Luận văn Một số giải pháp nhằm hoàn thiên hoạt động nhập khẩu vật tư thiết bị ngành nước của công ty xây dựng cấp thoát nước – WASEENCO

Mặc dù mới chỉ bắt đầu thực hiện hoạt động nhập khẩu từ năm 1995 nhưng với sự nỗ lực của ban lãnh đạo và đặc biệt là sự đoàn kết gắn bó cùng nhau khắc phục khó khăn của tập thể cán bộ công nhân viên, công ty xây dựng cấp thoát nước WASEENCO đã đạt được những kết quả đáng mừng, đã và đang từng bước khẳng định vị trí của mình trên thị trường quốc tế. Hiện công ty là doanh nghiệp mạnh nhất trong Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam Nhập khẩu hàng hoá là một trong những hoạt động chính của WASEENCO. Công ty đã biết hướng vào kinh doanh các hàng nhập khẩu mà mình có ưu thế đó là vật tư thiết bị ngành nước. Tiềm năng phát triển mặt hàng này là rất lớn do nước ta mới ở giai đoạn đầu của quá trình công nghệp hoá hiện đại hoá đất nước nên nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng nói chung, hệ thống cấp thoát nước nối riêng là rất lớn. Trong khi đó nền công nghiệp nước ta chưa đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, vì vậy chúng ta cần nhập khẩu bổ xung. Đây chính là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu vật tư thiết bị ngành nước. Tuy nhiên nền kinh tế thị trường đã tạo ra sự cạnh tranh thực sự giữa các doanh nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực này.

doc97 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1212 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm hoàn thiên hoạt động nhập khẩu vật tư thiết bị ngành nước của công ty xây dựng cấp thoát nước – WASEENCO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bị cấp thoát nước cho nhu cầu trong nước. Do chuyên sâu về kinh doanh nhập khẩu các vật tư thiết bị ngành nước, nên cán bộ kinh doanh của công ty có thể nắm bắt được đặc tính kỹ thuật, chủng loại cũng như giá cả của từng mặt hàng mà mình kinh doanh. Chính vì vậy công ty đã tạo được ưu thế lớn trong hoạt động của mình. Công ty luôn duy trì quan hệ tốt với các địa phương trong toàn quốc và lâu dài với các Bộ Ngành và bạn hàng nước ngoài ở những thị trường truyền thống. Bên cạnh đó, hàng năm công ty vẫn không ngừng mở rộng sang các thị trường mới. Điều đó làm cho kim ngạch nhập khẩu của công ty được duy trì tăng trưởng đều qua các năm. Bên cạnh đó, 100% cán bộ phòng kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty đều có trình độ đại học trở lên, nghiệp vụ chuyên môn vững vàng, năng động trong công việc đã góp phần chủ đạo trong việc hoàn thành vượt mức kế hoạch hàng năm. 2. Những tồn tại chủ yếu Trong những năm vừa qua, bên cạnh những nỗ lực và thành tựu đã đạt được của công ty nói chung và cán bộ phòng kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng, cũng không thể phủ nhận những vướng mắc, tồn tại của công ty. Hoạt động nhập khẩu của công ty WASEENCO là hoạt động quan trọng, có kim ngạch chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của công ty. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một phòng chức năng với những cán bộ marketing giàu kinh nghiệm để lập các chiến lược chung cho hoạt động nhập khẩu. Chính vì vậy khâu marketing của công ty còn rất yếu, chỉ dừng lại ở khâu quan sát, thiếu khả năng phân tích đánh giá. Hiện nay các chuyên viên kinh doanh thường đảm nhiệm luôn việc nghiên cứu thị trường và tìm kiếm bạn hàng, do vậy kết quả còn hạn chế, chưa nắm được các đối tác lớn cũng như việc mở rộng tiếp cận thị trường mới còn chậm, chủ yếu là hoạt động ở thị trường truyền thống. Thị trường của công ty hiện nay tập trung chủ yếu vào các thị trường gần và quen thuộc như Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước ASEAN khác. Chính vì vậy chủng loại hàng hoá cũng như các chỉ tiêu kỹ thuật nhiều khi chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của thị trường trong nước. Đến nay, công ty chưa có chiến lược kinh doanh cụ thể đối với từng loại hàng nên tuy rằng đã chiếm được 60% thị phần trong nước về mặt hàng vật tư thiết bị cấp thoát nước nhưng kết quả đó vẫn chưa xứng đáng với tiềm năng của công ty. Bên cạnh đó khi xây dựng phương án kinh doanh đối với từng loại mặt hàng nhập khẩu, công ty không xây dựng phương án lãi tối thiểu, vì thế rủi ro cao, nhiều khi ảnh hưởng trực tiếp đến các công trình, làm chậm vòng quay vốn hoặc không thực hiện đủ kế hoạch, đặc biệt là đối với dự án phục hồi các nhà máy nước trong thời gian qua, do vốn OECF mỗi đợt giải ngân quá ít so với nhu cầu. Nhìn chung những vướng mắc khó khăn trên đây không chỉ xảy ra ở công ty xây dựng cấp thoát nước mà nhiều đơn vị kinh doanh nhập khẩu khác cũng đang gặp phải. Vì vậy việc tìm ra nguyên nhân để trên cơ sở đó xây dựng những giải pháp là hết sức cần thiết. 3. Những nguyên nhân của tồn tại trên a) Nguyên nhân chủ quan của doanh nghiệp + Thiếu thông tin đáp ứng kịp thời về thị trường trong và ngoài nước, hoạt động mở rộng thị trường còn chậm. Chưa tích cực nghiên cứu thị trường có tiềm năng cung ứng hàng hoá phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp nói riêng và thị trường trong nước nói chung. + Phương thức nhập khẩu chưa đa dạng, công ty chỉ thực hện ba phương thức nhập khẩu là nhập khẩu tự doanh, nhập khẩu đấu thầu và nhập khẩu uỷ thác, các hình thức khác chưa được phát huy, do vậy hạn chế về hiệu quả và kết quả của hoạt động nhập khẩu. + Về phương thức thanh toán, do công ty chủ yếu sử dụng phương thức thanh toán bằng L/C nên chi phí cao. Hơn nữa đồng tiền thanh tóan chủ yếu là USD, do đó khi có sự biến động tỷ giá của đồng tiền này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của công ty. b) Nguyên nhân khách quan: + Cơ chế thị trường đã tạo ra rất nhiều thuận lợi cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu nhưng cũng gây ra không ít khó khăn, đặc biệt đối với các doanh nghiệp quốc doanh là những đơn vị chịu ảnh hưởng nhiều của cơ chế cũ. + Thị trường thế giới trong thời gian qua có rất nhiều biến động, trong khi hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty lại phụ thuộc vào các dự án thi công quá nhiều nên không chủ động về thời gian, do vậy không nắm bắt được cơ hội kinh doanh, ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu. + Hơn nữa, vốn đầu tư nước ngoài về lĩnh vực xây dựng ngày càng giảm do sự biến động xấu của nền kinh tế toàn thế giới. Cho nên việc triển khai các dự án tại địa phương bị chậm trễ, nhiều dự án không được thực hiện. Công ty lại không đủ vốn để triển khai các dự án dạng BOT. + Hiện nay trên thị trường xuất hiện nhiều hàng kém chất lượng giá rẻ do nhập từ các thị trường khác về hoặc hàng giả có nhãn mác của các nhà sản xuất uy tín, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh về giá do vậy ảnh hưởng rất lớn đến công ty. + Một vấn đề khác từ phía nhà nước cũng gây không ít những khó khăn cho công ty, đó là vấn đề về thủ tục hành chính, thủ tục hải quan còn rườm rà, biểu thuế nhập khẩu chưa được rõ ràng làm mất thời gian thực hiện và gây những phiền toái khi làm thủ tục nhập khẩu. Hiện nay mức thuế suất tối đa cho hàng nhập khẩu đã giảm nhưng vẫn còn nhiều nhược điểm như: sử dụng nhiều mức thuế, thuế suất thường xuyên thay đổi, phí và lệ phí tăng lên…đã gây khó khăn không nhỏ trong việc làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp. + Thời gian thực hiện hợp đồng của công ty nói chung thường dài do vậy trước sự biến động không ngừng của thị trường thế giới, công ty rất khó có thể chủ động về mặt thời gian, do đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kinh doanh. + Như vậy trong thời gian qua, hoạt động nhập khẩu của công ty đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ nhưng bên cạnh đó vãn còn tồn tại không ít những vướng mắc. Do vậy việc tìm ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu nói riêng và hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty nói chung là rất cần thiết. Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu vật tư thiết bị ngành nước của công ty xây dựng cấp thoát nước Trong những năm qua, hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty đã đạt được những kết quả khá tốt, không chỉ đem lại lợi nhuận cao mà còn đem lại uy tín cho công ty, tạo nền tảng quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của công ty. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều yếu tố gây khó khăn, ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu của công ty như sự thay đổi nhanh chóng thiết bị công nghệ, sự xâm nhập của các công ty nước ngoài vào thị trường Việt Nam ngày càng nhiều, đặc biệt sau khi Mỹ bãi bỏ cấm vận đối với nước ta, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam gia nhập AFTA… điều đó đã làm thay đổi cục diện giữa nước ta với các nước khác trên thị trường thế giới, đặc biệt là các nước ASEAN. Bên cạnh đó, thị trường của ta chưa ổn định, hệ thống luật pháp chưa hoàn thiện cũng gây ra không ít khó khăn, ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp nói chung và WASEENCO nói riêng. Thành tựu đạt được trong những năm qua đã không những đáp ứng được nhu cầu về vật tư thiết bị cho công tác thi công của công ty mà còn thực hiện hoạt động kinh doanh thương mại vật tư thiết bị cấp thoát nước, mang lại lợi nhuận cao, đóng góp một phần quan trọng vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. Những tồn tại trên cũng là những vấn đề cần giảỉ quyết ngay. Để có thể đứng vững phát triển và hoàn thiện hoạt động nhập khẩu vật tư thiết bị, công ty cần có phương hướng và giải pháp cụ thể dựa trên cơ sở kế thừa và đổi mới hoạt động nhập khẩu của mình phù hợp với xu hướng biến động thị trường trong và ngoài nước, cũng như phù hợp với phương hướng, kế hoạch của công ty trong thời gian tới. I.Triển vọng thị trường và phương hướng nhập khẩu trong thời gian tới. 1) Triển vọng thị trường : Nền kinh tế Việt Nam đã và đang mở rộng quan hệ buôn bán với nước ngoài theo phương thức và tập quán thương mại quốc tế , đồng thời tích cực tham gia các tổ chức kinh tế trong khu vực và trên thế giới như hiệp hội các nước Đông nam á (ASEAN), khu vực mậu dịch tự do AFTA và đặc biệt, Việt Nam đang trong quá trình đàm phán để gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO… Tạo thành động lực thúc đẩy hoạt động nhập khẩu của mỗi quốc gia thành viên. Triển vọng của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập nền kinh tế được thể hiện ở chỗ: quá trình hội nhập kinh tế của mỗi nước sẽ thúc đẩy cơ hội tìm kiếm thị trường mới các nước thành viên bằng các cam kết về những ưu đãi và lịch trình cắt giảm thuế quan ở mỗi nước. Điều này một mặt sẽ khuyến khích khả năng nhập khẩu của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế, mặt khác sẽ giúp cho việc giải quyết các thủ tục nhập khẩu được thực hiện nhanh chóng hơn. Hơn nữa, trong công cuộc CNH- HĐH đất nước, nhiệm vụ trung tâm của ngành xây dựng là hiện đại hoá hệ thống cơ sở hạ tầng, trang thiết bị kỹ thuật… phục vụ hoạt động phát triển kinh tế và cải thiện mức sống của dân cư. Đây là những mục tiêu được xã hội đặc biệt quan tâm. Để thực hiện CNH-HĐH, theo kế hoạch dự kiến năm 2002 tổng kim ngạch nhập khẩu của nước ta sẽ đạt khoảng 15 tỷ USD trong đó nhóm mặt hàng maý móc thiết bị chiếm khoảng 22% tổng kim ngạch nhập khẩu. Nhóm nguyên vật liệu chiếm khoảng 72,2%. Như vậy, trong giai đọan hiện nay nước ta có nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu rất lớn. Vì vậy có thể nói rằng CNH-HĐH đã mở ra rất nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia nhập khẩu trong nền kinh tế. 2) Phương hướng nhập khẩu trong thời gian tới. *Chính sách nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian tới. Căn cứ vào mục tiêu chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội, căn cứ vào yêu cầu nhập khẩu phải vừa đảm bảo phù hợp với lợi ích của xã hội vừa tạo ra lợi nhuận cho các doanh nghiệp, chung và riêng phải hài hoà với nhau, chính sách nhập khẩu của nước ta trong thời gian tới là: + Tập trung nhập khẩu công nghệ- kỹ thuật vật tư phục vụ cho hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu dùng (xăng dầu, phân bón, sắt thép bông, dụng cụ phụ tùng, thiết bị toàn bộ, dây truyền sản xuất máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ phục vụ cho nông, lâm, ngư, công nghiệp). + Nhập khẩu hàng tiêu dùng thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ tiêu dùng. + Không được nhập khẩu những hàng tiêu dùng xa xỉ, vật tư hàng hoá mà trong nước đã sản xuất được. Đồng thời hoạt động nhập khẩu phải đáp ứng các yêu cầu sau: > Tiết kiệm và sử dụng vốn nhập khẩu đạt hiệu quả cao.Trong điều kiện nhu cầu nhập khẩu để công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế ngày càng lớn, vốn để nhập khẩu lại eo hẹp thì tiết kiệm và hiệu quả là vấn đề cơ bản của quốc gia, cũng như của mỗi doanh nghiệp, đòi hỏi các cơ quan quản lý và mỗi doanh nghiệp phải: >Xác định mặt hàng nhập khẩu phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội , khoa học kỹ thuật của đất nước và của nhân dân. >Giành ngoại tệ cho việc nhập khẩu vật tư thiết bị để phục vụ cho sản xuất những mặt hàng xét thấy có lợi hơn. >Nghiên cứu thị trường để nhập khẩu được hàng hoá thích hợp về giá cả, phù hợp với tình hình sản xuất nhằm nâng cao đời sống nhân dân. >Nhập khẩu thiết bị kỹ thuật tiên tiến hiện đại. >Việc nhập khẩu máy móc thiết bị và chuyển giao công nghệ, kể cả thiết bị qua con đường đầu tư hay viện trợ đều phải nắm vững phương châm đón đầu, đi thẳng và tiếp thu công nghệ hiện đại. Nhất thiết không vì tiết kiệm mà nhập các thiết bị cũ, lạc hậu chưa sử dụng được bao lâu đã phải thay thế. Không thể biến nước ta thành “bãi rác” của các nước phát triển. > Bảo vệ sản xuất trong nước và tăng nhanh xuất khẩu. Trong điều kiện các ngành công nghiệp còn non kém của Việt Nam, giá hàng nhập khẩu thường rẻ hơn, chất lượng tốt hơn trong nước. Nhưng nếu chỉ nhập mà không chú ý tới sản xuất trong nước sẽ làm cho ngành công nghiệp trong nước không phát triển được. Vì vậy, cần tính toán và tranh thủ các lợi thế của nước ta trong từng thời kỳđể bảo hộ và mở rộng sản xuất trong nước vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa vừa tạo được nguồn hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường ngoài nước. Trên cơ sở triển vọng thị trường trong những năm tới và chính sách nhập khẩu của Nhà nước, công ty xây dựng cấp thoát nước đã đề ra phương hướng nhiệm vụ về mọi mặt trong đó có hoạt động nhập khẩu với phương châm mang lại lợi nhuận, cải thiện đời sống nhân dân và thực hiên triệt để chính sách của nhà nước. * Phương hướng hoạt động nhập khẩu của công ty trong thời gian tới. Mục tiêu phát triển của công ty xây dựng cấp thoát nước là xây dựng công ty trở thành một doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn, tiếp tục đổi mới kinh doanh theo cơ chế thị trường, mở rộng địa bàn kinh doanh trên toàn quốc, phấn đấu tăng cường hoạt động liên doanh liên kết trong nước và nước ngoài, tăng tỷ trọng chiếm lĩnh thị trường trong lĩnh vực máy móc thiết bị ngành nước nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Trong những năm tới, quá trình hoạt động kinh doanh của công ty hướng và việc thực hiện 3 mục tiêu chính: -Nâng cao hiệu quả kinh doanh, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước. -Bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh -Không ngừng nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên. Trên cơ sở những kết quả đạt được trong năm qua, với tinh thần hăng hái thi đua đẩy mạnh sản xuất kinh doanh góp phần xây dựng công ty ngày càng lớn mạnh, công ty đã đề ra mục tiêu chủ yếu cho những năm tới như sau: +Đảm bảo đáp ứng kịp thời nhu cầu vật tư thiết bị phục vụ cho hoạt động thi công xây lắp của công ty. +Đối với những nhà máy nước là khách hàng của công ty cần tiếp tục duy trì mối quan hệ bạn hàng, thường xuyên theo dõi và nắm bắt những những nhu cầu phát sinh để có kế koạch cung ứng kịp thời. +Nghiên cứu và mở rộng các văn phòng đại diện của công ty trên khắp mọi miền tổ quốc mà trước hết là các thành phố lớn và các tỉnh lân cận. Nắm rõ sự biến động của thị trường, xác định nhanh chóng và chính xác nhu cầu mới xuất hiện để có phương hướng đáp ứng kịp thời. +Sắp xếp các kênh phân phối hợp lý với quy mô ở từng khu vực. Cần tập trung kinh doanh những mặt hàng có nhãn hiệu uy tín, chất lượng và giá cả hợp lý. +Tích cực mở rộng mối quan hệ với các khách hàng trong và ngoài nước, đặc biệt là những công ty trong ngành xây dựng nói chung và các công ty trực Tổng công ty nói riêng để cung cấp những thiết bị mà công ty có lợi thế trong nhập khẩu. +Chú trọng đến những mặt hàng có ưu thế, có khả năng liên doanh liên kết với các hãng trực tiếp sản xuất ở thị trường nước ngoài, hướng nhập khẩu vào phục vụ sản xuất như nhập khẩu các loại nguyên liệu để có thể tiến tới liên doanh sản xuất hàng xuất khẩu. Trong quan hệ với bạn hàng cần có các giao dịch trực tiếp với các nhà cung cấp lớn và có uy tín, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động nhập khẩu , làm sao cho sự gắn bó giữa nhà sản xuất và công ty trở nên thân thiết hơn để tạo thuận lợi cho mua bán. Từ nay đến năm 2010 công ty phấn đấu đạt mức tăng trưởng bình quân hàng năm từ 10% - 15%, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động liên doanh liên kết với các hãng trực tiếp sản xuất, phải quan tâm nhập vật tư thiết bị máy móc tiên tiến trên cơ sở tiết kiệm chi phí, ngoại tệ, khuyến khích sản xuất trong nước phát triển, đáp ứng kịp thời nhu cầu của công ty và thị trường trong nước. II. Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu của công ty WASEENCO. Kinh doanh xuất nhập khẩu là hoạt động phổ biến của mọi nền kinh tế. Đối với Việt Nam, hoạt động này chỉ thực sự khởi sắc từ khi chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đã đem lại những lợi ích to lớn cho nền kinh tế. Họ là những người trung gian, là cầu nối giữa người mua trong nước và người bán nước ngoài. Để làm tốt nhiệm vụ này cần có sự phối hợp hoàn thiện không ngừng các chính sách của mỗi doanh nghiệp. 1.Biện pháp đối với công ty : a) Tăng cường phương thức nhập khẩu: Cho đến nay phương thức nhập khẩu chủ yếu của công ty là nhập khẩu tự doanh, nhập khẩu uỷ thác và nhập khẩu đấu thầu. Để tăng kim ngạch nhập khẩu công ty nên kết hợp nhiều phương thức khác nhau đặc biệt là phương thức nhập khẩu liên doanh để không bỏ lỡ cơ hội, nhất là các hợp đồng lớn trong điều kiện công ty đang cần vốn lưu động. Hoặc sử dụng phương thức hàng đổi hàng để vừa nhập được hàng mình lại vừa xuất khẩu được hàng hoá ra nước ngoài, thu lãi kép. Việc đẩy mạnh các phương thức nhập khẩu sẽ tạo ra sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước với công ty, trên cơ sở đó mở rộng thị trường hoạt động của công ty. b) Đẩy mạnh nghiên cứu và mở rộng thị trường. Vấn đề mở rộng thị trường kinh doanh bao gồm mở rộng thị trường đầu ra và thị trường nhập khẩu. *Thị trường đầu ra: Trước hết, ta có thể thấy rõ thị trường là vấn đề sống còn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, và càng trở nên quan trọng hơn trong giai đoạn hiện nay. Công ty luôn phải nghiên cứu, tìm hiểu các chính sách tiếp cận thị trường một cách đúng đắn nhất. Việc quan tâm xây dựng thị trường hoạt động rộng lớn là điều không thể thiếu đối với bất kỳ các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu . Để củng cố vị trí của công ty đồng thời để tăng doanh số tiêu thụ, việc nghiên cứu khách hàng và thị trường tiêu thụ là việc làm hết sức cần thiết. Có đầu ra thì mới tiếp nhận đầu vào, tức là có khả năng tiêu thụ thì mới tiến hành nhập khẩu. Do vậy, đòi hỏi công ty phải nắm được chính xác những thông tin về thị trường tiêu thụ để nhập khẩu các mặt hàng phù hợp với yêu cầu của khách hàng về hàng hoá, đồng thời cung ứng một cách nhanh nhất với chi phí thấp nhất. Vấn đề này phụ thuộc vào chuyên môn của người nghiên cứu. Đối với công ty, có thể nghiên cứu thị trường bằng cách phân loại trên thị trường sau dó tiến hành nghiên cứu, tiếp cận với từng nhóm. Khách hàng của công ty có thể chia làm ba nhóm: Nhóm khách hàng mua lặp lại không có sự thay đổi: khách hàng nhóm này chủ yếu là các nhà máy nước. Họ mua hàng theo định kỳ sản xuất, các đơn đặt hàng của họ hầu như không thay đổi về mặt chủng loại hàng, chất lượng và các chỉ tiêu kỹ thuật của hàng hoá. Đó là những loại hàng có thời gian khấu hao ngắn, cần phải sửa chữa và thay thế thường xuyên (van, đồng hồ đo nước, máy bơm,…) đối với các loại khách hàng này cần phải duy trì chất lượng hàng hóa, cũng như đáp ứng đầy đủ nhu cầu khách hàng một cách tốt nhất. Bên cạnh đó, công ty cần áp dụng chính sách giá ưu đãi nhằm củng cố mối quan hệ làm ăn lâu dài. Nhóm khách hàng mua lặp lại có sự thay đổi: ở nhóm này, đơn đặt hàng là thường xuyên lặp đi lặp lại, những hàng hoá họ yêu cầu có sự thay đổi liên quan đến tính năng, công suất, chất lượng… của hàng hoá. Đó thường là các đơn đặt hàng về những thiết bị mới hay những phụ kiện kèm theo. Việc mua lặp lại có sự thay đổi của những khách hàng này dẫn đến mở rộng phạm vi cung ứng của công ty. Nhiệm vụ công ty là duy trì chất lượng của hàng hoá dich vụ, đa dạng hoá chủng koại hàng nhập khẩu. Công ty cần sử dụng các biệt pháp thu hút khách hàng và chứng minh khả năng của công ty hơn hẳn những nhà cung ứng khác. Công ty không chỉ dừng lại ở việc tiếp nhận và thoả mãn nhu cầu khách hàng mà phải khơi dậy các nhu cầu đó. Biện pháp nên sử dụng là quảng cáo, trào hàng cung cấp những thông tin về hàng hoá mới. Chứng minh được những ưu điểm của hàng hoá này so những hàng hoá mà khách hàng đang sử dụng. Nhóm khách hàng mua lần đầu:Số lượng khách hàng trong nhóm này lớn. Khách hàng trong nhóm này thường thu thập một lượng thông tin lớn về các sản phẩm cùng loại, các nhà cung ứng trên thị trường. Tình huống mua hàng không nhiều nhưng khối lượng mua thường lớn và có nhiều người cùng tham gia vào quyết định mua. Điều quan trọng đối với các doanh nghiệp là phải tạo được ấn tượng tốt để tạo mối quan hệ làm ăn lâu dài với khách hàng. Đối với ngành nước, nhu cầu về vật tư thiết bị phụ thuộc vào nhu cầu tiêu dùng nước, nhu cầu lắp đặt hệ thống cấp thoát nước của các địa phương, thành phố và khu công nghiệp. Nhu cầu này sẽ tăng lên cùng với đà tăng trưởng kinh tế của cả nước. Người mua hàng vật tư thiết bị thường cử người có chuyên môn đi chọn lựa hàng hoá nhưng quyết định cuối cùng thuộc về họ. Thành phần của bộ phận điều hành nhóm mua hàng có thể có những người mua hàng, có thể có những người trực tiếp sử dụng hàng, những người lãnh đạo quản lý. Vì vậy công ty cần tìm hiểu về vai trò của người đi mua hàng và đối với họ yếu tố nào ảnh hưởng lớn đến quyết định mua hàng. *Thị trường đầu vào: Trước đây, trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, việc tìm hiểu thị trường nước ngoài là không quan trọng vì hoạt động xuất nhập khẩu chủ yếu được thực hiện trên cơ sở các nghị định giữa chính phủ nước ta với nước người. Bạn hàng của ta chỉ bó hẹp trong các nước Xã hội chủ nhhĩa. Nay chuyển sang cơ chế thị trường, các đơn vị phải hạch toán độc lập nên việc nghiên cứu và lựa chon thị trường nhập khẩu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng tới kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay thị trường nhập khẩu cuả công ty mới chỉ dừng lại ở Nhật bản, Hàn quốc và một số nước ASEAN khác mà thực sự đi sâu vào thị trường các nước phát triển ở Tây âu. Đây chính là một hạn chế của công ty bởi thị trường các nước phát triển hứa hẹn cung cấp nhiều loại mặt hàng có chất lượng tốt, tiên tiến hiện đại. Để mở rộng sang các thị trường này, công ty có thể nghiên cứu thu thập thông tin qua cá cơ quan tham tán của nước ta ở nước ngoài cũng như các văn phòng đại diện của Tổng công ty ở nước ngoài. Mặt khác công ty có thể tiến hành thu thập thông tin qua các cơ quan tham tán của nước ngoài đặt tại Việt Nam, các lãnh sự quán, các văn phòng đại diện… c) Hoàn thiện nghiệp vụ nhập khẩu . Đối với một doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu thì đội ngũ cán bộ kinh doanh phải là những người có trình độ giỏi để có thể ký kết hợp đồng ngoại thương. Đó không chỉ là điều kiện để doanh nghiệp đứng vững trên thị trường mà còn là điều kiện để được chính phhủ Việt Nam cấp giấy phép đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu. Với WASEENCO điều này là bình thường vì 100% cán bộ làm việc tại phòng kinh doanh xuất nhập khẩu đều có trình độ đại học. Tuy nhiên điều quan trọng là ở chỗ vận dụng những kiến thức và nghiệp vụ ngoại thương đó vào điêù kiện thực tế đó như thế nào. Về trình tự thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thì đây là những quy định chung của chính phủ, chúng ta không hy vọng có thể thay đổi trong thời gian ngắn. Do đó cần phải quen với công việc này, điều đó sẽ giúp chúng ta tiết kiệm công sức, thời gian và chi phí. Qua trình tự thực hiện hợp đồng nhập khẩu ở công ty có thể đưa ra một số kiến nghị như sau: Thứ nhất, việc làm thủ tục nhập khẩu là việc làm thường xuyên, lặp đi lặp lại. Chính vì vậy nên phân công cho một bộ phận chuyên lo thủ tục giấy tờ, như thế họ sẽ có điều kiện làm quen với công việc, hoạt động của các phòng ban sẽ hiệu quả hơn. Bộ phận chuyên lo thủ tục giấy tờ cần phải trau dồi nghiệp vụ ngoại thương, kịp thời nắm bắt những văn bản, chính sách mới của chính phủ có liên quan đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Đồng thời cần tìm hiểu kỹ tập quán thương mại quốc tế trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu để thông hiểu những quy định mới trong buôn bán quốc tế. Trong quá trình thực hiện hợp đồng ngoại thương, những khâu thường gây ách tắc cản trở đó là xin giấy phép nhập khẩu, làm thủ tục hải quan và giải quyết khiếu nại. Để khắc phục hạn chế trên thì thì việc đầu tiên phải hoàn thiện là cung cấp đầy đủ các giấy tờ cần thiết theo quy định. Nghiêm chỉnh chấp hành luật pháp về những mặt hàng được phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Và việc ký kết hợp đồng cần phải được thực hiện một cách đầy đủ, chặt chẽ các thông số kỹ thuật, chất lượng, giá cả vì đây chính là những kẽ hở thường dẫn đến tranh chấp và khiếu nại. Ngoài ra, việc thiết lập bộ phận chuyên viên lo thủ tục giấy tờ còn cho phép tạo lập mối quan hệ thân thiết, tin tưởng lẫn nhau với người phê duyệt thủ tục, các ngân hàng và nhà cung cấp nước ngoài cũng như những người trung gian khác. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn rất nhiều trong quá trìng thực hiện kinh doanh xuất nhập khẩu. Thứ hai, việc tiếp nhận hàng hoá thường phát sinh trường hợp đổ vỡ, mất cắp… dẫn đến tranh chấp, khiếu nại mất rất nhiều thời gian. Chính vì vậy, cần phải thành lập một tổ chuyên trách về giao nhận hàng hoá. Khi đã chuyên vào việc này, họ sẽ tích luỹ được kinh nghiệm để tránh thiệt hại mất mát hàng hoá đồng thời sẽ tạo lập mối quan hệ với các cơ quan cảng vụ và trên cơ sở đó sẽ tạo thuận lợi hơn trong việc bảo quản, tiếp nhận hàng hoá, lưu kho bãi.. Tóm lại, điều kiện tiên quyết trong việc hoàn thiện hoạt động nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu là nâng cao kiến thức về ngoại thương cũng như trau dồi kinh nghiệm cho các cán bộ thực hiện hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. d) Hoàn thiện chính sách marketing. Các chính sách Marketing là công cụ kinh doanh cơ bản, đóng vai trò quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng đều phải quan tâm đến 3 vấn đề: sản xuất kinh doanh loại hàng hoá dịch vụ nào, như thế nào và cho ai ? Chỉ khi thực sự xác định được các vấn đề đó thì doanh nghiệp mới biết cần phải hành động ra sao. Những qưuyết định Marketing đúng sẽ cho phép giải quyết các vấn đề trên. Vì vậy việc nghiên cứu hoàn thiện chính sách Markeing là công việc cần thiết cho mọi doanh nghiệp. Cụ thể đối với chiến lược marketing của công ty cần phải hoàn thiện một số chính sách như sau: Hoàn thiện chính sách sản phẩm: Thế mạnh của WASEENCO là nhập khẩu vật tư thiết bị chuyên ngành nước. Vì vậy chủng loại vật tư thiết bị ngành nước chính là mặt hàng chủ lực của công ty. Thực tế cho thấy, trong những năm qua chủng loại hàng chuyên ngành nước chiếm một tỷ trọng chủ yếu trong kim ngạch nhập khẩu và lợi nhuận từ hoạt động này của công ty. Điều này cho thấy công ty đã xác định đúng mặt hàng chủ lực trong kinh doanh nhập khẩu. Trong thời gian tới, tình hình thị trường có nhiều biến động, áp lực cạnh tranh sẽ ngày càng tăng cùng với việc xuất hiện nhiều các nhà cung ứng trong nước, các nhà cung ứng liên doanh giữa doanh nghiệp Việt Nam với các nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí cả các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng tham gia. Vì vậy để đứng vững trên thị trường thì ngoài việc giữ những khách hàng truyền thống công ty cần không ngừng nghiên cứu thay đổi chủng loại hàng hoá, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa chủng loại hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Vấn đề nổi bật trong chính sách sản phẩm là mối quan hệ chi phối của nhu cầu thị trường trong nước đối với thị trường nhập khẩu. Trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, xu hướng nhập khẩu máy móc thiết bị từ các nước Châu á gia tăng rõ rệt. Có nhiều lý do để giải thích hiện tượng này trong đó có một số lý do chính như sau: Thứ nhất, các quốc gia như Nhật bản. Hàn quốc, Trung quốc và một số nước khác trong hiệp hội ASEAN có rất nhiều điểm tương đồng về khí hậu, văn hoá,… Thứ hai, máy móc thiết bị của các nước này cũng tương đối hiện đại, chất lượng ổn định và phù hợp với Việt Nam. Thứ ba, do khoảng cách địa lý gần nên chi phí vận chuyển tương đối rẻ so với các nước phương tây, chính vì vậy sẽ giảm thấp được chi phí nhập khẩu nói chung. Tuy nhiên các nhà nhập khẩu cũng cần phải lưu ý đến xu hướng bão hoà đối với vật tư thiết bị máy móc trong ngành xây dựng. Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay, chính sách sản phẩm của công ty tập trung vào việc đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng hàng nhập khẩu để kích thích nhu cầu sử dụng vật tư thiết bị mà công ty cung cấp. Hoàn thiện chích sách giá cả: Trong kinh tế thị trường cạnh tranh là tất yếu, cạnh tranh diễn ra găy gắt không chỉ về sản phẩm mà còn về giá cả. Giá cả sẽ quyết định đến khả năng tiêu thụ sản phẩm, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vì vậy, để chiến thắng trong cạnh tranh, cần có một chính sách gía hợp lý. Để hoàn thiện chính sách giá cả, trước hết công ty cần tính toán hiệu quả một lô hàmg xuất hay nhập, căn cứ vào các khoản chi phí phát sinh, thuế… để định giá sản phẩm. Hiện nay cạnh tranh trên thị trường nguyên vật liệu là rất gay gắt. Vì vậy doanh nghiệp cần từng bước thực hiện giảm chi phí lưu thông và các khoản khác để có được một mức giá bán ra hợp lý. Hoàn thiện chính sách phân phối: Do tính đặc thù của loại máy móc thiết bị xây dựng, ta thấy rằng việc sử dụng kênh phân phối ngắn là hợp lý. Tuy nhiên bên cạnh đó cần tổ chức tốt dịch vụ sau bán hàng như hướng dẫn lắp đặt, vận hành, bảo dưỡng … Công ty cần tổ chức đội bảo dưỡng, hướng dẫn lắp đặt, vận hành. Có như vậy việc tiêu thụ hàng nhập khẩu về sẽ đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó cần nâng cấp hệ thống kho hàng. Hiện nay hệ thống các kho này bị quá tải, khả năng lưu trữ các loại máy móc thiết bị có giá trị cao bị hạn chế, gây ảnh hưởng đến hoạt động phân phối. Trong giai đoạn hiện nay, điều cần làm là phải phát triển hệ thống kho theo chiều sâu, nghĩa là phải nâng cấp kho chứa. Cụ thể, đối với kho chứa máy móc thiết bị cần cải tạo lại, xây dựng lại hệ thống mái che để chống rỉ sét, ô xi hóa… Đối với vật liệu xây dựng cần cải tạo hệ thống thiết bị an toàn, hoạt động kiểm kê, bốc xếp, bảo quản hàng hoá… Cần thành lập đội vận tải cho công ty, như vậy việc giao nhận, vận chuyển hàng hoá sẽ chủ động hơn. Hoàn thiện chính sách xúc tiến hỗn hợp: Đó là cách tiếp cận đối với khách hàng, sử dụng phương thức này có nhiều cách khác nhau để những thông tin về công ty đến được với khách hàng. Cụ thể như công ty đã thiết kế biểu tượng riêng. Đây là điều rất tốt vì nhờ đó mà khách hàng và bạn hàngnhớ đến công ty dễ dàng hơn. Công ty nên in cuốn cẩm nang về hình ảnh của công ty rồi giao cho các văn phòng đại diện, chi nhánh để phát cho khách hàng với mục đích hướng dẫn và quảng cáo khi cần thiết Trong chính sách xúc tiến hỗn hợp bao gồm nhiều hoạt động khác như: xúc tiến bán hàng, quảng cáo, hội nghị khách hàng… Trong các hoạt động trên thì hoạt động quảng cáo là cần thiết và cần được hoàn thiện. Kiến nghị này tập trung vào việc thiết kế thông điệp quảng cáo sử dụng phương tiện báo chí và mạng Internet. Hiện nay công ty đã có trang Web riêng nhưng vẫn còn rất sơ sài. Chưa thực sự nêu bật được vai trò chức năng của công ty trước công chúng. Đối với phương tiện Internet, công ty có thể thiết kế một trang quảng cáo như sau: Công ty xây dựng cấp thoát nước – WASEENCO Địa chỉ: 52 Quốc Tử Giám- Hà Nội. Điện thoại: (84.04) 7472982- 7477478- 8231171 Fax: 84.4.8431346 Email: Waseenco@fpt.vn Trong trang chủ này cần thiết kế danh mục các trang tiếp theo như sau: •Lịch sử về công ty •Lĩnh vực hoạt động •Danh mục các công trình đã thi công của công ty •Chính sách nhân sự trong công ty …. Tất cả đều được truyền tải dưới dạng tiếng Anh và tiếng Việt. Thông qua phương tiện này và đặc biệt nếu có thêm sự quảng cáo ở các trang Web nổi tiếng như vnn.vn hay yahoo.com, …thì hình ảnh của công ty không chỉ đọng lại trong tâm chí khách hàng trong nước mà còn biết đến bởi nhiều khách hàng trên toàn thế giới. e) Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ. •Thành lập và xúc tiến hoạt động của phòng Marketing. Trong cơ chế thị trường luôn chứa đựng tính cạnh tranh khốc liệt như ngày nay thì hoạt động Marketing là không thể thiếu được nhằm thúc đẩy, hỗ trợ cho việc nhập khẩu và tiêu thụ hàng hoá, tăng doanh thu từ hoạt động bán hàng, nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung và kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng. Hoạt động marketing sẽ tiến hành phân tích, nghiên cứu thị trường đầu ra và đầu vào. soạn thảo chương trình Marketing- Mix với các chính sách cụ thể sẽ có tác động mạnh tới quá trình kinh doanh nhập khẩu của công ty. Xuất phát từ thực trạng hoạt động của công ty nói chung và hoạt động nhập khẩu vật tư thiết bị nói riêng, công ty cần nhanh chóng thành lập cơ quan chức năng marketing của công ty. ở Việt Nam hiện nay, có thể nói hoạt động marketing thường gộp với hoạt động của phòng kinh doanh tổng hợp. Đối với những doanh nghiệp có quy mô lớn như công ty thì điều này tỏ ra không phù hợp. Hiện nay phòng kinh doanh xuất nhập khẩu của WASEENCO thực hiện luôn cả chức năng Marketing, nên hoạt động Marketing của công ty là rất hạn chế. Hơn nữa, nhiệm vụ của phòng kinh doanh xuất nhập khẩu lại rộng, vừa phải nghiên cứu hợp đồng kinh tế, đấu thầu, lập kế hoạch kinh doanh … Do vậy không có đủ thời gian và nhân sự để có thể làm tốt cả hai công việc cùng môt lúc. Tuy nhiên, tổ chức và cơ cấu lại bộ máy quản lý trong công ty là một việc làm khó khăn vì như vậy có thể làm đaỏ lộn tập quán, thói quen làm việc được hình thành từ lâu, gây cản trở cho nội bộ công ty. Nhưng lợi ích đem lại từ hoạt động này lại rất lớn, nên việc thành lập bộ phận marketing là một yêu cầu cấp bách hiện nay mà công ty phải thực hiện. Trên cơ sở đội ngũ công nhân viên hiện có và nghiên cứu bộ máy tổ chức thực tế của công ty, ý kiến này xin được đề xuất mô hình phòng Marketing như sau: Trưởng phòng Marketng Bộ phận nghiên cứu và chỉ đạo marketng Bộ phận nghiên cứu thị trường Thị trường nước ngoài Thị trường trong nước Xây dựng chiến lược Kiểm tra, tổng hợp số liệu Phòng Marketing sẽ bao gồm 10 người, một trưởng phòng và hai phó phòng phụ trách hai bộ phận nghiên cứu thị trường và chỉ đạo thực hiện hoạt động marketing. Bộ phận nghiên cứu thị trường gồm hai nhân viên nghiên cứu thị trường trong nước và hai nhân viên nghiên cứu thị trường nước ngoài. Bộ phận nghiên cứu chỉ đạo thực hiện gồm hai nhân viên xây dựng chiến lược va một nhân viên kiểm tra, tổng hợp số liệu. Nhiệm vụ cụ thể: •Trưởng phòng: lãnh đạo chung và quản lý hai bộ phận chức năng, đưa ra các chiến lược marketing cụ thể, tổng hợp thông tin từ đó lên kế hoạch cho mỗi nhóm. •Hai phó phòng: chịu trách nhiệm hoạt động của bộ phận mình, phối hợp cùng trưởng phòng để chỉ đạo công tác marketing. •Bộ phận nghiên cứu thị trường: Gồm bốn nhân viên và một phó phòng phụ trách. Bộ phận này có nhiệm vụ thu thập số liệu, thông tin có chọn lọc ở từng thị trường, từng khách hàng và tìm hiểu hoạt động của đối thủ cạnh tranh, tổng hợp các thông tin khác để kết hợp với nhóm nghiên cứu marketing, tiến hành nghiên cứu, phân tích và xây dựng các chiến lược hoạt động. •Bộ phận nghiên cứu và chỉ đạo thực hiện: sẽ xử lý các số liệu thông tin được cung cấp, từ đó vạch ra chiến lược hoạt động, thông qua ban lãnh đạo của công ty rồi trực tiếp chỉ đạo thực hiện. Sau khi tổng hợp thông tin từ bộ phận nghiên cứu thị trường và bộ phận xây dựng chiến lược, nhân viên của khâu kiểm tra tổng hợp số liệu, tóm tắt các các chiến lược hoạt động, báo cáo cho phó phòng phụ trách sau đó sẽ báo cáo lên trưởng phòng và giám đốc công ty. Giám đốc sẽ xem xét chiến lược và bổ xung, sửa chữa để chiến lược hoàn thiện hơn nhằm tăng hiệu quả của hoạt động marketing. Vấn đề còn lại là ngân sách cho hoạt động marketing: Đây là yếu tố quyết định hiệu quả kinh doanh và thông thường ngân sách cho hoạt động marketing gắn với thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trong giai đoạn mới thành lập phòng marketing, công ty nên dành một khoản kinh phí nhất định hàng năm cho phòng này. Sau khi đi vào hoạt động ổn định, kinh phí nên tính theo một tỷ lệ % nhất định từ lợi nhuận hàng năm của công ty. Về mặt định lượng, nếu như tính cả các khỏan tiền lương, kèm theo chi phí phương tiện, văn phòng … cho hoạt động marketing có thể lên tới hàng trăm triệu. Con số này cho phòng marketing là không nhỏ. Tuy nhiên, so với mặt lợi nhuận hàng năm mà nhờ có hoạt động marketing công ty thu được thì con số này là không lớn. Trên cơ sở thành lập phòng marketing, sơ đồ tổ chức mới được tổ chức như sau: Nguồn thông tin của phòng marketing có thể thu thập từ các nguồn sau: •Thông tin nội bộ: Nghiên cứu về máy móc thiết bị nảy sinh ở các doanh nghiệp cùng ngành. Mặt khác, các chủ trương kế hoạch hàng năm của Bộ xây dựng là những thông tin quan trọng giúp cho việc định hướng kinh doanh của công ty. Thêm vào đó là các thông tin từ chính công ty như các báo cáo về tình hình hoạt động kinh doanh của công ty và chi nhánh, báo cáo về tình hình hàng tồn kho… Nhìn chung các thông tin nội bộ cho phép ta đánh giá được các nguồn lực cũng như các biến động trong ngắn hạn. •Thông tin từ các công ty tư vấn: Công ty tư vấn là các đơn vị sẽ cung cấp thông tin về các cuộc nghiên cứu, khảo sát thiết kế, thi công xây lắp, máy móc thiết bị, vật liệu xây dựng …Vì vậy, công ty cần tăng cường mối quan hệ với các công ty này như Vinaconsult, phòng thông tin phát triển kinh tế của WB… •Thông tin từ khách hàng: Những yêu cầu hay nhận xét của khách hàng là những thông tin chi tiết, khách quan, có độ tin cậy cao. Các công ty danh tiếng trên thế giới như HONDA, MOTOROLA,… cũng thành công trong sản xuất kinh doanh là nhờ thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Để thu thập thông tin từ khách hàng, công ty có thể sử dụng các biện pháp như tổ chức hội nhị khách hàng, gửi phiếu góp ý… •Các nguồn thông tin khác: Các nguồn thông tin được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng như: phát thanh, truyền hình,… là những thông tin thứ cấp, có thể giúp công ty đánh giá khái quát về thị trường. Các nguồn thông tin thu thập được cần phải được xử lý để có kết luận thì mới có thể đạt được kết quả vì dự đoán thị trường là công việc rất phức tạp. •Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ: Trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, việc cập nhật các kiến thức kinh tế, kỹ thuật, xã hội đối với một cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, nền kinh tế thế giới đang phát triển theo xu hướng toàn cầu hoá. Việc kinh doanh xuất nhập khẩu lại thường xuyên giao dịch với bạn hàng nước ngoài, đòi hỏi các nhân viên kinh doanh phải hiểu biết trên tất cả các lĩnh vực. Chính vì vậy, vấn đề nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu là hết sức quan trọng. Trước mắt, để hoàn thiện nguồn nhân lực, công ty phải chăm lo bồi dưỡng kiến thức, nâng cao trình độ cho nhân viên từ tư tưởng đến quán triệt nhiệm vụ, nắm vững tình hình cơ chế chính sách. Quan tâm đào tạo cán bộ trẻ có đủ phẩm chất và năng lực để phục vụ cho mục đích lâu dài. Trong cơ chế chuyển đổi, các cơ quan quản lý Nhà nước thường xuyên có những thay đổi trong chính sách, luật pháp,… Các thông tư hướng dẫn nhiều khi cũng thay đổi cho phù hợp với tình hình kinh tế hiện tại của nước ta. Tình hình này gây cho tất cả các công ty gặp rất nhiều khó khăn vì không theo kịp các thay đổi đó. Vì vậy, để có thể hoàn thành tốt hoạt động kinh doanh, các cán bộ trong công ty phải tự nghiên cứu trong quá trình công tác để am hiểu các vấn đề luật pháp trong kinh doanh. Công ty nên cử các cán bộ kinh doanh các lớp ngắn hạn về các vấn đề mới như thương mại điện tử, thị trường chứng khoán… và các vấn đề và pháp luật cũng như quốc tế do các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức kinh tế lớn hay các trường đại học giảng dạy. Việc tổ chức cán bộ đi học có thể tốn kém chi phí trong ngắn hạn nhưng chắc chắn sẽ mang lại lợi ích lâu dài, không chỉ tăng khả năng hiểu biết về kinh tế xã hội nói chung mà còn tạo ra lợi ích lâu dài cho công ty. Hiện nay phương thức nhập khẩu của công ty chủ yếu là mua theo giá CIF. Tiến tới, công ty cần phải nhập khẩu theo giá FOB để giành được quyền thuê tàu và mua bảo hiểm. Vì vậy cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu cần được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ thuê tàu, nghiệp vụ hàng hải và nghiệp vụ bảo hiểm. Đặc biệt là bảo hiểm về rủi ro hàng hải. Nếu làm được như vậy thì không những tăng lợi nhuận cho công ty mà còn góp phần thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế quốc dân đi lên. Công ty cần thực hiện rà soát lại tổ chức, các phòng nghiệp vụ trong quá trình hoạt động sao cho thích hợp, đảm bảo gọn nhẹ và hiệu quả. Để làm được điều này công ty cần bám sát thực tế, quan tâm đến cán bộ công nhân viên, xây dựng đoàn kết trên dưới, trong ngoài công ty. •Tạo tinh thần hăng hái cho cán bộ công nhân viên. Trong cơ chế thị trường, khách hàng là yếu tố hết sức quan trọng. Vì vậy mà nhiều doanh nghiệp đã nêu ra khẩu hiệu " khách hàng là thượng đế" hay " khách hàng là số 1" hay " khách hàng luôn đúng"… Khi có yêu cầu của khách hàng, các cán bộ công nhân viên trong công ty làm việc hết mình để có thể thoả mãn nhu cầu đó. Không chỉ làm việc 8h/ngày mà có thể cao hơn thế với tinh thần hăng say công việc vì mục tiêu xây dựng công ty ngày một lớn mạnh. Tuy nhiên biện pháp quản lý nhân sự tốt phải là biện pháp kết hợp giữa lợi ích chung của công ty và lợi ích riêng của mỗi cá nhân. Khuyến khích cả lợi ích tinh thần và lợi ích vật chất. Do đó, để đạt được kết quả cao hơn nữa trong công việc, công ty cần có chính sách thưởng phạt rõ ràng, cần cho cán bộ thấy rằng lợi ích của công ty cũng chính là của họ. Ngoài lương ra, nếu kết quả kinh doanh tốt, thu được lợi nhuận cao thì có thể có thêm phần thưởng cho cán bộ công nhân viên. 2. Kiến nghị đối với các cấp quản lý vĩ mô a) Kiến nghị đối với Tổng công ty Công ty xây dựng cấp thoát nước chịu sự quản lý trực tiếp của Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam. Vì vậy, cơ chế quản lý cũng như các hoạt động xúc tiến của Tổng công ty có tác động trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. ở đây xin đưa ra một số kiến nghị với Tổng công ty như sau: •Tổng công ty cần mở rộng các văn phòng đại diện ở nước ngoài vì đây chính là nguồn cung cấp các thông tin chủ yếu và tin cậy về thị trường nước ngoài cho các doanh nghiệp trong nước. •Mở rộng hơn quyền hạn cho các doanh nghiệp trong việc xử lý các tình huống phát sinh cũng như khen thưởng, kỷ luật các cán bộ công nhân viên trong công ty. •Mở các lớp đào tạo ngắn hạn và dài hạn cho cán bộ công nhân viên trong Tổng nói chung và công ty nói riêng. Tổ chức cho các cán bộ có trình độ nhận thức nhanh đi nghiên cứu và học tập ở nước ngoài. b) Kiến nghị đối với Bộ xây dựng. •Bộ xây dựng cần mở rộng hơn nữa quyền hạn kinh doanh cho các doanh nghiệp, giảm bớt thủ tục khi phải xin cấp phép. •Có chế độ hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu về vốn, thông tin. Bộ cũng nên có chính sách khen, thưởng để khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. •Không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý chất lượng hàng nhập khẩu để tạo ra sự bình đẳng trong kinh doanh. c) Kiến nghị với Nhà nước Ngoài sự nỗ lực của bản thân công ty, sự hỗ trợ của Tổng công ty và Bộ thì Nhà nước cũng cần có cơ chế và biện pháp thích hợp để vừa quản lý được hoạt động nhập khẩu vừa khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. Dựa trên quan điểm trung hiên nay là kinh doanh trong cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, để tạo điều kiện cho các công ty phát huy hết khả năng của mình trong hoạt động nhập khẩu, xin đưa ra một số kiến nghị với Nhà nước như sau: •Xây dựng và phát triển hệ thống Giao thông vận tải: Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam nhập theo giá CIF, nhường quyền thuê tàu và mua bảo hiểm cho phía nước ngoài. Đến nay, với sự có mặt của các công ty bảo hiểm lớn nước ngoài như AIA, PRUDENTIAL, CHINFON… việc mua bảo hiểm sẽ không còn gặp khó khăn nữa. Doanh nghiệp sẽ tiến dần đến việc nhập khẩu theo giá CFR, FOB để được quyền thuê tàu và mua bảo hiểm. Vấn đề mang tính cấp bách hiện nay là phát triển đội tàu và hệ thống cảng biển. Hiện nay hệ thống cảng biển của ta chủ yếu chỉ đủ tải trọng cho các tàu có trọng tải khoảng 10.000 tấn. Điều này khiến các tàu lớn trước khi cập cảng phải đậu ngoài khơi để chuyển tải vào cảng gây mất rất nhều thời gian, chi phí và rủi ro. Đội tàu của Việt Nam hiện nay chưa có nhiều những tàu lớn và đủ an toàn để đi biển. Vì vậy trong thời gian tới Việt Nam cần tập trung phát triển đội tàu vững mạnh, tạo tiền đề để phát triển ngành hàng hải của mình và ngành ngoại thương. Khi ngành vận tải và đặc biệt là vận tải biển phát triển, sẽ góp phần tăng hiệu quả kinh doanh của các đơn vị nhập khẩu và tạo tiền đề vững chắc phát triển kinh tế xã hội. •Đào tạo cán bộ kỹ thuật chuyên gia công nghệ Vật tư thiết bị ngành nước là mặt hàng rất quan trọng, phục vụ đắc lực cho công cuôc xây dựng phát triển hạ tầng cơ sở nói chung và hệ thống cấp thoát nước nói riêng. Hơn nữa, mặt hàng này thường nhập khẩu với giá trị lớn, hay sảy ra rủi ro về mặt kỹ thuật. Mặt khác, để đánh giá chất lượng cũng như sự phù hợp về mặt công nghệ đối với nước ta cần phải có đội ngũ chuyên gia giỏi. Vì vậy Nhà nước cần có chính sách đào tạo, nâng cao trình độ của các chuyên gia một cách thường xuyên cho kịp với tình hình thế giới biến đổi nhanh chóng như hiện nay. Đó sẽ là đội ngũ đắc lực giúp các doanh nghiệp có thể đánh giá được tình trạng máy móc thiết bị, từ đó tăng hiệu quả của hoạt động nhập khẩu. •Hỗ trợ thông tin. Nhà nước nên công bố những định hướng trong ngắn hạn cũng như dài hạn về một số lĩnh vực như đầu tư cơ sở hạ tầng, các định hướng trong hoạt động nhập khẩu phục vụ cho đầu tư…. Như thế các doanh nghiệp sẽ chủ động hơn trong việc thay đổi chiến lược kinh doanh cho phù hợp với các chủ trương chính sách của Nhà nước. Ngoài ra, Nhà nước cần phát huy vai trò quan trọng của các đại sứ quán hay lãnh sự quán ở nước ngoài trong việc thu thập và cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp khi cần thiết. Việc lập ra các trung tâm, cục lưu trữ chính là nguồn cung cấp thông tin thứ cấp bổ ích đối với các doanh nghiệp. •Về thuế nhập khẩu. Hiện nay, trong quá trình nhập khẩu, các doanh nghiệp hay gặp phải khó khăn trong việc áp mã thuế khi làm thủ tục hải quan. Vậy kiến nghị này xin đưa ra việc Nhà nước nên có chính sách thuế cụ thể, ổn định đối với từng mặt hàng trên cơ sở khuyến khích sản xuất trong nước và đảm bảo nâng cao mức sống của người dân. •Thực hiện cải cách thủ tục hành chính: Nhà nước cần chỉ đạo các cơ quan chức năng có sự phối hợp chặt chẽ trong việc quản lý xuất nhập khẩu. Bộ thương mại có trách nhiệm phê duyệt các dự án theo thẩm quyền của mình. Tổng cục hải quan có trách nhiệm giám sát và kiểm tra hàng hoá nhập khẩu, thu thuế nhập khẩu. Đặc biệt ngành hàng hải cần đổi mới phương thức của mình vì đây vẫn là khâu gây phiền hà nhiều nhất cho các doanh nghiệp khi tham gia xuất nhập khẩu. Sau khi bãi bỏ giấy phép nhập khẩu chuyến, một số thủ tục mà các chuyên viên Bộ thương mại thường làm trước đây được chuyển sang cho Hải quan thực hiện. Đã có thời gian sự phân định này không rõ ràng, gây ra không ít cho các đơn vị kinh doanh. Hơn nữa, do trình độ chưa theo kịp với trình độ khách quan nên hoạt động chưa có hiệu quả. Trong khi đó lại có một số cán bộ hải quan có tư cách phẩm chất xấu đã gây ra những tiêu cực trong xét duyệt và trong các thủ tục khác gây nên sự mất lòng tin ở các doanh nghiệp. Bộ thương mại cần rút ngắn thời gian xét duyệt để đảm bảo cho các doanh nghiệp kịp thời nắm bắt được các cơ hội kinh doanh và tạo điều kiện để các doanh nghiệp thực hiện đúng hợp đồng. Bộ cũng nên phân định rõ từng cán bộ phụ trách lĩnh vực cụ thể để các chuyên viên có điều kiện nắm vững công tác của mình và các doanh nghiệp tiện liên hệ. kết luận Mặc dù mới chỉ bắt đầu thực hiện hoạt động nhập khẩu từ năm 1995 nhưng với sự nỗ lực của ban lãnh đạo và đặc biệt là sự đoàn kết gắn bó cùng nhau khắc phục khó khăn của tập thể cán bộ công nhân viên, công ty xây dựng cấp thoát nước WASEENCO đã đạt được những kết quả đáng mừng, đã và đang từng bước khẳng định vị trí của mình trên thị trường quốc tế. Hiện công ty là doanh nghiệp mạnh nhất trong Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam Nhập khẩu hàng hoá là một trong những hoạt động chính của WASEENCO. Công ty đã biết hướng vào kinh doanh các hàng nhập khẩu mà mình có ưu thế đó là vật tư thiết bị ngành nước. Tiềm năng phát triển mặt hàng này là rất lớn do nước ta mới ở giai đoạn đầu của quá trình công nghệp hoá hiện đại hoá đất nước nên nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng nói chung, hệ thống cấp thoát nước nối riêng là rất lớn. Trong khi đó nền công nghiệp nước ta chưa đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, vì vậy chúng ta cần nhập khẩu bổ xung. Đây chính là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu vật tư thiết bị ngành nước. Tuy nhiên nền kinh tế thị trường đã tạo ra sự cạnh tranh thực sự giữa các doanh nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực này. Đề tài: "Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu vật tư thiết bị ngành nước của công ty xây dựng cấp thoát nước- WASEENCO" đã đưa ra một bức tranh toàn cảnh về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Đồng thời đã nghiên cứu, đánh giá những thành tựu, hạn chế trong hoạt động nhập khẩu của công ty. Luận văn này cũng đã đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác nhập khẩu. Mong rằng luận văn có thể giúp ích cho hoạt động thực tiễn của công ty trong những năm tới. Tuy nhiên, những ý kiến này mới chỉ là những nghiên cứu bước đầu và phần nhiều mang tính chủ quan cá nhân, cùng với sự hạn chế về trình độ nên không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo và toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy cho em trong suốt bốn năm học vừa qua. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo- PGS.TS. Hoàng Minh Đường đã hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này. Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới toàn thể cán bộ phòng kinh doanh xuất nhập khẩu, cán bộ công nhân viên công ty xây dựng cấp thoát nước đã tạo điều kiện giúp đỡ em tromg quá trình thực tập, trang bị cho em những thông tin quý báu, những nhận xét bổ ích để em hoàn thành luận văn này. Tài liệu tham khảo 1.Báo cáo tổng kết hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty xây dựng cấp thoát nước WASEENCO năm 1999-2001 2.Giới thiệu năng lực của công ty WASEENCO 2.Giáo trình thương mại quốc tế _ Đại học kinh tế Quốc dân 3.Giáo trình quản trị kinh doanh thương mại quốc tế – Đại học kinh tế Quốc dân 4.Giáo trình Marketing- Đại học kinh tế Quốc dân 5.Giáo trình Marketing thương mại quốc tế – Đại học kinh tế Quốc dân 6.Cẩm nang thương mại dịch vụ- Đại học kinh tế Quốc dân 7.Giáo trình giao dịch và thanh toán thương mại quốc tế- Đại học kinh tế Quốc dân 8.Hướng dẫn thực hành kinh doanh xuất nhập khẩu tại Việt Nam – Võ Thanh Thu 9.Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương 10.Tạp chí kinh tế và phát triển số 1,2,3 năm 2002 11.Tạp chí thương mại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33878.doc
Tài liệu liên quan