Luận văn Hoàn thiện hoạt động kiểm toán quy trình cho vay trong các Ngân hàng thương mại

Kiểm toán độc lập quy trình cho vay là một nhu cầu tất yếu: Nhân viên tác nghiệp có thể do vô ý hoặc lãng quên nên không tuân thủ các quy trình thủ tục hoặc trở nên cẩu thả trong quá trình thao tác nghiệp vụ. Cần có người đứng bên ngoài quy trình tiến hành quan sát, kiểm tra và đánh giá việc thực hiện các nghiệp vụ giao dịch, tác nghiệp của họ; phát hiện và ngăn ngừa sự gian lận, cố ý sai phạm xảy ra. Nền kinh tế toàn cầu luôn luôn biến động, trong đó môi trường kinh doanh, yêu cầu tuân thủ luật pháp quốc gia và quốc tế ngày càng trở nên phức tạp hơn. Hiện nay chúng ta đã tham gia một số các tổ chức lớn trong khu vực như ASEAN, ASEM, APEC với tư cách thành viên chính thức, và mục tiêu trước mắt là gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO vào năm 2005. Để đạt mục tiêu đó, một mặt nền kinh tế của nước ta phải đổi mới nhanh chóng nhằm đáp ứng những điều kiện đặt ra, mặt khác cần phải đổi mới các chính sách, các quy định pháp luật sao cho hoà hợp chung với các quy ước, các chuẩn mực quốc tế. Hoạt động cho vay cũng chịu những ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp từ các yếu tố này. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng và sự hội nhập quốc tế, rủi ro trong quy trình cho vay cũng có tính đa dạng và phức tạp hơn, nhất là khi các ngân hàng thương mại Việt Nam áp dụng kinh doanh các sản phẩm mới đang được thực hiện tại các ngân hàng trên thế giới. Để bắt kịp những thay đổi về kinh doanh, về thể thức kế toán và ứng dụng của công nghệ thông tin, phương pháp kiểm toán cũng cần phải luôn được hoàn thiện, đổi mới. Công ty kiểm toán KPMG là một công ty có danh tiếng trên toàn cầu với một phương pháp kiểm toán chặt chẽ và đáng tin cậy, đặc biệt với lĩnh vực kiểm toán ngân hàng. Tuy nhiên, quá trình hoạt động của KPMG ở Việt Nam chưa lâu, nền kinh tế Việt Nam lại có nhiều đặc trưng riêng của thời kỳ quá độ nên cũng đòi hỏi một phương pháp kiểm toán riêng thích hợp. Hiện nay, với chính sách mở cửa của Việt Nam gia nhập vào khối AFTA năm 2001-2005, với sự phát triển vượt bậc về số lượng và chất lượng phục vụ của các công ty kiểm toán Việt Nam, để đảm bảo giữ vững uy tín của công ty hàng đầu thế giới với các khách hàng và đứng vững trong thị trường cạnh tranh khốc liệt ở Việt Nam, Ban Giám Đốc của KPMG cần quan tâm hơn nữa đến việc hoàn thiện tổ chức kiểm toán quy trình cho vay.

doc112 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1739 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện hoạt động kiểm toán quy trình cho vay trong các Ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vẫn kiến nghị bổ sung, ví dụ như kiểm soát đối với hoạt động tính thu nhập từ lãi và phí cho vay. Báo cáo kiểm toán cho ngân hàng AT Việt Nam sau khi hoàn thành được gửi cho KPMG Singapore để hoàn tất cuộc kiểm toán chung của KPMG cho tập đoàn AT. IV - Kiểm toán quy trình cho vay trong kiểm toán tài chính của ngân hàng GX do công ty KPMG thực hiện 1. Chuẩn bị kiểm toán quy trình cho vay tại Ngân hàng GX 1.1- Thông tin cơ sở về quy trình cho vay của Ngân hàng GX Ngân hàng cổ phần GX được thành lập theo quyết định ZZ/QD/NH, ngày PP/TT/1997 của NHNN. Đến năm 2004, vốn pháp định của Ngân hàng đạt mức 200 tỷ đồng Việt Nam. Ngân hàng đặt Hội sở tại Hà Nội, 3 chi nhánh cấp 1 tại thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định. Có 5 chi nhánh cấp 2 tại Hà Nội và 4 chi nhánh cấp 2 tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngân hàng tuân theo một mô hình ngân hàng kinh doanh độc lập điển hình ở Việt Nam. Không có kiểm soát dọc cho các hoạt động của ngân hàng; mỗi chi nhánh (cấp 1 và cấp 2) tương đối độc lập trong hoạt động kinh doanh. Chi nhánh cấp 2 chủ yếu thực hiện nhận tiền gửi và cho vay. Hội sở cũng thực hiện đầy đủ các dịch vụ ngân hàng, và phê chuẩn cho các giao dịch vượt quá mức các chi nhánh, cung cấp các dịch vụ ngân quỹ, rà soát vị thế tài chính của các chi nhánh. Tại Hội sở có 5 ban chính: Dịch vụ Ngân hàng Công ty, Dịch vụ Ngân hàng Cá nhân, Quản lý các chi nhánh, Quản lý Ngân quỹ và Tín dụng. Mỗi ban có các phòng và chịu sự kiểm soát trực tiếp của một Phó Tổng Giám đốc. Ngân hàng đặt ra các mục tiêu và có các chiến lược thực hiện tương ứng. Với mục tiêu tăng trưởng trong kinh doanh, Ngân hàng có chiến lược tăng vốn pháp định từ 150 tỷ đồng lên 200 tỷ đồng; mở rộng mạng lưới chi nhánh; tích cực quảng bá tới các khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ và cá nhân để mở rộng việc cho vay và cung cấp các dịch vụ ngân hàng khác; đồng thời tiếp tục kiểm soát chặt chẽ chi tiêu, tăng cường chất lượng để thu hút thêm khách hàng và tăng cường thu nhập ngoài lãi. Để thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng và hiệu quả, Ngân hàng xác định chương trình tin học hiệu quả để thay thế hệ thống cũ; đào tạo thường xuyên và tại chức để nâng cao kỹ năng của cán bộ. Mục tiêu phát triển thành một ngân hàng có vị thế được Ngân hàng đề ra các biện pháp thực hiện như đảm bảo tuân thủ các tỷ số an toàn/ thanh khoản của Ngân hàng Nhà nước; chiến dịch quảng bá sâu rộng để thu hút khách hàng; mở rộng mạng lưới chi nhánh. Ngân hàng GX cung cấp cả dịch vụ ngân hàng bán buôn và bán lẻ trên phạm vi toàn quốc. Dịch vụ ngân hàng công ty của Ngân hàng GX gồm cho vay thương mại, tài trợ thương mại và ngân quỹ. Dịch vụ ngân hàng bán lẻ gồm các loại tiền gửi, đăng ký tài khoản vãng lai và séc du lịch. Trong đó cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tài sản của Ngân hàng. Trong thời gian qua, Ngân hàng luôn giữ được vị trí là một trong 10 ngân hàng cổ phần lớn nhất Việt Nam. Ngân hàng GX chú trọng cho vay với các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các cá nhân. Số dư các khoản cho vay vào tháng 12/2004 là 1.555 tỷ đồng, trong đó các khoản cho vay ngắn hạn chiếm 1.073 tỷ đồng (69%); trung và dài hạn chiếm 482 tỷ đồng (31%). Tại ngày 31/12/2004, tổng số dư cho vay doanh nghiệp chiếm 81%, cho vay cá nhân chiếm 19% tổng số dư các khoản cho vay. Các khoản cho vay quá hạn chiếm 1,54% tổng số dư cho vay. Số dư các khoản cho vay tại thành phố Hồ Chí Minh chiếm 38% tổng danh mục cho vay. Tại Hà Nội và Hội sở, số dư này chiếm 56%. Các chi nhánh khác do mới thành lập nên số dư không đáng kể. 75% tổng danh mục cho vay là đồng Việt Nam, phục vụ các khoản cho vay ngắn hạn tài trợ vốn hoạt động và tiêu dùng cá nhân (mua nhà, ô tô). 25% danh mục cho vay còn lại phục vụ hoạt động nhập khẩu. Ngân hàng GX cũng phải đối đầu với một số thách thức như: Sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường với các ngân hàng cung cấp dịch vụ tương tự; Hệ thống pháp lý cho hoạt động Ngân hàng chưa hoàn chỉnh gây khó khăn cho các ngân hàng; Nợ quá hạn vẫn còn tồn tại trong danh mục cho vay. Năm tài chính 2004 là năm đầu tiên KPMG thực hiện kiểm toán cho ngân hàng GX. Vì vậy, ngoài những tài liệu, số liệu kế toán cần thiết KPMG yêu cầu ngân hàng chuẩn bị, các kiểm toán viên còn gửi thư cho kiểm toán viên tiền nhiệm để thu thập thêm những thông tin hữu ích khác nhằm trợ giúp cho quá trình kiểm toán. Do ngân hàng GX có nhiều chi nhánh cấp 1 và cấp 2 nên trong quá trình kiểm toán, đội kiểm toán chính được phân công làm việc ở Hội sở nơi tập trung hầu hết các dữ liệu kế toán. Ngoài ra, KPMG còn cử một số kiểm toán viên và trợ lý đến tận các chi nhánh xem xét tình hình, thực hiện kiểm toán trực tiếp và gửi kết quả về cho đội kiểm toán chính. Các chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định cũng được công ty phân công lực lượng kiểm toán và gửi kết quả đến đội kiểm toán tại Hội sở thông qua email, fax và điện thoại. 1.2- Phân tích ban đầu với quy trình cho vay Ngân hàng thực hiện chính sách cho vay ít rủi ro: hầu hết các khoản cho vay đều được yêu cầu có bảo đảm hay bảo lãnh. Kiểm toán viên tìm hiểu một số thông tin chính về quy trình cho vay như: phê chuẩn khoản cho vay, xếp hạng khoản cho vay, rà soát tín dụng, lập dự phòng và kiểm toán nội bộ của Ngân hàng GX. Phê chuẩn khoản cho vay: Việc cấp các khoản cho vay dựa trên mức phê chuẩn lập ra bởi Hội đồng quản trị. Xếp hạng khoản cho vay: Tiêu chuẩn xếp hạng tín dụng khách hàng và phân loại bảo đảm vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Rà soát tín dụng: Rà soát tín dụng được thực hiện hàng năm. Rà soát giữa năm được thực hiện trong các tình huống hay sự kiện đặc biệt ảnh hưởng đến các khoản cho vay phát sinh. Lập dự phòng: Theo quy định của NHNN, Ngân hàng thiết lập Uỷ ban Tài sản và Công nợ (ALCO) chịu trách nhiệm đánh giá lập dự phòng. Thành phần của Uỷ ban gồm có: Tổng Giám đốc Phó Tổng Giám đốc Kế toán trưởng Kiểm toán nội bộ: Được thực hiện thường xuyên theo yêu cầu (ít nhất 1 lần mỗi năm). Đối với Ngân hàng GX, kiểm toán viên cũng đi sâu tìm hiểu về quy trình cho vay theo các hướng: hoạt động trong quy trình, rủi ro kiểm soát ảnh hưởng đến các cơ sở dẫn liệu lập báo cáo tài chính thông qua chiến lược kinh doanh và các lớp nghiệp vụ trọng yếu của Ngân hàng trong quy trình, từ đó liên quan đến mục tiêu kiểm toán cần đạt được. Các thông tin về quy trình được tập hợp trên tài liệu phân tích quy trình cho vay của Kiểm toán viên (các trang bên). Nhận xét: Qua thực hiện kiểm tra thiết kế kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên nhận thấy Ngân hàng GX nên bổ sung những kiểm soát sau: Các xác nhận số dư nợ cho vay gửi tới khách hàng vào cuối năm. Bảng tính lãi của từng khoản cho vay cuối năm in ra từ hệ thống để kế toán đối chiếu kiểm tra và lên báo cáo. Trường hợp khách hàng muốn vay từ nhiều chi nhánh của Ngân hàng phải có sự phê chuẩn của Tổng Giám đốc/ Phó Tổng Giám đốc về hạn mức tín dụng tối đa cho khách hàng đó và cho mỗi chi nhánh cho khách hàng đó vay. 2. Thực hiện kiểm toán quy trình cho vay Ngân hàng GX 2.1- Thực hiện thử nghiệm kiểm soát Ngân hàng duy trì một hệ thống kiểm soát nội bộ mạnh cho các hoạt động hàng ngày, trong đó đảm bảo phân tách trách nhiệm và thực hiện kiểm soát cấp độ cao là khu vực rủi ro nhất. Nguyên tắc “kiểm soát kép” trong các giao dịch ngân hàng giữa nhân viên và cán bộ chức năng được thực hiện ở tất cả các chi nhánh. Mỗi giao dịch phải được uỷ quyền bởi Trưởng phòng trước khi ghi nhận vào hệ thống. Phong cách kiểm soát chặt chẽ nghiêm ngặt này góp phần giảm các rủi ro và gian lận tác nghiệp, tuy nhiên, tỏ ra tốn kém thời gian và khiến ban quản lý phải làm nhiều việc hơn. Kiểm soát 1 Mục tiêu: Đạt được sự đảm bảo hợp lý rằng đánh giá tín dụng ban đầu và yêu cầu phê chuẩn khoản cho vay được lập theo mẫu chuẩn bởi cán bộ tín dụng, rà soát bởi Trưởng phòng tín dụng trước khi được phê chuẩn bởi cấp có thẩm quyền thích hợp. Công việc thực hiện: Rà soát các khách hàng vay mới trong kỳ trong danh mục cho vay và kiểm tra với hồ sơ tín dụng để đảm bảo đánh giá ban đầu được lập và phê chuẩn đúng. Số lượng và giá trị các khoản cho vay có sự gia tăng đáng kể trong năm 2004 so với năm 2003. Tổng giá trị các khoản cho vay lên tới 1.456.564 triệu đồng, tăng lên 83% so với năm 2003 (795.937 triệu đồng). Các khoản cho vay mới hầu hết là vay ngắn hạn. Xem xét đánh giá tín dụng ban đầu cho 5 khách hàng vay mới, thảo luận với ban quản lý về tính hợp lý trong cấp hạn mức, kết hợp với thông tin tài chính của người vay và các bằng chứng khác. 5 đánh giá tín dụng ban đầu cho 5 khách hàng vay mới: STT Tên khách hàng vay Rà soát và phê chuẩn thích hợp 1 Công ty Tàu Đại Dương Có 2 Công ty nội thất Đẹp Có 3 Công ty Thương mại Mới Có 4 Công ty Yến Anh Có 5 Công ty xây dựng HORI Có Kết luận: Kiểm toán viên đã thu thập được sự đảm bảo hợp lý rằng đánh giá tín dụng ban đầu và yêu cầu phê chuẩn đã được lập theo mẫu chuẩn bởi cán bộ tín dụng, rà soát bởi Trưởng phòng tín dụng trước khi được phê chuẩn bởi cấp có thẩm quyền thích hợp. Kiểm soát 2 Mục tiêu: Đạt được sự đảm bảo hợp lý rằng rà soát tín dụng được thực hiện hàng năm hoặc theo các sự kiện có ảnh hưởng bởi cán bộ tín dụng, kiểm tra và phê chuẩn bởi người có thẩm quyền. Thực hiện thử nghiệm kiểm soát: Chọn 20 hồ sơ tín dụng có số dư lớn hơn 5 tỷ đồng để đảm bảo rà soát tín dụng được thực hiện hàng năm hoặc theo các sự kiện có ảnh hưởng. Thảo luận với ban quản lý về tính hợp lý trong cấp hạn mức, kết hợp với thông tin tài chính của người vay và các bằng chứng khác. Kết luận: Theo thảo luận với khách hàng, được biết việc xếp hạng tín dụng được thực hiện đối với mỗi khách hàng vay. Tuy nhiên Ngân hàng vẫn chưa có một hệ thống chấm điểm tín dụng hiệu quả. Đây là một điểm yếu mà ngân hàng cần phải khắc phục sớm. Kiểm soát 3 Mục tiêu: Đạt được đảm bảo hợp lý rằng báo cáo về các khoản cho vay quá hạn và giải pháp đề xuất cho toàn Ngân hàng được lập bởi cán bộ quản lý tín dụng, xem xét lại bởi Trưởng phòng tín dụng. Thực hiện thử nghiệm kiểm soát: Tìm hiểu cấu hình của hệ thống để đảm bảo tần suất lập báo cáo. Thảo luận với cán bộ quản lý tín dụng về nguồn thông tin sử dụng và phương pháp của Ngân hàng để kiểm tra các báo cáo đó. Theo thảo luận với cô Hải, Trưởng phòng tín dụng, báo cáo được lập cho các khoản cho vay quá hạn phát sinh mỗi tháng và các giải pháp kiến nghị từ Hội sở Ngân hàng GX và các chi nhánh. Chọn báo cáo của 2 tháng và khớp số liệu với Sổ cái. Tháng Dữ liệu khớp với sổ cái 7 ỹ 10 ỹ Thảo luận với anh Tiến, cán bộ quản lý tín dụng chịu trách nhiệm lập báo cáo bất thường. Không có lưu ý bất thường. Kiểm soát 4: Mục tiêu: Đạt được sự đảm bảo hợp lý rằng danh mục cho vay phân tích theo khách hàng, loại hình vay, loại tiền và thời hạn được lập hàng tháng bởi cán bộ hỗ trợ tín dụng và đối chiếu với sổ cái. Thực hiện thử nghiệm kiểm soát: Thu thập và xem xét danh mục cho vay hàng tháng của năm 2004 để kiểm tra xem kiểm soát có hoạt động hiệu quả không. Chọn 2 đối chiếu trong tháng 5 và tháng 9 để kiểm tra xem chúng có được lập và rà soát bởi người có trách nhiệm. Theo cô Mai – Trưởng phòng tài chính, cuối mỗi tháng danh mục cho vay của cả bộ phận ngân hàng công ty và bộ phận ngân hàng cá nhân đều được các nhân viên phòng tài chính đối chiếu với Sổ cái. Bất cứ chênh lệch nào cũng sẽ được chuyển tới các cán bộ hỗ trợ tín dụng của bộ phận ngân hàng công ty và bộ phận ngân hàng cá nhân để kiểm tra, tìm hiểu và theo dõi. Tuy nhiên, phòng Tài chính chưa nhận được phản hồi nào và danh mục cho vay và sổ cái vẫn chưa được đối chiếu. Đối chiếu số dư các tháng được chọn vối Sổ cái. Tháng Đối chiếu với Sổ cái Chênh lệch 5 Có Có 9 Có Có Hầu hết các chênh lệch là từ danh mục cho vay của bộ phận ngân hàng công ty. Anh Tiến – cán bộ hỗ trợ tín dụng của bộ phận nhận biết được các chênh lệch, tuy nhiên hiện tại anh ta quá bận để điều chỉnh chúng. Thảo luận với anh Tiến – cán bộ hỗ trợ tín dụng và Trưởng phòng quản lý tín dụng (cô Liên) và cô Lan phòng tài chính về các lưu ý bất thường. Chênh lệch giữa Sổ cái và danh mục cho vay trong tháng 5 và 9 như sau: Tháng 5/ 2004 STT Sổ cái Danh mục cho vay Chênh lệch Nguyên nhân Khoản cho vay bằng VND 1 7,821,500,000 14,321,500,000 (6,500,000,000) Quỹ nhận từ Ngân hàng A - khoản cho vay đồng tài trợ cho công ty Tháp Sao 2 10,230,000,000 (Công ty Unik) 9,440,000,000 790,000,000 3 300,000,000 (Công ty TON) 261,266,662 38,733,338 Nợ quá hạn chờ giải quyết. 4 50,000,000 (Công ty USQ) 0 50,000,000 Nợ quá hạn chờ giải quyết. 5 0 (Công ty TM Ngân Hà) 200,000,000 (200,000,000) Chuyển số dư cho vay sang chi nhánh cấp 2 mới nhưng chưa chuyển hồ sơ tín dụng. Tháng 9/ 2004 STT Sổ cái Danh mục cho vay Chênh lệch Nguyên nhân Khoản cho vay bằng USD 1 $12.000 0 $12.000 Tiền cho vay đồng tài trợ với Ngân hàng B đã nhận nhưng chưa cập nhật vào Sổ cái. 2 $120.750 $122.527 $1.777 Cho vay đồng tài trợ với Ngân hàng A Khoản cho vay bằng VND 3 85 triệu (Công ty Q-Ket) 78 triệu 7 triệu Thanh toán một phần khoản cho vay trả góp (7 triệu) được cập nhật vào danh mục cho vay nhưng không ghi vào Sổ cái. 4 55 triệu (DNTN Miên) 0 55 triệu Thu hồi khoản cho vay ngắn hạn quá hạn chưa được cập nhật vào Sổ cái. 5 215 triệu (Nguyễn Thị Hoa) 0 215 triệu Lượng tiền đã giải ngân vào 27/9/2004 nhưng cán bộ tín dụng quên cho vào danh mục cho vay. Kết luận: Dựa vào công việc đã thực hiện, kiểm toán viên kết luận danh mục cho vay đã được phân tích theo khách hàng, loại hình vay, loại tiền và thời hạn vay, đối chiếu giữa danh mục cho vay và Sổ cái đã được thực hiện hàng tháng. Tuy nhiên, với các chênh lệch, kiểm toán viên yêu cầu Ngân hàng thực hiện các bút toán điều chỉnh. Thông qua các thử nghiệm kiểm soát được thực hiện ở trên, kiểm toán viên đã đưa ra kết luận khẳng định hệ thống kiểm soát nội bộ của Ngân hàng nói chung đã được thực hiện tốt theo như thiết kế và có hiệu quả, đảm bảo các mục tiêu kiểm toán: thu thập đầy đủ bằng chứng có hiệu lực để đảm bảo tính Đầy đủ, Có thật, Tính giá và Trình bày của các khoản cho vay và thu nhập từ lãi cho vay; tính Đầy đủ và Tính giá của các khoản dự phòng nợ cho vay khó đòi không có sai phạm trọng yếu. 2.2- Thực hiện thủ tục phân tích Theo kết quả của kiểm tra thiết kế kiểm soát nội bộ, Ngân hàng không có kiểm soát thích hợp cho thu nhập từ lãi cho vay nên kiểm toán viên thực hiện thủ tục phân tích đối với khoản mục này: Biểu phân tích thu nhập từ lãi cho vay của Ngân hàng GX Trong kỳ, Ngân hàng xử lý lãi thu nội bộ như thu nhập từ cho vay ---> phải thực hiện bút toán điều chỉnh. Từ tháng 1 đến tháng 3, số tiền này khoảng 1 tỷ đồng. Sự tăng lên và cách xử lý với lãi thu nội bộ ảnh hưởng tới tổng thu nhập lãi, do đó ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận. Ngoài việc xử lý sai như trên, không có biến động đáng kể nào về thu nhập từ lãi. Kiểm toán viên tính lợi nhuận chung cho đồng Việt Nam và các loại tiền khác, vì thế mô hình chịu ảnh hưởng của cơ cấu tiền cho vay. Số dư khoản cho vay chủ yếu là Việt Nam đồng (khoảng hơn 80%). Lãi suất cho vay ngắn hạn cho các doanh nghiệp là 0,9% một tháng, lãi suất cho vay trung-dài hạn khá linh hoạt (khoảng 1% một tháng). Nhìn chung, lãi suất chung của Ngân hàng (10% - 12%) cao hơn so với lãi suất chung của ngành (8% - 9%). Lãi thu từ cho vay có xu hướng tăng lên mặc dù số dư trung bình bằng đồng Việt Nam giảm. Đó là do các giao dịch bằng đồng Việt Nam giảm nhưng Ngân hàng vẫn tính lãi suất cao cho khách hàng. Giá trị các khoản cho vay nhỏ nhưng Ngân hàng có số lượng giao dịch lớn. Là một ngân hàng bán lẻ, các khoản cho vay cho doanh nghiệp chỉ chiếm 53% tổng số dư cho vay. 2.3- Thực hiện thử nghiệm cơ bản Nhóm kiểm toán viên của KPMG cũng thực hiện các thử nghiệm cơ bản kiểm tra chi tiết danh mục cho vay của Ngân hàng GX tại thời điểm 31 tháng 12 năm 2004 tại các chi nhánh của Ngân hàng. Các khoản cho vay mua nhà và xe ô tô được đảm bảo bằng chính phương tiện hay nhà được mua, vì vậy không cần thực hiện rà soát tín dụng cho các khoản này. Ngoài ra có 17 khoản cho vay chưa thanh toán vào 31/12/2004. Trong số đó, kiểm toán viên chọn các khách hàng vay theo các tiêu chí sau để kiểm tra: Số dư lớn trên bảng cân đối kế toán (trên 1,2 triệu đôla Mỹ) vào ngày 31/12/2004; Khoản cho vay có/ có thể có vấn đề (theo rà soát tín dụng năm trước); Hạn mức tín dụng mới được cấp trong năm với số dư lớn. Theo các tiêu chí trên, các khách hàng vay được chọn để xem xét là: Tên khách hàng Nơi lưu hồ sơ Số dư cao > 1.2 triệu đôla Mỹ Có vấn đề Khoản cho vay mới Chọn để kiểm tra Big Pelum Hà Nội ỹ ỹ Công ty hoá chất AG Hà Nội ỹ ỹ Công ty Dầu ăn OAK Hà Nội ỹ ỹ Nước hoa Orient Hà Nội ỹ ỹ ỹ MK KEW Hà Nội ỹ ỹ ỹ Chọn mẫu và thực hiện rà soát chi tiết các hồ sơ tín dụng của một số khách hàng. Sau đây là giấy tờ làm việc ghi chép công việc rà soát hồ sơ tín dụng của một khách hàng được chọn: KPMG Khách hàng: Ngân hàng GX Tham chiếu: F502 31/12/2004 Thực hiện: CTVN Rà soát tín dụng cho Công ty MK KEW Ngày: 15/02/2005 Đơn vị: triệu đồng Loại hình vay Giấy nhắc thanh toán Ngày hợp đồng Ngày đáo hạn Số tiền rút Thanh toán Số dư Tài sản thế chấp Hợp đồng số 00107 ngày 14/07/ 2003, hạn mức tín dụng 400 triệu đồng Vốn hoạt động 107.25 08/04/04 08/10/04 50 50 - 1.08 Vốn hoạt động 107.26 20/05/04 20/11/04 95 50 45 1.52 Vốn hoạt động 107.27 29/07/04 29/02/05 80 - 80 1.65 Tổng 220 100 125 4.25 Hợp đồng số 001407 ngày 18/04/ 2003, hạn mức tín dụng 900 triệu đồng Vốn hoạt động 1407.7 11/10/04 11/04/05 70 - 70 120 Vốn hoạt động 1407.8 22/10/04 22/04/05 90 - 90 150 Vốn hoạt động 1407.1 06/07/04 06/01/05 400 - 400 684 Vốn hoạt động 1407.1 16/11/04 16/05/05 105 - 105 200 Vốn hoạt động 1407.2 09/07/04 09/01/05 90 - 90 174 Tổng 705 - 705 1328 Tổng cộng 930 - 830 1.753 Thời hạn giải ngân là 12 tháng. Các khoản cho vay này nhằm tài trợ kế hoạch sản xuất 2003- 2004 và 2004-2005. Mỗi lần rút vốn vay, Công ty phải nộp yêu cầu vay trước 2 ngày. Kỳ hạn trả cho mỗi lần rút vốn không được quá 6 tháng. Tỷ lệ lãi suất được điều chỉnh bởi Ngân hàng GX cho mỗi lần giải ngân nhưng không dưới 0.9%/tháng. Lãi suất thực tế cho khoản vay này là 0.9%/ tháng và được trả hàng tháng. Lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất nêu trên. Nhận xét: Mặc dù khách hàng này có hai khoản vay phải xin gia hạn thêm, nhưng do giá trị tài sản đảm bảo đủ bù đắp, và lãi suất hàng tháng vẫn được thanh toán đầy đủ chứng tỏ độ an toàn về khả năng thu hồi vốn nên Ngân hàng không cho đây là khoản cho vay có rủi ro cao. Kiểm toán viên dựa vào số liệu cung cấp bởi khách hàng lập bảng tổng kết số dư nợ cho vay và dự phòng tại ngày 31 tháng 12 năm 2004 (liên quan đến Bảng cân đối kế toán), thu nhập từ lãi cho vay (liên quan đến Báo cáo kết quả kinh doanh), và các tài khoản ngoại bảng (các tài sản đảm bảo...); đối chiếu số tổng với bảng cân đối phát sinh. Gửi thư xác nhận đối chiếu số dư tới 5 khách hàng có dư nợ lớn nhất. Các thư trả lời đều xác nhận số dư đúng với ghi chép của Ngân hàng. Đối chiếu với các chứng từ liên quan đến các khoản cho vay có vấn đề. Kiểm toán viên nhận thấy hồ sơ về tài sản đảm bảo của các khách hàng vay này đều đạt yêu cầu, trong trường hợp khách hàng không thanh toán được nợ gốc có thể sử dụng các tài sản đảm bảo này làm nguồn thanh toán thay thế. 3. Kết thúc kiểm toán Sau khi thực hiện kiểm toán với Ngân hàng GX, kiểm toán viên nhận thấy còn những yếu điểm nên đã đưa vào Thư quản lý nhằm cải thiện hoạt động đối với quy trình cho vay của Ngân hàng trong tương lai: 1. Hệ thống xếp hạng tín dụng: Cho đến thời điểm cuối năm 2004, Ngân hàng GX vẫn chưa áp dụng hệ thống đánh giá và xếp loại các khoản vay trên phương diện khả năng thu hồi vốn. Việc quản lý chất lượng tín dụng của Ngân hàng sẽ hiệu quả hơn nếu tất cả các khoản vay được xếp hạng một cách có hệ thống. Ngân hàng nên tham khảo các thức đánh giá phân loại lập dự phòng của Ngân hàng Thế giới, kết hợp các quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước để hình thành hệ thống xếp hạng riêng phù hợp cho mình. 2. Đối chiếu sao kê tín dụng với sổ cái kế toán: Ngân hàng thực hiện đối chiếu hàng tháng giữa số dư nợ vay trên Sao kê tín dụng và Sổ cái. Tuy nhiên, việc đối chiếu còn sơ sài nên nhiều chênh lệch đã bị bỏ sót. Ngân hàng chưa tiến hành điều tra, xử lý nên những chênh lệch này vẫn còn tồn tại đến tận thời điểm kiểm toán. Điều này có thể khiến cho các sai sót không được phát hiện kịp thời. Ngân hàng nên ban hành quy chế để những chênh lệch được phát hiện ra trong quá trình đối chiếu được giải quyết kịp thời và triệt để. 3. Phân loại sao kê tín dụng theo ngành nghề kinh doanh: Sao kê tín dụng của Ngân hàng có phân loại theo khách hàng, thời hạn, loại hình đảm bảo… mà không phân loại theo ngành nghề. Thực tế là khả năng trả nợ của khách hàng tùy thuộc một phần vào loại hình kinh doanh. Việc phân tích tín dụng dựa theo loại hình kinh doanh sẽ giúp Ngân hàng quản lý rủi ro tín dụng dễ dàng hơn và đưa ra quyết định liên quan đến các khoản vay một cách chính xác hơn. Ngân hàng nên có quy trình lập báo cáo phân tích tín dụng theo loại hình/ lĩnh vực kinh doanh. 4. Báo cáo tín dụng tổng hợp theo dõi khách hàng có nhiều hạn mức vay hoặc có khoản vay tại nhiều chi nhánh: Ngân hàng không lập báo cáo cho các khoản vay của những khách hàng có nhiều hạn mức hay đồng thời vay ở hai chi nhánh trở lên. Việc quản lý rủi ro tín dụng sẽ khó khăn hơn khi Ngân hàng không nắm đủ các thông tin cần thiết để theo dõi tổng dư nợ vay của từng khách hàng. Ngân hàng nên theo dõi và lập báo cáo định kỳ về tình hình dư nợ của những khách hàng có nhiều hạn mức hoặc vay tại hai hay nhiều chi nhánh. Các báo cáo này cần được gửi đến tất cả các chi nhánh trong toàn quốc để tham khảo. Bất cứ khoản vay mới nào đối với những khách hàng kể trên nên được thông báo với Hội Sở để đảm bảo tổng giá trị khoản vay không vượt quá hạn mức cho phép. Tuy nhiên, theo các quy định hiện hành tại Việt Nam về cho vay mà Ngân hàng phải tuân thủ, Ngân hàng GX không có các sai phạm trọng yếu trong việc trình bày các khoản cho vay, lãi thu từ cho vay và các khoản dự phòng cho khoản nợ khó đòi. Vì vậy, ngoài những lưu ý nêu trên, kiểm toán viên của KPMG vẫn đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần. V – so sánh hoạt động Kiểm toán quy trình cho vay đối với hai ngân hàng do KPMG thực hiện 1. Đối chiếu quá trình kiểm toán quy trình cho vay với hai ngân hàng Trong thực hiện kiểm toán quy trình cho vay đối với hai ngân hàng thuộc hai loại hình khác nhau (một ngân hàng nước ngoài thuộc tập đoàn ngân hàng quốc tế và một ngân hàng cổ phần trong nước với các chi nhánh), KPMG đã thực hiện những bước kiểm toán cụ thể khác nhau sao cho thích hợp nhất đối với mỗi ngân hàng. Với Ngân hàng AT, thuộc một tập đoàn có vị thế trong khu vực, là khách hàng kiểm toán thường xuyên lâu năm của KPMG, công ty đã đạt được những hiểu biết khá đầy đủ và toàn diện về khách hàng. Hệ thống kiểm soát nội bộ của AT được xây dựng hoàn thiện qua nhiều năm, theo nhận xét của KPMG khẳng định về thiết kế và vận hành đều tốt và đáng tin cậy, kiểm toán viên chú trọng thực hiện các thử nghiệm kiểm soát nhằm giảm bớt thời gian và chi phí kiểm toán mà vẫn đạt được những kết luận có giá trị. Các thử nghiệm cơ bản tiến hành không đòi hỏi phải thực hiện với số lượng lớn và quá chi tiết. Với Ngân hàng GX, KPMG thực hiện cuộc kiểm toán lần đầu nên luôn chú ý thu thập thêm những thông tin cần thiết chưa được dự tính trước. Do thời gian GX đi vào hoạt động chưa lâu, mặc dù hệ thống kiểm soát nội bộ đã được chú trọng nhưng vẫn còn những thiếu sót, những điểm chưa được xây dựng đầy đủ. Kiểm toán viên của KPMG thu thập bằng chứng kiểm toán hợp lý bằng cách thực hiện các thủ tục kiểm tra chi tiết với những khâu mà kiểm soát nội bộ không có hoặc hoạt động không hiệu lực. Cụ thể như sau: Hệ thống xếp hạng tín dụng của ngân hàng chưa hoàn chỉnh nên trong rà soát tín dụng, KPMG chú ý hơn đến vấn đề đánh giá khách hàng vay của GX trên phương diện khả năng thu hồi vốn. Việc đối chiếu hàng tháng giữa số dư nợ vay trên Sao kê tín dụng và Sổ cái thực hiện còn sơ sài, nhiều chênh lệch bị bỏ sót. Kiểm toán viên KPMG phải thực hiện đối chiếu lại kỹ lưỡng và phỏng vấn các nhân viên Ngân hàng về các chênh lệch phát hiện được, tìm hiểu bản chất để đưa ra bút toán điều chỉnh thích hợp. Tổng hạn mức tối đa cho một khách hàng/nhóm khách hàng vay ở các chi nhánh khác nhau chưa được Ngân hàng quản lý. Vì vậy, các kiểm toán viên đã phải lập một báo cáo hợp nhất về các khoản cho vay theo khách hàng, nhằm đảm bảo số dư cho vay của mỗi khách hàng đối với toàn ngân hàng không vượt quá hạn mức quy định. Các điểm còn yếu trong hệ thống kiểm soát của Ngân hàng GX đều được KPMG nêu ra trong thư quản lý và đề xuất các khuyến nghị nhằm giúp cho Ngân hàng đạt được mô hình kiểm soát tốt hơn trong tương lai, đảm bảo an toàn hoạt động cho vay, tăng cường khả năng sinh lời. 2. Tổng kết chung quá trình kiểm toán quy trình cho vay trong các ngân hàng thương mại do KPMG thực hiện Mặc dù có một số bước kiểm toán cụ thể khác nhau với từng ngân hàng, phương pháp tiếp cận kiểm toán chung của KPMG vẫn là kiểm toán dựa vào rủi ro, kiểm toán một cách hệ thống theo quy trình hoạt động. Kiểm toán viên thực hiện các thử nghiệm để thu thập bằng chứng kiểm toán nhằm đảm bảo rằng hệ thống kiểm soát nội bộ được dựa vào để kiểm toán là một hệ thống kiểm soát nội bộ có hiệu quả. Tức là kiểm toán viên phải xem xét ngân hàng có đưa ra các quy định về cơ chế phòng ngừa rủi ro và chúng có hoạt động tốt hay không, cơ chế hoạt động có thực hiện các nguyên tắc cơ bản của kiểm soát nội bộ như nguyên tắc bất kiêm nhiệm, nguyên tắc phân tách chức năng giữa các bộ phận, không có sự chồng chéo trong công việc quyền lợi, có quy định rõ về thẩm quyền. Đặc biệt, quy trình cho vay với đặc trưng số lượng giao dịch lớn và có nhiều rủi ro, cùng với tỷ trọng lớn trên báo cáo tài chính, càng cần được quan tâm hơn về các biện pháp kiểm soát nội bộ với quy trình. Sau đây là sơ đồ về trình tự các bước kiểm toán quy trình cho vay trong kiểm toán báo cáo tài chính các ngân hàng thương mại do KPMG thực hiện: Kết thúc kiểm toán chương 3: bài học kinh nghiệm và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động kiểm toán quy trình cho vay tại công ty tnhh kpmg I - Nhận xét chung và những Bài học kinh nghiệm từ quá trình kiểm toán quy trình cho vay do KPMG thực hiện 1. Các nhận xét chung Hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu, đem lại nguồn thu chính cho các Ngân hàng thương mại, đồng thời lại là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất. Do đó, công tác kiểm toán hoạt động cho vay có một vai trò vô cùng quan trọng. Hoạt động kiểm toán quy trình cho vay góp phần: - Cung cấp cho những người quan tâm những thông tin trung thực về thực trạng hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, giúp cho các nhà quản lý của Ngân hàng có những đánh giá chính xác và có những điều chỉnh kịp thời để điều tiết hoạt động cho vay; - Đề xuất các biện pháp sửa đổi và cải tiến công tác quản lý hoạt động cho vay trong các ngân hàng thương mại; - Qua kiểm toán, kiểm toán viên đưa ra những nhận xét, đánh giá, xác nhận về tính đúng đắn của các số liệu báo cáo nói chung, số liệu về hoạt động cho vay nói riêng, củng cố lòng tin và đảm bảo lợi ích cho các bên liên quan. KPMG là một trong bốn công ty kiểm toán về dịch vụ kiểm toán và tư vấn tài chính hàng đầu thế giới hiện đang có mặt tại Việt Nam, với thế mạnh nổi bật về kiểm toán ngân hàng. Hoạt động ở Việt Nam từ năm 1994, công ty kiểm toán quốc tế KPMG đã góp phần vào sự nghiệp phát triển ngành kiểm toán. Phương pháp kiểm toán của KPMG đã được xây dựng thành hệ thống thống nhất trên toàn cầu, liên tục phát triển và được cập nhật, cải tiến phù hợp với những thay đổi của nền kinh tế thế giới. Thực tế hoạt động của KPMG Việt Nam cho thấy phương pháp kiểm toán của KPMG trong lĩnh vực ngân hàng tài chính luôn được hoàn thiện theo thời gian. Chính điều này đã đưa KPMG trở thành công ty hàng đầu trong việc cung cấp các dịch vụ chuyên môn cho các tổ chức tài chính tại Việt Nam. Lợi thế của phương pháp kiểm toán này là: Tập trung vào các quy trình chủ chốt ảnh hưởng đến hoạt động của Ngân hàng, cùng với việc tập hợp các ý kiến phản hồi về các rủi ro, các yếu điểm trong hệ thống kiểm soát và các cơ hội hoàn thiện hoạt động của Ngân hàng; Các vấn đề quan trọng được phản ánh một cách chủ động và kịp thời tới các cấp lãnh đạo, giúp ban lãnh đạo các ngân hàng thông qua kiểm toán đưa hoạt động kinh doanh đi đúng hướng; Hiệu quả tối đa và giảm thiểu chi phí nhờ biện pháp kiểm toán dựa vào rủi ro của KPMG; và Đáp ứng kịp thời tất cả các yêu cầu về thời hạn báo cáo. 2. Bài học kinh nghiệm rút ra từ kiểm toán quy trình cho vay các ngân hàng thương mại do KPMG Việt Nam thực hiện Phương pháp kiểm toán báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại do KPMG thực hiện có những thế mạnh vượt trội, trong đó kiểm toán quy trình cho vay chiếm một vị trí quan trọng. Kiểm toán quy trình cho vay do KPMG thực hiện có những điểm đáng học tập như: 2.1- Phương pháp kiểm toán dựa vào rủi ro Phương pháp kiểm toán của KPMG rất chú trọng đến việc đánh giá rủi ro, và các công việc kiểm toán cũng dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro để thiết lập và thực hiện (risk-based). Kiểm toán nói chung đều nhằm mục đích hạn chế, ngăn ngừa các rủi ro trong hoạt động của đơn vị. Để tránh những thất thoát có thể đe doạ tới sự tồn tại của ngân hàng trong tương lai, yêu cầu đặt ra cho kiểm toán là phải định hướng vào rủi ro đối với tổ chức cơ cấu, quy trình hoạt động, việc quản lý và điều tiết rủi ro cũng như cơ chế kiểm tra nội bộ của tất cả các quy trình hoạt động và kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là quy trình cho vay. Chính vì vậy, việc phân tích rủi ro là khâu đầu tiên trong quá trình kiểm toán ngân hàng thương mại của KPMG với mục đích không bỏ sót lĩnh vực nhiều rủi ro khi lên kế hoạch kiểm toán. KPMG đánh giá rủi ro theo 2 hướng: rủi ro chiến lược kinh doanh và rủi ro các lớp nghiệp vụ trọng yếu. Rủi ro chiến lược kinh doanh: liên quan đến các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tới Ngân hàng và các yếu tố nội lực của Ngân hàng. Các yếu tố bên ngoài như chính trị, kinh tế, xã hội, công nghệ…; các yếu tố nội lực của ngân hàng gồm các chiến lược và mục tiêu quản lý, các chỉ tiêu đánh giá hoạt động và rủi ro, môi trường kiểm soát bên trong ngân hàng. KPMG tập trung vào tất cả các vấn đề trọng yếu có liên quan. Chẳng hạn như lạm phát quốc gia, các cuộc khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng hệ thống ngân hàng có thể dẫn đến rủi ro các ngân hàng không thu hồi được nợ và khả năng phải xóa sổ các khoản nợ là lớn. Hoặc bước tiến của công nghệ thông tin làm thay đổi về căn bản sản phẩm của ngân hàng do đòi hỏi của hội nhập quốc tế có thể ảnh hưởng đến quy trình nghiệp vụ của các nhân viên, nếu trình độ của nhân viên không đáp ứng kịp có thể kéo theo những sai phạm trọng yếu trên báo cáo tài chính... Rủi ro các lớp nghiệp vụ trọng yếu: KPMG xác định và kiểm tra các quy trình nghiệp vụ trọng yếu của ngân hàng; đánh giá các rủi ro tiềm ẩn trong các quy trình này và các kiểm soát hiện có của ngân hàng để quản lý các rủi ro đó. Việc phân tích rủi ro đặc biệt quan trọng trong kiểm toán quy trình cho vay của ngân hàng thương mại vì rủi ro của quy trình này là rất lớn. Khi phân tích rủi ro, KPMG tiến hành phân tích theo hệ thống một cách tổng thể, thống nhất theo một tiêu chuẩn chung hướng dẫn kiểm toán viên thu thập được đầy đủ thông tin để ra những đánh giá và nhận định đúng đắn nhất. Những đối tượng có khả năng rủi ro nhiều sẽ được lựa chọn đưa vào chương trình kiểm toán trước và những đối tượng có rủi ro thấp hơn sẽ được thực hiện sau. Với quy trình cho vay của ngân hàng, kiểm toán viên quan tâm đến các lớp nghiệp vụ về chi phát tiền vay, thu hồi nợ vay, thu nhập từ lãi cho vay. Việc đánh giá rủi ro tiềm tàng trong các nghiệp vụ cũng như rủi ro kiểm soát của các lớp nghiệp vụ này ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu thập các bằng chứng liên quan đến cơ sở dẫn liệu của các khoản mục trong quy trình cho vay. Việc phân tích rủi ro còn nhằm giúp cho đội kiểm toán xác định được phương pháp kiểm toán phù hợp. Nếu đánh giá mức độ rủi ro thấp, phương pháp kiểm toán KPMG có thể áp dụng là kiểm tra tiếp cận dựa trên hệ thống kiểm soát nội bộ, giảm bớt phương pháp kiểm tra chi tiết và sẽ có quyết định ngược lại nếu đánh giá mức độ rủi ro cao. Để hoạt động kiểm toán định hướng vào rủi ro thì đòi hỏi mỗi kiểm toán viên của KPMG phải nhận biết được các loại hình rủi ro mà ngân hàng hàng phải đối phó. Tìm hiểu rủi ro được KPMG thực hiện ngay từ đầu khi tìm hiểu khách hàng; trong công tác lập kế hoạch kiểm toán cũng như trong quá trình thực hiện kiểm toán phải luôn chú ý tới những rủi ro có thể xảy ra để đảm bảo hiệu quả cho cuộc kiểm toán và tiết kiệm chi phí. Đồng thời kiểm toán viên có thể phát hiện kịp thời những vấn đề mới để có những điều chỉnh thích hợp trong việc thực hiện các thủ tục kiểm toán. Tuy nhiên, việc kiểm toán dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro của khách hàng, không bỏ sót bất cứ một thủ tục nào cũng khiến cho chi phí kiểm toán còn cao so với mặt bằng chung trên thị trường Việt Nam. 2.2- Phần mềm rà soát tín dụng cho kiểm toán viên Phương pháp rà soát danh mục cho vay của KPMG rất có hiệu quả, giúp kiểm toán viên thu thập đầy đủ bằng chứng phục vụ cho mục tiêu kiểm toán, đồng thời giúp các nhà quản lý ngân hàng trong việc hoàn thiện quản lý hoạt động cho vay. KPMG không chỉ xác minh các báo cáo tài chính và bày tỏ ý kiến mà còn đưa ra những kiến nghị như một công cụ giúp ban lãnh đạo đánh giá thực trạng tài chính của ngân hàng, đối chiếu với các mục tiêu cụ thể. Qua đó, KPMG cũng chỉ ra các nguyên nhân hạn chế và giải pháp khắc phục giúp cho ngân hàng đạt tới một trạng thái tốt hơn. Phương pháp này cung cấp cho các kiểm toán viên một phần mềm đánh giá hồ sơ cho vay của các khách hàng được lập trình sẵn (File Promaker). Đối với quy trình cho vay trong các ngân hàng thương mại, việc thực hiện rà soát các khoản cho vay đòi hỏi một trình độ cao và kinh nghiệm ở kiểm toán viên. Do đó, những nhận định của kiểm toán viên trong việc đánh giá và xếp hạng chất lượng của khoản cho vay theo các mức đạt, lưu ý đặc biệt, kém chất lượng, khó đòi hay thua lỗ (mất khả năng thu hồi) phải được đem ra thảo luận trong nhóm kiểm toán kỹ lưỡng trước khi có quyết định cuối cùng. Điều này một mặt sẽ đảm bảo chất lượng của cuộc kiểm toán, mặt khác góp phần nâng cao trình độ cho kiểm toán viên trong quá trình thảo luận thực tế. 2.3- Phối hợp giữa các dạng kiểm toán KPMG chú ý đến cả 2 dạng kiểm toán phòng ngừa và kiểm toán phát hiện vì chúng có tác dụng bổ trợ cho nhau. Kiểm toán phòng ngừa hướng về việc khuyến cáo các rủi ro có thể dẫn tới gian lận sai sót trong tương lai, trong khi kiểm toán phát hiện chỉ nêu lên những gian lận sai sót đã xảy ra. Trong thời gian trước mắt, khi mà ý thức chấp hành các quy định nội bộ, các quy định pháp luật ở cán bộ viên chức chưa nghiêm, kiểm toán ngăn ngừa rất quan trọng. Làm tốt loại kiểm toán này, KPMG có thể đưa ra kiến nghị cho ban lãnh đạo ngân hàng có xử phạt nghiêm minh giúp hạn chế các sai sót, gian lận trong tương lai. 2.4- Kiểm soát chặt chẽ chất lượng kiểm toán Về việc đảm bảo chất lượng kiểm toán thể hiện qua quy trình kiểm toán, KPMG đặt các cấp Kiểm toán viên để tạo cơ hội cho kiểm toán viên phấn đấu thăng tiến, do vậy mà có tác dụng nâng cao chất lượng kiểm toán; nêu rõ tiêu chuẩn từng cấp cho kiểm toán viên cố gắng trau dồi năng lực. Trách nhiệm, quyền hạn của từng cấp kiểm toán viên được xác định rõ. Giao nhiệm vụ cho một Kiểm toán viên cao cấp giám sát, có một số kiểm toán viên cấp thấp hơn giúp việc để thực hiện kiểm toán một nội dung nào đó. Công việc thực hiện của các kiểm toán viên luôn được giám sát chặt chẽ bởi trưởng nhóm kiểm toán và theo sát kế hoạch kiểm toán đã được lập. Tất cả các vấn đề nẩy sinh trong quá trình kiểm toán đều được thông báo tới cả nhóm kiểm toán viên. Do thực hiện kiểm toán theo chu trình nên các phần hành kiểm toán được liên kết chặt chẽ với nhau và được thường xuyên kiểm tra đối chiếu với nhau. Toàn bộ kết quả kiểm toán của cả nhóm sau đó lại được rà soát bởi Trưởng phòng kiểm toán và cuối cùng là Phó Giám đốc Công ty để hoàn thiện hồ sơ và đưa ra ý kiến kiểm toán cuối cùng. Việc rà soát qua nhiều lớp như vậy sẽ giảm thiểu tối đa rủi ro phát hiện và đảm bảo chất lượng kiểm toán. 2.5- Tiêu chuẩn kiểm toán viên KPMG rất chú trọng việc tuân thủ về tính độc lập của kiểm toán viên. Đối với các ngân hàng có mối quan hệ gắn bó với kiểm toán viên (về quan hệ huyết thống, về lợi ích kinh tế) thì kiểm toán viên đó sẽ không được bố trí vào đội kiểm toán cho khách hàng này. Như vậy, KPMG đã giảm thiểu khả năng các kiểm toán viên có thể cố tình che giấu các gian lận sai sót phát hiện được về tình hình tài chính của khách hàng hay cố ý đưa ra ý kiến thiên lệch về báo cáo tài chính được kiểm toán. Về năng lực chuyên môn, KPMG bố trí trưởng nhóm phải là người có kinh nghiệm và hiểu biết vững vàng, đồng thời cố gắng duy trì nhân sự của nhóm kiểm toán đối với một khách hàng cụ thể ổn định qua các năm. Người làm công tác kiểm toán luôn phải “đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu trong mọi trường hợp”. Họ vừa là người phải có đầy đủ kiến thức chuyên môn, vừa là người trung thực, khách quan và độc lập trong hoạt động nghiệp vụ. Vì vậy, KPMG luôn có sự lựa chọn kỹ càng đội ngũ kiểm toán viên. II - Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện kiểm toán quy trình cho vay tại công ty tnhh kpmg 1. Sự cần thiết phải đổi mới, hoàn thiện các phương pháp thủ tục kiểm toán Kiểm toán độc lập quy trình cho vay là một nhu cầu tất yếu: Nhân viên tác nghiệp có thể do vô ý hoặc lãng quên nên không tuân thủ các quy trình thủ tục hoặc trở nên cẩu thả trong quá trình thao tác nghiệp vụ. Cần có người đứng bên ngoài quy trình tiến hành quan sát, kiểm tra và đánh giá việc thực hiện các nghiệp vụ giao dịch, tác nghiệp của họ; phát hiện và ngăn ngừa sự gian lận, cố ý sai phạm xảy ra. Nền kinh tế toàn cầu luôn luôn biến động, trong đó môi trường kinh doanh, yêu cầu tuân thủ luật pháp quốc gia và quốc tế ngày càng trở nên phức tạp hơn. Hiện nay chúng ta đã tham gia một số các tổ chức lớn trong khu vực như ASEAN, ASEM, APEC… với tư cách thành viên chính thức, và mục tiêu trước mắt là gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO vào năm 2005. Để đạt mục tiêu đó, một mặt nền kinh tế của nước ta phải đổi mới nhanh chóng nhằm đáp ứng những điều kiện đặt ra, mặt khác cần phải đổi mới các chính sách, các quy định pháp luật sao cho hoà hợp chung với các quy ước, các chuẩn mực quốc tế. Hoạt động cho vay cũng chịu những ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp từ các yếu tố này. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng và sự hội nhập quốc tế, rủi ro trong quy trình cho vay cũng có tính đa dạng và phức tạp hơn, nhất là khi các ngân hàng thương mại Việt Nam áp dụng kinh doanh các sản phẩm mới đang được thực hiện tại các ngân hàng trên thế giới. Để bắt kịp những thay đổi về kinh doanh, về thể thức kế toán và ứng dụng của công nghệ thông tin, phương pháp kiểm toán cũng cần phải luôn được hoàn thiện, đổi mới. Công ty kiểm toán KPMG là một công ty có danh tiếng trên toàn cầu với một phương pháp kiểm toán chặt chẽ và đáng tin cậy, đặc biệt với lĩnh vực kiểm toán ngân hàng. Tuy nhiên, quá trình hoạt động của KPMG ở Việt Nam chưa lâu, nền kinh tế Việt Nam lại có nhiều đặc trưng riêng của thời kỳ quá độ nên cũng đòi hỏi một phương pháp kiểm toán riêng thích hợp. Hiện nay, với chính sách mở cửa của Việt Nam gia nhập vào khối AFTA năm 2001-2005, với sự phát triển vượt bậc về số lượng và chất lượng phục vụ của các công ty kiểm toán Việt Nam, để đảm bảo giữ vững uy tín của công ty hàng đầu thế giới với các khách hàng và đứng vững trong thị trường cạnh tranh khốc liệt ở Việt Nam, Ban Giám Đốc của KPMG cần quan tâm hơn nữa đến việc hoàn thiện tổ chức kiểm toán quy trình cho vay. 2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện kiểm toán quy trình cho vay tại công ty TNHH KPMG Qua nghiên cứu, tìm hiểu lý luận và thực tiễn kiểm toán quy trình cho vay tại Công ty KPMG, em xin đưa ra một số ý kiến nhằm góp phần hoàn thiện tổ chức kiểm toán quy trình này như sau: 2.1- Về công tác lập kế hoạch kiểm toán KPMG cũng gặp phải một số khó khăn do đặc trưng mùa vụ của công việc phải kiểm toán cho các ngân hàng khác nhau vào cùng một thời điểm. Mặc dù các trưởng phòng kiểm toán đã cố gắng sắp xếp bố trí nhân lực trên kế hoạch công tác và ước tính thời gian kiểm toán cần thiết tại đơn vị khách hàng, song thực tế có thể nảy sinh những vấn đề ngoài dự kiến khiến cho công việc cần thực hiện tăng lên. Khi đó, để có thêm nhân sự cho đội kiểm toán là rất khó khăn, vì các kiểm toán viên và trợ lý kiểm toán khác của công ty cũng đang tham gia kiểm toán một khách hàng khác. Công ty có thể tuyển thêm nhân viên kiểm toán cho phù hợp với quy mô số lượng khách hàng, cũng như tăng cường đào tạo để nâng cao trình độ của mỗi kiểm toán viên, từ đó giảm bớt áp lực trong mỗi cuộc kiểm toán. Điều này cũng phù hợp với chiến lược chung hiện tại của công ty. 2.2- Về việc tiến hành chọn mẫu Trong kiểm toán, KPMG có thể áp dụng chọn các khoản mục từ một tổng thể, chọn các khoản mục cá biệt, hay chọn mẫu đại diện (theo kế hoạch chọn mẫu KPMG được hướng dẫn trong KAM). Tuy nhiên trên thực tế, mẫu được chọn phần lớn dựa vào nhận định nghề nghiệp và kinh nghiệm của kiểm toán viên, thường đều là các khoản cho vay có giá trị lớn và hai hay ba khoản như vậy đã chiếm một tỷ trọng khá cao trong tổng thể. Như vậy việc chọn mẫu đã bỏ qua những khoản khác có giá trị trung bình chiếm phần lớn trong tổng thể không được kiểm tra. Điều này có thể gây ra bỏ sót những sai phạm tiềm ẩn trong các khoản bị bỏ qua này. Kiểm toán viên nên áp dụng nhiều tiêu chuẩn chọn mẫu hơn ngoài tiêu thức giá trị của các phần tử trong tổng thể. Việc này có thể thực hiện thông qua phân tầng phân tổ, đảm bảo mẫu chọn mang tính đại diện cao. Các khoản cho vay được chọn để kiểm tra ngoài tiêu chí có giá trị lớn, có thể là khoản cho vay mà kiểm toán viên nhận thấy có vấn đề, hoặc mới được cấp trong năm, các khoản cho vay được gia hạn nhiều lần… 2.3- Về các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán Để thực hiện kiểm toán hoạt động cho vay, kiểm toán viên có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau như: + Xem xét, phân tích tài liệu hiện có (hồ sơ tín dụng, danh mục cho vay, tài liệu của trung tâm thông tin tín dụng CIC…), qua đó có thể đánh giá những rủi ro tiềm ẩn. + Phỏng vấn cán bộ liên quan đến quy trình để biết cán bộ đã nắm quy trình, đã thực hiện quy trình đến đâu. Xác định chỗ nào có thể phát sinh rủi ro do cán bộ không hiểu, không nắm vững những quy định, quy tắc của ngân hàng, cán bộ có đề xuất gì để xử lý rủi ro. Phỏng vấn cán bộ để biết được những rủi ro mà cán bộ gặp phải là thấp hay cao, từ đó giảm bớt hay cần thêm bước kiểm toán nào khác. + Đánh giá thông qua thị sát: Kiểm toán viên phải tự đi xem xét và đánh giá, nhìn nhận xem trên thực tế các nhân viên ngân hàng thực hiện hoạt động cho vay như thế nào. + Bản danh mục câu hỏi: Danh mục câu hỏi về hệ thống giám sát tín dụng và danh mục câu hỏi để kiểm toán từng trường hợp riêng lẻ. Thông qua đó, có thể đánh giá hệ thống cơ chế kiểm tra nội bộ cài đặt trong quy trình cho vay được thực hiện như thế nào. + Vẽ sơ đồ hoạt động để biết công đoạn nào cán bộ phải thực hiện thao tác gì. Thông qua vẽ sơ đồ để phát hiện điểm mạnh, điểm yếu trong quy trình. + Các chương trình vi tính: Có thể áp dụng các chương trình phần mềm vi tính để hỗ trợ cho công tác kiểm tra. Phương pháp kiểm toán của KPMG đã bao quát các công cụ như phân tích tài liệu, phỏng vấn cán bộ, thị sát, sử dụng sự hỗ trợ của các chương trình vi tính. Tuy nhiên, KPMG chưa tận dụng lợi thế của Bảng danh mục câu hỏi và Sơ đồ hoạt động của quy trình để khai thác các bằng chứng cần thiết phục vụ cho việc đưa ra ý kiến thích hợp cho quy trình cho vay. Đây là 2 công cụ hữu ích mà KPMG cũng nên sử dụng trong kiểm toán ngân hàng nói chung và kiểm toán quy trình cho vay nói riêng. Qua đó, kiểm toán viên có thể đánh giá cơ chế giám sát nội bộ trong ngân hàng hoạt động có hiệu quả không, phân tích những điểm mạnh, điểm yếu của các quy định và thực hiện những quy định đó. Thông qua đó, xác định những rủi ro phát sinh mà chưa được phát hiện. 2.4- Về thủ tục phân tích với quy trình cho vay Hiện nay, kiểm toán viên chủ yếu tiến hành phân tích ngang so sánh giữa năm hiện tại với năm trước, việc phân tích dọc chỉ được thực hiện về khả năng sinh lời của thu nhập lãi từ cho vay. Kiểm toán viên nên sử dụng thêm các thủ tục phân tích để so sánh các kết quả từ hoạt động cho vay với các ngân hàng có cùng quy mô, các ngân hàng thuộc cùng loại hình, cũng như so sánh với các định hướng chung của ngành để có được cái nhìn toàn diện hơn về toàn bộ kết quả hoạt động của quy trình. Các so sánh này không chỉ gồm các chỉ tiêu tài chính (như tỷ lệ lãi thu từ cho vay trên tổng thu nhập của ngân hàng, lỗ do phải xoá sổ các khoản nợ không thu hồi được) mà còn gồm các chỉ tiêu phi tài chính (như cơ cấu khách hàng, phương pháp áp dụng để thu hút và duy trì các khách hàng vay của mỗi ngân hàng…). Việc so sánh với các ngân hàng khác trong quá trình thực hiện kiểm toán quy trình cho vay trong kiểm toán Báo cáo tài chính trong các Ngân hàng thương mại có thể giúp kiểm toán viên đánh giá được vị thế trên thị trường của ngân hàng này là ở mức độ nào? Có hợp lý hay không? Việc thực hiện thêm các thủ tục phân tích này vừa không tốn nhiều thời gian đối với một công ty có nhiều khách hàng trong lĩnh vực ngân hàng như KPMG, qua trao đổi với các kiểm toán viên thực hiện kiểm toán khách hàng khác, lại vừa mang lại hiệu quả cho những nhận định của kiểm toán viên. 2.5- Về đào tạo kỹ năng sử dụng Excel Thứ năm là công tác đào tạo kiểm toán viên. Tại KPMG, công tác này vốn rất được chú trọng, tiến hành trên các lĩnh vực: Kiến thức chung về nghiệp vụ ngân hàng, kiến thức về pháp luật, kiến thức về kinh tế, kiến thức về chuyên môn về lĩnh vực kiểm toán. Ngoài ra, yêu cầu đối với mỗi kiểm toán viên còn phải nắm vững các kiến thức về tin học, ngoại ngữ, kỹ năng kiểm toán, kỹ năng giao tiếp… được chứng minh qua thi tuyển phỏng vấn và được kiểm toán viên tự trau dồi thêm. Tuy nhiên, riêng về mảng tin học Excel, một công cụ quen thuộc và lại hỗ trợ rất nhiều cho công việc kiểm toán, nên được KPMG tổ chức một lớp học ngắn về các kỹ năng thường dùng trong kiểm toán. Với các kỹ năng này, khối lượng công việc kiểm toán có thể giảm đi đáng kể, góp phần tiết kiệm thời gian và chi phí, nâng cao hiệu quả công việc của mỗi kiểm toán viên. Kết luận Trong bối cảnh nền kinh tế tài chính vận động hướng tới mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp tiên tiến hiện đại vào năm 2020, các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam đang ngày càng tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh, đổi mới hoàn thiện các cơ chế nghiệp vụ của mình. Tại các Ngân hàng thương mại, hoạt động cho vay đem lại nguồn thu nhập chính, đồng thời cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Những năm qua, hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại còn chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn, nợ quá hạn, nợ khó thu hồi và không có khả năng thu hồi vẫn chiếm một số lượng đáng kể làm ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng. Kiểm toán quy trình cho vay vì vậy có ý nghĩa rất cần thiết nhằm hạn chế rủi ro, ngăn chặn, phát hiện kịp thời và cảnh báo các sai phạm trong quy trình, đảm bảo an toàn hoạt động cho vay của các ngân hàng, góp phần thực hiện mục tiêu sinh lời của ngân hàng. Để đáp ứng nhu cầu nêu trên, nâng cao chất lượng kiểm toán quy trình cho vay là một yêu cầu bức xúc đặt ra cho các công ty kiểm toán, góp phần đảm bảo sự ổn định an toàn và vững mạnh của toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam. Hoạt động của các công ty kiểm toán ở nước ta đã ra đời và phát triển trong hơn 10 năm, một thời gian rất ngắn so với lịch sử lâu đời của kiểm toán trên thế giới. Kiểm toán đối với các ngân hàng thương mại ở nước ta lại càng mới hơn. Trong số các công ty thực hiện kiểm toán đối với các Ngân hàng thương mại, có thể nói KPMG luôn giữ vai trò đứng đầu về uy tín và chất lượng và đã có những đóng góp đáng kể vào nền kinh tế Việt Nam. Chuyên đề thực tập nêu lên cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động cho vay trong các Ngân hàng thương mại và hoạt động kiểm toán quy trình cho vay do KPMG thực hiện. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cũng như những kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động kiểm toán quy trình cho vay nói riêng và quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính của các Ngân hàng thương mại nói chung. Do giới hạn về thời gian, lượng kiến thức nghiên cứu còn chưa sâu nên bài viết còn nhiều hạn chế thiếu sót. Vì vậy, em rất mong có được ý kiến của các thầy cô, sự đóng góp của các bạn và những người quan tâm tới kiểm toán quy trình cho vay trong ngân hàng thương mại để đưa ra những nhận định sâu sắc hơn. Em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới thạc sĩ Nguyễn Hồng Thuý và các anh chị kiểm toán viên công ty KPMG đã trực tiếp hướng dẫn, góp ý và giúp đỡ em trong quá trình thực tập./. Hà Nội, ngày 27 tháng 05 năm 2005 Sinh viên Phùng Thị Hương Giang Danh mục tài liệu tham khảo STT Tên tài liệu Tên tác giả NXB/Năm XB 1 Kiểm toán Alvin A. Arens James K.Loebbecke Thống kê/2000 2 Lý thuyết kiểm toán GS.TS. Nguyễn Quang Quynh Tài chính/1998 3 Kiểm toán tài chính GS.TS. Nguyễn Quang Quynh Tài chính/2001 4 Kiểm toán Ngân hàng ThS. Lâm Thị Hồng Hoa ThS. Nguyễn Thị Loan Thống kê/2002 5 Kế toán Ngân hàng NGƯT. Vũ Thiện Thập Thống kê/2002 6 Quản trị Ngân hàng thương mại Peter S.Rose Tài chính/2001 7 Các văn bản pháp luật hiện hành về Ngân hàng Thống kê/2002 8 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (quyển I,II,III,IV,V) Bộ Tài chính Tài chính 2001/2003/2004 9 Hệ thống chuẩn mực Quốc tế về kiểm toán Bộ Tài chính Tài chính/1998 10 Sổ tay kiểm toán EURO - TAPVIET Bộ Tài chính Tài chính/1998 11 Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại David Cox Chính trị quốc gia 1997 12 Bank Practice Guide Tài liệu hướng dẫn thực hành kiểm toán ngân hàng của KPMG

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36257.doc
Tài liệu liên quan