Luận văn Một số giải pháp tài chính góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý và sử dụng vlđ tại công ty TNHH nhà nước một thành viên thực phẩm Hà Nội

Tài chính doanh nghiệp là một nhân tố quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy công tác quản trị tài chính doanh nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng, nó có quan hệ chặt chẽ với quản trị doanh nghiệp và giữ vị trí hàng đầu trong quản trị doanh nghiệp. Vai trò của quản trị tài chính doanh nghiệp quan trọng như vậy nhưng hiện nay việc tổ chức công tác này tại các doanh nghiệp nói chung là không tốt, các hoạt động liên quan đến tài chính phần lớn chỉ do kế toán trưởng thực hiện mà không có một bộ phận chuyên trách về lĩnh vực này. Đây là hạn chế chung của các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay và Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà nội cũng không nằm ngoài các doanh nghiệp đó. Vì vậy công ty nên thành lập một phòng tài chính riêng hoặc một bộ phận chuyên làm công tác quản trị tài chính, bằng cách này các hoạt động tài chính được quản lý chặt chẽ hơn, chuyên môn hóa hơn, do đó có khả năng điều tiết vốn tốt hơn, nâng cao hiệu quả sử dụng VKD nói chung và VLĐ nói riêng.

doc65 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1386 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp tài chính góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý và sử dụng vlđ tại công ty TNHH nhà nước một thành viên thực phẩm Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp. Đi đôi với lợi thế sử dụng vốn chiếm dụng công ty có thể bị đứng trước rủi ro tài chính lớn, mất khả năng thanh toán khi công việc kinh doanh gặp khó khăn. Khả năng thanh toán được biểu hiện qua số vốn hoặc tài sản hiện có mà công ty có thể sử dụng để thanh toán cho các khoản nợ, đặc biệt là các khoản vốn bằng tiền có thể thanh toán tức thời các khoản nợ. Để đo lường khả năng thanh toán của một công ty, người ta có thể sử dụng các hệ số khả năng thanh toán như: Hệ số khả năng thanh toán hiện thời; hệ số khả năng thanh toán nhanh; hệ số khả năng thanh toán tức thời. Để có cái nhìn sâu sắc hơn về khả năng thanh toán của công ty chúng ta cần xem xét chi tiết từng hệ số. ( Xem biểu số 10 ). a. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời. Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của công ty năm 2005 đều lớn hơn 1, đây là một dấu hiệu tốt chứng tỏ Công ty có khả năng đảm bảo các khoản nợ từ bên ngoài. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời đầu năm là 1,06 tức là Công ty cứ đi vay một đồng thì có 1,06 đồng tài sản đảm bảo. Hệ số thanh toán hiện thời ở thời điểm cuối năm giảm 0,01 đồng so với đầu năm, cho thấy khả năng thanh toán của Công ty có xu hướng giảm. Căn cứ vào tình hình thực tế của Công ty hệ số khả năng thanh toán giảm là do công ty đã huy động thêm một lượng vốn từ bên ngoài là: 18.056.466.734 – 17.128.643.472 = 927.823.262 đồng. Trong khi tài sản chỉ tăng: 18.990.737.832 – 18.128.643.472 = 862.094.360 đồng. Hệ số khả năng thanh toán hiện thời của Công ty trong năm qua tuy lớn hơn 1 nhưng có thể thấy là còn thấp, điều này có thể dẫn tới những bất lợi cho tình hình tài chính của Công ty trong thời gian tới. b. Hệ số khả năng thanh toán nhanh. Hệ số này phản ánh khả năng thanh toán các khoản nợ của Công ty trong thời gian ngắn. Do hàng tồn kho là một bộ phận VLĐ khó chuyển đổi thành tiền nhất nên khi tính hệ số này cần phải trừ khoản mục này. Như đã trình bày ở trên trong kết cấu VLĐ của Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà nội thì hàng tồn kho chiếm tỷ trọng lớn nhất (52,48% vào đầu năm và cuối năm là 57,44%). Công ty có đặc điểm là vừa kinh doanh vừa chế biến nên luôn phải dự trữ một lượng hàng hóa, nguyên vật liệu, thành phẩm lớn để đáp ứng nhu cầu thị trường và sản xuất. Vì hàng tồn kho chiếm tỷ trọng lớn khiến cho hệ số khả năng thanh toán nhanh nhỏ hơn nhiều so với hệ số khả năng thanh toán hiện thời. Chúng ta có thể thấy hệ số khả năng thanh toán nhanh của Công ty ở đầu năm và cuối năm đều nhỏ hơn 1 cho thấy khả năng thanh toán nhanh các khoản nợ có thời hạn dưới 1 năm của Công ty là thấp và giảm dần về cuối năm. Hệ số khả năng thanh toán nhanh thấp sẽ ảnh hưởng không tốt đến tình hình tài chính của Công ty. Hàng tồn kho có độ thanh khoản kém trong TSLĐ nên khi cần chưa chắc Công ty đã bán được ngay và thu về một khoản tiền tương đương với lúc bỏ ra mua chúng. Công ty sẽ bị lỗ, đồng thời Công ty cũng có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ. c. Hệ số khả năng thanh toán tức thời. Thực tế tình hình hiện nay các khoản phải thu chưa hẳn đã dễ dàng chuyển thành tiền, việc nợ dây dưa không tuân thủ kỷ luật thanh toán hầu như vẫn luôn xảy ra. Để loại trừ độ trễ của các khoản phải thu, ta cần quan tâm đến hệ số khả năng thanh toán tức thời. Hệ số này cho biết khả năng thanh toán nợ tới hạn vào bất kỳ thời điểm nào bằng tiền. Đây được coi là hệ số đánh giá chính xác nhất khả năng thanh toán của Công ty tại một thời điểm. Hệ số khả năng thanh toán tức thời đầu năm và cuối năm của Công ty đều rất nhỏ (đầu năm là 0,07; cuối năm là 0,15). Cho thấy công ty gặp khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ ngay lập tức, vì vào lúc cấp thiết công ty có thể buộc phải các biện pháp bất lợi như bán các tài sản với giá thấp để trả nợ. Mặc dù hệ số này còn thấp nhưng có thể thấy công ty đã cố gắng trong việc đẩy hệ số thanh toán tức thời tăng 0,08. Sở dĩ như vậy vì tốc độ tăng của vốn bằng tiền tăng nhanh hơn tốc độ tăng của nợ ngắn hạn. Từ những phân tích trên ta thấy: khả năng thanh toán của Công ty là tương đối thấp và có xu hướng giảm dần về cuối năm. Đặc biệt là khả năng thanh toán hiện thời và khả năng thanh toán nhanh mặc dù chưa cao nhưng vẫn bị giảm, và khả năng thanh toán tức thời tuy có tăng lên nhưng vẫn còn rất thấp. Từ đây có thể thấy khả năng phản ứng nhanh của Công ty với các khoản nợ ngắn hạn còn rất thấp, có khả năng gặp rủi ro trong thanh toán các khoản nợ có thời hạn dưới một năm của công ty. Công ty cần phải cố gắng nhiều để không chỉ ổn định mà còn đẩy cao khả năng thanh toán của mình. 2.3. Tình hình quản lý các khoản phải thu. Trong nền kinh tế thị trường, để sản xuất được diễn ra liên tục, đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ hàng hóa, các doanh nghiệp tất yếu phải cung cấp tín dụng cho khách hàng. Việc cho khách hàng mua chịu vừa là một cách để đẩy nhanh hàng hóa ra thị trường, vừa là một cách để giữ, thu hút khách hàng đến với sản phẩm của công ty. Trong quan hệ thương mại, một công ty có thể vừa là nhà cung cấp, vừa là khách hàng của doanh nghiệp khác. Vì vậy luôn tồn tại việc chiếm dụng vốn giữa các doanh nghiệp và trong doanh nghiệp luôn có các khoản nợ phải thu. Các khoản phải thu ở Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà nội cuối năm 2005 chiếm 25,22% tổng tài sản lưu động, giảm 26,68% so với đầu năm. Để biết cụ thể tình hình quản lý các khoản phải thu của Công ty chúng ta xem biểu số 11. Trong tổng nợ phải thu thì chỉ có khoản phải thu của khách hàng tăng nhưng không đáng kể, đầu năm là 2.825.038.758 đồng chiếm 43,25% nhưng cuối năm tăng đến 2.832.315.817 đồng chiếm 59,14%. Tính đến thời điểm cuối năm thì phải thu của khách hàng chiếm tỷ trọng cao nhất. Trong năm vừa qua doanh thu của Công ty tăng 20,95% so với năm trước, do vậy khoản phải thu của khách hàng cũng tăng là tất nhiên. Nhưng điều quan trọng là phải xem xét xem nợ cũ đã thu được hay chưa. Qua tìm hiểu thực tế tình hình công nợ tại Công ty cho thấy Công ty đã thu hồi được các khoản nợ cũ, không có nợ phải thu khó đòi. Nợ phải thu của khách hàng tăng là do việc tiêu thụ hàng hoá tăng. Đây được coi là thành tích của doanh nghiệp trong việc quản lý khoản phải thu. Để đánh giá hiệu quả của việc thực hiện hình thức tín dụng thương mại với khách hàng ta có thể xem các khoản phải thu trong mối quan hệ với doanh thu. Doanh thu năm 2004 là 125.408.144.893 đồng, năm 2005 là 151.684.188.578 đồng. Tỷ lệ nợ phải thu = Nợ phải thu Doanh thu thuần Tỷ lệ nợ phải thu năm 2004 = % Tỷ lệ nợ phải thu năm 2005 = Tỷ lệ nợ phải thu thấp và giảm cho thấy công tác thu hồi tiền hàng của công ty là tốt hơn. Năm 2004 trong 100 đồng doanh thu thì công ty thu được ngay 94,8 đồng, khách hàng nợ 5,2 đồng. Nhưng đến năm 2005 thì công ty thu được ngay 96,8 đồng, khách hàng nợ 3,2 đồng. Đây là một dấu hiệu tốt. Nguyên nhân chủ yếu là do trong năm 2005 công ty chủ yếu thực hiện bán lẻ ở các cửa hàng nhiều nên nếu để khách hàng nợ sẽ rất khó cho công tác thu hồi nợ. Các khoản phải thu giảm chủ yếu do khoản trả trước người bán giảm từ 3.002.997.483 đồng xuống còn 1.414.444.096 đồng tương ứng với tỷ lệ giảm là 52,9%. Đầu năm khoản trả trước người bán chiếm tỷ trọng lớn do công ty đã cung ứng trước tiền hàng hóa và nguyên vật liệu. Nhưng đến cuối năm khoản trả trước người bán giảm do 2 nguyên nhân. Thứ nhất là Công ty đã nhận được hàng hóa và nguyên vật liệu do nhà cung cấp thanh toán cho số tiền ứng trước từ đầu năm. Thứ hai là do uy tín của Công ty với nhà cung cấp ngày càng cao nên một số nhà cung ứng không yêu cầu Công ty phải ứng trước tiền hàng nên số tiền mà công ty ứng trước giảm. Điều này giúp Công ty khôngbị ứ đọng vốn mà vẫn đáp ứng nhu cầu về nguyên vật liệu và hàng hoá khi cần thiết. Như vậy khoản trả trước người bán giảm là hợp lý. Các khoản phải thu khác chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng giá trị các khoản phải thu. Đầu năm là 704.480.465 đồng chiếm 10,78%, cuối năm giảm xuống còn 542.579.468 đồng chiếm 11,33%. Cuối năm giảm so với đầu năm là 161.900.997 đồng, tương ứng với tỷ lệ giảm là 22,98%. Tuy giảm nhưng sự biến động của các khoản này ảnh hưởng không lớn tới tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty. 2.4. Tình hình quản lý hàng tồn kho. Việc dự trữ hàng tồn kho là nhu cầu thông thường đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp cần phải xác định được mức dự trữ sao cho hợp lý. Nếu dự trữ quá nhiều sẽ làm cho dôi thừa, gây ứ đọng làm giảm hiệu quả kinh doanh, đồng thời làm tăng chi phí bảo quản. Nếu dự trữ quá thấp có thể gây thiếu hụt làm gián đoạn hoạt động sản xuất, gây khó khăn trong việc đảm bảo nhu cầu kinh doanh. Do vậy xác định lượng hàng tồn kho phải điều hòa sao cho vừa đảm bảo yêu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành bình thường, liên tục, vừa tiết kiệm được vốn, tránh gây ứ đọng vốn. Trong cơ cấu TSLĐ của công ty thì hàng tồn kho chiếm tỷ lệ cao, đầu năm là 52,48%, cuối năm là 57,44%. Để thấy rõ hơn tình hình quản lý hàng tồn kho chúng ta xem xét biểu số 12. Số liệu ở biểu số 12 cho ta thấy hàng tồn kho cuối năm 2005 tăng hơn so với đầu năm là 1.393.652.733 đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là14,65%. Sự gia tăng hàng tồn kho chủ yếu do nguyên liệu, vật liệu, công cụ dụng cụ trong kho và thành phẩm tồn kho tăng nhiều. Nguyên liệu vật liệu tồn kho: Cuối năm nguyên vật liệu tồn kho chiếm một tỷ trọng nhỏ trong hàng tồn kho nhưng lại tăng 320.721.582 đồng so với đầu năm, tương ứng với tỷ lệ tăng là 196,01%. Nguyên vật liệu tăng nhiều như vậy là do nhu cầu về sản phẩm của công ty trên thị trường ngày càng tăng lên, công ty dự trữ nguyên vật liệu nhiều hơn để có thể đáp ứng kịp thời yêu cầu của hoạt động sản xuất, không để tình trạng thiếu nguyên vật liệu xảy ra. Đặc biệt trong thời gian vừa qua dịch cúm gà xảy ra đã làm cho các mặt hàng thực phẩm khác khan hiếm và tăng giá. Do vậy mà công ty cũng tăng cường dự trữ nguyên vật liệu để sản xuất, đáp ứng nhu cầu thị trường. Hơn nữa vào thời điểm cuối năm, nhu cầu mua sắm cho các dịp lễ tết là rất nhiều. Với tốc độ tăng như vậy đòi hỏi công ty phải chi ra một khoản tiền khá lớn để bảo quản số nguyên vật liệu này, chi phí bảo quản tăng và nếu tồn quá lâu trong kho có thể dẫn đến giảm chất lượng, hỏng nguyên vật liệu từ đó ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm sản xuất ra. Công cụ dụng cụ chiếm tỷ trọng không lớn nhưng cuối năm tăng 228.072.812 đồng so với đầu năm, tương ứng với tỷ lệ tăng là 209,23%. Nguyên nhân có sự gia tăng công dụng cụ là do tháng 10 năm 2005 vừa qua Công ty Thương Mại Cửu Long sáp nhập vào công ty và trở thành một trung tâm của công ty. Việc sáp nhập thêm một thành viên mới làm tăng tài sản trong công ty. Ngoài ra công ty còn mua sắm thêm mới một số công cụ dụng cụ để phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh trong năm tới. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong hàng tồn kho, đầu năm là 0,46% và cuối năm giảm xuống còn 0,03%. Chi phí sản xuất kinh doanh giảm 40.603.262 đồng so với đầu năm tương ứng với tỷ lệ giảm là 91,81%. Sở dĩ chi phí sản xuất kinh doanh chiếm tỷ trọng nhỏ là do sản phẩm của Công ty là các loại thực phẩm chế biến nên quy trình sản xuất của doanh nghiệp là liên tục, khép kín, thời gian sản xuất tương đối ngắn. Thành phẩm tồn kho: đầu năm thành phẩm tồn kho chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng giá trị hàng tồn kho (0,42%) nhưng đến cuối năm tỷ lệ này tăng lên chiếm 4,34%. Cuối năm thành phẩm tồn kho tăng 432.969.564 đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 1.070%. Sở dĩ lượng thành phẩm tăng nhiều như vậy là do nhiểu nguyên nhân khác nhau, đặc biệt là do trong năm xảy ra dịch cúm gà nên Công ty phải tích trữ một lượng thành phẩm lớn để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu thị trường. Và do đại dịch xảy ra nên giá cả các nguyên vật liệu đầu vào cũng tăng, từ đó khiến cho giá thành thành phẩm sản xuất ra cũng tăng cao, làm giá trị thành phẩm tồn kho tăng. Ngoài ra Công ty còn sản xuất nhiều để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong dịp lễ tết đầu năm. Cùng với đó là Công ty có một số đơn đặt hàng của các cửa hàng, siêu thị lớn trong khu vực Hà Nội và trong cả nước. Dự trữ thành phẩm giúp Công ty chủ động hơn trong việc cung cấp hàng hoá cho thị trường. Tuy nhiên việc dự trữ thành phẩm quá lớn như vậy vào cuối năm có thể gây bất lợi cho công ty nếu việc bán hàng không thuận lợi trong thời gian tiếp theo. Và nếu dự trữ quá lớn thì có thể dẫn tới làm hư hỏng chất lượng sản phẩm. Do đó công ty cần có biện pháp bảo quản tốt thành phẩm. Hàng hóa chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng giá trị hàng tồn kho. Đầu năm hàng hóa chiếm 96,24% đến cuối năm tỷ lệ hàng hóa giảm xuống còn 88,55%. Đến cuối năm hàng hóa tồn kho tăng 502.492.037 đồng so với đầu năm, tương ứng với tỷ lệ tăng là 5,49%. Công ty có 13 đơn vị kinh doanh trực thuộc Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà nội nằm rải rác ở các địa điểm khác nhau trong Thành phố Hà Nội. Do vậy hàng hóa chiếm tỷ trọng lớn là điều bình thường vì đối với hoạt động kinh doanh thương mại thì luôn tồn tại một lượng hàng hóa tồn kho khá lớn. Nói chung hàng tồn kho là một vấn đề khá quan trọng, nhưng trong thời điểm hiện tại việc quản lý hàng tồn kho của công ty chưa thực sự đạt được như mong muốn, đặc biệt ở khoản mục nguyên vật liệu, thành phẩm tồn kho và tăng quá mạnh. Vấn đề này sẽ được đề cập ở phần tiếp theo. 2.5. Tài sản lưu động khác. Trong năm qua , TSLĐ khác của Công ty giảm song vẫn chiếm tỷ trọng khá hợp lý. Tạm ứng giảm từ 518.647.925 đồng xuống còn 267.929.120 đồng do cán bộ tạm ứng đi công tác mua nguyên vật liệu hàng hóa đã thanh toán tiền tạm ứng. Chi phí trả trước giảm từ 136.968.891 xuống còn 80.614.110 đồng. Chi phí chờ kết chuyển giảm 4.285.000 đồng. Như vậy công tác quản lý TSLĐ khác của công ty khá chặt chẽ, đảm bảo cho TSLĐ khác phát huy được tác dụng của mình. Qua những phân tích ở trên về tình hình quản lý VLĐ của công ty chúng ta có thể rút ra được kết cấu VLĐ của công ty tương đối hợp lý. Các khoản tiền cuối năm tăng hơn so với đầu năm, các khoản phải thu giảm và chiếm tỷ trọng bình thường trong tổng VLĐ, khoản phải thu của khách hàng có tăng nhưng tăng ít mà đó là tăng do sản lượng tiêu thụ tăng nên số tiền khách hàng nợ cũng tăng. Tuy nhiên hàng tồn kho tăng và chiếm tỷ trọng tương đối lớn, nếu không tiêu thụ nhanh chóng thì sẽ gây tình trạng ứ đọng vốn, mà đây lại là khoản mục khó chuyển đổi thành tiền nên ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của Công ty. VLĐ là loại vốn luôn được luân chuyển, do vậy dù công ty đã có những thành công nhất định trong việc điều chỉnh cơ cấu vốn linh hoạt, hiệu quả thì công ty cần phải cố gắng nhiều hơn. 3. Đánh giá hiệu quả tổ chức sử dụng VLĐ tại Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà nội. 3.1. Đánh giá hiệu quả tổ chức sử dụng VLĐ tại Công ty trong năm qua. Kết quả cuối cùng của quá trình sử dụng VKD nói chung và VLĐ nói riêng là doanh thu và lợi nhuận. Doanh thu và lợi nhuận cao lên hay thấp đi phản ánh trình độ tổ chức quản lý và sử dụng VLĐ được nâng lên hay hạ xuống. Vì vậy muốn nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ thì phải giảm được chi phí, tăng doanh thu và lợi nhuận. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ được thể hiện qua biểu số 13. Khi tiến hành đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ thì chỉ tiêu tốc độ luân chuyển VLĐ thường được quan tâm đầu tiên. Tốc độ luân chuyển VLĐ nhanh hay chậm nói lên hiệu quả sử dụng VLĐ cao hay thấp. Tốc độ luân chuyển VLĐ nhanh hay chậm sẽ ảnh hưởng đến sản lượng sản xuất ra nhiều hay ít, sản phẩm tiêu thụ nhiều hay ít, phản ánh sự ăn khớp giữa các khâu sản xuất, sự tiết kiệm hay lãng phí VLĐ. - Vòng quay VLĐ: Vòng quay VLĐ năm 2005 là 8 vòng trong một năm tăng hơn một vòng so với năm 2004, tương ứng với tỷ lệ tăng là 11,78%. Do đó làm cho kỳ luân chuyển VLĐ giảm từ 49 ngày xuống còn 45 ngày (giảm 10,54%). Vòng quay VLĐ tăng do doanh thu trong năm 2005 tăng hơn so với năm 2004 là 26.276.643 đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 20,95%, đồng thời VLĐ bình quân năm 2005 cũng tăng hơn năm 2004 là 1.407.647.019đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng là 8,21%, nhỏ hơn tốc độ tăng của doanh thu. Số vòng quay VLĐ của công ty như trên là khá nhanh. Chính vì vòng quay VLĐ nhanh và tăng lên trong năm 2005 đã làm cho hàm lượng VLĐ thấp và có xu hướng giảm hơn. Nếu năm 2004 để tạo ra 1 đồng doanh thu thuần công ty phải bỏ ra 0,14 đồng thì đến năm 2005 công ty chỉ phải bỏ ra 0,12 đồng, giảm hơn so với năm 2004 là 0,02 đồng, tương ứng với tỷ lệ giảm là 10,54%. Đây được coi là kết quả của việc đẩy nhanh tốc độ luân chuyển VLĐ. Do tốc độ luân chuyển VLĐ tăng nên công ty cũng đã tiết kiệm được một lượng VLĐ đáng kể. VLĐ tiết kiệm = Mức luân chuyển bình quân ngày ´ Số ngày giảm đi của một vòng quay VLĐ đồng - Vòng quay hàng tồn kho: VLĐ muốn chu chuyển nhanh thì vốn ở các khâu cũng phải chu chuyển nhanh. Hàng tồn kho là khoản mục chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu VLĐ. Do đó khi xem xét hiệu quả sử dụng VLĐ tất yếu phải đánh giá tốc độ luân chuyển hàng tồn kho. Vòng quay hàng tồn kho của công ty nói chung là cao nhưng lại có xu hướng giảm so với năm trước. Năm 2004 vòng quay hàng tồn kho là 15 vòng nhưng đến năm 2005 giảm xuống còn 13 vòng tương ứng với tỷ lệ giảm là 13,33%. Vòng quay hàng tồn kho giảm làm cho số ngày một vòng quay hàng tồn kho tăng thêm 6 ngày tương ứng với tỷ lệ tăng là 25%. Giá vốn hàng bán năm 2005 tăng hơn so với năm trước là 21.556.531.324 đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 19,55% còn hàng tồn kho tăng 2.874.198.134 đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 39,17% lớn hơn tốc độ tăng của giá vốn hàng bán nên làm cho vòng quay hàng tồn kho bị chậm lại, nguyên nhân vì công ty dự trữ hàng quá lớn. - Vòng quay các khoản phải thu: năm 2004 công ty có 26,7 lần thu các khoản nợ và công ty có 13 ngày cho mỗi vòng quay các khoản phải thu. Sang năm 2005 có tiến bộ không đáng kể, số vòng quay tăng 0,2 vòng, tuy nhiên số ngày cho mỗi vòng quay các khoản phải thu không tăng. Sở dĩ như vậy là vì tốc độ tăng của doanh thu tiêu thụ năm 2005 so với năm 2004 đạt 21,2% lớn hơn không đáng kể so với tốc độ tăng của số dư bình quân các khoản phải thu (20,63%). Tuy vòng quay các khoản phải thu không tăng nhiều và kỳ thu tiền bình quân không tăng nhưng số vòng quay các khoản phải thu của công ty nhiều, do đó kỳ thu tiền bình quân cũng ít, đây cũng có thể đánh giá là khá tốt vì công ty đã giảm được việc cấp tín dụng cho khách hàng, cho người cung ứng và công ty có thể sử dụng số tiền đó để đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh khác nhằm tìm kiếm lợi nhuận, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Doanh lợi VLĐ sau thuế của công ty năm 2005 tăng hơn so với năm 2004 là 0,009 đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 57,62%. Nếu năm 2004 công ty bỏ ra 1 đồng VLĐ thì sẽ thu về 0,016 đồng lợi nhuận sau thuế nhưng đến năm 2005 công ty thu được 0,025 đồng. Việc tăng doanh lợi VLĐ sau thuế là do lợi nhuận sau thuế của công ty năm 2005 tăng hơn so với năm 2004 là 189 491 951 đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 70,56%. Đây là một kết quả rất tốt. Mặc dù chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí bán hàng tăng, hoạt động tài chính lỗ, giá vốn tăng nhưng tỷ lệ tăng của lợi nhuận sau thuế vẫn cao. Chính vì tốc độ tăng của lợi nhuận sau thuế cao hơn tốc độ tăng của VLĐ nên đã làm cho doanh lợi VLĐ sau thuế của công ty tăng. Tuy là tăng so với năm trước nhưng mức độ sinh lời của chỉ tiêu này còn thấp, công ty nên xem xét điều chỉnh lại các khoản như chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí hoạt động tài chính sao cho phù hợp hơn để tăng hơn nữa hiệu quả sử dụng VLĐ. Qua phân tích trên chúng ta có thể thấy trong năm 2005 hiệu quả sử dụng VLĐ của Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà Nội có tốt hơn so với năm 2004. Hầu hết các chỉ tiêu phản ánh đều tăng hoặc giảm theo chiều có lợi. Tuy nhiên kết quả cuối cùng thì chưa thực sự cao thể hiện qua chỉ tiêu doanh lợi VLĐ sau thuế của công ty còn thấp. Và còn những điểm hạn chế như hàng tồn kho lớn, các chi phí cũng lớn. Trước khi đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ ở công ty ta có thể nhận thấy một số điểm còn tồn tại về tổ chức và sử dụng VLĐ ở Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà Nội. 3.2. Những biện pháp chủ yếu của Công ty nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ. - Quan hệ tốt với ngân hàng trong quan hệ vay vốn và thanh toán. ý thức được tầm quan trọng của nguồn tài trợ vốn ngắn hạn từ ngân hàng, Công ty đã có mối quan hệ trực tiếp và mật thiết với một số ngân hàng trên địa bàn Hà nội, chủ yếu thực hiện thu chi ngoại tệ, vay ngắn hạn. Bởi đây là nguồn vốn cơ bản linh hoạt và thuận tiện nên công ty đã thực hiện quan hệ tốt với ngân hàng. Cụ thể là Công ty chấp hành tốt thủ tục vay, thời hạn thanh toán, sử dụng vốn vay đúng mục đích….Điều này giúp Công ty có được uy tín với ngân hàng. - Giữ mối quan hệ tốt với khách hàng. Một Công ty muốn tồn tại và phát triển bền vững tất yếu phải giữ vững được những khách hàng truyền thống, lại vừa thu hút lôi kéo được nhiều khách hàng đến với mình. Trong năm vừa qua Công ty đã không ngừng nâng cao uy tín với khách hàng với những sản phẩm ngày càng một tốt hơn. Với những khách hàng mua sản phẩm với khối lượng lớn, công ty thực hiện chiết khấu thương mại. Ngoài ra Công ty còn ưu tiên với các khách hàng quen thuộc, thực hiện tốt nghĩa vụ giao hàng đúng số lượng, đúng chất lượng đã thoả thuận. Với những sản phẩm bị lỗ, Công ty cũng đã chấp nhận nhận lại hàng hoặc giảm giá. - Chú trọng tổ chức sản xuất và đẩy mạnh tiết kiệm nguyên vật liệu, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hóa. Nguyên vật liệu của Công ty là những hàng thực phẩm, rất dễ hư hỏng, vì vậy công ty luôn quan tâm đến vấn đề dự trữ nguyên liệu hợp lý, không để tình trạng dự trữ quá lâu, làm giảm chất lượng nguyên vật liệu và gây lãng phí, và luôn đưa vào sản xuất một cách nhanh chóng nhất. Đồng thời công ty luôn đặt vấn đề quản lý chặt chẽ những nguyên liệu đã đưa vào sản xuất, tránh hao hụt, lãng phí trong quá trình sản xuất. Công ty đã phát huy được tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm của cán bộ công nhân viên. Đối với những hàng hóa kinh doanh thì công ty cũng luôn chú trọng chọn những nhà cung cấp có uy tín, sản phẩm của họ đã có thương hiệu trên thị trường. Nhờ đó tăng nhanh được khối lượng tiêu thụ. Ngoài ra Công ty còn tăng cường công tác đào tạo dạy nghề, cử cán bộ đi học các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ thuật sản xuất để về công ty cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuyển các nhân viên có khả năng giao tiếp tốt, tạo ấn tượng với khách hàng để bán tại các cửa hàng của công ty. 3.3. Những vấn đề đặt ra trong việc tổ chức sử dụng VLĐ tại công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà nội. Thời gian qua công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà Nội đã có những cố gắng nhất định trong huy động và sử dụng VKD nói chung và VLĐ nói riêng. Để đáp ứng nhu cầu sản xuất cho mình, Công ty đã huy động vốn từ nhiều nguồn cả vốn chiếm dụng, vốn vay và vốn CSH. Tuy nhiên quá trình tổ chức và sử dụng vốn tất yếu không tránh khỏi những hạn chế nhất định. - Công ty vẫn chưa chủ động về vốn. Nhìn vào cơ cấu Nguồn VKD và Nguồn VLĐ chúng ta có thể thấy ngay điều này. Nguồn VLĐ tạm thời (chủ yếu là nợ ngắn hạn) đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ nhu cầu vốn của Công ty, còn Nguồn VLĐ thường xuyên rất thấp. Thực tế Công ty sử dụng nợ vay nhiều hơn so với sử dụng vốn CSH. Mặc dù việc sử dụng vốn chiếm dụng có lợi thế hơn là không phải trả chi phí sử dụng vốn song mặt trái của nó là làm gia tăng gánh nặng nợ nần cũng như rủi ro tài chính. Thêm nữa thời gian qua Công ty chưa chủ động trong việc lập kế hoạch, tổ chức và sử dụng VLĐ dài hạn. - Công tác tiêu thụ sản phẩm còn chưa được chú trọng đúng mức. Đẩy mạnh VLĐ lưu thông tất yếu phải đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa. Mặc dù các khoản phải thu tăng không nhiều, doanh thu tăng phản ánh tốt công tác bán hàng và thu tiền của Công ty. Song số lượng thành phẩm tồn kho vào cuối năm tăng nhiều, nguyên vật liệu dự trữ cũng tăng nhiều, hàng hóa tồn kho chiếm tỷ trọng lớn. Đây là kết quả của việc mở rộng quy mô kinh doanh, song với số lượng hàng hóa tồn kho quá nhiều như thế này đã làm giảm vòng quay hàng tồn kho và ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn vật tư hàng hóa. Đây là áp lực lớn với công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Tuy Công ty có nhiều đại lý, cửa hàng bán sản phẩm nhưng thực tế Công ty vẫn chưa có một chính sách xác đáng để quảng bá sản phẩm, ít chú trọng đến các chính sách khuyến khích khách hàng đến với sản phẩm của mình. - Khả năng thanh toán nợ của Công ty nhìn chung là không được tốt lắm, đặc biệt là hệ số khả năng thanh toán nhanh và hệ số khả năng thanh toán tức thời còn thấp. - Công ty chưa có quỹ dự phòng các khoản phải thu khó đòi, chưa có quỹ dự phòng tài chính. Trong khi khoản phải thu của khách hàng của công ty ngày càng tăng và đối tượng khách hàng cũng ngày càng được mở rộng hơn chứ không phải chỉ bó hẹp trong những khách hàng truyền thống, khách hàng quen nữa. Như vậy sẽ khó có thể giảm tổn thất cho Công ty trong những trường hợp xấu xảy ra. - Cơ sở vật chất kỹ thuật chậm đổi mới. Trong những năm gần đây một số máy móc của Công ty đã gần hết thời gian sử dụng. Một số máy móc đã được thanh lý. Mặc dù trong những năm gần đây, công ty vẫn thực hiện sửa chữa, nâng cấp nhưng việc mua sắm đổi mới còn ít. Muốn nâng cao năng lực sản xuất thì công ty cần phải đổi mới nhiều máy móc. Có như vậy mới tăng hiệu quả sử dụng VLĐ, đem lại thêm nhiều lợi nhuận Chương III: một số giải pháp tài chính góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý và sử dụng VLĐ tại Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà nội 1. Định hướng phát triển của Công ty trong những năm tới. Năm 2005 mặc dù vẫn có những khó khăn nhất định, song công ty đã đạt được những kết quả đáng mừng như: Doanh thu tăng 20,98%, lợi nhuận sau thuế tăng 70,56%. đời sống công nhân viên được tăng lên….Trong thời gian tới, công ty tiếp tục phấn đấu để có được những kết quả tốt hơn, nâng cao vị thế trên thị trường. Dựa trên những thành tích đã đạt được trong năm qua, Công ty đã tự đặt ra cho mình mục tiêu trong năm tới. - Tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng, uy tín và hình ảnh của Công ty trên thị trường. Phấn đấu đẩy doanh thu tăng 25% so với năm 2005. Đồng thời phấn đấu giảm các khoản chi phí. Đầu tư để mua sắm đổi mới may móc thiết bị nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. - Hoàn thiện và duy trì hệ thống quản lý chất lượng và hiệu quả hơn. - Để mở rộng thị trường và lôi kéo thêm nhiều khách hàng về phía mình, đa dạng hóa sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường, Công ty đang nghiên cứu tìm kiếm cơ hội, phát triển và bán ra thị trường thêm nhiều loại sản phẩm mới. Đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã các sản phẩm hiện có. - Công ty tiếp tục gửi cán bộ công nhân viên đi học để nâng cao trình độ nghiệp vụ, phấn đấu 80% cán bộ công nhân viên đạt danh hiệu lao động giỏi, người tốt việc tốt và các danh hiệu thi đua khác. - Nghiên cứu thị trường, xây dựng kế hoạch tiêu thụ hàng tháng, duy trì khách hàng truyền thống, khai thác khách hàng mới, xây dựng một chiến lược bán hàng cụ thể cho từng loại hàng. - Cùng với các định hướng trên, Công ty còn tích cực tìm kiếm nguồn cung cấp nguyên liệu, hàng hóa phù hợp, giá rẻ. Để thực hiện định hướng trên trong điều kiện nền kinh tế và điều kiện công ty hiện nay, Công ty cần thực hiện hệ thống các giải pháp một cách đồng bộ, cần đến sự đồng lòng, nỗ lực của cả tập thể công ty. 2. Một số giải pháp tài chính góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý và sử dụng VLĐ tại Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà Nội. Từ những phân tích đánh giá tình hình tổ chức quản lý VLĐ tại Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà nội chúng ta có thể thấy rằng tuy đã đạt được những thành tích nhất định song công tác tổ chức và sử dụng VLĐ của Công ty vẫn còn ít nhiều hạn chế cần phải tiếp tục nghiên cứu giải quyết. Với thực tế nghiên cứu cùng sự hiểu biết của mình em xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến nhằm tổ chức tốt hơn công tác quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ tại Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà Nội. 2.1. Chủ động xác định nhu cầu và lập kế hoạch tổ chức, sử dụng VLĐ. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh tất yếu nảy sinh nhu cầu về vốn. Khi doanh nghiệp có sự tăng trưởng, quy mô hoạt động mở rộng sẽ kéo theo nhu cầu bổ sung VLĐ. Xác định nhu cầu VLĐ là một trong những biện pháp giúp công ty chủ động trong huy động và sử dụng vốn. Lập kế hoạch về huy động và sử dụng vốn là doanh nghiệp phải hình thành trước các dự định về tổ chức các nguồn tài trợ cho nhu cầu VLĐ để sử dụng chúng đạt hiệu quả cao nhất. Để xác định được nhu cầu VLĐ một cách chính xác, có thể đi theo hướng sau: - Thứ nhất: Tiến hành xác định nhu cầu VLĐ cho sẩn xuất đối với từng quý, từng năm. Công tác này sẽ gắn với phương hướng, mục tiêu hoạt động trong kỳ đó. Công ty cần phải phân tích các chỉ tiêu tài chính của kỳ trước, những biến động chủ yếu trong VLĐ, mức chênh lệch giữa kỳ kế hoạch và kỳ thực tế về nhu cầu VLĐ ở những kỳ trước, áp dụng phương pháp xác định nhu cầu VLĐ thích hợp sát đúng. Có nhiều phương pháp xác định như phương pháp dựa vào các chỉ tiêu đặc trưng trong bảng Cân đối kế toán, phương pháp tỷ lệ % doanh thu… Nhưng sử dụng phương pháp % trên doanh thu được xem là khá đơn giản và phổ biến. Đây là phương pháp xác định nhu cầu VLĐ trong ngắn hạn. Nội dung của phương pháp dựa trên doanh thu dự kiến năm kế hoạch để đưa ra biện pháp xác định. Tổng mức luân chuyển năm kế hoạch của Công ty TNNH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà Nội là 189.605.235.722 đồng. Năm 2006 để tăng tốc độ luân chuyển VLĐ Công ty có dự định rút ngắn kỳ luân chuyển VLĐ 5 ngày so với năm 2005. Biết rằng năm 2005 số dư bình quân VLĐ (VLĐo) là 18.559.690.652 đồng. Tổng mức luân chuyển VLĐ (Mo) là 151.684.188.578 đồng. Kỳ luân chuyển VLĐ (Ko) là 44 ngày. Để tính được nhu cầu VLĐ dự kiến cho năm kế hoạch ta tính được như sau: Tỷ lệ giảm kỳ luân chuyển VLĐ năm 2006 so với năm 2005 là: t% = K1 – K0 ´ 100% = - 5 ´100% = - 11,36% K0 44 Nhu cầu VLĐ dự kiến năm kế hoạch (Vnc) là: Vnc = VLĐ0 ´ M1 ( 1 + t% ) M0 = 18.559.690.652 ´ 189.605.235.722 ´ ( 1 – 11,36% ) 151.684.188.578 = 20.564.137.256 Như vậy trong năm 2006 Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà nội có thể duy trì một lượng VLĐ là 20.564.137.256 đồng. - Thứ hai: Dựa trên nhu cầu VLĐ đã xác định công ty tiến hành xây dựng kế hoạch huy động vốn: Xác định khả năng tài chính hiện tại của Công ty; số vốn còn thiếu; so sánh chi phí huy động từ các nguồn tài trợ để lựa chọn kênh huy động vốn phù hợp với mình, hạn chế rủi ro có thể xảy ra. Cụ thể: + Nguồn vốn chiếm dụng: Công ty nên khẳng định đây là nguồn vốn hết sức quan trọng bởi có thể huy động khối lượng lớn với chi phí thấp. Để khai thác các nguồn này các chú ý như: Gắn bó mật thiết kế hoạch mua chịu với kế hoạch sản xuất tiêu thụ sản phẩm để đảm bảo cung cấp đúng về thời gian và số lượng nguyên vật liệu cần thiết. Lập kế hoạch dự toán thu chi bằng tiền, đảm bảo khả năng thanh toán tại mọi thời điểm, quan trọng nhất là phải tôn trọng kỷ luật thanh toán với các nhà cung cấp, trả đúng hạn, đúng số lượng đã cam kết. Thực hiện tốt việc này sẽ củng cố niềm tin với bạn hàng, là cơ sở để tiếp tục mua chịu với khối lượng cần thiết. Đồng thời công ty phảI tạo mối quan hệ hữu hảo với các nhà cung cấp, xác định họ là những đối tác chiến lược trong hoạt động kinh doanh của mình. + Các khoản vay khác: Đây là nguồn có thể có thể cung cấp kịp thời nhu cầu vốn cho công ty nhưng công ty phải trả chi phí sử dụng vốn khá cao. Hệ số nợ của Công ty hiện nay là khá cao nên công ty không nên tiếp tục vay thêm vì như vậy sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của Công ty. -Thứ ba: Khi lập và thực hiện kế hoạch VLĐ phải căn cứ vào kế hoạch VLĐ đảm bảo cho phù hợp với tình hình thực tế. Trong quá trình thực hiện kế hoạch nếu xảy ra sự thiếu hụt hoặc dư thừa thì cần có biện pháp xử lý ngay. Kế hoạch huy động và sử dụng VLĐ là một bộ phận quan trọng của kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó nó cũng cần phải được lập một cách sát đúng, toàn diện và đồng bộ để là cơ sở vững chắc, đáng tin cậy cho công tác tổ chức quản lý và sử dụng VLĐ. 2.2. Quản lý chặt chẽ và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bằng tiền. Việc duy trì một lượng vốn bằng tiền thích hợp đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo khả năng thanh toán tức thời của Công ty cũng như giảm chi phí phải trả cho các khoản mục không sinh lời này. Khi thiếu tiền mặt công ty tăng cường thu hồi các khoản tín dụng thương mại hoặc vay ngắn hạn ngân hàng, khi quá thừa tiền công ty đã có biện pháp sử dụng nguồn vốn dư thừa tạm thời này vào việc như trả lãi suất vay ngân hàng hay dùng để đầu tư vào thị trường tài chính. Qua phân tích tình hình vốn bằng tiền của Công ty trong thời gian vừa qua chúng ta thấy tỷ trọng vốn bằng tiền trong tổng VLĐ của công ty cuối năm đã tăng hơn so với đầu năm nhưng vẫn còn thấp. Tình trạng này ảnh hưởng đến khả năng thanh toán tức thời của công ty, làm khả năng thanh toán tức thời thấp. Tuy công ty sử dụng vay ngắn hạn ngân hàng như là một trong những nguồn tài trợ cho nhu cầu vốn ngắn hạn, và có tính linh hoạt rất cần thiết cho việc quản lý vốn bằng tiền. Song khoản vay nào cũng có giới hạn hơn nữa duy trì việc vay ngắn hạn lớn sẽ khiến công ty phải chịu chi phí cao. Vì vậy để quản lý vốn bằng tiền có hiệu quả thì việc xác định mức dự trữ tối ưu là rất cần thiết. Qua đó sẽ tăng khả năng thanh toán tức thời của Công ty, giúp cho tình hình tài chính của Công ty ổn định hơn. Đồng thời qua phân tích cơ cấu vốn bằng tiền của Công ty chúng ta thấy tỷ trọng tiền gửi Ngân hàng của Công ty thấp hơn so với tỷ trọng tiền mặt tồn quỹ. Do vậy Công ty nên điều chỉnh lại cơ cấu làm sao để tăng tỷ trọng tiền gửi Ngân hàng, giảm tỷ trọng tiền mặt tồn quỹ. Vì tiền gửi Ngân hàng vừa an toàn, vừa có lãi, vừa thuận lợi trong thanh toán. Còn tiền mặt tại quỹ quá nhiều sẽ gây ứ đọng vốn. Sau khi xác định được nhu cầu VLĐ thì công ty định ra mức vốn bằng tiền tối ưu cũng như biên độ giao động của nó. Mức dự trữ vốn bằng tiền có thể được xác định dựa trên cơ sở mức chi tiêu bình quân một ngày trong kỳ và số ngày dự trữ. Mức dự trữ vốn bằng tiền = Mức chi tiêu bình quân một ngày trong kỳ ´ Số ngày dự trữ Công ty có thể áp dụng chính sách quản lý vốn bằng tiền theo cách xác định giới hạn trên và giới hạn dưới. Khi lượng tiền mặt vượt quá giới hạn trên công ty trả nợ ngắn hạn để đưa mức vốn bằng tiền về mức dự trữ tối ưu, còn khi lượng tiền mặt quá thấp thì công ty vay ngắn hạn ngân hàng để bổ sung cho phần vốn bằng tiền thiếu hụt. Đồng thời Công ty cũng cần điều chỉnh tỷ trọng tiền mặt tại quỹ và tiền gửi Ngân hàng. Cần tăng tỷ trọng tiền gửi Ngân hàng lớn hơn. 2.3. Tổ chức tốt công tác mua sắm, dự trữ nguyên vật liệu và hàng hóa, đăm bảo đáp ứng cho nhu cầu sản xuất và kinh doanh. Hàng tồn kho dự trữ có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng VLĐ. Việc sử dụng tiết kiệm và có kế hoạch, dự trữ linh hoạt, hợp lý sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến việc hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty. Thực tế ở Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà nội trong hàng tồn kho thì hàng hoá chiếm tỷ trọng cao nhất. Lượng hàng thu mua cũng như tồn tại các cửa hàng, các Trung tâm của công ty là nhiều. Đối với đơn vị kinh doanh thì luôn phải dự trữ một lượng hàng hoá lớn là điều tất nhiên, nhưng do sản phẩm của Công ty là các loại thực phẩm, bánh kẹo, rượu bia….., đều là các sản phẩm có thời hạn sử dụng ngắn nên nếu để tồn quá nhiều mà không tiêu thụ được trong thời gian tới thì sẽ gây khó khăn cho Công ty vì sản phẩm sẽ bị hư hỏng, giảm chất lượng và không sử dụng được. Để tránh hiện tượng này thì Công ty nên tìm hiểu kỹ nhu cầu thị trường xem thị trường tiêu thụ nhiều sản phẩm nào, ít tiêu thụ sản phẩm nào để có kế hoạch thu mua hợp lý, đáp ứng nhu cầu thị trường. Công ty cũng cần giữ mối quan hệ tốt với các nhà cung cấp, tạo uy tín cao đặc biệt là các nhà cung ứng truyền thống để nhà cung cấp sãn sàng đáp ứng sản phẩm bất kỳ lúc nào khi Công ty cần và chất lượng sản phẩm được đảm bảo hơn, giá cả hợp lý hơn. Đồng thời cũng cần chú ý đến khâu bảo quản hàng hoá thật tốt, tránh gây hư hỏng cho sản phẩm. Trong công tác thu mua hàng hoá công ty cũng cần chú ý, nếu hàng mua đang đi đường thì trong Hợp đồng vận tải công ty nên quy rõ trách nhiệm của người chuyên chở. Điều này làm cho hàng hoá nhập về luôn đảm bảo chất lượng và số lượng. Nếu hàng tồn ở các cửa hàng, các Trung tâm thì chuyển luôn trách nhiệm này cho các cửa hàng, các Trung tâm để nâng cao trách nhiệm của họ hơn. Công ty có 4 xí nghiệp chế biến sản xuất, do vậy công ty cũng cần chú ý đến công tác dự trữ nguyên vật liệu. Căn cứ vào tình hình thị trường, tình hình sản xuất Công ty xây dựng kế hoạch dự trữ nguyên vật liệu cụ thể, chính xác, đảm bảo dự trữ một lượng vừa đủ để đáp ứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra bình thường, cũng như trong trường hợp đột biến vẫn có khả năng cung ứng kịp thời, đầy đủ nguyên liệu cho quá trình sản xuất. Qua phân tích cho ta thấy lượng dự trữ nguyên vật liệu của Công ty tăng mạnh về cuối năm. Việc tăng mạnh nguyên vật liệu là do Công ty đã có kế hoạch cụ thể. Nhưng mức tăng dự trữ quá lớn như vậy cũng có thể gây khó khăn cho Công ty trong công tác bảo quản. Mức dự trữ quá lớn như vậy sẽ không ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh khi thị trường đầu vào biến động. -Công ty cần mở rộng thì trường mua nguyên vật liệu, hàng hóa, tìm kiếm lựa chọn đối tác có khả năng đáp ứng thường xuyên, liên tục nguyên vật liệu và hàng hóa theo yêu cầu sản xuất của Công ty. -Lập kế hoạch sản xuất sản phẩm năm kế hoạch trên cơ sở tình hình năm báo cáo, chi tiết khối lướng sản xuất theo từng tháng, từng quý. Kiểm tra giám sát chắt chẽ khâu mua nguyên vật liệu và hàng hóa. Khi nhận hàng từ người bán công ty cần kiểm tra chất lượng kỹ thuật cẩn thận từng kiện hàng, phải đảm bảo chất lượng nguyên vật liệu là tốt. -Đối với nguyên vật liệu và hàng hóa nhập ngoại công ty cần phải có kế hoạch thu mua, dự trữ hợp lý về số lượng, chủng loại,… cần liên hệ với nhiều nguồn cung cấp, tăng cường nghiên cứu tiếp cận thị trường đầu vào thông qua khách hàng của Công ty để tìm kiếm nguồn cung cấp thuận lợi hơn, thường xuyên với giá cả phải chăng. -Bảo quản tốt việc dự trữ nguyên vật liệu, hàng hóa mua về. Hàng tháng, kế toán phải đối chiếu sổ sách, phát hiện số nguyên vật liệu và hàng tồn kho tồn đọng để xử lý, tìm ra biện pháp để giải phóng nhanh số vật tư ứ đọng để thu hồi vốn. Để đề phòng trường hợp quy mô sản xuất tăng đột ngột hay tránh những dao động mạnh, công ty có thể tiến hành dự trữ bảo hiểm nhằm duy trì tính liên tục của hoạt động sản xuất kinh doanh, và tận dụng được các cơ hội. Để nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ công ty nên thực hiện một số biện pháp nhằm giảm chi phí sản xuất kinh doanh. Hiện nay dây truyền sản xuất của công ty là khá hợp lý, liên tục. Tuy nhiên công ty phải không ngừng tiếp thu những phát minh mới về khoa học kỹ thuật, áp dụng những sáng kiến cải tiến kỹ thuật vào sản xuất để rút ngắn thời gian sản xuất, đồng thời tăng cường độ làm việc của máy móc thiết bị và lựa chọn những máy móc thiết bị có công suất cao. 2.4. áp dụng hình thức thanh toán hợp lý, tổ chức tốt công tác thanh toán thu hồi tiền hàng. Hiện nay công ty có áp dụng chính sách bán chịu đối với khách hàng. Vốn lưu động ứ đọng trong khâu lưu thông dưới dạng các khoản phải thu ở mức tương đối cao. Mặc dù vòng quay các khoản phải thu của Công ty là cao, kỳ thu tiền bình quân thấp. Song với mức độ khoản phải thu tương đối cao, đặc biệt là khoản phải thu của khách hàng, thì công ty cũng cần có những biện pháp hữu hạn để hạn chế tới mức tối đa tình trạng nợ nần dây dưa, chưa thanh toán của khách hàng, đảm bảo sự ổn định, lành mạnh và tự chủ về tài chính của Công ty trong thời gian tới. Với những khách hàng mua lẻ với khối lượng nhỏ, công ty tiếp tục thực hiện chính sách “mua đứt bán đoạn” , không để nợ hoặc chỉ cung cấp chiết khấu ở mức thấp với những khách hàng nhỏ nhưng thường xuyên. Với những khách hàng lớn, trước khi ký kết Hợp đồng tiêu thụ Công ty cần xem xét kỹ lưỡng cơ sở vật chất của khách hàng, tình hình tài chính, khả năng tiêu thụ sản phẩm của khách hàng. Công ty có thể từ chối ký Hợp đồng với những khách hàng nợ nần dây dưa hoặc không thanh toán hoặc những đơn đặt hàng mà số tiền ứng trước rất nhỏ. Trong các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm phải quy định rõ thời hạn thanh toán, phương thức thanh toán….. và yêu cầu các bên phải chịu trách nhiệm một cách nghiêm túc các điều khoản đã quy định trong Hợp đồng, phù hợp với chính sách, chế độ tài chính đã quy định. Chẳng hạn nếu thanh toán chậm so với thời hạn quy định phải chịu theo lãi suất quá hạn của ngân hàng. Mở sổ theo dõi chi tiết các khoản nợ trong và ngoài Công ty, tiến hành sắp xếp các khoản phải thu theo thời gian. Như vậy Công ty có thể biết được một cách dễ dàng khoản nào sắp đến hạn để có thể có các biện pháp hối thúc khách hàng trả tiền. Trong những năm trước công ty có khoản phải thu khó đòi do đó Công ty nên lập quỹ dự phòng khoản phải thu khó đòi tương ứng với quy mô và rủi ro của khoản phải thu để có thể giảm được thiệt hại các khoản nợ xấu gây ra, đồng thời cũng tránh gây lãng phí do ứ đọng vốn. Sử dụng chiết khấu thanh toán cho khách hàng thanh toán sớm tiền hàng nhằm khuyến khích khách hàng thanh toán, hạn chế thanh toán chậm dẫn đến nợ nần dây dưa khó đòi. Để làm được điều đó thì tỷ lệ chiết khấu phải được đặt sao cho phù hợp, phát huy được hiệu quả của nó. Để có thể xác định tỷ lệ chiết khấu hợp lý cần phải đặt nó trong mối quan hệ với lãi suất vay vốn hiện hành của ngân hàng. Bởi vì khi bán hàng trả chậm, công ty sẽ phải vay vốn để đáp ứng nhu cầu vốn cho các hoạt động kinh doanh được tiến hành liên tục. Vì vậy việc công ty giảm cho khách hàng một tỷ lệ nhỏ hơn lãi suất vay vốn để thu hồi tiền hàng ngay vẫn có lợi hơn là không chiết khấu để cho khách hàng nợ một thời gian và trong thời gian đó công ty lại phải đi vay vốn để chịu tiền lãi. Giả sử tất cả các khoản phải thu của khách hàng có thời hạn là một tháng. Tại thời điểm 31/12/2005 khoản phải thu của khách hàng là: 2.832.315.817đồng. Với việc vay vốn ngân hàng với lãi suất 0,65%/tháng, nếu khách hàng thanh toán ngay thì công ty không phải chịu số tiền lãi là: 2.832.315.817 ´ 0,65% = 18.410.053 đồng. Do đó để thu được tiền hàng ngay, công ty có thể chiết khấu cho khách hàng ngay là 0,3% giá trị hàng bán. Khi đó số tiền chiết khấu cho khách hàng là: 2.832.315.817 ´ 0,3% = 8.496.947 đồng. Số tiền tiết kiệm do áp dụng chiết khấu là: 8.496.947 – 18.410.053 = - 9.913.106. Đối với những khoản nợ quá hạn đã đến hạn trả nhưng chưa thu được tiền, Công ty cũng cần phải có những biện pháp tích cực để đòi nợ như gọi điện, viết thư yêu cầu hoặc cứng rắn hơn như cử người trực tiếp đến đòi, cắt cử Hợp đồng, phạt tiền, thu hồi lại sản phẩm của Công ty và có thể gửi đến toà án yêu cầu toà án can thiệp. Việc sử dụng chiết khấu thanh toán hay chiết khấu thương mại thì Công ty cần ghi rõ trong Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm giữa hai bên và với cách bán hàng trên thì chắc chắn khối lượng sản phẩm tồn kho của Công ty sẽ giảm xuống hơn nhiều, kỳ thu tiền bình quân sẽ rút ngắn lại, vốn sẽ được luân chuyển nhanh hơn, sử dụng vốn sẽ tiết kiệm hơn. Và do đó việc sử dụng vốn nói chung và VLĐ nói riêng sẽ đạt hiệu quả cao hơn. 2.5. Đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh. Việc mở cửa nền kinh tế đồng nghĩa với việc mở rộng giao lưu, buôn bán quốc tế. Chính điều này đã tạo ra điều kiện cho hàng ngoại nhập tiêu thụ tràn lan trên thị trường, cạnh tranh mạnh mẽ với hàng nội địa. Điều này vừa là cơ hội vừa là thách thức cho các doanh nghiệp trong nước và Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà nội không ngoại lệ. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để Công ty có thể khẳng định chỗ đứng của mình trong cuộc cạnh tranh này. Câu trả lời là Công ty phải nâng cao được sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường cả về chất lượng, giá cả và thời gian tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Chất lượng sản phẩm được nâng cao sẽ tạo điều kiện cho việc tăng giá bán, từ đó tăng doanh thu, lợi nhuận cũng tăng. Như vậy nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và VLĐ nói riêng. Để giải quyết vấn đề này Công ty cần áp dụng một số biện pháp sau: - Đối với hoạt động sản xuất: + Phải kiểm tra nghiêm ngặt chất lượng nguyên vật liệu trước khi đưa vào sản xuất. Nếu trong quá trình sản xuất, các loại nguyên vật liệu kém chất lượng vẫn được sử dụng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm. Kiểm tra vật tư từ khâu nhập đến khâu sản xuất để đảm bảo cho vật tư được sử dụng đúng chất lượng quy định, đúng định mức kinh tế kỹ thuật đã đề ra, tránh hiện tượng gian lận, bớt xén vật tư, thay thế vật tư chất lượng tốt bằng vật tư chất lượng xấu….làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. + Nhu cầu về chất lượng sản phẩm của người tiêu dùng ngày càng cao do đó Công ty cần đầu tư đổi mới và nâng cao dây truyền sản xuất. Việc đầu tư hoàn thiện dây truyền sản xuất có thể giúp Công ty tiết kiệm chi phí, giảm giá thành sản phẩm, chủ động hơn, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng các mặt hàng sản xuất. + Tăng cường bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề của đội ngũ cán bộ công nhân viên nhất là nhân viên kỹ thuật. - Đối với hoạt động kinh doanh: + Trên thị trường hiện nay thành lập rất nhiều các doanh nghiệp Thương mại, đây là các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp. Công ty phải tạo được hình ảnh của Công ty mình trên thị trường, thu hút được khách hàng đến với Công ty. Muốn vậy Công ty phải đa dạng hóa chủng loại sản phẩm, có nhiều loại sản phẩm kinh doanh đáp ứng tối đa nhu cầu tiêu dùng. Tránh tình trạng mặt hàng quá ít, quá đơn điệu. Khi đó sẽ mất nhiều cơ hội kinh doanh khi đối tác có yêu cầu thay đổi bất thường. Bất kỳ một sản phẩm nào ra đời đều trải qua một thời gian sẽ rút khỏi thị trường. Vì vậy để tồn tại và phát triển Công ty cần khai thác sản phẩm mới để đáp ứng tốt nhu cầu mới của khách hàng. Nhãn hiệu sản phẩm là một phần rất quan trọng trong sản phẩm. Nhãn hiệu là yếu tố đầu tiên gây ấn tượng dễ nhớ, dễ lưu lại trong tâm trí khách hàng so với sản phẩm. Do công ty là một nhà phân phối sản phẩm công nghệ thực phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng. Đa số các sản phẩm đều có tên tuổi trên thị trường, đều đã được các nhà sản xuất quảng cáo trên thị trường. Song để kinh doanh đạt kết quả tốt hơn thì Công ty nên lựa chọn các sản phẩm chất lượng tốt, có uy tín và ấn tượng lớn với khách hàng. Nếu bán những sản phẩm uy tín trên thị trường thì Công ty cũng sẽ dễ dàng tiêu thụ được hàng hóa. Hiện nay hệ thống nhà kho của Công ty đã xuống cấp do sử dụng lâu năm và ít được nâng cấp. Công ty phải xây dựng hệ thống kho tàng thích hợp, đảm bảo cho việc lưu giữ nguyên vật liệu và hàng hóa không bị hư hỏng, giảm chất lượng. 2.6. Chủ động hơn công tác tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường. Ngày nay không một doanh nghiệp nào phủ nhận vai trò của các biện pháp hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm. Thực hiện tốt các biện pháp này Công ty sẽ mở rộng được thị phần, xây dựng được cho mình một chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Thời gian qua Công ty chưa chú trọng đến các hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Biện pháp chủ yếu mà Công ty áp dụng để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm là cung cấp chiết khấu thương mại cho khách hàng. Thông tin về sản phẩm của Công ty đến người tiêu dùng còn hạn chế. Bởi vậy trong thời gian tới Công ty cần phải chú trọng sử dụng các biện pháp hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm đặc biệt là quảng cáo. + Đối với những sản phẩm do công ty chế biến sản xuất thì công ty phải tiến hành quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như: đài báo, truyền hình….đặc biệt là vào các dịp lễ tết. Công ty nên thường xuyên tham gia các hội chợ triển lãm, vừa là một cách quảng bá sản phẩm, lại là một cách để tìm kiếm thêm khách hàng từ hội chợ này. + Đối với những mặt hàng kinh doanh: Công ty cần tìm kiếm những thị trường mới có nhu cầu về mặt hàng mà Công ty đang kinh doanh, đánh giá các thị trường cũ về các mặt như: kinh tế, chính trị, văn hóa, đối thủ cạnh tranh đã và sẽ có trên thị trường. Từ việc tìm kiếm thị trường mới sau đó sẽ tiến hành phân tích đánh giá thị trường, tìm ra những thị trường mà công ty có khả năng xâm nhập và mở rộng thị phần Công ty. Cuối cùng là việc hoạch định các chiến lược thâm nhập, giữ vững và mở rộng thị trường. Công ty có một hệ thống các cửa hàng nằm trên địa bàn rộng, do đó cần phải khai thác một cách hiệu quả những địa điểm này, sao cho các cửa hàng không chỉ thực hiện chức năng kinh doanh thuần túy mà còn là nơI tìm hiểu và khai thác thông tin thị trường giúp cho Công ty nhận định đánh giá chính xác về thực trạng nhu cầu cũng như những biến động thị trường. Công ty yêu cầu các cửa hàng thường xuyên thông báo các thông tin về thị trường, những cớ hội kinh doanh mà Công ty có thể nắm bắt được và đưa ra các dự báo về nhu cầu thị hiếu của khách hàng. Tổ chức hoàn thiện đội ngũ tiếp thị, tăng cường hệ thống thông tin và xử lý thông tin, hạn chế tối thiểu các cấp trung gian nhằm nắm bắt thông tin nhanh chóng và tận dụng được các cơ hội kinh doanh đối với công ty. Công ty cần xây dựng hình thành thêm một số cửa hàng giới thiệu sản phẩm, hàng hóa của Công ty tại các địa điểm thích hợp. 2.7. Tổ chức bộ máy quản lý. Tài chính doanh nghiệp là một nhân tố quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy công tác quản trị tài chính doanh nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng, nó có quan hệ chặt chẽ với quản trị doanh nghiệp và giữ vị trí hàng đầu trong quản trị doanh nghiệp. Vai trò của quản trị tài chính doanh nghiệp quan trọng như vậy nhưng hiện nay việc tổ chức công tác này tại các doanh nghiệp nói chung là không tốt, các hoạt động liên quan đến tài chính phần lớn chỉ do kế toán trưởng thực hiện mà không có một bộ phận chuyên trách về lĩnh vực này. Đây là hạn chế chung của các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay và Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà nội cũng không nằm ngoài các doanh nghiệp đó. Vì vậy công ty nên thành lập một phòng tài chính riêng hoặc một bộ phận chuyên làm công tác quản trị tài chính, bằng cách này các hoạt động tài chính được quản lý chặt chẽ hơn, chuyên môn hóa hơn, do đó có khả năng điều tiết vốn tốt hơn, nâng cao hiệu quả sử dụng VKD nói chung và VLĐ nói riêng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32628.doc
Tài liệu liên quan