Luận văn Hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức Nhờ thu và Chuyển tiền tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I 2 PHƯƠNG THỨC NHỜ THU VÀ PHƯƠNG THỨC CHUYỂN TIỀN TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 2 I. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ 2 1.Vài nét về Ngân hàng thương mại 2 2.Hoạt động thanh toán quốc tế của NHTM 5 II. PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN NHỜ THU VÀ PHƯƠNG THỨC CHUYỂN TIỀN TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 13 1. Phương thức Chuyển tiền 13 2. Phương thức thanh toán Nhờ thu ( Collection of payment ) 15 CHƯƠNG II 20 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ BẰNG PHƯƠNG THỨC NHỜ THU VÀ PHƯƠNG THỨC CHUYỂN TIỀN CỦA SỞ GIAO DỊCH – NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 20 I. VÀI NÉT VỀ SỞ GIAO DỊCH I- NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM ( SGD I- NHĐT&PTVN) 20 1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của SGD1- NHĐT&PTVN 20 2. Tình hình hoạt động của SGD I trong năm 22 3.Khái quát về tình hình hoạt động Thanh toán Quốc Tế của SGD I-NHĐT&PTVN 24 II.THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHỜ THU VÀ CHUYỂN TIỀN CỦA SGD I- NHĐT&PTVN 26 1. Thực trạng về phương thức Nhờ thu 26 2. Thực trạng về phương thức Chuyển tiền 33 III. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN PHƯƠNG THỨC NHỜ THU VÀ CHUYỂN TIỀN TẠI SGD I – NHĐT&PTVN TRONG THỜI GIAN QUA 38 1. Những kết quả đạt được 38 2. Những mặt hạn chế còn tồn tại trong hoạt động thanh toán bằng phương thức Nhờ thu và Chuyển tiền của SGD I – NHĐT&PTVN trong thời gian qua 41 CHƯƠNG III 44 CÁC GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ BẰNG PHƯƠNG THỨC NHỜ THU VÀ PHƯƠNG THỨC CHUYỂN TIỀN TẠI SGD I – NHĐT&PTVN 44 I. TRIỂN VỌNG VÀ YÊU CẦU CỦA HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI SGD I – NHĐT&PTVN TRONG THỜI GIAN TỚI 44 1. Triển vọng hoạt động thanh toán quốc tế của SGD I – NHĐT&PTVN trong thời gian tới 44 2. Yêu cầu đối với phương thức Nhờ thu và Chuyển tiền của SGD I – NHĐT&PTVN trong thời gian tới 45 II. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THANH TOÁN QUỐC TẾ BẰNG PHƯƠNG THỨC NHỜ THU VÀ PHƯƠNG THỨC CHUYỂN TIỀN TRONG THỜI GIAN TỚI 46 1. Hiện đại hoá Công nghệ Ngân hàng 46 2. Giải pháp an toàn trong hoạt động Thanh toán Quốc tế 47 3. Phát triển nguồn nhân lực 48 4. Một số biện pháp khác 49 5. Các kiến nghị đối với Nhà nước 53 6. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà Nước 55 7. Kiến nghị đối với khách hàng 56 KẾT LUẬN 58

doc60 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1913 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức Nhờ thu và Chuyển tiền tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ố món Doanh số (1000USD) Số món Doanh số (1000USD) Nhờ thu XK 47 205 100 1,200 170 13,000 1. Kèm chứng từ không theo L/C 40 860 125 12,100 2. Nhờ thu trơn (Sec, hối phiếu) 60 340 45 900 Nguồn: Báo cáo thường niên của SGD I – NHĐT&PTVN trong năm 2000, 2001, 2002 So với hoạt động thanh toán bằng phương thức Nhờ thu nói chung thì hoạt động thanh toán xuất khẩu áp dụng phương thức Nhờ thu có sự biến động tương đối mạnh. Tuy nhiên sự biến động này mang tính tích cực.Trong năm 2000, số món thanh toán chỉ ở mức 47 món, đạt doanh thu là 205,000 USD thì đến năm 2001, con số đó đã lên đến 100 món và 1,200,000USD. Như vậy là đã tăng 53 món, doanh thu tăng 3,8 lần và là 995,000USD về số tuyệt đối. Điều đó cho thấy rằng hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam đã có những tiến bộ rất hiệu quả . Và đến năm 2002, con số đó còn ngoạn mục hơn nữa. Số món đã tăng được 70 món lên đến 170 món . Nhưng về doanh thu thì tăng 9,8 lần so với năm 2001. Doanh số mà năm 2002 đạt được 13,000,000 USD , tăng 11,800,000 USD. Nhìn chung qua các năm, doanh số thanh toán xuất khẩu bằng phương thức Nhờ thu chỉ chiếm một tỷ trọng khiêm tốn trong tổng số doanh số Thanh toán Quốc tế cũng như doanh số Thanh toán xuất nhập khẩu. Điều đó có thể thấy trước hết là do các bạn hàng nhập khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp Việt Nam chưa có mối quan hệ làm ăn thường xuyên và lâu dài với các đối tác trong nước. Chính vì vậy mà mức độ tin cậy giữa các đối tác trong và ngoài nước chưa đủ để các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng phương pháp Nhờ thu trong các hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu. Hơn nữa các doanh nghiệp Việt Nam, trừ các doanh nghiệp lớn, chưa có sự hiểu biết đúng đắn về các ưu nhược điểm của phương thức Nhờ thu nên việc sử dụng phương pháp này còn có những hạn chế nhất định. Về việc này, vai trò tư vấn của Ngân hàng chiếm một vị trí quan trọng đối với các doanh nghiệp. Phương thức Nhờ thu sẽ được áp dụng một cách hiệu quả khi mà các doanh nghiệp Việt Nam dưới sự tư vấn của Ngân hàng có được sự hiểu biết sâu sắc hơn về phương thức này. Bảng 2.3: Doanh số thanh toán Nhờ thu nhập khẩu của SGD I Nội dung Phát sinh tăng Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Số món Doanh số (1000USD) Số món Doanh số (1000USD) Số món Doanh số (1000USD) Nhờ thu NK 8,300 150 3,000 130 9,000 1. Thông báo 60 3,800 70 1,450 70 5,400 2. Thanh toán 4,500 80 1,550 60 3,600 Nguồn: Báo cáo thường niên của SGDI – NHĐT&PTVN năm 2000,2001,2002 Khác với phương thức nhờ thu đối với xuất khẩu, hoạt động này đối với nhập khẩu có nhiều diễn biến hơn. Nếu như trong năm 2000, số món mà Sở đã thực hiện là hơn 60 món , doanh số lên đến 8,300,000 USD thì đến năm 2001, số món lên đến 150 món nhưng doanh số chỉ đạt được 3,000,000 USD.Như vậy so với năm 2000, doanh số đã giảm đến 60%, và giảm 5,300,000 USD về số tuyệt đối. Có sự giảm sút này chủ yếu là do sự giảm sút trong các giao dịch của các nhập khẩu. Nhìn chung trong năm nay, toàn bộ thị trường có sự giảm sút. Các doanh nghiệp đã co hẹp hoạt động nhập khẩu do có nhiều biến động trên thế giới về Chính trị, Kinh tế. Một nguyên nhân nữa cũng do có thể các doanh nghiệp Việt Nam chưa tạo ra một sự tin cậy nhất định nên các doanh nghiệp nước ngoài đã phải tìm ra một giải pháp an toàn hơn như thay vào đó bằng phương thức tín dụng chứng từ. Tuy nhiên đến năm 2002, thì lại tăng rất lớn trong phương thức này. Mặc dù số món đã giảm đi 20 món chỉ còn lại 130 món nhưng về doanh số lại tăng lên gấp 3 lần so với năm 2001, tức là tăng lên 6,000,000 USD. Trong năm nay, doanh số đạt được là 9,000,000 USD. Tuy nhiên nếu so với năm 2000 thì cũng chỉ mới tăng lên 700,000 USD nên chưa phải là tăng một cách đáng kể. Tuy nhiên đây cũng là một kết quả đáng khích lệ đối với Ngân hàng. Xét một cách tổng thể thì hoạt động nhờ thu hàng nhập khẩu luôn có một sự biến động bất thường trong các năm vừa qua. Các con số tăng giảm liên tục là kết quả của sự biến động trong doanh số giao dịch của các khách hàng tại Sở. Như vậy về cơ cấu Nhờ thu, Ngân hàng chưa xây dựng được một cơ cấu khách hàng thực sự đa dạng. Chính vì vậy sự biến động trong tổng doanh số giao dịch của khách hàng đã gây ảnh hưởng lớn đến tổng doanh số thanh toán nhập khẩu bằng phương thức Nhờ thu. Qua đây một lần nữa, chúng ta có thể thấy hoạt động Thanh toán Quốc tế qua hình thức Nhờ thu ở SGD I- NHĐT&PTVN nói riêng và ở toàn bộ hệ thống Ngân hàng thương mại nói chung hầu hết chỉ được các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài áp dụng. Điều này cho thấy sự hạn chế hiểu biết trong thanh toán Quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam và do đó các doanh nghiệp Việt Nam không thể phát huy được khả năng cạnh tranh của mình so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong những năm tới Sở cần có sự tư vấn hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam để có thể mở rộng doanh số thanh toán bằng hình thức Nhờ thu, khắc phục được tồn tại hiện nay là Nhờ thu dường như là phương thức độc quyền của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 2. Thực trạng về phương thức Chuyển tiền 2.1.Qui trình thực hiện phương thức Chuyển tiền ở SGD I- NHĐT&PTVN Đối với hoạt động Chuyển tiền đến: Bước 1: TTV nhận lệnh chuyển tiền và kiểm tra điều kiện thực hiện lệnh chuyển tiền trên mẫu điện MT100 /MT103. Bước 2: Thực hiện lệnh chuyển tiền: Kiểm tra chi tiết phí: Tại trường 71 của điện MT100/MT103, nếu thể hiện: a.OUR : Lúc này Ngân hàng phải trả toàn bộ số tiền báo Có của Ngân hàng nước ngoài cho người thụ hưởng. Sau đó tiến hành đòi phí Ngân hàng ra lệnh rồi theo dõi trả phí của Ngân hàng nước ngoài. b.BEN, SHA hoặc không có trường 71 thì Ngân hàng tiến hành thu phí từ người thụ hưởng bằng cách trừ vào số tiền Ngân hàng nước ngoài báo Có trước khi thực hiện lệnh chi trả. Sau đó, giao dịch viên thực hiện khai báo dữ liệu vào chương trình quản lý rồi lập phiếu chuyển khoản. Trong trường hợp có sự chênh lệch giữa số tiền trên điện MT 910/950 và điện chuyển tiền , phải thực hiện chi trả theo số tiền nhỏ hơn. Bước 3: Trưởng phòng kiểm soát và duyệt chứng từ. Trường hợp không thực hiện chi trả được theo chỉ dẫn trong lệnh chuyển tiền, TTV làm điện tra soát. Sau đó trưởng phòng hoặc kiểm soát viên kiểm tra và duyệt điện. Đối với chuyển tiền đi: Bước 1: TTV nhận hồ sơ chuyển tiền từ khách hàng hoặc qua phòng quản lý khách hàng rồi kiểm tra hồ sơ chuyển tiền. Bước 2: Thực hiện lệnh chuyển tiền: TTV nhập dữ liệu vào chương trình lập hồ sơ, điện thanh toán. Trưởng phòng Thanh toán Quốc tế duyệt điện thanh toán và ký chữ ký thứ hai. Trưởng phòng kế toán duyệt điện và ký chữ ký thứ hai. Bước 3: Hạch toán. 2.2.Tình hình thực hiện phương thức Chuyển tiền trong các năm vừa qua Hoạt động thanh toán Quốc tế thông qua phương thức Chuyển tiền là một hoạt động đặc biệt quan trọng đối với Sở giao dịch I – NHĐT&PTVN. Sở dĩ như vậy bởi nó đem lại một khối lượng doanh thu to lớn cho Sở hàng năm. Bảng 2. 4: Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức Chuyển tiền của SGD I Nội dung Phát sinh tăng Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Số món Doanh số (1000USD) Số món Doanh số (1000USD) Số món Doanh số (1000USD) Chuyển tiền 39,500 6,250 195,500 11,800 160,000 Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2000,2001,2002 của SGDI – NHĐT&PTVN Qua bảng trên cho thấy, trong năm 2000, doanh số thu được từ hoạt động Chuyển tiền là 39,500,000 USD. Nếu đem so với doanh số từ hoạt động Nhờ thu thì sẽ gấp đến gần 5 lần. Con số đó đặc biệt còn tăng mạnh mẽ vào năm 2001. Trong năm 2001, Sở đã thực hiện tất cả 6.250 món Chuyển tiền, nâng tổng doanh thu lên đến 195,500,000USD. So với năm 2000, doanh số đó tăng 400% về tương đối và tăng 156,000,000 USD. Đây là mức tăng kỷ lục nhất từ trước đến nay. Mặc dù hoạt động Thanh toán bằng hình thức Tín dụng chứng từ cũng tăng lên hàng năm tuy nhiên vẫn còn thua xa so với hoạt động Chuyển tiền tại Sở. Trong năm nay, sở dĩ hoạt động này đã tăng ngoạn mục như vậy chủ yếu là do thứ nhất, Ngân hàng đã là thành viên của mạng SWIFT nên có thể chuyển tiền một cách cực nhanh, hiệu quả và tiết kiệm nên có thể cạnh tranh một cách mạnh mẽ với dịch vụ chuyển tiền ở trong ngành bưu chính viễn thông. Thứ hai, trong năm nay, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trước đây đã sử dụng hình thức thanh toán Nhờ thu thì giờ đây đã chuyển sang hình thức này do nhiều ưu điểm hơn như thủ tục đơn giản hơn, thời gian chuyển tiền nhanh hơn, chi phí rẻ hơn và an toàn hơn. Sang năm 2002, số món chuyển tiền trong năm nay thực hiện là 11.800 món, tăng 89% đem lại một tổng doanh thu cho năm 2002 là 160,000,000 USD. Tuy nhiên nếu so với năm 2001 thì lại giảm đi 35,500,000 USD, tức là giảm đi 18%. Biểu đồ 2.2: Tỷ trọng thanh toán bằng Chuyển tiền của SGD I: Doanh số (nghìn USD) Doanh số Chuyển tiền Doanh số XNK Năm 2002 2001 2000 Nhìn vào biểu đồ ta thấy, hoạt động Thanh toán Quốc tế qua hình thức Chuyển tiền chiếm một tỷ trọng tương đối lớn trong hoạt động Thanh toán xuất nhập khẩu của Sở. Nếu trong năm 2000, tỷ trọng giữa doanh thu từ hoạt động thanh toán Chuyển tiền với doanh thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 15% thì trong năm 2001, tỷ trọng đó đã lên đến 50% đã chứng tỏ hoạt động này đang ngày càng khẳng định vị trí trong hoạt động Thanh toán xuất nhập khẩu. Và đến năm 2002 thì tỷ trọng đó là 40%. Như vậy trong những con số này vẫn thường xuyên biến động không ngừng. Tuy nhiên do những con số trong thanh toán Chuyển tiền không có sự tách biệt độc lập giữa các khoản thanh toán xuất nhập khẩu và những khoản chuyển vốn thông thường nên chúng ta khó có được một sự phân tích kỹ hơn về sự biến động của những con số này. Nhưng bên cạnh đó ta cũng có thể thấy rằng doanh số Chuyển tiền cũng chịu không ít ảnh hưởng của hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bởi vì một phần không nhỏ các giao dịch Chuyển tiền được thực hiện giữa công ty mẹ ở nước ngoài với các chi nhánh ở Việt Nam. Với một mức độ tin tưởng nhau như vậy thì các hoạt động thương mại giữa các công ty này hoàn toàn có thể thực hiện bằng phương pháp Chuyển tiền, một phương pháp có thể giảm tối đa các chi phí phát sinh so với các phương pháp Thanh toán Quốc tế khác. Bảng 2.5: Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức Chuyển tiền đi của SGD I Nội dung Phát sinh tăng Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Số món Doanh số (1000USD) Số món Doanh số (1000USD) Số món Doanh số (1000USD) Chuyển tiền đi 360 22,000 750 145,000 1,800 95,000 Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2000,2001,2002 của SGD I – NHĐT&PTVN Trong năm 2000, Sở đã thực hiện Chuyển tiền đi là 360 món với doanh số đạt được là 22,000,000 USD, chiếm 56% trong tổng số doanh số Chuyển tiền. Với một nước nhập siêu như Việt Nam thì điều này không mấy khó hiểu. Trong năm nay, các doanh nghiệp Việt Nam đã nhập vào một lượng máy móc thiết bị rất lớn nên đã phải chuyển trả ngoại tệ ra nước ngoài. Đến năm 2001, số món Chuyển tiền đi trong năm là 750 món, tăng 108% so với năm 2000. Và doanh số đã gấp 5,6 lần so với năm 2000, lên đến 145,000,000 USD. Tuy nhiên, đến năm 2002 thì mặc dầu đã tăng được 1050 món nhưng doanh số đã giảm đi 50,000,000 USD, chỉ còn lại 95,000,000 USD. Như vậy song song với những biến động trong tổng số doanh số Chuyển tiền thì doanh số trong Chuyển tiền đi cũng có những biến động tương ứng. Điều này cho thấy một phần có thể bắt nguồn từ việc giảm một số lượng giao dịch thương mại với nhau.Với những qui định chặt chẽ của Chính phủ gần đây đối với hoạt động nhập khẩu, hoạt động thanh toán hàng háo nhập khẩu qua SGD I cũng có những sự giảm sút. Bảng 2.6: Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức Chuyển tiền đến của SGD I Nội dung Phát sinh tăng Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Số món Doanh số (1000USD) Số món Doanh số (1000USD) Số món Doanh số (1000USD) Chuyển tiền đến 17,500 5,500 50,500 10,000 65,000 1. Mậu dịch 1,000 45,000 1,400 48,000 2. Phi mậu dịch 4,500 5,500 8,600 17,000 Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2000,2001,2002 của SGD I – NHĐT&PTVN So với hoạt động Chuyển tiền đi thì doanh số Chuyển tiền đến qua Sở ít có sự biến động hơn mà hầu hết là mang tính tích cực. Nếu như trong năm 2000, SGD I đã thu được doanh số là 17,000,000 USD từ hoạt động Chuyển tiền đến thì đến năm 2001, doanh số đó đã tăng được đến 50,500,000 USD thông qua 5.500 món. Như vậy là đã tăng được 33,000,000 USD, tức là đã tăng được đến 1,9 lần. Đến năm 2002, con số đó vẫn tăng lên không ngừng. Cụ thể, số món trong năm 2002 mà Sở đã thực hiện được là 10.000 món, tức là đã tăng được 4500 món. Còn doanh số mà Sở thu được là 65,000,000 USD, tức là đã tăng được 28% về số tương đối và 14,500,000 về số tuyệt đối. III. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN PHƯƠNG THỨC NHỜ THU VÀ CHUYỂN TIỀN TẠI SGD I – NHĐT&PTVN TRONG THỜI GIAN QUA Trong thời gian qua, SGD đã đạt được nhiều thành tựu nhất định trong việc thực hiện phương thức Nhờ thu và Chuyển tiền. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có những mặt trái đòi hỏi SGD cần phải nhanh chóng khắc phục. 1. Những kết quả đạt được Nhìn chung, trong thời gian qua, hoạt động Thanh toán Quốc tế bằng phương thức Nhờ thu và Chuyển tiền của SGD I – NHĐT&PTVN đã đạt được nhiều tiến bộ. Số món cũng như doanh số tăng đều đặn hàng năm tạo cho Ngân hàng một khoản thu nhập khá lớn. Các hoạt động đã được thực hiện khá kịp thời, nhanh chóng và chuẩn xác đáp ứng được nhu cầu ngày càng khắt khe của các Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong và ngoài nước. Chất lượng của các hoạt động được tăng lên rõ rệt với đội ngũ cán bộ công nhân viên ngày càng có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Giá phí của hoạt động Nhờ thu và Chuyển tiền ngày càng giảm xuống, có thể cạnh tranh với các Ngân hàng khác trong địa bàn cũng như cả nước. Thực chất, hoạt động thanh toán bằng phương thức Nhờ thu và Chuyển tiền vẫn không phải là phương thức có nhiều ưu điểm nhưng như chúng ta đã thấy, tuy nhiên doanh số thu được từ các hoạt động này( đặc biệt là hoạt động Chuyển tiền) vẫn đều đặn tăng lên trong các năm qua ở Sở. Bởi vì đây là những hoạt động rất phù hợp với tình hình kinh tế của nước ta lúc bấy giờ. Ở nước ta, các công ty chi nhánh, các công ty con của các tập đoàn lớn trên thế giới xuất hiện khá nhiều nên giữa các công ty mẹ ở nước ngoài và các công ty con ở Việt Nam đã có sự hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau. Vì vậy, họ thường lựa chọn các phương thức này vừa thuận tiện, giá rẻ và thủ tục không rườm rà như là trong thanh toán bằng L/C. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thực hiện giao dịch với khối lượng không lớn và thường là với những đối tác quen thuộc ở nước ngoài như trong các giao dịch xuất nhập khẩu lương thực thực phẩm như hạt tiêu, hạt điều,…,hay là các mặt hàng tiêu dùng như da giày, may mặc… Đây cũng là một lý do mà hoạt động thanh toán Nhờ thu và Chuyển tiền cũng được các doanh nghiệp Việt Nam ưa chuộng. Do đó, NHĐT&PTVN cần phải nâng cao hơn nữa việc hoàn thiện và phát triển các phương thức này, phát huy những ưu điểm vốn có của nó và hạn chế đến mức thấp nhất những nhược điểm. Bên cạnh những điều đó, để đạt được những thành tựu này phải kể đến một số những điều kiện thuận lợi mà Ngân hàng có được như sau: - Kinh nghiệm và uy tín của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam: Trong suốt 45 năm hoạt động mặc dù không phải là nhiều so với nhiều nước trên thế giới nhưng đối với nhiều NHTM Việt Nam thì Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã có một bề dày kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng nói chung và hoạt động Thanh toán Quốc tế nói riêng.Từ việc chỉ đạo thực hiện Thanh toán Quốc tế giữa các nước XHCN với phương thức chủ yếu là hàng đổi hàng và vay nợ, viện trợ, hiện nay NHĐT&PTVNđã cung cấp một dịch vụ TTQT rộng khắp với nhiều phương thức thanh toán khác nhau và được đánh giá là Ngân hàng hàng đầu của Việt Nam có khả năng cung cấp những lĩnh vực Ngân hàng tốt nhất. Thời gian vừa qua đã cho phép NHĐT&PTVN đúc rút được nhiều kinh nghiệm quí báu nhằm cung cấp dịch vụ thanh toán tốt nhất cho khách hàng. Vì thế đã cho phép NHĐT&PTVN có thể thu hút một lượng lớn các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong và ngoài nước ở mọi thành phần kinh tế, các Ngân hàng các tổ chức Tài chính Quốc tế khi muốn tìm một NHVN để làm đối tác có thể nghĩ đến NHĐT&PTVN. Có mạng lưới Ngân hàng đại lý rộng khắp: Đến nay NHĐT&PTVN đã có 100 chi nhánh ở các tỉnh thành phố và có quan hệ đại lý với hơn 500 Ngân hàng trên Thế giới. Nhờ quan hệ lâu dài và thường xuyên với các Ngân hàng nước ngoài nên việc chuyển tiền và Thanh toán Quốc tế qua NHĐT&PTVN ít phải qua trung gian, rút ngắn thời gian thanh toán, đỡ tốn chi phí, do vậy NHĐT&PTVN ngày càng chiếm được lòng tin của khách hàng trong và ngoài nước. Công nghệ Ngân hàng hiện đại: Để đảm bảo thực hiện thanh toán nhanh gọn, chính xác, NHĐT&PTVN không ngừng cải tiến công nghệ Ngân hàng, đặc biệt hiện nay đã tham gia sử dụng hệ thống thanh toán SWIFT – hệ thống thanh toán toàn cầu được hiện đại hoá cao độ cho cả hai chiều đi và đến, có khả năng xử lý trung bình gần 3000 điện đi và đến mỗi ngày với chi phí thấp và đã soạn thảo và hoàn tất qui trình hạch toán chuyển tiền nhanh đã được Ban lãnh đạo duyệt và đưa vào áp dụng. Hầu hết mọi công việc thanh toán đều được thực hiện qua SWIFT, trên 98% điện được xử lý tự động trên máy. Bên cạnh đó NHĐT&PTVN đã tự phát triển các chương trình ứng dụng và các giao diện cho hệ thống SWIFT và hệ thống hiện có của mình, đồng thời thiết lập mạng máy tính nội bộ trong toàn bộ hệ thống cho phép phối hợp khá tốt công việc giữa các phòng nghiệp vụ cũng như tạo điều kiện cho công tác thống kê và quản lý Ngân hàng, tham gia mạng máy tính toàn cầu Internet để tiến đến cung cấp các dịch vụ Ngân hàng điện tử cho Ngân hàng. - Đội ngũ thanh toán viên nhiều kinh nghiệm, có trình độ và chuyên môn cao: Các cán bộ Thanh toán Quốc tế của SGD đều tốt nghiệp đại học hoặc cao hơn, có trình độ ngoại ngữ, thường xuyên được đào tạo nâng cao nghiệp vụ đã phát huy tốt khả năng của mình đảm bảo cho công tác thanh toán được an toàn, nhanh chóng và chính xác. Họ luôn tận tình hướng dẫn, giúp đỡ khách hàng sửa chữa chứng từ để có một bộ chứng từ phù hợp, tư vấn cho khách hàng trong khâu dự thảo, ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu, hướng dẫn các thủ tục Chuyển tiền và lập bộ chứng từ trong thanh toán Nhờ thu. 2. Những mặt hạn chế còn tồn tại trong hoạt động thanh toán bằng phương thức Nhờ thu và Chuyển tiền của SGD I – NHĐT&PTVN trong thời gian qua - Thứ nhất đó là những hạn chế thuộc về các văn bản quy định: Hiện nay thực ra ở nước ta, Ngân hàng Nhà nước chưa hề có một văn bản cụ thể quy định về việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán bằng Chuyển tiền và Nhờ thu. Vì vậy, việc áp dụng các thông lệ quốc tế như URR 522, URC525 vẫn còn nhiều điều chưa phù hợp với hoàn cảnh kinh tế nước ta lúc bấy giờ. Vì vậy, có thể có những sai phạm mà không có một cơ sở pháp lý nào để giải quyết. - Năng lực, trình độ về Thanh toán Quốc tế và ngoại thương của khách hàng còn yếu kém: Hoạt động ngoại thương nói chung và kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng là lĩnh vực hoạt động nhiều rủi ro vì phạm vi buôn bán vượt ra ngoài biên giới một quốc gia. Ở Việt Nam, tuy kim ngạch xuất khẩu tăng khá nhanh trong những năm qua nhưng hoạt động nhập khẩu cũng ngày càng phát triển. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có năng lực tài chính và uy tín chưa cao, lại hoạt động một cách rời rạc, thiếu sự hỗ trợ nhau về thông tin cũng như về hoạt động, do vậy không đủ sức tập trung một lượng hàng hoá lớn nên các hợp đồng có giá trị rất nhỏ. Cơ cấu xuất nhập khẩu, đặc biệt là xuất khẩu thay đổi chậm chạp, hàng hoá xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp, nguyên liệu ở dạng thô hay sơ chế, khả năng cạnh tranh thấp, còn nhập khẩu chủ yếu là các loại máy móc thiết bị, dầu mỏ… nên rất ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu của nền kinh tế. Bên cạnh đó, khả năng và trình độ nghiệp vụ ngoại thương và thanh toán Quốc tế còn nhiều yếu kém. - Quan hệ đại lý với các Ngân hàng nước ngoài còn nhiều vướng mắc cần được giải quyết: Bên cạnh những Ngân hàng thanh toán nhanh, đúng hạn như các Ngân hàng của Nhật, Đài Loan, Singapore, Malaysia,…, còn nhiều Ngân hàng chưa có thiện chí trong việc hỗ trợ lẫn nhau và thiên về bảo vệ quyền lợi cuả khách hàng trong nước bằng mọi giá, nhiều khi cố tình bắt lỗi để tránh rủi ro, do vậy ảnh hưởng đến thời gian thanh toán cho khách hàng. - Tình hình xuất nhập khẩu của các công ty không ổn định: Hiện tại khách hàng thực hiện thanh toán tại SGD thường xuyên là các công ty như VINATRA, VINACONEX,….Tuy nhiên bên cạnh đó có nhiều công ty thực hiện thanh toán không ổn định. Vì vậy đã làm cho Ngân hàng gặp khó khăn trong các giao dịch. Điều này có thể là do tình hình tài chính và nhu cầu của chính công ty đó. Tuy nhiên ảnh hưởng nhiều tới tình hình xuất nhập khẩu của các công ty là sự biến động lớn về Kinh tế, Chính trị trên thế giới. Năm 2002 là năm có nhiều sự kiện lớn trên thế giới và đã ảnh hưởng đến tâm lý xuất nhập khẩu của các công ty trong và ngoài nước, làm các công ty co hẹp phạm vi buôn bán của mình. Vì vậy, có một sự giảm sút khá lớn trong các hoạt động này. Điều này đã ảnh hưởng đến doanh số thanh toán xuất nhập khẩu nói chung và của hoạt động Nhờ thu và Chuyển tiền nói riêng của Sở. Nhìn chung, hiện nay SGD đã đáp ứng được hầu hết các yêu cầu của các doanh nghiệp trong việc thực hiện thanh toán bằng phương thức Nhờ thu và Chuyển tiền. Tuy nhiên trong thời gian tới là thời gian của sự hội nhập, các hoạt động Thanh toán Quốc tế nói chung và thanh toán bằng phương thức Chuyển tiền và Nhờ thu nói riêng sẽ có nhiều bước chuyển biến mạnh mẽ. Vì vậy, ngay từ bây giờ, SGD cần có nhiều biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện các hoạt động này để đáp ứng những nhu cầu đó. Đó cũng là nội dung mà Chương 3 sau đây sẽ đề cập đến. CHƯƠNG III CÁC GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ BẰNG PHƯƠNG THỨC NHỜ THU VÀ PHƯƠNG THỨC CHUYỂN TIỀN TẠI SGD I – NHĐT&PTVN I. TRIỂN VỌNG VÀ YÊU CẦU CỦA HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI SGD I – NHĐT&PTVN TRONG THỜI GIAN TỚI 1. Triển vọng hoạt động thanh toán quốc tế của SGD I – NHĐT&PTVN trong thời gian tới Ngày nay, khu vực hoá và quốc tế hoá đời sống kinh tế đã trở thành xu hướng mang tính thời đại. Mở rộng đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế là một nội dung quan trọng trong đường lối kinh tế của Đảng cộng sản Việt Nam. Việc “mở cửa’’ nền kinh tế ra thế giới bên ngoài, mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học kỹ thuật với nước ngoài, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới, hoà nhập kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới là xu hướng hợp thời đại, là phương cách khôn ngoan để có thể kết hợp khéo léo các yếu tố trong nước với yếu tố quốc tế, vừa phát huy được những lợi thế căn bản của các nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa hội nhập. Cùng với việc tham gia vào các tổ chức thế giới và khu vực như ASEAN( 12/1995 ), APEC ( 11/1998) AFTA…, ký hiệp định thương mại Việt Mỹ, và tiến tới là gia nhập WTO, Việt Nam đang dần dần dỡ bỏ các hàng rào thuế quan để thúc đẩy tự do hoá thương mại và đầu tư. Môi trường này đã và đang mở ra nhiều thách thức và cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam dần dần khẳng định vị trí của mình trên trường thế giới. Năm 2002, cùng với mức độ tăng trưởng chung của vùng Đông Á, tăng từ 3,5% năm 2001 lên 5,5% , nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao ( đạt 7,04% ) cao hơn năm 2001 và cao hơn các nước trong vùng. Các hoạt động xuất nhập khẩu không ngừng tăng nhanh với chủng loại mặt hàng ngày càng phong phú. Các dòng tiền từ các hoạt động đầu tư quốc tế, tài trợ, viện trợ đổ vào Việt Nam đang ngày càng nhiều. Bên cạnh đó, các hoạt động hợp tác quốc tế về kinh tế cũng như xã hội khác cũng phát triển với mức độ kinh ngạc như các hoạt động về du lịch Quốc tế, lao động Quốc tế, các hoạt động Văn hoá- Xã hội khác. Thực tế đó đã chứng minh rằng giao lưu tiền tệ giữa Việt Nam và Quốc tế đang ngày càng phát triển. Vì vậy, hoạt động Thanh toán Quốc tế của SGD I – NHĐT&PTVN cũng sẽ ngày càng tăng trưởng lớn hơn, đa phương đa chiều và ngày càng sâu sắc hơn với ngày càng nhiều loại ngoại tệ và nhiều nghiệp vụ được áp dụng trong hoạt động này. 2. Yêu cầu đối với phương thức Nhờ thu và Chuyển tiền của SGD I – NHĐT&PTVN trong thời gian tới Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đối ngoại toàn cầu nói chung và của Việt Nam nói riêng, hoạt động Thanh toán Quốc tế của SGD I nói chung và hoạt động Nhờ thu và Chuyển tiền nói riêng ngày càng phải mở rộng. Hoạt động xuất nhập khẩu cũng như các hoạt động khác có liên quan đến việc phải thực hiện Thanh toán Nhờ thu và Chuyển tiền sẽ tăng không ngừng nên trong một thời gian ngắn có thể sẽ phải thực hiện một khối lượng giao dịch khổng lồ. Vì vậy đòi hỏi mỗi một giao dịch sẽ được thực hiện tức thì với một khoảng thời gian ngắn nhất. Có như thế mới có thể đảm bảo được quyền lợi của khách hàng cũng như uy tín của Ngân hàng. Tuy nhiên bên cạnh đó, hoạt động đó phải đảm bảo chính xác an toàn và hiệu quả. Tức là với một khoản phí nhỏ nhất nhưng phải được xử lý trong một khoảng thời gian ngắn nhất và cũng phải đảm bảo an toàn chính xác. Giảm thiểu những sai sót như sai lỗi chính tả, nhầm địa chỉ của người gửi cũng như người thụ hưởng…. để tránh phải làm đi làm lại nhiều lần lãng phí và mất thời gian. SGD cũng phải có trách nhiệm trong việc hạn chế các rủi ro trong thanh toán Nhờ thu và Chuyển tiền gây tổn thất cho chính Ngân hàng và cho cả khách hàng. Các rủi ro vẫn thường gặp là rủi ro tỷ giá, rủi ro trong thanh toán, rủi ro nguồn vỗn ngoại tệ… Mỗi loại hình rủi ro có một đặc điểm riêng và cần có các biện pháp xử lý thích hợp. II. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THANH TOÁN QUỐC TẾ BẰNG PHƯƠNG THỨC NHỜ THU VÀ PHƯƠNG THỨC CHUYỂN TIỀN TRONG THỜI GIAN TỚI Trước những triển vọng và yêu cầu đó của hoạt động Thanh toán Quốc tế nói chung và của phương thức Chuyển tiền và phương thức Nhờ thu nói riêng, SGDI – NHĐT&PTVN cần phải áp dụng những biện pháp kịp thời nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong Ngân hàng và phát huy được những mặt mạnh vốn có của Ngân hàng. Cụ thể, những biện pháp đó là: 1. Hiện đại hoá Công nghệ Ngân hàng Có lẽ thách thức phổ biến nhất mà các NHTM phải đương đầu trên thị trường TCQT là yêu cầu đầu tư công nghệ. Với xu hướng hiện nay, công nghệ là một trong những yêu cầu then chốt giúp cho sự tồn tại và chiến thắng trong cạnh tranh của bất kỳ tổ chức kinh tế nào. Chính vì vây, SGD I – NHĐT&PTVN trước hết phải không ngừng đổi mới trang thiết bị làm việc, tích cực áp dụng những công nghệ mới nhất của ngành Ngân hàng để có thể đáp ứng được những nhu cầu thanh toán của khách hàng. Hơn thế nữa, sự phát triển hoạt động Thanh toán Quốc tế tất yếu phát sinh những nhu cầu giao dịch mới. Vì thế, trong những năm tới, Ngân hàng phải xem xét để có thể áp dụng được những phần mềm mới nhất để có thể thực hiện các giao dịch một cách nhanh nhất. Một điều nữa là Ngân hàng cần xây dựng một hệ thống mạng máy tính thống nhất. Ngoài ra, trong phần lớn hoạt động của Ngân hàng không chỉ hiện nay mà còn trong tương lai đều cần những thông tin từ bên ngoài. Thực vậy, giá trị thông tin hiệu quả là yếu tố hết sức quan trọng trong thời đại ngày nay. Các Ngân hàng trông cậy vào máy vi tính và viễn thông, tìm tòi công cụ để thực hiện dịch vụ Ngân hàng, nhanh hơn, chính xác hơn và hiệu quả hơn cho cạnh tranh. Vì thế Ngân hàng cần thiết phải xây dựng được một hệ thống mạng cho phép truy cập thông tin trên Internet từ mọi máy của Ngân hàng, ngoài ra còn phải trang bị các thiết bị hiện đại và tiên tiến nhất. Khi đó, Ngân hàng sẽ có thể đáp ứng được mọi nhu cầu dịch vụ Ngân hàng cho khách hàng, giảm thiểu các chi phí khi mở rộng quy mô nghiệp vụ, tăng thị phần. Đẩy nhanh quá trình thực hiện quy trình chuyển tiền nhanh ( Western Union ) . Đây cũng là thời điểm thích hợp để có thể đưa dịch vụ Bank Draf vào triển khai tại SGD . Tham gia quy trình phát hành Bank Draf, séc du lịch. Bên cạnh đó, Ngân hàng cần phải sớm nâng cấp Home Banking để tiến tới thực hiện thanh toán điện tử, trước mắt có thể chỉ là giữa SGD với chi nhánh trực thuộc và các phòng giao dịch, tiến tới sẽ áp dụng đối với những khách hàng lớn có đủ điều kiện. 2. Giải pháp an toàn trong hoạt động Thanh toán Quốc tế Trong lĩnh vực kinh doanh nào, lợi nhuận càng cao thì tỷ lệ rủi ro càng lớn. Để đạt được hiệu quả tối ưu, các doanh nghiệp phải lựa chọn được một dự án sinh lợi thích hợp, trên cơ sở một tỷ lệ rủi ro có thể chấp nhận được. Nếu như yếu tố táo bạo thường được đề cao bởi các doanh nhân thông thường thì mục tiêu đầu tiên trong hoạt động của các NHTM là đảm bảo an toàn trong kinh doanh. Lĩnh vực kinh doanh tiền tệ bao giờ cũng đứng đầu trong tính chất phức tạp và đầy rủi ro. Bên cạnh đó với trách nhiệm thúc đẩy phát triển nền kinh tế, các Ngân hàng có mối quan hệ vô cùng rộng rãi. Sự đổ vỡ của Ngân hàng thường gây những tác động tiêu cực theo kiểu phản ứng dây chuyền tới nền kinh tế. Điều này cũng giải thích vì sao mà lĩnh vực kinh doanh tiền tệ luôn phải chịu sự quản lý, giám sát chặt chẽ của Nhà nước. Là một Ngân hàng có mối quan hệ rộng rãi với nhiều loại hình doanh nghiệp, SGD luôn nhận được nhiệm vụ và vai trò của mình. Nếu như trong lĩnh vực tín dụng, chi nhánh luôn đứng trước những rủi ro như : Rủi ro nguồn vốn, rủi ro lãi suất…. Thì trong hoạt động Thanh toán Quốc tế nói chung và hình thức Nhờ thu và Chuyển tiền nói riêng cũng có những rủi ro không kém phần phức tạp: Rủi ro tỷ giá, rủi ro trong thanh toán, rủi ro nguồn vốn ngoại tệ. Mỗi loại hình rủi ro có đặc điểm riêng và cần có biện pháp xử lý hợp lý. Rủi ro không đảm bảo khả năng thanh toán: Ngân hàng không cân đối được nguồn vốn và sử dụng ngoại tệ, dẫn tới không có đủ số dư ngoại tệ để chi trả cho nước ngoài. Mặc dù Sở đã giải quyết khá tốt vấn đề này trong thời gian qua nhưng để đáp ứng được nhu cầu phát triển thương mại quốc tế trong tương lai, chi nhánh cần có biện pháp tích cực hơn nữa đảm bảo duy trì phát triển nguồn vốn ngoại tệ như: Linh hoạt năng động trong kinh doanh ngoại tệ, áp dụng nhiều hình thức mua bán ngoại tệ, nhiều hình thức huy động vốn hơn. Rủi ro về tỷ giá: Là những thiệt hại trong thanh toán do có sự biến động về tỷ giá, tuỳ thuộc vào hình thức thanh toán mà người bị thiệt hại là bên xuất khẩu, nhập khẩu hay ngân hàng. Để tránh rủi ro về tỷ giá, ngân hàng cần dự trữ đa dạng ngoại tệ, phân tích dự báo biến động tỷ giá để thay đổi kết cấu sao cho có hiệu quả. Để hạn chế tác động của tỷ giá, Ngân hàng nên áp dụng các hình thức mua bán kỳ hạn và thực hiện mua bán ngoại tệ theo tỷ gia hiện hành. 3. Phát triển nguồn nhân lực Hoạt động của NHTM trên thị trường Tài chính Quốc tế mang tính cạnh tranh cao. Tạo ra một sản phẩm hay dịch vụ mới, một phương án quản lý hay kinh doanh tối ưu là nhằm tăng trưởng ưu thế cạnh tranh. Song những cái mới đó xuất hiện đều dễ bị bắt chước một cách nhanh chóng và thế là lợi nhuận tăng thêm đó sẽ bị triệt tiêu. Nguồn lực tạo ưu thế cạnh tranh là cần có những bộ phận chuyên khai thác thông tin và đổi mới kịp thời trước các đối thủ cạnh tranh. Để trở thành một Ngân hàng luôn đổi mới các nghiệp vụ kinh doanh có hiệu quả, những cán bộ và nhân viên Ngân hàng, nhất là người đứng đầu các bộ phận phải có trách nhiệm cao, làm việc với động cơ vì sự thành đạt của Ngân hàng, trình độ nghiệp vụ cao, hiểu biết và có khả năng xử lý nhiều loại hình giao dịch, có khả năng giao tiếp tốt và biết nhiều ngoại ngữ. Để làm được điều đó, các Ngân hàng nói chung và SGD I – NHĐT&PTVN nói riêng cần phải có chế độ làm việc, khuyến khích tặng thưởng, đề bạt nhân sự phù hợp. Nghiên cứu để sớm áp dụng các biện pháp khuyến khích vật chất cũng như tinh thần cho cán bộ, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng , động viên toàn bộ cán bộ phát huy hết khả năng góp phần thực hiện thắng lợi kế hoạch kinh doanh của Sở. Tuy nhiên, quan trọng hơn tất cả là hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn của Sở. Việc đào tạo chuyên môn của Sở nói chung và của phòng Thanh toán Quốc tế nói riêng sẽ là bước đâù cho việc áp dụng những hình thức giao dịch thanh toán mới. Việc đào tạo cần quan tâm đến kiến thức mới của kinh tế thị trường như: Marketting ngân hàng, phân tích hoạt động kinh doanh Ngân hàng, dự đoán rủi ro có cơ sở khoa học, môi trường vi mô và môi trường vĩ mô trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Điều này không chỉ mang lại lợi ích cho chính khách hàng mà còn củng cố thêm vị trí của Sở trong thời gian tới. Sau đây là một số giải pháp cụ thể: Đào tạo và đào tạo lại, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ cũ, đào tạo bổ sung kiến thức cho nhân viên mới tuyển dụng. Đa dạng hoá hình thức đào tạo: thường xuyên tổ chức lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, cử cán bộ đi học nâng cao. Tổ chức các buổi hội thảo nhằm truyền đạt kinh nghiệm trong xử lý tình huống. Tổ chức các kì thi sát hạch kiểm tra và tuyển chọn cán bộ có trình độ chuyên môn cao, giàu kinh nghiệm. 4. Một số biện pháp khác Bên cạnh các biện pháp chính trên, Ngân hàng có thể xem xét một số biện pháp khác đối với những nhân tố tác động một cách gián tiếp đến hoạt động Thanh toán Nhờ thu và Chuyển tiền của Ngân hàng. 4.1.Hoàn thiện chính sách Maketting trong hoạt động Ngân hàng Hoạt động Ngân hàng là hoạt động có tính cạnh tranh rất sâu sắc. Vì thế để có thể giành thắng lợi, mỗi một Ngân hàng cần phải có hoàn thiện cho mình một chính sách Maketting hoàn chỉnh và hợp lý. Có như vậy, Ngân hàng mới có thể khai thác triệt để thế mạnh, khắc phục những điểm yếu của Ngân hàng đó. Chiến lược Makertting Ngân hàng ( Với ba mục tiêu chính: Tăng khả năng sinh lợi, tăng sức mạnh trong cạnh tranh, an toàn trong kinh doanh ) có vị trí vô cùng quan trọng đối với các NHTM trong nền kinh tế thị trường. Một chiến lược Marketting phù hợp sẽ thúc đẩy hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Vì vậy SGD I – NHĐT&PTVN phải chú trọng những vấn đề sau: Nghiên cứu thị trường: Khi nghiên cứu thị trường, Sở phải tiến hành nghiên cứu trên ba yếu tố: Yếu tố môi trường thị trường như môi trường kinh tế xã hội, con người… Ngân hàng phải nắm bắt tổng hợp các lĩnh vực cơ bản của thị trường Ngân hàng đang hoạt động và thị trường mà Ngân hàng dự định xâm nhập. Từ đó trả lời các câu hỏi: Đâu là thị trường có triển vọng?, lĩnh vực hoạt động nào phù hợp nhất với Ngân hàng ?, cần có giải pháp gì tăng thu hút khách hàng. Cầu: Nghiên cứu nhu cầu khách hàng trên thị trường về sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng cung ứng. Do tính chất lâu dài và ổn định của mối quan hệ giữa Ngân hàng – khách hàng, khi nghiên cứu sản phẩm Ngân hàng cung ứng. Cung: Đó là khả năng thoả mãn nhu cầu của cả bản thân Ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh. Khi nắm bắt, hiểu rõ đối thủ, Ngân hàng sẽ đưa ra được biện pháp hợp với khả năng cạnh tranh. Mục tiêu khi nghiên cứu cung là làm thế nào để tăng ưu thế bên trong ( nâng cao trình độ cán bộ, khả năng tài chính, khả năng cung ứng sản phẩm dịch vụ ) và tăng ưu thế bên ngoài ( tạo ra sự khác biệt với Ngân hàng khác trong đáp ứng nhu cầu ) . Ngân hàng phải xây dựng được một Marketting hỗn hợp, bao gồm bốn chính sách lớn: + Chính sách thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra. Mục đích của chính sách nhằm nắm bắt được sự biến đổi của nhu cầu thị trường đồng thời nắm bắt được sự cạnh tranh của tất cả các Ngân hàng trong việc cung ứng sản phẩm và dịch vụ trên thị trường. + Chính sách sản phẩm, giá cả: Chính sách sản phẩm đóng vai trò nền tảng trong nội dung hoạt động của Marketting. Khi có chính sách sản phẩm đúng đắn, cung cấp sản phẩm chất lượng cao, sẽ là điều kiện thuận lợi cho chính sách khác hoạt động. Bên cạnh những sản phẩm chính, Sở cần lưu ý cung cấp những dịch vụ ngoại vi, đây là những dịch vụ bổ trợ, và chính nó tạo sự khác biệt giữa các ngân hàng. Chính sách giá cả không phải là bộ phận quan trọng vì nó được quy định chặt chẽ và không có chênh lệch lớn. Tuy nhiên việc áp dụng lãi suất linh hoạt, hợp lý có tác dụng không nhỏ trong thu hút khách hàng. + Chính sách phân phối: Khi thực hiện chính sách này, Sở phải huy động toàn bộ các cơ sở vật chất, kỹ thuật, toàn bộ nguồn nhân lực để cung ứng sản phẩm dịch vụ đến khách hàng. Đây là chính sách quan trọng vì mục tiêu của nó là tạo ra kênh tiêu thụ và mạng lưới phục vụ. + Chính sách giao tiếp – khuyếch trương : Mục tiêu của chính sách là làm thế nào để khách hàng biết đến Ngân hàng và các hoạt động của Ngân hàng. Bởi vậy, người ta còn cho rằng chính sách này mang tính hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Do đó trong hoạt động Marketting Ngân hàng ngày nay, chính sách này ngày càng trở nên quan trọng, một mặt nó làm tăng khả năng thu hút khách hàng, mặt khác nó là công cụ để thắng đối thủ cạnh tranh. Đối với công tác khách hàng, SGD cần phải ngày càng mở rộng diện khách hàng. Hoạt động chăm sóc khách hàng cần phải được thực hiện thường xuyên chu đáo hơn, nắm bắt kịp thời diễn biến và nhu cầu của khách hàng cũ, tích cực tìm kiếm các thông tin khách hàng mới, dự án mới có hiệu quả. Sẵn sàng cạnh tranh với các đối thủ khác bằng chính chất lượng sản phẩm, tinh thần thái độ phục vụ, đặc biệt là các dịch vụ hoàn hảo, chất lượng cao để thu hút khách hàng. Định kỳ, SGD cần thực hiện đánh giá, phân loại khách hàng để áp dụng chính sách khách hàng phù hợp. 4.2.Đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, phục vụ kịp thời nhu cầu đổi mới Trong nền kinh tế toàn cầu, đòi hỏi các NHTM phải có đủ năng lực tài trợ, đáp ứng nhu cầu quản trị rủi ro cho các công ty, bất kể lớn hay nhỏ, ở khắp nơi trên thế giới. Họ cũng cần có khả năng làm trung gian chuyển vốn xuyên biên giới và chuyển dịch nguồn vốn kịp thờiđến các khu vực đang phát triển nhanh cũng như các hoạt động kinh doanh có lợi. Chìa khoá để đạt được thành công đòi hỏi NHTM phải có năng lực chuyển từ hoạt động truyền thống về tiếp nhận uỷ thác, cho vay, chuyển tiền..sang các nghiệp vụ mới thích hợp và độc đáo hơn. Những sáng kiến đổi mới một cách linh hoạt và phát huy nhiều kỹ năng sáng tạo hữu hiệu sẽ giúp cho các Ngân hàng có lợi thế trong kinh doanh tiền tệ và chứng khoán, trong họat động thiết kế và phân bố sản phẩm mới. Như vậy, trong xu thế hội nhập hiện nay, SGD không chỉ dừng lại ở việc kinh doanh tiền tệ bằng cho vay trên cơ sở nhận tiền gửi mà còn phải thực hiện các nghiệp vụ của một Ngân hàng đa năng. Hiện nay, Sở cũng đang nỗ lực trong việc nâng cao chất lượng, số lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng như: sử dụng nhiều hình thức cung cấp tín dụng, các loại kỳ hạn, mở rộng kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc đá quý, các dịch vụ Thanh toán Quốc tế….Tuy nhiên, với những hình thức này vẫn chưa được gọi là Ngân hàng đa năng hiện đại. Sở nên xem xét, nghiên cứu những loại hình nghiệp vụ phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế trong tương lai như: dịch vụ uỷ thác, tín dụng thuê mua, nghiên cứu và đầu tư chứng khoán để có thể hoạt động trong thị trường chứng khoán, mở rộng các nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế, đặc biệt là Thanh toán Nhờ thu và Chuyển tiền. Trình độ ngoại thương của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam còn hạn chế, chưa nắm bắt và hiểu biết các nghiệp vụ như Nhờ thu và Chuyển tiền trong Thanh toán Quốc tế nên thường chỉ lựa chọn phương thức thanh toán L/C có thể là tốn kém và rắc rối đối với nhiều giao dịch. Vì vậy, Sở cần phải mở rộng nghiệp vụ tư vấn cho khách hàng trong việc lựa chọn phương thức thanh toán Nhờ thu và Chuyển tiền nếu thích hợp. Nếu thực hiện tốt, những tư vấn của Ngân hàng không những góp phần thúc đẩy hiệu quả kinh doanh của khách hàng mà còn nâng cao uy tín của Ngân hàng. Mở rộng các dịch vụ thanh toán hiện đại: Đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ phải đi đôi với hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng. Việc ứng dụng thành tựu tin học, công nghệ phải được định hướng trên cơ sở xây dựng, mở rộng nghiệp vụ hiện đại. Ngay từ bây giờ, Sở phải xác định nhu cầu phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại để mở rộng thêm các phương thức thanh toán như: thẻ tín dụng, séc du lịch… Đây là những hình thức thanh toán hiện đại, không thể thực hiện một sớm một chiều, và cần phải có sự nỗ lực chung của toàn hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, và SGD I phải có những bước đi tiên phong nhằm xây dựng cơ sở hoạt động cho Sở nói riêng và tạo tiền đề cho phát triển nghiệp vụ của toàn hệ thống nói chung. 5. Các kiến nghị đối với Nhà nước Ngoài các điều kiện năng lực bản thân Ngân hàng, sự hỗ trợ của Nhà nước, đặc biệt là về mặt pháp lý đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Vì thế, chính bản thân Nhà nước cũng phải có những giải pháp thích hợp nhằm giúp Ngân hàng có những hoạt động bớt rủi ro hơn: 5.1. Hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước: Trong thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường, như bộ luật dân sự, luật thương mại… tuy nhiên còn nhiều lĩnh vực chưa được sửa đổi, có những văn bản được bổ sung và sửa đổi nhiều lần, không có tính ổn định nên việc thực thi và áp dụng trong thực tế rất kho. Đặc biệt là các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của hệ thống Ngân hàng nói chung và hoạt động Thanh toán Quốc tế, đặc biệt là hoạt động Nhờ thu và Chuyển tiền nói riêng. Để tạo điều kiện và môi trường pháp lý cho các Ngân hàng hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động Thanh toán Quốc tế nói riêng, Nhà nước cần: Xử lý các văn bản pháp lý, các đạo luật đồng bộ. Bên cạnh hoàn thiện những chính sách hiện hành, nghiên cứu cho ra đời những đạo luật mới về lĩnh vực Ngân hàng, thị trường chứng khoán… Đổi mới công tác quản lý ngoại hối, chế độ quản lý ngoại hối 5.2. Cải thiện Cán cân Thanh toán Quốc tế Cán cân Thanh toán Quốc tế, công cụ tổng hợp và quan trọng để đánh giá, phân tích mối quan hệ Kinh tế đối ngoại, nó thể hiện các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá dịch vụ, hoạt động đầu tư và vay nợ, viển trợ nước ngoài. Tình trạng Cán cân Thanh toán Quốc tế liên quan đến khả năng thanh toán của đất nước, của các Ngân hàng và tác động đến tỷ giá hối đoái và dự trữ ngoại tệ của đất nước. Vì vậy, cải thiện Cán cân Thanh toán Quốc tế đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Để cải thiện cán cân thanh toán Quốc tế, Nhà nước cần: - Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, đặc biệt là hoạt động thương mại đối với những thị trường lớn như Nhật Bản, Mỹ, các nước trong khối ASEAN, Trung Quốc, các nước EU, các nước Đông Âu…, từng bước tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO. - Cần khai thác có hiệu quả tiềm năng về tài nguyên, sức lao động và đất đai, cải tiến cơ cấu hàng xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu của thị trường thế giới, tăng cường các mặt hàng chế biến gia công, giảm tỷ trọng sản phẩm thô, xác định các mặt hàng chủ lực đi đôi với việc xây dựng và phát triển thị trường trọng điểm, đồng thời mở rộng thêm mặt hàng và thị trường mới, cần đầu tư thích đáng vào những sản phẩm mà Việt Nam có ưu thế như: gạo, cà phê, cao su, khí đốt… - Nhà nước cần có chính sách khuyến khích mạnh mẽ sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu như giảm lãi suất, thuế, tạo điều kiện để các doanh nghiệp có điều kiện giảm giá thành và nâng cao tính cạnh tranh của hàng Việt Nam trên trường thế giới. Đối với hàng nông sản, Nhà nước cần có chính sách trợ giá để giúp nông dân tránh được những thiệt thòi do sự xáo trộn của thị trường nội địa đồng thời cũng là biện pháp giúp họ yên tâm sản xuất cải thiện đời sống nông dân. - Bên cạnh đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước cần có chính sách quản lý nhập khẩu thông qua việc cấp giấy phép nhập khẩu, quản lý hạn ngạch và công cụ thuế nhằm hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước đã sản xuất được. - Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài, chúng ta cần tiếp tục tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư trực tiếp. Mở rộng hợp tác và liên doanh với nước ngoài để nâng cao năng lực ngành công nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu. 5.3. Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng Thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng ra đời từ 10/1994, đây là nơi diễn ra trao đổi cung cấp ngoại tệ, giải quyết nhu cầu ngoại tệ cho các NHTM và cả nền kinh tế. Thông qua thị trường này, Nhà nước có thể điều hành tỷ giá, giữ vững sự ổn định tiền tệ bằng những dấu hiệu thị trường. Các NHTM có điều kiện thuận lợi để mở rộng nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, Thanh toán Quốc tế. Tuy nhiên, trong những năm qua, thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng chưa phát huy hết hiệu quả do nhiều nguyên nhân như: sự điều tiết của Nhà nước còn mang nặng dấu ấn hành chính, chưa nắm bắt đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường, các giao dịch diễn ra với hình thức đơn giản, số lượng thành viên tham gia chưa nhiều…Định hướng của Nhà Nước là phải hoàn thiện thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, tiến tới thành lập thị trường hối đoái ở Việt Nam. Muốn vậy, chúng ta phải tích cực xây dựng các điều kiện cơ bản thông qua việc: - Đa dạng hoá hình thức mua bán trên thị trường: Hiện nay, chủ yếu mới là hình thức mua bán trao ngay. Để có một thị trường hối đoái hiện đại, phải mở rộng các hình thức mua bán kỳ hạn, hợp động quyền chọn… - Đa dạng các loại ngoại tệ kinh doanh trên thị trường. Một nền kinh tế mở có nhiều mối quan hệ kinh tế với nhiều quốc gia trên thế giới. Vì thế bên cạnh ngoại tệ cơ bản USD, phải đưa vào kinh doanh các ngoại tệ có nhu cầu như JPY, EURO… - Mở rộng số lượng thành viên tham gia trên thị trường: Hiện nay, Nhà nước mới chỉ cho phép Hội sở của các NHTM tham gia trên thị trường. Chính sách này bộc lộ nhiều hạn chế: Ngân hàng Nhà nước chưa tiếp cận sát sao với thị trường, các dấu hiệu thị trường chưa được phản ánh đầy đủ kịp thời. Việc cho phép các chi nhánh NHTM, các nhà môi giới hoạt động sẽ thúc đẩy thị trường phát triển, giúp cho cung cầu sớm gặp nhau. 6. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà Nước Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là một cơ quan của Chính phủ, là Ngân hàng TW của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam . Một trong những hoạt động cơ bản của Ngân hàng Nhà nước là hoạt động quản lý ngoại hối. Ngân hàng Nhà nước cần sớm ban hành những văn bản pháp qui cụ thể qui đinh quyền hạn cũng như trách nhiệm của các Ngân hàng và của các doanh nghiệp trong các giao dịch liên quan đến ngoại hối. Hiện nay, các doanh nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong việc xin mua ngoại tệ để thực hiện các nghĩa vụ Thanh toán Quốc tế. Do đó, bên cạnh việc thắt chặt hoạt động quản lý ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước cần có quy định cụ thể hơn đối với các doanh nghiệp có tham gia hoạt động xuất nhập khẩu để góp phần tháo gỡ những khó khăn hiện nay. Ngoài ra, tỷ giá cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng trong hoạt động thanh toán Nhờ thu và Chuyển tiền. Việc áp dụng một tỷ giá kém linh hoạt sẽ làm sai lệch giá trị thực của đồng Việt Nam so với ngoại tệ khác và do đó ảnh hưởng đến khả năng thực hiện các giao dịch ngoại thương của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Ngân hàng Nhà nước cần sớm xây dựng được một cơ chế tỷ giá hợp lý hơn, điều này không chỉ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu mở rộng thị trường của mình mà còn góp phần cải thiện Cán cân Thanh toán Quốc tế của đất nước. Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp chặt chẽ giữa ban thanh tra của Ngân hàng Nhà nước với bộ máy kiểm tra giám sát của các NHTM để nhanh chóng phát hiện những vướng mắc, những sai phạm để kịp thời xử lý. 7. Kiến nghị đối với khách hàng Thanh toán Quốc tế bằng Nhờ thu và Chuyển tiền là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Sự rủi ro không đơn giản là sự tách biệt về địa lý giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu. Trong điều kiện thị trường ngày càng phát triển như hiện nay thì các công cụ Thanh toán Quốc tế cũng không ngừng phát triển nhằm mục đích có thể đáp ứng được nhu cầu đa dạng trong hoạt động ngoại thương. Vì vậy, bản thân doanh nghiệp cũng phải không ngừng nghiên cứu tìm hiểu thêm các công cụ thanh toán mới để có thể thoả mãn tốt nhất nhu cầu của mình trong giao dịch ngoại thương. Trong hoạt động này, Ngân hàng chỉ nên đóng vai trò tư vấn cho các doanh nghiệp chứ không phải là “ làm hộ ” như hiện nay vẫn làm. Các cán bộ thanh toán trong phòng Thanh toán Quốc tế có thể căn cứ vào nhu cầu mà khách hàng đặt ra để hướng dẫn họ áp dụng một phương pháp thanh toán có thể. Ngoài ra, khách hàng cũng cần phải có những thông tin phản hồi cho Ngân hàng một cách kịp thời, nhất là trong trường hợp mà chứng từ gửi đến thiếu chính xác. Sự tín nhiệm của Ngân hàng đối với khách hàng là một trong những điều kiện thuận lợi cho mọi khách hàng đến giao dịch tại Ngân hàng. Một khách hàng có mối quan hệ giao dịch thường xuyên và luôn luôn chấp hành mọi qui định của Ngân hàng chắc chắn sẽ có được những ưu tiên nhất định từ phía Ngân hàng. Do đó, trong giao dịch của mình, khách hàng nên thực hiện một cách nhanh nhất và tốt nhất những nghĩa vụ của mình đối với Ngân hàng. Như vậy trên đây là các giải pháp trước mắt cũng là lâu dài mà Ngân hàng cũng như Nhà nước cần áp dụng để có thể đẩy mạnh hoạt động Nhờ thu và Chuyển tiền của Sở nhằm có thể thu được lợi nhuận một cách lớn nhất với chi phí bỏ ra thấp nhất. Bên cạnh đó còn đáp ứng được nhu cầu mạnh mẽ của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, thúc đẩy nền kinh tế phát triển và có thể từng bước khẳng định vị trí của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Làm được như vậy, chắc chắn SGD I – NHĐT&PTVN sẽ tăng cường được chất lượng hoạt động Thanh toán Quốc tế của mình, đặc biệt là với phương thức Chuyển tiền và Nhờ thu. KẾT LUẬN Bản luận văn “ Hoàn thiện và phát triển hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức Nhờ thu và Chuyển tiền tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ”đã hoàn thành và đã giải quyết được những nội dung chính là: - Khái quát về Ngân hàng Thương mại với các hoạt động Thanh toán Quốc tế và chủ yếu là hoạt động Chuyển tiền và Nhờ thu. - Sở giao dịch I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam với hoạt động thanh toán Chuyển tiền và Nhờ thu trong các năm 2000, 2001, 2002. - Các giải pháp Sở giao dịch cần áp dụng đối với phương thức Chuyển tiền và Nhờ thu để thích nghi với nền kinh tế trong tương lai . Hy vọng với bài luận văn này với những ý kiến nhỏ bé có thể ít nhiều giúp Sở có được những giải pháp trên đường hoàn thiện. Do trình độ và thời gian có hạn nên bản luận văn không tránh được thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp của ý kiến của các thầy cô và các bạn. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNganHang 63.doc
Tài liệu liên quan