnh, không bị lao vào những cuộc chiến về lãi suất ngắn hạn, vừa ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế vĩ mô, vừa tốn sức lực, tiền của của ngân hàng. -Cần xây dựng bộ phận quản lý vốn khả dụng, nhằm đảm bảo việc xác định chính xác cung cầu vốn trên thị trường, qua đó xác -Nâng cao vai trò của Hiệp hội Ngân hàng nhằm phối hợp và thống nhất hoạt động giữa các NHTM. Contents

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH357.doc
Tài liệu liên quan