Luận văn Giải pháp phát triển bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam

Toàn bộ bài viết đó phản ánh nên nội dung của đề tài “giải pháp phát triển thị trường BHNT ở Hải Phòng”. Trong đó có đề cập đến các nội dung cơ bản và thiết thực nhất cho mỗi chúng ta khi tìm hiểu và đang học tập về chuyên ngành kinh tế bảo hiểm. Đồng thời trong bài viết này em xin đề ra một số ý kiến cơ bản có ích cho công tác triển khai nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ của công ty. Sự hiểu biết tình hình thực tế hiện nay, đáp ứng nhu cầu đông đảo tham gia Bảo hiểm nhân thọ của mọi ngư¬ời. Do kiến thức lý luận và thực tiễn còn hạn chế. Hơn nữa vẫn còn là một sinh viên đang học tập trên giảng đ¬ường ch¬ưa đ¬ược tiếp xúc với thực tế nhiều nên bài viết chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót và hạn chế. Xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn và anh chị trong công ty BHNT Hải Phòng đã giúp em hoàn thành bài kiến tập này.

doc45 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1614 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
anh. Nếu không đủ trả nợ, người thực hiện di chúc buộc phải bán doanh nghiệp với khoản lỗ lớn để có được số tiền cần thiết trả các khoản nợ. Tất nhiên, việc bản doanh nghiệp với bất cứ giá nào sẽ bị lỗ rất lớn so với giá trị thực tế trên thị trường. Chính vì vậy việc chuẩn bị từ trước một hợp đồng mua bán có thể giải quyết vấn đề rắc rối liên quan đến cái chết đột ngột của nhà kinh doanh. Một bên đồng ý bán toàn bộ tài sản và lợi nhuận trong kinh doanh cho đối tác đồng ý mua quyền lợi với giá đặc biệt. Nếu nhân viên ( hoặc thành viên trong gia đình ) không đủ tiền mua doanh nghiệp thì BHNT là cách phổ biến nhất để cung cấp vốn hoạt động này. Nhân viên sẽ mua hợp đồng BH nhân mạng của chủ sở hữu doanh nghiệp. Anh ta vừa là chủ hợp đồng vừa là người trả phí BH và là người hưởng quyền lợi BH. STBH đủ để người đó mua doanh nghiệp. c. Tác dụng đối với xã hội: Một trong những chính sách để thực hiện tốt kế hoạch tài chính của mỗi quốc gia là bắt đầu ngay trong từng gia đình, vì mỗi gia đình là một tế bào của xã hội. BHNT là một trong những phương thức hiệu quả nhất để thực hiện huy động tiết kiệm cá nhân. BHNT giúp cho bản thân mỗi người dân có ý thức tiết kiệm, có ý thức chăm lo đến tương lai. BHNT cũng tạo nguồn vốn đầu tư dài hạn trong nước. BHNT là cách thức huy động vốn đầu tư khá hiệu quả trong dân cư, không những thế mà các hợp đồng đầu BHNT lại là các hợp đồng dài hạn, điều đó đồng nghĩa với nguồn vốn đầu tư dài hạn trong nước. Ngay từ khi ra đời, BHNT đã thu hút được một lực lượng lớn lao động trong xã hội, góp phần giải quyết phần nào được nạn thất nghiệp là một trong những vấn đề bức thiết của xã hội ta hiện nay. 1.2.CÁC LOẠI HÌNH BHNT & NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỢP ĐỒNG BHNT Các loại hình bảo hiểm nhân thọ BHNT đáp ứng rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia, có thể nói để đáp ứng và thoả mãn các nhu cầu của người tham gia, người BH phải thực hiện đa dạng hoá sản phẩm BHNT, thực chất là đa dạng hoá các loại hợp đồng BHNT. Trong thực tế có 3 loại hình BHNT: BH trong trường hợp tử vong BH trong trường hợp sống BHNT hỗn hợp. Ngoài ra người ta còn áp dụng các điều khoản bổ sung cho các loại hợp đồng BHNT cơ bản như: Bảo hiểm tai nạn; Bảo hiểm sức khỏe; Bảo hiểm không nộp phí khi thương tật; Bảo hiểm cho người đóng phí.... Thực chất các điều khoản bổ sung này không phải là BHNT vì nó không phụ thuộc vào sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ con người, mà là bảo hiểm các rủi ro khác có liên quan đến con người. 1.2.1. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong: Đây là loại hình phổ biến nhất trong BHNT và được chia thành 2 nhóm: a.1 BH tử kỳ còn gọi là BH tạm thời( hay BH sinh mạng có thời hạn) Được ký kết BH cho cái chết xảy ra trong thời gian đó quy định của hợp đồng. Nếu cái chết xảy ra trong thời hạn hợp đồng thì người BH phải có trách nhiệm thanh toán số tiền BH cho người thụ hưởng quyền lợi BH được chỉ định. Ta thấy BH tử kỳ có đặc điểm: Thời hạn xác định. Trách nhiệm và quyền lợi mang tính tạm thời. Mức phí BH thấp vì không phải lập quỹ tiết kiệm cho người được BH. BH tử kỳ có tác dụng: Đảm bảo các chi phí mai táng chôn cất; Bảo trợ cho gia đình và người thân trong một thời gian ngắn; Thanh toán các khoản nợ nần về những khoản vay hoặc thế chấp của người được bảo hiểm. BH tử kỳ còn đuợc đa dạng hóa thành các loại hình sau: BH tử kỳ cố định: có mức phí không thay đổi trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng. Loại này chủ yếu nhằm thanh toán cho các khoản nợ tồn đọng trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong. Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục: loại hình bảo hiểm này có thể tái tục vào ngày kết thúc hợp đồng, nhưng sẽ có giới hạn về tuổi và phí bảo hiểm sẽ tăng lên do độ tuổi của người được bảo hiểm tăng dẫn đến mức rủi ro tăng. Bảo hiểm tử kỳ có thể chuyển đổi: là loại hình bảo hiểm tử kỳ cố định nhưng cho phép người được bảo hiểm có sự lựa chọn chuyển đổi một phần hay toàn bộ hợp đồng thành một hợp đồng BHNT trọn đời hay BHNT hỗn hợp tại một thời điểm nào đó khi hợp đồng đang còn hiệu lực. Phí BH được tính dựa trên hợp đồng BHNT trọn đời hay BHNT hỗn hợp. BH tử kỳ giảm dần: một bộ phận của STBH giảm dần hàng năm theo một mức quy định. Đặc điểm của loại này là: Phí BH giữ ở một mức cố định; Phí thấp hơn BH tử kỳ cố định; Giai đoạn nộp phí ngắn hơn toàn bộ thừoi hạn hợp đồng để tránh việc thanh toán vào cuối thừoi hạn hợp đồng khi ma STBH còn rất nhỏ. BHTK tăng dần: loại này giúp ngăn chặn được yếu tố lạm phát của đồng tiền. BH thu nhập gia đình: loại hình BH này nhằm mục đích đảm bảo thu nhập cho gia đình khi không may người trụ cột trong gia đình bị mất. BH thu nhập gia đình tăng lên: ngoài mục đích giống BH thu nhập gia đình thì loại hình này còn ngăn chặn yếu tố lạm phát của đồng tiền. BHTK có điều kiện: điều kiện ở đây là việc thanh toán trợ cấp chỉ được thực hiện khi người được bảo hiểm bị chết, đồng thời người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm được chỉ định trong hợp đồng phải còn sống. a.2. BHNT trọn đời (BH trường sinh) Loại hình BH này cam kết chi trả cho người thụ hưởng BH một số tiền BH đó được ấn định trước trên hợp đồng. Khi người được BH chết vào bất cứ lúc nào kể từ ngày ký kết hợp đồng. Đặc điểm của loại hình BH này là: STBH trả một lần khi người được BH bị chết; Thời hạn hợp đồng không xác định; Phí BH có thể dóng một lần hoặc đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt quá trình BH; Phí BH cao hơn so với phí BH sinh mạng có thời hạn vì rủi ro chết chắc chắn sẽ xảy ra, nên STBH chắc chắn sẽ phải trả. BHNT tron đời là loại hình BH dài hạn, phí đóng một lần và không thay đổi trong suốt quá trình BH, do đó đã tạo nên một khoản tiết kiệm cho người thụ hưởng BH vì chắc chắn người BH sẽ chi trả STBH. Tác dụng khi mua BHNT trọn đời: Đảm bảo các chi phí mai táng, chôn cất; Đảm bảo thu nhập để ổn định cuộc sống gia đình; Giữ gìn tài sản, tạo dựng và khởi nghiệp kinh doanh cho thế hệ sau. Phương châm của người BH ở đây là “BH đến khi chết”. Có một số trường hợp loại hình BH này còn đảm bảo chi trả cho người được BH ngay cả khi họ sống đến 100 tuổi. Với loại hình BHNT trọn đời hiện nay thường có các loại hợp đồng sau: BHNT trọn đời phi lợi nhuận: loại hình này mức phí và STBH cố định suốt cuộc đời. Vì vậy khi thanh toán STBH cho người thụ hưởng không có khoản lợi nhuận được chia. BHNT trọn đời có tham gia chia lợi nhuận: loại hình này mức phí và STBH được cố định suốt cuộc đời , nhưng khi thanh toán STBHcho người thụ hưởng quyền lợi, họ được chia một phần lợi nhuận như đã thỏa thuận trong hợp đồng. BHNT trọn đời đóng phí liên tục:lọai này yêu cầu người được bảo hiểm phải đóng phí liên tục cho đén khi chết. vì đóng phí liên tục nên số tiền hàng năm sẽ thấp hơn so với các loại hợp đồng khác và mức phí này bằng nhau giữa các năm. BHNT trọn đời đóng phí một lần: người được bảo hiểm chỉ đóng phí một lần khi ký hợp đồng, còn người bảo hiểmphỉa đảm bảo chi trả bất cứ lúc nào khi cái chết của người được bảo hiểm xuất hiện. Khoản phí này là rất lớn nene người tham gia bảo hiểm hạn chế. BHNT trọn đời quy định số lần đóng phí BH: loại này không đòi hỏi người được bảo hiểm phỉa đóng phí liên tục hay 1 lần, mà quy định rõ số năm đóng phí bảo hiểm. tổng số phí đóng mỗi lần phụ thuộc vào số lần đóng phí. Nếu người được bảo hiểm chết trước khi hết thời hạn đóng phí thì quyền lợi bảo hiểm sẽ được thanh toán cho người thụ hưởng bảo hiểm và không phải trả thêm các khoản phí còn chưa trả hết. 1.2.2.. BH trong trường hợp sống( còn gọi là BH sinh kỳ) Thực chất của loại hình BH này là người BH cam kết chi trả những khoản tiền đều đặn trong một khoảng thời gian xác định hay trong suốt cuộc đời người tham gia BH. Nếu người được BH chết trước ngày đến hạn thanh toán thì sẽ không được chi trả bất kỳ một khoản tiền nào. Như vậy là các khoản trợ cấp định kỳ chỉ được bắt đầu thanh toán vào 1 ngày ấn định và chỉ được trả khi người được BH còn sống. Cũng có một số công ty BH còn áp dụng các điều khoản bổ sung để hoàn phí BH cho người thụ hưởng quyền lợi BH khi người được BH bị tử vong. Loại hình BH này rất phù hợp với những người khi về hưu hay những người không được hưởng trợ cấp hưu trí từ BHXH đến độ tuổi tương ứng với tuổi về hưu đăng ký tham gia, để được hưởng những khoản trợ cấp định kỳ hàng tháng. Vì vậy tên gọi “BH tiền trợ cấp hưu trí”, “BH tiền hưu”, “Niên kim nhân thọ”... được các công ty BH vận dụng linh hoạt. 1.2.3. BHNT hỗn hợp. Là BH cả trong trường hợp người được BH bị tử vong hay còn sống. Yếu tố tiết kiệm và rủi ro đan xen nhau vì thế nó được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới. Vậy ta thấy BHNT hỗn hợp có các đặc điểm sau đáy: Số tiền BH được trả khi: Hết hạn hợp đồng hay người được BH bị tử vong trong thời hạn hợp đồng. Thời hạn BH xác định. Phí BH thường đúng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn BH. Có thể chia lãi thông qua đầu tư phí BH và cũng có thể được hoàn phí khi không có điều kiện tiếp tục tham gia. Mục đích: Đảm bảo ổn định cuộc sống gia đình và người thân; Tạo lập quỹ giáo dục, hưu trí, trả nợ; Dùng làm vật thế chấp vay vốn hoặc khởi nghiệp kinh doanh... Khi triển khai BHNT hỗn hợp các công ty BH có thể đa dạng hoá sản phẩm này bằng các hợp đồng có thời hạn khác nhau, hợp đồng phi lợi nhuận, có lợi nhuận và các hợp đồng khác tuỳ theo tình hình thực tế. 1.2.4. Các điều khoản bổ sung Khi triển khai các loại hình BHNT, nhà BH còn nghiên cứu đưa ra các điều khoản bổ sung để đáp ứng các nhu cầu đa dạng của người dân. Thông thường có các điều khoản bổ sung sau đây hay được vận dụng. Điều khoản bổ sung BH nằm viện và phẫu thuật: Nhà BH cam kết trả các chi phí nằm viện và phẫu thuật cho người được BH khi họ bị ốm đau, thương tích. Nếu như người đó tự gây ra thương tớch, tự tử, mang thai và sinh nở... thì không được hưởng quyền lợi BH. Điều khoản bổ sung BH tai nạn: Nhằm trợ giúp chi phí trong điều trị thương tật từ đó bự đắp sự mất mát hay giảm thu nhập do bị chết hay bị thương tích cho người được BH. Những trường hợp tự thương, tai nạn do nghiện rượu, ma tuý...sẽ không được hưởng quyền lợi BH. Điều khoản bổ sung BH sức khoẻ: Thực chất của điều khoản này là nhà BH sẽ cam kết thanh toán khi người được BH mắc các chứng bệnh hiểm nghèo như: Đau tim, Ung thư, Suy gan, Suy hô hấp... Mục đích tham gia bảo hiểm ở đây nhằm có được những khoản tìa chính nhất định để trợ giúp thanh toán các khoản chi phí y tế lớn và góp phần giải quyết, lo liệu các nhu cầu sinh hoạt ngay trong thời gian điều trị . Ngoài ra còn có các điều khoản bổ sung khác như: hoàn phí BH, miễn thanh toán phí khi bị tai nạn, thương tật... nhằm tăng tính hấp dẫn để thu hút người tham gia. Mặc dù tính phí cao hơn, nhưng các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có các điều khoản bổ sung đã đáp ứng được nhu cầu đa dạng cảu người tham gia bảo hiểm. 1.3. Phí bảo hiểm nhân thọ: Việc xác định phí bảo hiểm nhân thọ khá phức tạp, bởi vì nó chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Do đó, quá trình định phí để đưa ra được một bảng phí đầy đủ, phù hợp với đặc điểm của từng loại SPBH nhân thọ phair tuân thủ một số nguyên tắc nhất định. 1.3.1. nguyên tắc định phí bảo hiểm nhân thọ: Phí được xác định sao cho tất cả các khoản thu trong tương lai phải đủ để trang trải các khoản chi phí và các khoản tiền, đồng thời mang lại lợi nhuận hợp lý cho công ty. Đây là nguyên tắc mà còn là mục tiêu số một của các công ty bảo hiểm . Phí được tính toán dựa trên những cơ sở khoa học nhất định như quy luật số lớn trong toán học, bảng tỷ lệ tử vong trong thống kê, quy luật tuổi thọn tăng dần trong dân số , quy luật lạm phát đông tiền trong các nền kinh tế... Quá trình định phí phải dựa vào một số giả định. Các gải định phải đảm bảo tính thống nhất và hợp lí. Thường có các giả diịnh sau: Giả định về tỷ lệt ử vong giữa các ngành nghề . các vùng địa lý,các địa phương( giả điịnh giống nhau hay không giống nhau). Giả định về tỷ lệ lãi suấtgiữa các loại hình đầu tư, tỷ trọng lãi suất trong từng loại hình đầu tư. Giả định về chi phí(cao hơn hay thấp hơn ) giữa các bộ phận như: như đại lý, marketting, quản lý , thuê văn phòng... Giả định tỷ lệ hợp đồng bị hủy bỏ. Giả định về thời gian thanh toán... Phí bảo hiểm nhân thọ còn phải đảm bảo yếu tố cạnh tranh. Yếu tố này phụ htuộc vào thị trường hiện tại cũng như trong tương lai của công ty, thuế và một số vấn đề liên quan đến hệ thống quản lý vĩ mô của chính phủ. 1.3.2.tính phí bảo hiểm : Phí bảo hiểm thực tế là người tham gai bảo hỉểm nộp cho công ty bảo hiểm gọi là phí toàn phần. công thức: P = f + d ; Trong đó: d: là phí hoạt động gồm chi phí cho các hợp đông, chi phí thu phí bảo hiểm, chi phí quản lý, F : là phí thuần . Muốn tính được phí thuần cần phải dựa vào bảng tỷ lệ tử vong. Bảng tỷ lệ tử vong nữ giới Tuổi (x) Số sống (lx) Số tử vong (dx) Tỷ lệ sinh tồn ( Px) Tỷ lệ tử vong (qx) 45 97.465 154 0.99842 0.00158 46 97.311 164 0.99831 0.00169 47 97.147 178 0.99817 0.00183 48 96.969 193 0.99801 0.00199 49 96.776 208 0.99785 0.00215 50 96.568 225 0.99767 0.00233 1.4. Sơ lược lịch sử phát triển của BHNT 1.4.1. Trên thế giới Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi người thường gặp những rủi ro bất ngờ khó lường trước được. Chính vì vậy, BH ra đời để chia sẻ rủi ro với số đông và một vài người trong số họ gánh chịu. Có thể nói trên thế giới BHNT ra đời từ năm 1583, với hợp đồng đầu tiên được ký kết giữa người được BH là William Gybbon ở Luân Đôn – Anh Quốc. Tuy nhiên mãi cho đến năm 1759, công ty BHNT đầu tiên mới được thành lập ở Châu Mỹ nhưng chỉ bán BH cho các con chiên nhà thờ. Ba năm sau, BHNT được phát triển rộng rãi cho tất cả nhân dân do công ty BHNT đầu tiên của Anh thành lập năm 1762. Từ đó đến nay, hàng loạt công ty BHNT ra đời, BHNT không chỉ xuất hiện ở các nước Châu Âu, Châu Mỹ mà còn xuất hiện ở Châu Á : Nhật năm 1881; Hàn Quốc năm 1905; Singapore năm 1908...; Theo thống kê năm 1994 phí bảo hiểm cảu các nước trên thế giới như: Nhật là 477.016 triệu USD, chiếm thị phần là 42,55 %., và là nước có doanh thu phí cao hơn các nước khác trên thế giới ( Mỹ: 241.419 triệu USD, có thị phần là 22,42 %; hay Anh là 74.786 có thị phần: 6,67%....) Biểu 1: Doanh thu phí BHNT một số nước năm 1994 STT Nước Phí BH( triệu USD) Thị phần thị trường(%) 1 Nhật 477.016 42,55 2 Mỹ 241.419 22,42 3 Anh 74.786 6,67 4 Pháp 69.741 6,62 5 Đức 51.400 4,58 Năm 2001 các khu vực như: châu á, châu âu, bắc mỹ ... đã có sự thay đổi cơ cấu phí BHNT do đó cũng ảnh hưởng tới doanh thu phí của các nước nói chung và các doanh nghiệp bảo hiểm của các nước nói riêng . B¶ng 2: C¬ cÊu phÝ BHNT vµ BHPNT theo khu vùc n¨m 2001. STT Khu vùc C¬ cÊu phÝ b¶o hiÓm (%) BHPNT BHNT 1 Ch©u ¸ 25 75 2 B¾c Mü 57 43 3 Ch©u ¢u 50 50 4 Nam Mü 80 20 5 Ch©u Phi 29 71 6 C¸c khu vùc kh¸c 60 40 7 Toµn thÕ giíi 43 57 (Nguån: B¶n tin thÞ tr­êng b¶o hiÓm n¨m 2001) 1.4.2.Ở Việt Nam a. Sự ra đời: Ở Việt Nam trước năm 1975, công ty Hưng Việt ( Miền Nam Việt Nam) đó triển khai loại hình bảo hiểm “BHNT” và hoạt động trong thời gian ngắn chỉ 1 – 2 năm. Đến năm 1987, Tổng công ty Bảo Hiểm Việt Nam (Bảo Việt) đó tổ chức nghiên cứu đề tài “BHNT và việc vận dụng vào Việt Nam” và đến năm 1990 Bảo Việt đó triển khai nghiệp vụ “Bảo hiểm sinh mạng cá nhân – một loại hình ngắn hạn của Bảo Hiểm nhân thọ” Sau một thời gian nghiên cứu, ngày 20/03/1996 Bộ Tài Chính đã ký Quyết định số 281/TC/TCNH, cho phép Tổng công ty Bảo Hiểm Việt Nam triển khai 2 loại hình BHNT là: BHNT có thời hạn 5 năm, 10 năm. BHNT trẻ em ( an sinh giáo dục). b. Sự phát triển Với hơn 14 năm hoạt động, BHNT không còn mới mẻ trên thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, ngay khi ra đời BHNT đó có những bước phát triển với tốc độ khá nhanh. Đến hết tháng 12 năm 1996 Công ty BHNT đã tập huấn và hướng dẫn triển khai với 1256 hợp đồng và số phí thu gần 1 tỷ VNĐ. Một năm sau, 31/12/1997 có 39/42 công ty từ Bình Thuận trở ra triển khai BHNT với số hợp đồng khai thác được là 25.937 hợp đồng, đưa tổng số hợp đồng đang có hiệu lực của công ty đang quản lý lên đến 35.558 hợp đồng với doanh thu gần 20 tỷ VNĐ. Hiện nay, BHNT đang được đánh giá là phát triển nhất ở miền Bắc Việt Nam, và sẽ phát triển mạnh hơn nữa trong tương lai và doanh thu của nghiệp vụ này rất lớn. Sự nhận định này được chứng minh qua những năm hoạt động của BHNT trên thị trường BHVN hiện nay. Tính đến nay trên thị trường BHVN có 29 DNBH, trong đó có 7 doanh nghiệp BHNT thì có 6/7 là doanh nghiệp BHNT nước ngoài. Chính vì thế, thị trường BHVN sẽ có sự cạnh tranh giữa các DNBH rất gay gắt, điều đó đã làm cho thị trường BHVN trở nên sôi động và không kém phần quyết liệt. Định hướng phát triển đến năm 2010: Doanh thu : 6.000 đến 10.000 tỷ VNĐ. Tỷ trọng: 50% trên tổng phí BH toàn thị trường. 1.5. Nội dung cơ bản của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ Khái niệm: Hợp đồng BHNT là sự cam kết giữa hai bên theo đó bên nhận BH ( công ty BH) có trách nhiệm và nghĩa vụ chi trả cho bên được BH khi có các sự kiện BH xảy ra còn bên được BH có trách nhiệm và nghĩa vụ đóng phí BH như đó thoả thuận theo quy định của pháp luật. Đây là 1 hợp đồng dân sự song vụ, mỗi bên tham gia đều có quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Bên nhận BH chính là các công ty BHNT. Khi cam kết nhận BH, trách nhiệm và nghĩa vụ của công ty là chi trả STBH khi có sự kiện BH xảy ra với người được BH đó thoả thuận trong hợp đồng. Sự kiện BH trong BHNT thường bao gồm: Tử vong. Sống đến một độ tuổi nhất định. Thương tật. Hết hạn hợp đồng. Bên nhận BH không được huỷ bỏ hay thay đổi các điều khoản trong hợp đồng và cũng không được khiếu nại đòi phí BH. Bên được BH trong hợp đồng BHNT có thể là ba người sau: Người được BH là người mà sinh mạng và cuộc sống của họ được BH theo các điều kiện của hợp đồng. Người được bảo hiểm có thể là người đã trưởng thành hoặc chưa đủ tuổi thành niên phải thông qua người đại diện hợp pháp đứng và ký hợp đồng. Người tham gia BH là người đứng ra yêu cầu BH, thoả thuận và ký kết hợp đồng. Người tham gia BH bắt buộc phải là người có năng lực pháp lý đầy đủ theo quy định của pháp luật. Người tham gia BH là người chịu trách nhiệm nộp phí và có quyền yêu cầu huỷ hợp đồng BH. Người tham gia BH có thể là người được BH và cũng có thể không phải là người được BH. Ta thấy người tham gia BH và người được BH là hai người khác nhau chỉ khi người được BH chưa đủ tuổi thành niên hoặc trong các hợp đồng BH theo nhóm. Người được hưởng quyền lợi BH là người được nhận STBH hoặc các khoản trợ cấp do cụng ty BH thanh toán như đã nêu trong hợp đồng. Đây là người do người tham gia BH chỉ định. Nếu việc chỉ định không rõ ràng, STBH được giải quyết theo luật thừa kế. Người được hưởng quyền lợi BH thường là người được BH, chỉ là người khác khi người được BH chết. Xác định rõ người được hưởng quyền lợi BH là vấn đề hết sức quan trọng để tránh được những tranh chấp, khiếu nại. Hợp đồng BHNT rất đa dạng do các công ty BH thực hiện đa dạng hoá sản phẩm để đáp ứng các nhu cầu phong phú của người tham gia. Đối tượng BHNT là tất cả những người từ 1 tuổi ( trên 12 tháng tuổi) đến trên 60 tuổi. Người tham gia BH có thể tham gia bất kỳ một loại hình BH nào theo yêu cầu và nguyện vọng của mình. Khi tham gia BH người tham gia phải viết giấy yêu cầu BH. Giấy yêu cầu BH là 1 bộ phận của hợp đồng BH. Trong giấy này người tham gia BH phải kê khai đầy đủ: Tên tuổi. Giới tính. Chỗ ở. Tình trạng sức khoẻ... Căn cứ vào giấy yêu cầu BH công ty BH quyết định có nhận BH hay không. Giấy này phải được lưu trong hồ sơ mỗi hợp đồng BH. Các quy định trong hợp đồng BH có nhiều điểm khác nhau ở mỗi nước. Hợp đồng BHNT có thể thay đổi theo yêu cầu của người tham gia BH. Ví dụ: BH tử kỳ cố định có thể chuyển thành 1 hợp đồng BHNT trường sinh;... Tuy nhiên cần thấy rằng sự chuyển đổi này không nhằm mục đích trục lợi BH. Người tham gia rất quan tâm đến khía cạnh sau khi tham gia BHNT vì những lý do nào đó mà không còn khả năng đóng phí tiếp tục và huỷ hợp đồng thì có được hưởng quyền lợi gì không? Câu hỏi này được trả lời: họ sẽ nhận lại được 1 số tiền nào đó gọi là giá trị hoàn lại ( hay giá trị giải ước ) nhưng với điều kiện: Trong hợp đồng hay đơn BH đó có sự chỉ rõ về giá trị giải ước từng năm 1 cách đầy đủ. Trong hợp đồng đó có một phần dự phòng phí đủ lớn do công ty BH tính toán. Tuy nhiên trong một số loại hợp đồng BHNT như: hợp đồng tử vong có kỳ hạn xác định, hợp đồng có STBH trả sau... việc hoàn phí không được thực hiện. Hợp đồng BHNT là hợp đồng dài hạn vì vậy chủ yếu được ký kết với từng cá nhân. Việc ký kết theo nhóm rất ít và nếu có thì chủ yếu là loại hình BH tử vong có kỳ hạn xác định. Trên đây là các nội dung cơ bản của hợp đồng BHNT nhưng để hợp đồng BHNT đi vào thực tế thì các bên phải tham gia ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, khi tham gia ký kết hợp đồng các bên phải chú ý các quy định sau đáy: - Hiệu lực của hợp đồng: Thường được tính từ ngày nộp phí BH đầu tiên. Ngày nộp phí BH đầu tiên phải được ghi chép thống nhất và chính xác trong cả hoá đơn thu phí và cả giấy yêu cầu BH... Hợp đồng buộc phải được ký kết giữa những người có đủ năng lực pháp lý. - Tuổi của người được BH hay người tham gia BH căn cứ vào tuổi trong giấy khai sinh, chứng minh thư, hộ chiếu hay hồ sơ hộ khẩu. Căn cứ vào ngày sinh trong các loại giấy tờ này để tính độ tuổi được nhận BH. Thông thường các công ty BH vận dụng 2 cách tính tuổi : Tính tuổi theo ngày sinh nhật ngay sau ngày bắt đầu được nhận BH. Tính tuổi sát với ngày sinh nhật. - Luật và những văn bản dưới luật về BH thường quy định loại trừ những trường hợp sau đây trong trường hợp tử vong, công ty BHNT không chịu trách nhiệm chi trả Người được BH tự tử. Người được BH bị kết ản tử hình. Người được thụ hưởng quyền lợi BH cố ý gây ra tử vong cho người được BH. Chiến tranh, nội chiến gây ra cái chết cho người được BH ( rủi ro này thường có những thoả thuận riêng). - Số tiền BH giảm đi: khi hợp đồng có hiệu lực trong 1 thời gian nào đó ( có thể là 1 năm hay 2 năm trở lên) người tham gia BH có thể duy trì hợp đồng miễn phí với số tiền BH giảm đi. - Những quy định về nộp phí BH: Trong BHNT, phí BH có thể nộp theo tháng, quý, năm hoặc đóng 1 lần. Việc đa dạng hoá thời hạn nộp phí đó tạo điều kiện cho người tham gia BHNT có kế hoạch sử dụng ngân sách gia đình hợp lý. Ngày định kỳ thu phí được các đại lý ký thoả thuận với người tham gia. - Thủ tục trả tiền BH: Khi có các sự kiện xảy ra như quy định trong hợp đồng, người được hưởng quyền lợi BH phải thụng báo cho công ty BH biết về tình trạng người được BH, địa chỉ và những thông tin cần thiết khác, sau đó hoàn tất hồ sơ khiếu nại và nộp cho công ty hoặc người đại diện của công ty. Sau một thời gian quy định, công ty BHNT sẽ trả tiền BH và tiền lãi, tiền thưởng (nếu có) cho người được hưởng quyền lợi BH. 2. Thị trường BHNT: 2.1. Khái niệm thị trường BHNT: Thị trường BHNT là một phần nhỏ trong thị trường BH do đó việc khái niệm thị trường BHNT nói riêng cũng giống như thị trường BH nói chung. Vậy thị trường BHNT là nơi mua và bán các SPBH liên quan đến tuổi thọ của con người. SPBH nhân thọ cũng như các SPBH khác là sản phẩm vô hình, không thể cảm nhận được hình dáng, kích thước, màu sắc...; không được bảo họ bản quyền; là sản phẩm vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro. Tính tiết kiệm ở đây thể hiện ngay trong từng cá nhân, từng gia đình một cách thường xuyên, có kế hoạch và có kỷ luật. còn tính rủi ro được thể hiện khi người được bảo hiểm khôngmay giặp rủi ro, trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm đã được ấn định, những người thân của họ sẽ nhận được những khoản trợ cấp hay STBH từ công ty bảo hiểm. Tham gia vào thị trường BHNT có người mua, tức là khách hàng, người bán và các tổ chức trung gian. 2.2. Đặc điểm của thị trường BHNT: Cũng giống như các thị trường khác thị trường BHNT nói riêng và thị trường BH nói chung có những đặc trưng chung như: Cung, cầu về các loại sản phẩm luôn biến động. Thị trường BHVN có 7 doanh nghiệp BHNT và luôn đưa ra thị trường những sản phẩm mới thích ứng với thị trường. SPBH ngày một nhiều và luôn gắn liền với sự phát triển của khoa học kỹ thuật của nền kinh tế, của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa... điều đó chứng tỏ SPBH không ngững được cải thiện và sáng chế, phát minh ra cái mới. Cầu về SPBH cũng không ngừng tăng lên. Khi nền kinh tế phát triển thì các tổ chức kinh tế xã hội cũng phát triển theo, đời sống vật chất và tinh thần của dân cư cũng được cải thiện... do đó nhu cầu đa dạng hóa về SPBH cũng tăng lên. Cung cầu về sản phẩm bảo hiểm phát triển song hành. Cầu tăng thì cung tăng và ngược lại. Ở đây không có hiện tượng mất cân đối giữa cung cầu, không có hiên tượng khủng hoảng thừa. Giá cả sản phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Giá cả BH thực chất là phí BH. Phí bảo hiểm là số tiền mà người mua – khách hàng nộp cho DNBH trênc ơ sở thoả thuận giữa người bán và người mua về dịch vụ bảo hiểm nào đó. Phí bảo hiểm giữa người mua và người bán cũng có thể xem đó là giá chấp nhận của thị trường về dịch vụ bảo hiểm. P hí bảo hiểm bao gồm pphí thuần và phụ phí. Phí bảo hiểm được tính trên cơ sở số tiền bảo hiểm với tỷ lệ phí bảo hiểm. Phí BH luôn thay đổi theo thời gian. Bởi vì mỗi thời gian có xác suất rủi ro khác nhau, mức độ thiệt hại khác nhau, điều kiện BH cũng thay đổi theo nhận thức của con người... Phí BH phụ thưộc vào quy luật cung cầu của thị trường, quy luật cạnh tranh, phụ thuộc vào chính sách quản lý của Nhà nước. Thị trường BHNT cũng như các thị trường khác, sự cạnh tranh của các doanh nghiệp để tranh giành khách hàng, để thu lợi nhuận diễn ra liên tục, gay go, quyết liệt. Do đặc điểm của SPBH là dễ bắt chước, không được abỏ hộ bản quyền nên các DNBH đổ xô vào những sản phẩm được thị trường chấp nhận bằng cách cải tiến để hoàn thiện sản phẩm đó hơncác doanh nghiệp khác; bằng cách tuyên truyền quảng cáo sâu rộng hơn, hấp dẫn để thu hút khách hàng và đặc biệt giảm chi phí và tăng tỷ lệ hoa hồng để giành giật khách hàng , chiếm lĩnh thị trường ... Cạnh tranh diễn ra trên nhiều khía cạnh, thủ thuật. Cùng với cạnh tranh là liên kết. Cạnh tranh càng mạnh thì liên kết càng phát triển. liên kết thường diễn ra giữa các doanh nghiệp mới , còn yếu về tiềm lực để tạo ra sức mạnh cạnh tranh, liên kết giữa các doanh nghiệp có thế mạnh để hòa hoãn, cùng phát triển tránh gây thiệt hại cho nhau . liên kết còn diễn ra giữa các doanh nghiệp nhơ và doanh nghiệp lớn để tăng sức mạnh cho doanh nghiệp nhỏ, để đảm bảo an toàn trong cạnh tranh và cũng để tăng thêm đông minh cho doanh nghiệp lớn. liên cũng là xu hướng của hội nhập và toàn cầu hóa. Thị trường bảo hiểm Việt Nam tuy mới hình thành và phát triển ,nhưng cạnh tranh cũng diễn ra gay gặt giữa các doanh nhgiệp với đủ thủ thuật và mánh khóe. Cạnh tranh cũng gay thiệt hại đáng kể cho một số doanh nghiệp, nhưng cũng mang lại thành công cho các doanh nghiệp có lợi thế... Thị phần của các DNBH luôn thay đổi. Nói đến thị phần là nói đến thị trường phát triển không còn mang tính độc quyền. thị phần của DNBH luôn thay đổi là do số lượng hợp đồng doanh nghiệp tham gia vào thị trường thay đổi, do chiến lược Markettinh, chiến lược sản phẩm, chiến lược giá .... thay đổi không những giữ vững được thị phần của mình mà còn giành giật được thị phần của doanh nghiệp khác. Ngoài ra thị trường BHNT là thị trường cung cấp những sản phẩm BH liên quan đến rủi ro và mang tính tiết kiệm khác với thị trường BH phi nhân thọ thì cung cấp sản phẩm BH mang tính rủi ro, những rủi ro bất ngờ không thể dự đoán được. Thị trường BHNT có đối tượng khách hàng rộng Chương II THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM 1. Thực trạng triển khai BHNT ở Việt Nam Trên thị trường BHVN có 29 công ty BH, trong đó BHNT có 5 công ty và luôn đưa ra thị trường BHNT những sản phẩm bảo hiềm nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Do đó cung về sản phẩm bảo hiểm rất nhiều. Tính chất của SPBH nhân thọ nói riêng và SPBH nói chung là sản phẩm vô hính, dễ sao chép và không được bảo hộ bản quyền, vì thế chỉ cần một công ty bảo hiểm đưa ra thị trường một sản phẩm bảo hiểm mới thì lập tức các công ty bảo hiểm cạnh tranh có thể bán một cách hợp lý sản phẩm bảo hiểm là bản sao của các hợp đồng của các doanh nghiệp BH khác. Chính điều đó đã làm cho tính cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm trở nên sôi động. Không như các doanh nghiệp sản xuất ra các sản phẩm hữu hình,thì họ cạnh tranh trên mọi phương diện, chẳng hạn như: cạnh tranh về giá cả sản phẩm, cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, cạnh tranh cả về dịch vụ sau khi sử dụng sản phẩm. Mặt khác các doanh nghiệp này còn có thể giới thiệu sản phẩm của mình một cách cụ thể thông qua màu sắc, hình dáng, kích thước, mùi vị,...trong khi đó SPBH có tính chất đặc biệt được nêu ở trên đã làm cho việc cạnh tranh của các DNBH trở nên khó khăn nhưng không kém phần sôi dộng. Thông thường các DNBH canh tranh nhau về phí, cách thức thanh toán khi đáo hạn hợp đồng, chất lượng SPBH thể hiện qua cách thức phục vụ của các nhân viên bán SPBH ... Do SPBH nhân thọ mang tính rủi ro nên việc quảng cáo cho sản phẩm bảo hiểm là rất khó vì tâm lý của người Việt không muốn nói đến rủi ro, không muốn thấy cụ thể những hậu quả của rủi ro. Hiên nay có hai công ty bảo hiểm nhân thọ đã thực hiện được các chương trình quảng cáo sản phẩm của mình, đó là công ty TNHH bảo hiểm Prudental Việt Nam và công ty liên doanh TNHH bảo hiểm Bảo Minh - CMG. Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ một phần làm phần tác động đến doanh thu và thị phần của doanh nghiệp. việc thực hiện các cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm đã làm thay đổi đáng kể bộ mặt cảu thị trường BHVN. Cùng với số lượng tăng lên của các sản phẩm, sự xuất hiện của những gương mặt mới trên thị trường bảo hiểm kể từ năm 1994 đã làm thay đổi thị pjần trên thị trường này. Năm 2000 thị phần của bảo việt nhân thọ chiếm 71,4 % dến năm 2001 còn là 54,3 % và năm 2004 là 39% , nhưng Prudential thì lại tăng được thị phần của mình từ 18,8 % (2000) lên 38 % (2004). Ngoài thị phần cảu Prudential tăng ra còn có Chifon – Manulife, Bảo Minh - CMG và AIA. Sự tăng về thị phần này là do sự vươn lên cạnh tranh mạnh mẽ của các doanh nghiệp nước ngoài. ThÞ phÇn b¶o hiÓm nh©n thä qua c¸c n¨m ( theo doanh thu phÝ). N¨m 2001 N¨m 2002 Thị trường BHVN nói chung là như vậy, còn thị trường BH Hải Phòng cũng không tránh khỏi những xu hướng đang phát triển của thị trường BH nước nhà. Lúc mới đầu, khi sản phẩm bảo hiểm xuất hiện đầu tiên ở Hải phòng cũng không tránh được tình trạng tiêu thụ sản phẩm ít. Đó là do nhiều yếu tố , trong đó yếu tố tâm lý của người tiêu dùng có tác động lớn trong việc tiêu thụ sản phẩm bảo hiểm. Nếu bạn hỏi một người dân bất kì nghĩ thế nào về SPBH nói chung hay SPBH nhân thọ nói riêng thì không ít người dân đã trả lời gửi tiền tiết kiệm ngân hàng tôt hơn là mua bảo hiểm. điều đó nói lên người dân vẫn chưa hiểu rõ về SPBH nhận thọ cũng như SPBH nói chung. Thứ hai là việc quảng bá SPBH không dễ dàng, do mới thành lập thì doanh nghiệp thường chú trong vào việc ổn định về mặt tổ chức công ty, nên ít nhiều cũng chưa thị sát được thị hiếu của người dân nơi đây nhằm bán được nhiều SPBH và cung cấp những dịch vụ mà khách hàng cần . Bên cạnh đó không thể thiếu yếu tố kinh tế, xã hội , văn hóa của người dân Hải Phòng , bởi khi bạn hiểu được văn hóa của mỗi vùng miền thị bạn sẽ tìm được nhu cầu của họ và tim được thị trường mục tiêu mà công ty cần phải xác định. Từ đó công ty xây dựng những chiến lược quan trọng và phu hợp nhằm phát triển kinh doanh của công ty như chiến lược marketing, chién lược về giá... đồng thời mở rộng được thị phần của công ty. Đến nay, thị trường bảo hiểm ở Hải Phòng ngày một phát triển hơn. Do đời sống của người dân nơi đây được nâng cao ,điều đó dẫn tới nhu cầu của người dân cũng tăng, rong đó không thể thiếu nhu cầu về bảo hiếm. vì thư nhất gnười dân đã nhận thức rõ lợi ích mà SPBH nhân thọ mang lại , không chỉ mang tính tiết kiện mà còn giúp cho người dân an tâm hơn khi có rủi ro xảy ra đối với mình và gia đình mình; thứ hai họ cũng muốn thể hiện sự quan tâm, sự chăm lo của bản thân với người thân cảu mình. Do đó mà công ty đã cung cấp những sản phẩm rất hữu ích cho khách hàng. Ngoại ra công ty còn chú trọng vào việc quảng bá sản phẩm BHNT của mình bằng các tờ rơi, bằng phương tiện thông tin đại chúng hay bằng chính uy tín của công ty... đã đem lại cho người dân một sự tin tưởng. Khi đời sống của người dân được nâng cao thì đi theo đó là do kinh tế của Hải Phòng cũng một phát trỉển hơn khi đất nước ta thực hiện công cuộc mở cửa hội nhập và phát triển. 1.1 Thuận lợi: Thứ nhất: Theo xu hướng phát triển chung của nền kinh tế nước ta những năm gần đây, thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế trong nước bắt đầu ổn định và phát triển, đời sống nhân dân ngày được nâng lên. Tương ứng với mức thu nhập tăng lên thì nhu cầu tiết kiệm để dành cho tương lai cũng tăng lên. Nhưng do đặc thù của những khoản tiết kiệm nhỏ này của người dõn mà các hình thức huy đụng gửi tiền tiết kiệm khác không phù hợp. Cho nên với những ưu điểm của mình, chắc chắn công ty bảo hiểm nhân thọ Hải Phòng sẽ phát triển. Thứ hai: công ty bảo hiểm nhân thọ Hải Phòng là công ty bảo hiểm trực thuộc Bảo Việt Hà nội , do đó có sự đảm bảo của nhà nước, đồng thời đảm bò về mặt uy tín của công ty. Đây là một thuận lợi mà không có công ty nào cũng có được. Thứ ba: do là công ty đc thành lập sau nên có nhiều thuận lợi trong việc triển khai sản phẩm nhờ vào việc học hỏi những công ty bảo hiểm trước. Mặt khác, do sản phẩm bảo hiểm ko có tính bản q` và dễ sao chép cũng đã giúp cho công ty giảm bớt một khâu trong quá trình tạo ra sản phẩm. Thứ tư: Công ty có mạng lưới cộng tác viên là các đại lý, môi giới . Nên dễ dàng tạo cho công ty triển khai nghiệp vụ rộng khắp trên quận huyện. 1.2- Những khó khăn: Thứ nhất: Nhìn chung nhận thức của mọi người về bảo hiểm nhân thọ còn hạn chế, do vậy việc triển khai mở rộng của nghiệp vụ vẫn còn nhiều khó khăn. Thứ hai: Người dân chưa thực sự tin tưởng vào giá trị của đồng tiền sau một thời gian dài, do vậy họ nghĩ rằng số tiền nhận được trong tương lai sẽ có giá trị giảm đi rất nhiều. Thứ ba: Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế thị trường tuy có tác động tích cực song cũng tạo ra sự phân hoá sâu sắc giữa các tầng lớp dân cư, để lại khoảng cách giàu nghèo lớn. Mặc dù những năm gần đây thu nhập bình quân đầu người có tăng lên song thực tế mức sống của người dân lao động và cán bộ công nhân viên chức vẫn còn ở mức thấp trong khi họ là những người rất có ý thức tiết kiệm cho tương lai nhưng mức phí phần nào không phù hợp với khả năng tài chính của họ. Thứ tư: Đội ngũ cán bộ có chuyên môn được đào tạo cơ bản còn ít trong khi đó phạm vi hoạt động của công ty lại quá rộng. Do vậy việc quản lý rất khó khăn đòi hỏi số đông cán bộ phải có năng lực. 1.3- Triển vọng phát triển Công ty đã thu được một số kết quả rất khả quan cho dù đó là những bước đi đầu tiên. Nhìn chung lại nhân dân đánh giá cao ý nghĩa của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ. Khắc phục được nhiều mặt yếu, khó khăn thì công ty sẽ có một tương lai phát triển thị trường rộng lớn. Như việc nâng cao chất lượng của công tác khai thác sẽ dẫn tới số lượng khách hàng hiểu biết về bảo hiểm nhân thọ nhiều hơn, số người tham gia bảo hiểm nhân thọ sẽ tăng lên. Cụ thể doanh thu của công ty ngày càng được nâng cao. Bảng 1: Doanh thu và số lượng hợp đồng BHNT của cụng Công ty BHNT Hải PhũngPhòng Năm Doanh thu (tỷ đồng) Số lượng hợp đồng 2003 69.7 15 2004 74.9 28 2005 79.1 37 2006 81.3 62 Qua bảng số liệu trên ta thấy doanh thu của công ty qua mỗi năm đc nâng cao kéo theo số lượng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ tăng lên: năm 2003 doanh thu đạt 69.7 tỷ đồng và chỉ có 15 hợp đồng bảo hiểm là do công ty chưa chú trọng trong việc quảng cáo sản phẩm của mình; đồng thời do nhận thức của người dân về loại hình bảo hiểm chưa rõ, và cũng chưa nhận ra được lợi ích của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ mang lại. Đến năm 2006 công ty bán được 62 sản phẩm bảo hiểm như vậy đồng nghĩa với việc số lượng hợp đồng mà công ty ký với khách hàng là 62 hợp đống, tăng hơn năm 2005 là 25 hợp đồng. Điều này chứng tỏ người dân đã thừa nhận những lợi ích mà khi mua sản phẩm bảo hiểm mang lại cho khách hàng, đồng thời tạo được sự yên tâm cho khách hàng về thu nhập nếu như sự kiện rủi ro có xảy ra thì đã được công ty bảo hiểm chi trả hoặc bồi thường. Một phần quyết định doanh thu của công ty tăng lên là công ty đã biết phát huy tốt dịch vụ sau bán hàng , thái độ phục vụ, phương thức thanh toán, quy trình bán hàng điều đó đã lôi kéo được khách hàng “ruột” của mình tham gia quảng cáo tiếp thị một cách miễn phí cho công ty, đồng thời tạo cho khách hàng của công ty cảm tình và có được sự tin tưởng của khách hàng. Thái độ phục vụ thể hiện văn minh thương nghiệp hiện đại, thể hiện tính cách chuyên nghiệp của nhân viên bán hàng. Nhiều khi khách hàng đã cảm nhận được lợi ích của sản phẩm lbảo hiểm mà công ty bán những thái đọ phục vụ cảu nhân viên không nhiệt tình, vui vẻ khiến cho họ có cảm giác khó chịu và dẫn tới quyết định không mua. Ngược lại có rất nhiều khách hàng mặc dù chưa hiểu rõ hết về lợi ích của sản phẩm nhưng do nhiệt tình, lịch thiệp của người bán mà khách hàng đã đưa ra quyết định mua sản phẩm. do tính chất của công việc hay vì lý do nào đó của khách hàng mà việc giặp gỡ khách hàng có thể diễn ra ở mọi nơi, mọi chỗ, có những khách hàng mà chỉ có thể giặp ở công ty và có những khách hàng mà chỉ giặp ở nhà riêng hay khu vui chơi ...chính vì thế nhân viên công ty đã thực hiên tốt quy trình bán hàng một cách uyển chuyển ,linh hoạt. dịch vụ sau bán hàng là yếu tố cấu thành quan trọng trong sản phẩm bảo hiểm, góp phần gia tăng chất lượng của sản phẩm. điều này đã được công ty phát huy tốt do đội ngũ của công ty luôn tận tình quan tâm đến khách hàng, luôn cung cấp cho khách hàng những dịch vụ đáp ứng được những yêu cầu cần thiết của khách hàng. Mặt khác công ty đã tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong việc thanh toán phí bảo hiểm. không những thế phí bảo hiểm được nhân viên của công ty đến thu tận nhà , thậm chí trong trường hợp khách hàng chưa có tiền đúng thời hạn họ có thể được phép nợ phí 60 ngày... Bên cạnh đó,qua bảng số liệu, ta thấy công ty góp phần đẩy doanh thu phí của toàn thị trường lên và làm tăng quỹ đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ cho nền kinh tế Việt Nam. Bảng 2:Quỹ đầu tư của các công ty bảo hiển nhân thọ Việt Nam cho nền kinh tế Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Qũy đầu tư 0,7 15 178 582 1654 4000 (Nguồn: Tạp chớ bảo hiểm số 6/2002) Nhìn chung theo xu hướng phát triển của xã hội, công ty bảo hiểm nhân thọ Hải Phòng sẽ phát triển mạnh và mang ý nghĩa kinh tế xã hội hết sức to lớn. Nhằm mục tiêu cấp bách hiện nay là huy động nguồn vốn cho đầu tư phát triển, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và khuyến khích sự phát triển của bảo hiểm nhân thọ ở Hải Phòng cho ngang tầm với các công ty bảo hiểm nhân thọ lớn trong nước đó rất phát triển như: công ty TNHH Bảo hiểm Prudential VIệt Nam, công ty TNHH bảo hiểm Chinfon - Manulife... Theo quan điểm của tôi, ở Việt Nam trong thời gian tới bảo hiểm nhân thọ sẽ phát triển tốt hơn và theo kinh nghiệm một số nước, thời gian đầu các công ty Bảo hiểm nhân thọ mới thành lập chỉ bán được lượng hợp đồng ít và tăng rất chậm nhưng sau đó bảo hiểm nhân thọ đó phát triển nhanh đáp ứng nhu cầu của xó hội. Mặt khác khi trình độ dân trí càng được nâng cao thì việc tham gia bảo hiểm nhân thọ như một thói quen và là một nhu cầu không thể thiếu thì khi đó bảo hiểm nhân thọ sẽ thực sự vững mạnh. 2. Một số ý kiến đề xuất Trong điều kiện kinh tế nước ta còn nhiều biến chuyển mạnh mẽ, đang trên đà phát triển. Muốn tạo được bước đi vững chắc trong cơ chế thị trường đòi hỏi ngành bảo hiểm nói chung và công ty bảo hiểm nhssn thọ Hải Phòng nói riêng phải đạt được yêu cầu, mục tiêu của công tác bảo hiểm. Cùng với những thuận lợi vốn có, trong quá trình triển khai nghiệp vụ công ty cũng gặp không ít những khó khăn nên kết quả thu được còn rất khiêm tốn. Mặt khác công ty bảo hiểm nhân thọ Hải Phòng là một công ty hoạt động dịch vụ giải quyết đồng thời cả mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội. Do đó trong quá trình triển khai nghiệp vụ, công ty phải xác định cho mình hướng đi đúng đắn và hiệu quả là không ngừng cải tiến quá trình kinh doanh, đặc biệt chú trọng nâng cao công tác bảo hiểm, phương thức phục vụ, đảm bảo giữ vững uy tín của công ty ngày một tốt hơn. Vậy phải làm gì để nâng cao sự phát triển của nghiệp vụ. Đây là vấn đề cần phải giải quyết. Dưới đây là một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt mục tiêu của Công ty: Một là: Nâng cao chất lượng khai thác bằng cách: Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động bằng nhiều hình thức trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong các tổ chức đoàn thể và cơ quan đơn vị có tiềm năng: Cụ thể với nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em mà công ty đang triển khai, Công ty triển khai tập trung, Công ty phải tập trung vào vận động cha mẹ, ông bà....của trẻ em. Người khai thác cũng cần phải hiểu rõ được tâm lý của người tham gia loại hình này, phải biết tận dụng khả năng và cần phải thống kê tìm hiểu cặn kẽ xem ở độ tuổi nào là tham gia nhiều, những người thuộc ngành nghề nào hay tham gia, ở quận huyện nào là phổ biến, rồi thống kê cả về loại hợp đồng, về mức trách nhiệm về giới tính thậm chí cả về thời gian cần khai thác vào lúc nào là hợp lý và hiệu quả. Công ty cũng cần phải phối hợp với các trường tiểu học, mẫu giáo qua các buổi họp phụ huynh sẽ tranh thủ vận động mọi người tham gia bảo hiểm cho trẻ em, có thể phát tơ rơi quảng cáo để sản phẩm tiếp xúc với khách hàng nhiều hơn. Thực hiện phương pháp này nhằm xác định sản phẩm mà doanh nghiệp cso thể bán được nhiều nhất. Ví dụ như : nơi có nhiều trẻ em thì công ty nên triển khai giới thiệu và chào bán sản phẩm đảm bảo cho việc hoc và cuộc sống các em sau này(như sản phẩm An sinh giáo dục)... - Đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền quảng cáo: Mặc dự ta thấy rằng việc quảng cáo trong Bảo hiểm nhõn thọ là rất khó bởi vì nó thường đề cập tới những rủi ro trong đời sống mà tâm lý của người Việt Nam thì lại hay kiêng kỵ do đó cần phải có hình thức tuyên truyền và quảng cáo phù hợp. Những điều còn tồn đọng và khó khăn với bảo hiểm nhõn thọ Hải Phòng là, thực tế mọi người còn chưa hiểu sâu sắc về bảo hiểm nhân thọ vì họ nghĩ việc tham gia bảo hiểm ko có lợi như gửi tiền tiết kiệm nên hiệu quả kinh doanh chưa cao. - Mở rộng tổ chức mạng lưới cộng tác viên, đại lý, cần phải tuyển dụng và đào tạo đội ngũ đại lý chuyên nghiệp để bố trí mở rộng địa bàn. Công ty nên xem xét tăng cường hơn nữa chương trình, kế hoạch bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ của các cán bộ trong Công ty, đồng thời nên dành một chế độ hoa hồng khen thưởng hợp lý cho đại lý cộng tác viên. Hoa hồng là khoản thu nhập chính của đại lý nên ai cũng muốn có mức hoa hồng cao khi đó sẽ khuyển khích họ khai thác được nhiều hợp đồng, Công ty nên có chế độ khen thưởng như: + Hàng tháng đánh giá kết quả làm việc của đại lý có số lần tiếp xúc khách hàng nhiều, làm như vậy sẽ kích thích tinh thần thi đua của mọi người, rồi công bố số lượng hợp đồng khai thác được một cách thường xuyên. Và có phần thưởng đối với các đại lý có số hợp đồng khai thác đủ lớn và khả thi. Hai là: Chú trọng hơn nữa tới công tác đào tạo bồi dỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ của Công ty cũng như giúp đỡ các đại lý, cộng tác viên trong việc đào tạo nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Đây cũng là công việc quan trọng phục vụ cho việc phát triển lâu dài của công ty như: - Đề nghị ban tổ chức cùng các cơ quan hữu quan quan tâm giúp đỡ hay khyến khích tạo điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật cho công tác đào tạo cán bộ phục vụ cho chuyên ngành bảo hiểm. - Công ty nên sắp xếp bố trí công việc, cử cán bộ có năng lực và nhu cầu đi học các lớp đào tạo về bảo hiểm ở nước ngoài trên cơ sở đó có điều kiện và hoàn thiện cỏc loại hình Bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam được tốt hơn. Và từ đó, Công ty sẽ có quyết định đa ra các sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu phong phú của mọi người. - Đối với công tác viên: Công ty nên tổ chức các buổi học về bảo hiểm nhân thọ, cách thức quản lý và theo dõi hợp đồng trên máy vi tính để cho công việc triển khai của các cộng tác viên được thuận lợi. Ba là: Thiết kế trình lên tổng công ty để công ty phê duyệt và trình lên bộ Tài chính một số sản phẩm mới để đa dạng hoá sản phẩm nhằm đáp ứng được nhu cầu của nhiều đối tượng, đồng thời hướng dẫn, chỉ đạo các cộng tác viên ở các công ty bảo hiểm địa phương thực hiện triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm nhân thọ trên toàn thành phố được nhanh và có hiệu quả. Công ty nên giúp đỡ trong việc cử cán bộ xuống tuyển đại lý khai thác theo tiêu chuẩn của Công ty đồng thời tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ đại lý này. Công ty cũng có trách nhiệm cung cấp đầy đủ tài liệu tập huấn cho đội ngũ này. Bốn là: Đề nghị Nhà nước nên có chính sách ưu đãi không đánh thuế thu nhập với số tiền đóng phí bảo hiểm nhân thọ để từ đó thúc đẩy bảo hiểm nhân thọ là một ngành có ưu thế và ích lợi hơn hẳn so với hình thức gửi tiền tiết kiệm từ đó sẽ hạn chế những bất lợi cho việc triển khai nghiệp vụ của Công ty và làm cho khỏch hàng sẽ thấy được tham gia bảo hiểm nhân thọ có hiệu quả cao hơn các hình thức khác. Công ty phải có những ý kiến cụ thể trình lên lãnh đạo cấp trên xin được hưởng những chính sách ưu đãi nói trến đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, đặc biệt là vấn đề đầu tư vốn trong Công ty. Cùng với những việc làm đó Công ty cần phải tiến hành hoà thiện và nâng cao chất lợng sản phẩm cũng chính là nâng cao chất lợng của các hợp đồng. Thực tế trong thời gian qua, phần lớn các Công ty mới chỉ quan tâm đến số lượng hợp đồng và doanh thu đạt được mà chưa để mắt xem “đại lý nói gì với khách hàng” để đi đến ký kết được hợp đồng. Trong khi đó số lượng đại lý trong mỗi Công ty ngày một gia tăng. Nên chăng đây cũng là thời điểm mà Tổng công ty phải tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động của các công ty, đồng thời các công ty phải tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của các đại lý để sớm sàng lọc được những đại lý đáng tin cậy. Cùng với việc nâng cao chất lượng hợp đồng công việc quản lý hợp đồng cũng cần được quan tâm hơn. Năm là: Công ty nên đa ra kế hoạch cụ thể về việc thành lập phòng giám định và trả tiền bảo hiểm. Hiện tại Công ty đã có phòng giám định và trả tiền bảo hiểm, nhưng chưa thực sự phát huy tốt vai trò. Mục đích của công tác giám định, bồi thường nhằm đảm bảo quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, làm tốt công tác này sẽ tạo được lòng tin cho khách hàng thì việc phát triển của nghiệp vụ cũng càng được đảm bảo hơn. Thiết nghĩ rằng đó đến lúc Công ty cần phải thực hiện mạnh mẽ những mục tiêu đề mà tôngc ông ty đề ra và tiếp thu những ý kiến thiết thực nhất. Trên đây là những ý kiến đề xuất gúp phần vào việc nâng cao hiệu quả và khả năng phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Khẳng định về sự phát triển của Bảo hiểm nhân thọ ở nước ta quả là hơi sớm nhng chúng ta tin rằng các sản phẩm của Bảo hiểm nhân thọ chắc chắn sẽ mang lại lợi ích lớn cho các chủ hợp đồng. Sáu là: Mở rộng quy mô trên thị trường bảo hiểm Hải Phòng. Phát triển hệ thống trung gian bảo hiểm về số lượng và trình độ nhất là mạng lưới các đại lý bảo hiểm Phát huy vai trò quản lý, điều chỉnh và phân phối hoạt động của công ty Tổ chức đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực cho công ty. Bảy là: nâng cao năng lực của công ty đóng vai trò quan trọng để thực hiện mục tiêu phát triển thị trường bảo hiểm trong tiến trình hội nhập. Để nâng cao năng lực công ty cần thực hiện các giải pháp cụ thể: Công ty phải tìm mọi biện pháp chủ đọng nang cao năng lực tài chính , phát huy, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng nhằm huy động được cao nhất mọi đối tượng tham gia bảo hiểm . Nâng cao năng lực kinh doanh trên cơ sở hiện đại hóa công nghệ thông tin, trình độ quản lý, tập trung phát triển nguồn nhân lực để nâng cao trình độ cán bộ. Tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo để nâng cao nhận thức về hoạt động bảo hiểm, thị trường bảo hiểm cho mọi đối tượng xã hội. Phất triển các kênh phân phối , tăng cường quan hệ với khách hàng. Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn trong công tybằng các biện pháp: Quản lý nợ phí bảo hiểm hiệu quả hơn bằng việc thành lập ban quản lý công nợ của công ty. Giảm số dư nhàn rỗi . Phối hợp hiểu quả hơn với hệ thông ngân hàng thông qua các lĩnh vự: sử dụng hệ thông thu tiền hộ của hệ thống ngân hàng; khuyến khích thanh toán qua ngân hàn; sử dụng dịch vụ chuyển tiền tự động qua ngân hàng. Quản lý tốt tình hình luân chuyển vốn lưu động. Nâng cao tính chuyên nghiệp trong đầu tư của công ty bằng các biện pháp như: Chú trọng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, am hiểu về thị trường tài chính và đầu tư tài chính. Đa dạng hóa hình thức đầu tư . Áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ nhất là công nghệ thông tin trong lĩnh vực đàu tư, trên cơ sở thực hiện đầu tư phát triển công nghệ của toàn hệ thống KẾT LUẬN Toàn bộ bài viết đó phản ánh nên nội dung của đề tài “giải pháp phát triển thị trường BHNT ở Hải Phòng”. Trong đó có đề cập đến các nội dung cơ bản và thiết thực nhất cho mỗi chúng ta khi tìm hiểu và đang học tập về chuyên ngành kinh tế bảo hiểm. Đồng thời trong bài viết này em xin đề ra một số ý kiến cơ bản có ích cho công tác triển khai nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ của công ty. Sự hiểu biết tình hình thực tế hiện nay, đáp ứng nhu cầu đông đảo tham gia Bảo hiểm nhân thọ của mọi người. Do kiến thức lý luận và thực tiễn còn hạn chế. Hơn nữa vẫn còn là một sinh viên đang học tập trên giảng đường chưa được tiếp xúc với thực tế nhiều nên bài viết chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót và hạn chế. Xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn và anh chị trong công ty BHNT Hải Phòng đã giúp em hoàn thành bài kiến tập này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình bảo hiểm (Đại học Kinh tế Quốc dân); Giáo trình Quản trị Kinh doanh Bảo hiểm (Đại học Kinh tế Quốc dân); Một số tài liệu của công ty BHNT Hải Phòng; Một số tài liệu trên trang web; Tạp chí Bảo hiểm... NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36583.doc
Tài liệu liên quan