Luận văn Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Hà Nội

Dự án đầu tư có vai trò rất quan trọng không chỉ đối với các chủ thể trong nền kinh tế ( chủ dự án, NHTM ) mà còn đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Đối với các NHTM, dự án đầu tư là một trong những hoạt động mang lại thu nhập lớn cho các NHTM. Tuy nhiên hoạt động này lại chứa đựng rất nhiều rủi ro, chính vì vậy công tác thẩm định dự án trước khi cho vay là một yêu cầu tất yếu. Trong những năm gần đây, ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội mở rộng tiếp cận đối với nhiều dự án gồm cả ngắn hạn, trung và dài hạn. Trong đó có các dự án được tài trợ với quy mô vốn lớn, như dự án Tuần Châu Hà Tây với số vốn tài trợ là 300 tỷ đồng, hay dự án “ Nhà máy kính nổi Chu Lai” do với tổng vốn đầu tư là 1102 tỷ đồng . Tuy nhiên công tác thẩm định TCDA của ngân hàng còn bộc lộ nhiều hạn chế, do các nguyên nhân cả chủ quan ( như chưa có quy trình thống nhất, hướng dẫn chung đối với công tác thẩm định, nội dung thẩm định có nhiều bất cập), lẫn khách quan (môi trường pháp lý, môi trường kinh tế xã hội).

doc87 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1291 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
% 21,8% 27,8% Nguồn: Số liệu thống kê của phòng khách hàng doanh nghiệp SHB Từ số liệu ở bảng trên chúng ta thấy rằng tỷ trọng của tổng dư nợ cho vay tài trợ dự án trên tổng dư nợ đều tăng qua các năm. Hơn nữa số dự án được phê duyệt trên tổng số dự án xin vay cũng ngày càng lớn. Nguyên nhân là do SHB ngày càng chú trọng vào kênh cho vay theo dự án đầu tư. Bảng 2.11: Tỷ lệ nợ xấu và nợ quá hạn trong hoạt động cho vay theo dự án Đơn vị: Tỷ đồng Năm Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng dư nợ cho vay dự án 43,29 107,25 958,27 + Tổng nợ quá hạn 0,8 2,06 20,2 Tỷ lệ nợ quá hạn (trên tổng dư nợ cho vay dự án) 1,85% 1,92% 2,11% + Tổng nợ xấu 0,5 1,7 17,44 Tỷ lệ nợ xấu ( trên tổng dự nợ cho vay dự án) 1,16% 1,59% 1,82% Nguồn: Số liệu thống kê của phòng khách hàng doanh nghiệp SHB Từ bảng trên chúng ta thấy rằng tỷ lệ nợ quá hạn cũng như tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay theo dự án đều tăng qua các năm. Năm 2005 tỷ lệ nợ quá hạn là 1,85%, tuy nhiên sang năm 2006 và 2007 cùng với sự tăng lên đáng kể trong tổng dư nợ cho vay dự án thì tỷ lệ nợ quá hạn cũng tăng lên. Năm 2006 tỷ lệ nợ quá hạn là 1,92 % và tăng lên 2,11% trong năm 2007. Các khoản nợ xấu trong hoạt động cho vay dự án cũng tăng lên qua các năm. Tỷ trọng nợ xấu trên nợ quá hạn năm 2005 là 62,5%, tuy nhiên sang năm 2006 tỷ trọng này tăng lên tới 82,5% và đạt con số 86,33% vào năm 2007. Chính vì vậy tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng đều thay đổi tăng qua 3 năm. Ví dụ về thẩm định dự án tại SHB Chi tiết về dự án đầu tư Tên dự án đầu tư: Khu Biệt thự, nhà nghỉ cuối tuần và du lịch sinh thái Thanh Xuân Địa điểm của dự án: Khu Thanh Cao, xã Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc Chủ đầu tư: Công ty Cổ phần Thanh Xuân Dự án do cơ quan có thẩm quyền duyệt báo cáo khả thi: UBND Tỉnh Vĩnh Phúc Sản phẩm: Khu Biệt thự, nhà nghỉ cuối tuần và du lịch sinh thái Thị trường tiêu thụ: Trong nước (khách hàng người Việt Nam và người nước ngoài có thu nhập khá và cao). Tổng nhu cầu vốn đầu tư toàn dự án: 942.135 triệu đồng, trong đó khái toán đầu tư Khu QI: 84.822 triệu đồng Thời gian thực hiện dự án: Thời gian đầu tư xây dựng dự án: 5 năm (từ 2005-2009), có thể triển khai bán và đưa vào hoạt động từ năm 2009 Thời gian xây dựng hoàn thiện khu QI của dự án: đến năm 2009 Mục đích vay: Thực hiện một phần dự án đầu tư xây dựng khu nhà nghỉ và du lịch sinh thái “Thung lũng Thanh Xuân”- Đầu tư khu QI Số tiền đề nghị vay: 30.000 triệu VND (Ba mươi tỷ đồng chẵn) Thời gian đề nghị vay: 8 năm (96 tháng ) Trên cơ sở những thông tin chung về dự án đầu tư, cán bộ thẩm định đánh giá: Dự án nằm trong khu vực có điều kiện tự nhiên sinh thái thích hợp để đầu tư xây dựng phát triển khu du lịch, nghỉ dưỡng sinh thái; gần thủ đô Hà Nội, gần khu du lịch sinh thái Đại Lải và một số khu sinh thái lân cận; phù hợp quy hoạch phát triển của Tỉnh và chính quyền địa phương; Dự án được hưởng nhiều ưu đãi của Chính phủ theo Luật khuyến khích đầu tư và chính sách ưu đãi của địa phương; Dự án đầu tư theo ý tưởng nhằm phục vụ đối tượng khách hàng cao cấp trong và ngoài nước nên suất đầu tư khá lớn, hơn nữa, giao thông vào khu vực dự án hiện nay còn khó khăn nên việc tiêu thụ sản phẩm sẽ chậm hơn so với các dự án cùng loại có mức đầu tư thấp hơn Thẩm định tổng vốn đầu tư và cơ cấu nguồn vốn Tổng vốn đầu tư khu QI: 84.821.870.000 đồng. Trong đó: Đền bù giải phóng mặt bằng: 5.000 triệu đồng Trả tiền sử dụng đất: 2.313 triệu đồng Chi phí xây dựng: 44.609 triệu đồng Chi phí thiết bị: 16.700 triệu đồng Chi phí khác: 3.200 triệu đồng Chi phí dự phòng ( 5% x A): 4.000 triệu đồng Chi phí quản lý dự án: 9.000 triệu đồng Nhu cầu vốn, nguồn vốn thực hiện dự án: Vốn tự có: 51.721,87 triệu đồng Vốn vay các TCTD: 33.100 triệu đồng trong đó: Vay VPBank: 3.100 triệu đồng Đề nghị vay SHB: 30.000 triệu đồng Khi tiến hành thẩm định, đánh giá tổng vốn đầu tư cán bộ tín dụng đã chưa xem xét đến các yếu tố thay đổi làm tăng chi phí của dự án (chí phí xây dựng hay chi phí thiết bị) do trượt giá hay lạm phát, mà đồng ý với tổng vốn đầu tư mà dự án đưa ra ( 84.821,87 triệu đồng). Hơn nữa phần vốn tự có, cán bộ tín dụng cũng chưa đánh giá tính khả thi cũng như các nguồn huy động của nguồn vốn này. Để thu thập các thông tin về quan hệ của khách hàng với các TCTD khác, cán bộ tín dụng đã sử dụng hệ thống SmartBank (thông tin từ CIC). Và theo báo cáo của công ty và thông tin của CIC, doanh nghiệp đang quan hệ vay vốn tại ngân hàng ngoài quốc doanh VPBank, và tại thời điểm xin vay vốn dư nợ của khách hàng đang là 3.100.000.000 đồng Thẩm định doanh thu và chi phí Doanh thu của khu QI từ hai nguồn chính là doanh thu từ tiền chuyển nhượng đất và doanh thu từ tiền cho thuê đất Khu QI có diện tích đất sử dụng lâu dài là 8ha. Công ty dự kiến bán từ năm 2009 đến năm 2016 theo tỷ lệ 5%/ 8%/ 15%/ 20%/ 25%/ 20%/ 5%/2%. Về giá bán, giá khởi điểm trung bình là 2.050.000 VND, tùy từng vị trí sẽ có hệ số và sau 1 năm giá sẽ tăng 14.4% Diện tích cho thuê dài hạn là 2.5 ha từ năm 2009 tới năm 2018 theo tỷ lệ là 0%, 8%, 12%, 12%, 12%, 12%, 12%, 12%, 12%, 8% Ví dụ doanh thu năm 2009 và năm 2010 của khu Q Bảng 2.12 : Doanh thu của dự án Thanh Xuân Đơn vị: Triệu đồng Nội dung Năm 2009 Năm 2010 I Doanh thu chuyển QSD đất 8.200 15.008 Tỷ lệ 5% 8% Diện tích đất bán 4000 6400 Tỷ lệ tăng giá 1.0 1.14 Đơn giá 2,050 2,345 II Doanh thu cho thuê QSD đất 2.400 Tỷ lệ 0% 8% Diện tích cho thuê 2000 Đơn giá 1,200 ( Doanh thu chi tiết xem phần phụ lục) Chi phí cho dự án khu Q bao gồm hai khoản mục chi phí lớn là chi phí cơ bản đầu tư, xây dựng thiết bị (gồm chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng, trả tiền sử dụng đất, chi phí xây dựng, chi phí dự phòng và các chi phí khác) và chi phí hoạt động (bao gồm chi phí lương công nhân viên, chi phí quản lý, chi phí khấu hao và lãi vay). Thẩm định doanh thu: Khi tính doanh thu chuyển quyền sử dụng đất, công ty dự đoán giá bán tăng 14.4% sau mỗi năm. Đây là một con số có thể chấp nhận được nhất là trong thời điểm 2007, thị trường bất động sản Việt Nam đang ngày rất “ nóng”. Khi tính toán doanh thu công ty chưa tính đến doanh thu từ hoạt động kinh doanh du lịch. Cán bộ tín dụng đánh giá điều này có thể làm giảm lợi nhuận sau thuế của dự án, nhưng không ảnh hưởng tới khả năng trả nợ ngân hàng của dự án Thẩm định chi phí: Các khoản chi phí của dự án phát sinh từ thời điểm trước khi khách hàng đến vay ngân hàng (năm 2004). Chính vì vậy khi xác định dòng tiền để tính chỉ tiêu NPV một cách chính xác, cán bộ tín dụng đã tính đến chi phí của dự án tại thời điểm dự án đã đầu tư trước đó (năm 2004), chứ không chỉ tính chi phí từ thời điểm ngân hàng thẩm định cho vay (năm 2007). Tuy nhiên khi thẩm định, cán bộ tín dụng đồng ý với các chi phí mà khách hàng đưa ra, đặc biệt là các khoản chi phí cơ bản đầu tư xây dựng Thẩm định các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của dự án Cán bộ tín dụng đã tính toán các chỉ tiêu: Thu nhập ròng NPV (15năm): 5.295 tỷ đồng >0 - Tỷ suất doanh lợi nội bộ IRR: 15,89% - Thời gian hoàn vốn: 6 năm 6 tháng Mặc dù vòng đời của dự án là 50 năm, tuy nhiên khi tính chỉ tiêu NPV cán bộ tín dụng chỉ tính trong khoảng thời gian 15 năm (từ 2004 -2018). Điều này xuất phát từ lí do là khách hàng chỉ dự tính doanh thu của khu QI đến năm 2018. Hơn nữa ngân hàng chỉ cho dự án vay trong trong 8 năm, và nếu tính dòng tiền trong 50 năm thì rất phức tạp và không có đủ dữ liệu. Vì vậy cán bộ thẩm định giả thiết chỉ tính NPV trong thời gian hợp lý là 15 năm Thẩm định dòng tiền và lãi suất chiết khấu Dòng tiền: Dòng tiền của dự án bao gồm dòng tiền đầu tư và dòng tiền hoạt động. Khi tính toán lại dòng tiền hoạt động, cán bộ tín dụng xác định “ dòng tiền hoạt động = khấu hao + lợi nhuân sau thuế”. Cán bộ tín dụng đã không tính đến lãi vay- một dòng tiền đi ra của dự án. Sở dĩ như vậy bởi cán bộ tín dụng xem xét khả năng trả nợ gốc của dự án. Trường hợp cán bộ tín dụng xem xét đến khả năng trả nợ gốc và lãi của dự án thì “ dòng tiền hoạt động = khấu hao + lợi nhuận sau thuế - lãi vay” Bảng 2.13: Dòng tiền của dự án khu QI Đơn vị: triệu đồng Nội dung 2004 2005 2006 2007 2008 2009 0 1 2 3 4 5 Dòng tiền -7,290 -10,372 -4,013 -38,547 -19,721 -3,366 A. Dòng tiền đầu tư -6,665 -9,663 -3,150 -35,684 -14,505 -6,155 B.Dòng tiền hoạt động -625 -709 -863 -2,863 -5,216 2,789 - Khấu hao 667 1,633 1,948 5,516 6,967 7,582 - Lợi nhuận sau thuế -1,292 -2,342 -2,811 -8,379 -12,182 -4,793 Dòng tiền hoạt động trong 5 năm đầu âm (từ 2004-2008) do đây là giai đoạn đầu tư ban đầu của dự án, chỉ xuất hiện dòng tiền ra (dòng tiền đầu tư) mà chưa có khoản thu nào. Về lãi suất chiết khấu: Lãi suất chiết khấu của dự án chính là chi phí vốn bình quân gia quyền (WACC) Mức lợi tức vốn CSH mong đợi: 14,4%/năm Chi phí sử dụng vốn vay: 13,56%/năm Lãi suất CK bình quân: WACC = 14,4%* 51.721.870.000/ 84.822.000.000 + 13,56*(84.822.000.000 -51.721.870.000) / 84.822.000.000 = 14,07% Thời gian thẩm định: Đối với dự án Thanh Xuân cán bộ tín dụng mất 11 ngày để có đầy đủ bộ hồ sơ của khách hàng và thời gian thẩm định dự án từ khi có đầy đủ hồ sơ từ khách hàng chỉ trong vòng 3 ngày. Bảng 2.14: Thời gian thẩm định dự án Thanh Xuân Ngày nhận đề nghị của khách hàng 24/8/2007 Ngày nhận đầy đủ hồ sơ từ khách hàng 04/9/2007 Ngày hoàn tất tờ trình 07/9/2007 Dựa trên những thẩm định trên, cán bộ tín dụng đã: - Đề nghị cho vay: Công ty cổ phần Thanh Xuân - Lý do: + Khách hàng có tư cách pháp lý, có năng lực tài chính, có kinh nghiệm đầu tư kinh doanh các dự án hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp, khu đô thị. + Dự án khả thi, có khả năng trả nợ đúng hạn. Đánh giá chung Những kết quả đạt được Về tình hình hoạt động kinh doanh chung, SHB chuyển đổi từ mô hình ngân hàng TMCP nông thôn sang mô hình NHTM cổ phần đô thị từ năm 2005, với những mục tiêu phấn đấu cụ thể trong từng thời kỳ, SHB trong những năm đầu đã đạt được nhiều thành tự đáng kể. Trong hoạt động kinh doanh, xét trên phương diện an toàn vốn, SHB là một ngân hàng phát triển bền vững, minh bạch với cơ sở vốn vững mạnh và tỷ lệ an toàn vốn cao cùng với văn hóa tín dụng thận trọng, chính sách và quy trình hợp lý đảm bảo chất lượng tài sản tốt với khả năng phát triển danh mục tín dụng khả quan. Các kết quả hoạt động kinh doanh của SHB năm sau luôn cao hơn năm trước, các chỉ tiêu tài chính đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Doanh thu năm 2006 của SHB đạt 54.463 triệu đồng, tăng 98,6% so với năm 2005. Tuy nhiên sang năm 2007, doanh thu đạt 475.875 triệu, tăng 773,8% so với năm 2006.Tốc độ tăng trưởng doanh thu trong 2 năm gần đây là rất lớn, kéo theo đó lợi nhuận sau thuế của SHB cũng có những bước tăng trưởng đáng kể. Năm 2006, lợi nhuận sau thuế của SHB đạt 7.053 triệu đồng, tăng 32,9% so với năm 2005. Nhưng năm 2007, lợi nhuận sau thuế tăng lên 103.217 triệu đồng, tăng 1363,4% so với năm 2006. Về công tác thẩm định TCDA, trong hai năm qua ngân hàng với ưu thế về sự năng động với chiến lược phát triển rõ ràng của mình, SHB đã mở rộng tiếp cận đối với nhiều dự án gồm cả ngắn hạn, trung và dài hạn. Trong đó có các dự án được tài trợ với quy mô vốn lớn. Trong năm 2007 phải kể tới dự án Tuần Châu Hà Tây với số vốn tài trợ là 300 tỷ đồng. Ngân hàng cũng đã có các hoạt động đồng tài trợ đối với các dự án lớn, điển hình như dự án “ Nhà máy kính nổi Chu Lai” do với tổng vốn đầu tư là 1102 tỷ đồng ( vốn vay thương mại chiếm 76,7%), hay dự án “ Đầu tư mua tàu chở hàng rời Lowlands Saguenay trọng tải 66995DWT” với tổng vốn đầu tư là 41 triệu USD trong đó vốn vay là 32555000USD và SHB cam kết tài trợ là 8 triệu USD (chiếm 24,57% tổng giá trị món vay). Tính đến thời điểm hiện nay thì số dự án phải điều chỉnh kỳ hạn nợ và số dự án có nợ quá hạn tại SHB là bằng 0. Hiện nay, đội ngũ cán bộ thẩm định của ngân hàng ngày càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm và kiến thức trong công tác thẩm định. Thông qua việc thẩm định đối với các dự án, chất lượng thẩm định tại SHB đang ngày càng được nâng cao đã góp phần đưa ra những quyết định đúng đắn, nhiều dự án đã và đang triển khai đều mang lại hiệu quả kinh tế cho chủ đầu tư và đảm bảo khả năng trả nợ cho ngân hàng. Ngoài ra hệ thống máy móc, trang thiết bị phục vụ công tác thẩm định cũng ngày càng được hiện đại hóa và nâng cấp. Điều này cũng giúp cho việc thu thập thông tin và tiến hành thẩm định hiệu quả hơn, thời gian thẩm định đã được giảm thiểu so với trước đây. Những hạn chế và nguyên nhân Hạn chế: Tiền thân là ngân hàng TMCP nông thôn, lại mới chuyển đổi mô hình hoạt động sang ngân hàng TMCP đô thị, nên tiềm lực tài chính, kinh nghiệm hoạt động cũng như thị phần của SHB hiện nay vẫn còn hạn chế. Mức vốn điều lệ của SHB mặc dù đã tăng lên trong năm 2007 (năm 2006 là 500 tỷ, nhưng đến cuối năm 2007 tăng lên 2000 tỷ), tuy nhiên so với các ngân hàng TMCP khác thì con số này của SHB vẫn còn rất khiêm tốn. Hiện nay, các đối thủ cạnh tranh chính của SHB là các NHTM cổ phần có cùng đối tượng khách hàng, các ngân hàng TMCP này đang hoạt động có hiệu quả và tích cực tăng vốn, mở rộng hoạt động kinh doanh. Trong khi đó mạng lưới chi nhánh của SHB vẫn còn rất nhỏ, chỉ tập trung tại một số thành phố lớn như Hà Nội, Quảng Ninh...Mặc dù hiện nay SHB đang tích cực mở rộng mạng lưới chi nhánh của mình nhằm huy động tối đa nguồn lực, nhưng để có thể canh tranh mạnh mẽ với các NHTM cổ phần khác để chiếm lĩnh thị trường sẽ là một thách thức rất lớn đối với SHB. Ngoài ra hoạt động marketing ngân hàng, quảng bá thương hiệu cũng như giới thiệu tiện ích sản phẩm cho khách hàng còn yếu kém, chưa xây dựng được hình ảnh của ngân hàng trong tâm trí khách hàng cũng như chưa tạo được nét đặc thù trong sản phẩm dịch vụ của mình Về công tác thẩm định TCDA trong hoạt động cho vay của ngân hàng, mặc dù trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên chất lượng thẩm định tài chính vẫn chưa cao. Điều này thể hiện qua một số điểm như sau: Nội dung thẩm định TCDA còn bộc lộ nhiều hạn chế Thẩm định tổng vốn đầu tư và cơ cấu nguồn vốn còn chưa được thực hiện một cách kỹ lưỡng: Thông thường thì cán bộ tín dụng thường đồng ý với tổng mức vốn đầu tư mà chủ đầu tư đưa ra mà chưa tiến hành kiểm tra, thu thập thông tin kỹ càng từ bên ngoài. Ngoài ra khi thẩm định tổng vốn đầu tư của dự án, cần phải thẩm định cả vốn cố định và vốn lưu động của dự án. Tuy nhiên trong tờ trình thẩm định của cán bộ tín dụng chỉ tập trung xem xét yếu tố vốn cố định. Nguyên nhân của việc bỏ qua yếu tố vốn lưu động trong quá trình thẩm định một mặt do cán bộ thẩm định chưa nhận thức đúng vai trò của vốn lưu động, mặt khác là do trong dự án xin vay vốn, chủ đầu tư cũng không giải trình được nhu cầu vốn lưu động hợp lý khi ngân hàng yêu cầu. Bên cạnh đó, trong quá trình thẩm định cơ cấu vốn đầu tư, cán bộ tín dụng đá chưa đánh giá đầy đủ vai trò quan trọng của nguồn vốn chủ sở hữu. Trong nhiều dự án, cán bộ tín dụng chưa xem xét tính khả thi của nguồn vốn tự có của đơn vị, khả năng có thể huy động được ngay từ tài chính hiện tại hay phải chờ bổ sung của các thành viên/cổ đông. Thẩm định doanh thu, chi phí còn chưa sát với thực tế: Thẩm định doanh thu chi phí của ngân hàng được thực hiện còn mang tính hình thức, chung chung, chưa bám sát với những diễn biến thực tế. Một số các chi phí đầu vào, giá bán sản phẩm trên thị trường…được tính bán cố định trong suốt thời gian tồn tại của dự án. Trong khi đây là các yếu tố thường xuyên biến động do cung cầu trên thị trường, do tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô như lạm phát…Nguyên nhân là do khả năng phân tích thị trường của cán bộ tín dụng còn hạn chế, chưa nắm bắt được những thay đổi trên thị trường. Ngoài ra các dự án khi thẩm định, ngân hàng thường yêu cầu mức vốn dự phòng. Mức vốn này để bù đắp những chi phí phát sinh khi dự án đi vào hoạt động thực tế. Ngoài ra, SHB cũng như các ngân hàng khác hiện nay đều sử dụng phương pháp khấu hao theo đường thẳng để tính khấu hao cho dự án. Điều này là chưa hợp lý, do có những TSCĐ càng về sau thì mức độ khấu hao càng lớn. Thẩm định dòng tiền và lãi suất chiết khấu chưa hợp lý: Hiện nay hướng dẫn thẩm định TCDA tại SHB chủ yếu thông qua mẫu tờ trình thẩm định do ngân hàng ban hành, tuy nhiên ngân hàng chưa đưa ra những hướng dẫn, cách tính cụ thể các chỉ tiêu (như dòng tiền của dự án…) trong toàn bộ ngân hàng. Hầu hết các báo cáo thẩm định đều do một nhân viên đảm nhận, do vậy không tránh khỏi sự đánh giá chủ quan của cán bộ tín dụng, cách xác định dòng tiền còn có sự khác nhau giữa các báo cáo, chẳng hạn có báo cáo đưa lãi vay vào tính toán dòng tiền nhưng một số khác lại không. Bên cạnh đó nhiều dự án chỉ tính toán dòng tiền trong khoảng thời gian vay vốn, hay trong một khoảng thời gian nhất định mà cán bộ tín dụng đánh giá là hợp lý (chẳng hạn như dự án đầu tư xây dựng khu biệt thự nhà nghỉ cuối tuần và du lịch sinh thái Thanh Xuân) mà chưa tính toán hết trong vòng đời của dự án. Điều này có thể chấp nhận được tuy nhiên sự đánh giá đó là chưa đầy đủ vì cần phải xem xét cả vòng đời của dự án để khẳng định chắc chắn dự án có tính khả thi và hiệu quả. Ngoài ra khi tính toán dòng tiền của dự án, nhiều dự án chưa tính đến dòng tiền thu hồi sau đầu tư (gồm thu hồi vốn lưu động ròng và thu hồi từ thanh lý TSCĐ). Một số dự án mà cán bộ tín dụng đánh giá giá trị khoản thu hồi là lớn thì mới tính toán vào dòng tiền của dự án (Chẳng hạn như dự án mua tàu chở hàng rời Lowlands Saguenay trọng tải 66.995DWT. Giá trị thanh lý tàu là rất lớn nên được tính vào dòng tiền của dự án năm cuối). Việc nhiều dự án, đặc biệt với các dự án sản xuất kinh doanh bỏ qua dòng tiền thu hồi sau đầu tư có thể làm mất đi tính chính xác của dòng tiền, bởi vốn đầu tư vào TSCĐ là rất lớn, thời gian sử dụng của TSCĐ lại rất lâu so với thời gian khấu hao nên giá trị thanh lý khi dự án kết thúc là không nhỏ. Còn đối với khoản thu hồi vốn lưu động ròng, do cán bộ tín dụng thường bỏ qua vốn lưu động khi tính toán tổng vốn đầu tư của dự án nên khi dự án kết thúc thường không có dòng tiền thu hồi vốn lưu động ròng này. Việc áp dụng lãi suất chiết khấu để tính giá trị hiện tại ròng còn chưa có sự thống nhất giữa các cán bộ thẩm định, phụ thuộc vào kinh nghiệm cũng như trình độ của cán bộ thẩm định. Nhiều dự án lựa chọn lãi suất chiết khấu là lãi suất cho vay trung và dài hạn của ngân hàng, tuy nhiên cũng có dự án lựa chon lãi suất chiết khấu chính là chi phí trung bình của vốn (WACC) Thẩm định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính còn sơ sài: Hiện tại, trong tờ trình thẩm định, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án là NPV, IRR, thời gian hoàn vốn (PP). Trong quá trình thẩm định, các cán bộ tín dụng có thể đưa thêm các chỉ tiêu tùy theo trình độ của mình để giải thích, minh chứng cho đề xuất, đánh giá của mình. Hệ thống các chỉ tiêu tại SHB đưa ra còn sơ sài,mới chỉ là những chỉ tiêu cơ bản khi xem xét hiệu quả TCDA. Ngoài ra khi đánh giá ngân hàng mới chỉ dừng lại ở việc xem xét các chỉ tiêu một cách riêng lẻ chứ chưa có những sự so sánh, liên hệ giữa các chỉ tiêu với nhau. Thẩm định rủi ro của dự án chưa tốt: Việc phân tích rủi ro của dự án mới chỉ dừng lại ở phương pháp phân tích độ nhạy, với sự xem xét sự thay đổi của các chỉ tiêu như NPV, IRR khi cho một trong các biến số như giá bán, sản lượng, biến phí thay đổi mà chưa đánh giá được độ nhạy của dự án khi nhiều biến số thay đổi đồng thời. Thậm chí còn có những dự án, cán bộ tín dụng chưa phân tích rủi ro của dự án, chẳng hạn như dự án đầu tư xây dựng khu biệt thự nhà nghỉ cuối tuần và du lịch sinh thái Thanh Xuân. Thời gian thẩm định: Hiện nay thời gian thẩm định quy định tại SHB là tối đa 30 ngày, hoặc không quá 20 ngày kể từ ngày nhận được đầy đủ thông tin và hồ sơ tín dụng hợp lệ của khách hàng. Trong giai đoạn cạnh tranh như hiện nay, đặc biệt khi SHB là một ngân hàng nhỏ thì thời gian như vậy còn khá lâu. So sánh với một số tổ chức tín dụng khác thì thời gian thẩm định chỉ khoảng 2-3 tuần. Tuy nhiên có những dự án thời gian tiến hành thẩm định diễn ra rất nhanh. Chẳng hạn như dự án đầu tư xây dựng khu biệt thự nhà nghỉ cuối tuần và du lịch sinh thái Thanh Xuân, thời gian mà cán bộ tiến hành thẩm định sau khi nhận được đầy đủ hồ sơ từ khách hàng là 3 ngày. Đây là một khoảng thời gian khá nhanh, và điều này có thể ảnh hưởng tới chất lượng của quá trình thẩm định. Nguyên nhân Sở dĩ chất lượng thẩm định TCDA tại SHB còn nhiều hạn chế là do cả nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan: Nguyên nhân chủ quan Công tác tổ chức thẩm định chưa tốt: Hiện nay SHB chỉ mới ban hành quy trình nghiệp vụ tín dụng khách hàng, trong đó hướng dẫn các bước chủ yếu của quá trình cho vay cũng như nội dung tiến hành thẩm định. Tuy nhiên do chưa ban hành một quy trình tín dụng riêng hướng dẫn cho vay theo dự án, nên những hướng dẫn của SHB còn mang tính chung chung, chưa xây dựng được những chuẩn mực cụ thể trong thẩm định. Mặc dù những nội dung thẩm định cũng được nêu rõ mẫu trong tờ trình thẩm định, nhưng việc tính toán các chỉ tiêu như dòng tiền, lãi suất chiết khấu… như thế nào, dựa trên các nguyên tắc ra sao vẫn chưa được đề cập tới. Do vậy báo cáo thẩm định còn mang nặng tính chủ quan của cán bộ thẩm định Đội ngũ cán bộ còn ít, thiếu kinh nghiệm: Hiện nay, số lượng cán bộ tín dụng của SHB còn ít so với nhu cầu vay vốn của khách hàng. Số lượng cán bộ tín dụng của phòng khách hàng doanh nghiệp hiện nay là 9 người, và đều phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau, thậm chí cả các công việc như công chứng giấy tờ xác nhận tài sản đảm bảo… do hiện nay SHB chưa có bộ phận hỗ trợ tín dụng. Thêm vào đó hiện nay việc thẩm định dự án chỉ được các cán bộ có kinh nghiệm tiến hành. Tuy nhiên các cán bộ này vẫn phải làm các công việc khác của phòng tín dụng. Chính vì vậy họ phải đảm nhận một khối lượng công việc rất lớn. Ngoài ra tuy trình độ học vấn của các cán bộ tín dụng là khá cao, đa phần có trình độ đại học nhưng công tác đào tạo nghiệp vụ của ngân hàng chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Ngân hàng cũng chưa có những kế hoạch, chiến lược đào tại nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm định. Chất lượng nguồn thông tin chưa chưa cao: Hầu hết các thông tin phục vụ cho quá trình thẩm định là nguồn thông tin do khách hàng cung cấp. Cán bộ tín dụng có thể tìm kiếm các nguồn thông tin khác qua việc tìm hiểu trực tiếp tại cơ sở của khách hàng, hay thông qua internet, sách báo, các tài liệu khác…Tuy nhiên chất lượng của các thông tin đó thường không cao. Chẳng hạn như khi đánh giá tình hình tài chính của khách hàng, cán bộ tín dụng thường chỉ căn cứ vào việc phân tích các báo cáo tài chính mà khách hàng cung cấp. Do vậy độ chính xác của các báo cáo thẩm định là chưa cao, do các báo cáo tài chính mà khách hàng cung cấp có thể không trung thực. Để tăng đọ chính xác cho việc thẩm định tài chính khách hàng, ngân hàng phải yêu cầu các báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Tuy nhiên trong điều kiện nước ta hiện nay thì điều này là rất khó, do các doanh nghiệp vay thường là các doanh nghiệp nhỏ, thậm chí các doanh nghiệp lớn thì cũng việc kiểm toán là rất xa lạ do sợ tốn kém chi phí, đặc biệt là sợ lộ thông tin của doanh nghiệp mình. Một nguồn thông tin có độ chính xác cao mà ngân hàng có thể khai thác là mua thông tin, tuy nhiên nếu làm thế chi phí sẽ rất tốn kém. Hơn nữa ở Việt Nam hiện nay chưa có những tổ chức chuyên nghiệp làm nhiệm vụ cung cấp thông tin như vậy. Phương pháp thẩm định còn sơ sài: Hiện nay SHB mới chỉ sử dụng một số phương pháp đơn giản như phương pháp giá trị hiện tại ròng (NPV), phương pháp tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR), phương pháp thời gian hoàn vốn đầu tư (PP). Việc áp dụng thêm một số phương pháp khác tùy thuộc vào trình độ của mỗi cán bộ thẩm định. Điều này dẫn tới việc phân tích các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án còn chưa đầy đủ và chưa thống nhất giữa các cán bộ tín dụng. Trình độ công nghệ còn lạc hậu: Hiện nay SHB chưa có phần mềm riêng để hỗ trợ cho công tác thẩm định mà các cán bộ tín dụng tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính, hay đánh giá rủi ro của dự án chủ yếu dựa trên các phần mềm sẵn có như Excel…Ở SHB đã có nhân viên bỏ tiền của mình ra để mua một phần mềm nhằm hỗ trợ cho việc đánh giá rủi ro dự án khi tiến hành thẩm định. Tuy nhiên hầu hết các cán bộ tín dụng đều chỉ sử dụng kinh nghiệm và các phần mềm mà ngân hàng cung cấp khi tiến hàng thẩm định. Nguyên nhân khách quan Môi trường pháp lý: Do dự án liên quan đến rất nhiều các ngành nghề, lĩnh vực trong nền kinh tế nên để tiến hành thẩm định dự án, cán bộ tín dụng cần tra cứu và áp dụng rất nhiều các quy định về nghiệp vụ ngân hàng, kế toán, đầu tư…nhưng hệ thống các văn bản hiện nay vẫn chưa hoàn thiện, còn có sự chồng chéo hoặc chưa bao quát hết các tình huống xảy ra trong thực tế. Vì vậy việc nắm bắt, áp dụng các văn bản này khi tiến hành thẩm định gây nhiều khó khăn cho các cán bộ tín dụng. Hơn nữa các văn bản thường xuyên thay đổi, điều này gây rủi ro cho ngân hàng vì khi chính sách thay đổi làm cho hiệu quả dự án có thể bị tác động theo chiều hướng xấu Môi trường kinh tế xã hội: Hiện nay môi trường kinh tế xã hội Việt Nam được đính giá là có nhiều tiềm năng trong việc phát triển, và đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên cơ chế chính sách còn chưa hoàn thiện nên còn gây khó khăn nhiều cho việc triển khai các dự án. Hơn nữa thị trường hoàng hóa trong và ngoài nước biến động thất thường, dẫn đến việc dự báo các yếu tố của dự án thường thiếu chính xác, dẫn đến kết quả thẩm định không sát với thục tế nếu dự án hoạt động trong thời gian dài. Trình độ lập dự án của khách hàng còn nhiều hạn chế: Nhiều chủ đầu tư thiếu kinh nghiệm và trình độ trong việc lập dự án nhưng lại không thuê tư vấn nên các dự án khách hàng đưa tới đôi khi không đầy đủ, gây khó khăn cho các cán bộ thẩm định như mất nhiều thời gian công sức để tư vấn,hướng dẫn cho khách hàng, tiến hành thu thập thông tin…làm thời gian thẩm định kéo dài. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TCDA TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN HÀ NỘI Định hướng công tác thẩm định TCDA đầu tư tại SHB Định hướng trong hoạt động cho vay của SHB Trong nền kinh tế hội nhập hiện nay, khu vực kinh tế tư nhân và khối doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng đóng vai trò quan trọng. Dự kiến đến năm 2010 các doanh nghiệp này sẽ đóng góp 40% GDP cả nước. Với tốc độ tăng trưởng, cao nhu cầu về vốn của khối này cũng sẽ rất lớn. Nắm bắt cơ hội này, trong thời gian tới, SHB tập trung mở rộng dịch vụ hướng vào đối tượng khách hàng này, hoạt động trong các lĩnh vực như: Sản xuất, xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Sản xuất, xuất nhập khẩu hàng may mặc, đồ da. Sản xuất, xuất nhập khẩu hàng gia dụng, dân dụng, nội thất. Sản xuất, xuất nhập khẩu hàng điện tử, viễn thông. Sản xuất, xuất nhập khẩu hàng nông sản thực phẩm, thuỷ sản. Sản xuất, gia công phần mềm, công nghệ cao... Ngoài ra SHB còn chú trọng liên kết với các khách hàng là các tập đoàn kinh tế lớn, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có tốc độ tăng trưởng cao như: ngành công nghiệp than; ngành công nghiệp cao su; công nghiệp đóng tàu; giao thông; cảng biển; thuỷ nhiệt điện; kinh doanh xây dựng địa ốc Với mục tiêu xa hơn, SHB hướng đến mục tiêu trở thành một trong mười ngân hàng bán lẻ đa năng hiện đại hàng đầu tại Việt Nam, phấn đấu đến năm 2010 trở thành một tập đoàn tài chính cung cấp sản phẩm dịch vụ đa dạng cho các thị trường có lựa chọn, hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, minh bạch, phát triển bền vững, áp dụng công nghệ thông tin hiện đại, đáp ứng các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Quan điểm về chất lượng thẩm định dự án tại SHB Với phương châm hoạt động là “ Solid parters- flexible solutions ” SHB luôn phấn đấu trở thành một đối tác tin cậy và đưa ra những giải pháp phù hợp đối với khách hàng của mình. Chính vì vậy trong công tác thẩm định dự án, SHB quan niệm rằng công tác thẩm định dự án là có chất lượng khi dự án không những đảm bảo được nguồn trả nợ cho ngân hàng mà còn đáp ứng được một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng: đó là nhu cầu tài trợ đủ vốn với thời hạn mong muốn và lãi suất phù hợp, với thủ tục vay vốn thuận tiện. Để nâng cao chất lượng trong công tác thẩm định dự án thì SHB một mặt nâng cao chất lượng phục vụ, tư vấn cho khách hàng, mặt khác chỉ đạo việc phê duyệt một dự án phải qua ba cấp: Cấp phân tích và đánh giá dự án (cán bộ phân tích tín dụng) Cấp tái thẩm định (cán bộ trung gian tái thẩm) Cấp xét duyệt cho vay Sau khi có sự phê duyệt tín dụng, việc giải ngân và kiểm soát khoản cho vay được thực hiện theo quy trình tín dụng do SHB ban hành. Phòng quản lý tín dụng tại Hội sở trực thuộc ban Tổng giám đốc thực hiện chức năng tái thẩm định các dự án trên toàn hệ thống của SHB, đồng thời thực hiện chức năng phân tích đánh giá chất lượng các khoản tín dụng, điều hành và kiểm tra, kiểm soát các khoản tín dụng có vấn đề; theo dõi, đánh giá và đề xuất các giải pháp kiểm soát và ngăn ngừa các rủi ro tín dụng trên toàn hệ thống SHB. Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định TCDA trong hoạt động cho vay tại SHB Nâng cao nhận thức về vai trò của chất lượng thẩm định TCDA: Nhận thức chi phối hành động con người, chính vì vậy việc nhận thức đúng vai trò của công tác thẩm định dự án sẽ quyết định tới chất lượng của công tác thẩm định TCDA. Đối với ban lãnh đạo của ngân hàng, việc nhận thức đúng đắn về vai trò quan trọng của chất lượng thẩm định TCDA sẽ giúp ngân hàng đưa ra các chính sách, hướng dẫn đúng đắn, tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ các cán bộ tín dụng khi tiến hành thẩm định. Ngoài ra việc nhận thức đầy đủ về chất lượng thẩm định TCDA giúp các cán bộ thẩm định có trách nhiệm cao trong công việc của mình, áp dụng các quy trình nghiệp vụ, thực hiện đầy đủ các khâu cần thiết theo hướng dẫn của ngân hàng để có được kết quả thẩm định là cao nhất. Tóm lại vấn đề nhận thức ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng thẩm định TCDA, vì vậy để nâng cao chất lượng thẩm định thì việc nâng cao nhận thức của cán bộ là một đòi hỏi tất yếu. Hoàn thiện công tác tổ chức thẩm định TCDA SHB nên ban hành một quy trình tín dụng riêng hướng dẫn cho vay theo dự án, với những chuẩn mực cụ thể trong công tác thẩm định dự án Ngoài ra SHB nên thành lập “ phòng thẩm định dự án” riêng, chứ không nên để các cán bộ của phòng khách hàng doanh nghiệp kiêm nhiệm công tác thẩm định như hiện nay. Phòng này sẽ chỉ làm nhiệm vụ thẩm định các dự án và trên cơ sở đó cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính, lập dự án cho khách hàng. Trong phòng nên phân thành các tổ thẩm định theo các loại dự án, ví dụ như tổ chuyên thẩm định về cho vay thương nghiệp, tổ thẩm định về cho vay công nghiệp…Nhờ sự chuyên môn hóa như vậy, khối lượng công việc với các cán bộ tín dụng sẽ được giảm bớt, đồng thời “ trả” phòng Quản lý tín dụng về chức năng chính là thực hiện công tác quản lý. Hơn thế nữa nhờ sự chuyên môn hóa này, công tác tổ chức thẩm định sẽ được tiến hành một cách khoa học, tránh sự chồng chéo cũng như sử dụng được các kiến thức chuyên môn của từng cán bộ thẩm định, có như vậy công tác thẩm định dự án mới phát huy được hiệu quả và chất lượng thẩm định TCDA mới được nâng cao. Ngoài ra để chủ động trong việc trong việc đánh giá dự án trên phương diện kỹ thuật, làm cơ sở các định chính xác hơn doanh thu và chi phí của dự án, ngân hàng nên có một tổ tư vấn kỹ thuật với nhiệm vụ chuyên tư vấn cho cán bộ thẩm định và hội đồng tín dụng những yếu tố thuộc lĩnh vực kỹ thuật. Tuy nhiên tổ tư vấn này nên được xem xét một cách cận thận, tùy từng thời kỳ hoàn cảnh cụ thể của ngân hàng, tránh tình trạng lập ra lại làm gánh nặng cho ngân hàng. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm định Năng lực, trình độ của các cán bộ thẩm định là nhân tố chính quyết định đến chất lượng thẩm định TCDA. Nhân tố này đóng vai trò trung tâm trong mọi khâu thẩm định dự án, từ thu thập thông tin, phân tích thẩm định, báo cáo đến quyết định cho vay. Chính vì vậy nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm định là rất quan trọng Nhằm đạt được đội ngũ cán bộ có trình độ, đáp ứng những yêu cầu cho quá trình thẩm định, ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội cần tập trung vào chiến lược con người với nội dung sau: Thứ nhất, ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội là ngân hàng mới nổi lên trong số các ngân hàng TMCP. Chính vì vậy đối với công tác tuyển dụng mới ngân hàng nên tuyển các cán bộ có kinh nghiệm, đã từng làm công tác thẩm định tại các tổ chức tín dụng khác. Điều này vừa làm giảm chi phí,vừa làm giảm thời gian đào tạo lại dành cho các nhân viên mới. Thứ hai, đối với đội ngũ cán bộ đang làm việc tại ngân hàng, ngân hàng nên tổ chức các khóa học đào tạo ngắn hạn về công tác lập, phân tích, thẩm định dự án đầu tư… với sự giảng dạy của các chuyên gia trong và ngoài nước có uy tín tại từ các bộ, ban, ngành, trường đại học để cán bộ không chỉ nắm vững lý thuyết mà còn hiểu rõ thực tế, không chỉ hiểu biết một lĩnh vực mà nhiều lĩnh vực khác nhau. Bên cạnh đó ngân hàng cũng cần tổ chức học tập, rút kinh nghiệm trong công tác thẩm định thông qua các dự án đã tiến hàng thẩm định, đặc biệt đối với các dự án kém hiệu quả phải gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ…để cán bộ có thể rút ra những bài học bổ ích. Ngoài ra, ngân hàng cũng cần có những quy định, chế tài xử lý nghiêm khắc đối với những cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, mưu lợi cá nhân gây thất thoát, ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Nâng cao chất lượng công tác thu thập và xử lý thông tin phục vụ công tác thẩm định Thông tin thu thập được là rất quan trọng đối với quá trình thẩm định. Các thông tin không chính xác có thể làm sai lệch kết quả thẩm định dẫn tới các quyết định cho vay không hiệu quả. Chính vì vậy nguồn thông tin phục vụ cho quá trình thẩm định cần phải chính xác, chân thực, có độ tin cậy cao. Để nâng cao chất lượng công tác thu thập và xử lý thông tin, cán bộ thẩm định cần chú trọng tới một số vấn đề sau: Đối với thông tin do khách hàng cung cấp, đặc biệt là các báo cáo tài chính thì cần yêu cầu các thông tin đã được kiểm toán hoặc ngân hàng cũng có thể tự thuê công ty kiểm toán độc lập tiến hành kiểm toán các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Đối với những dự án mà nhu cầu vay vốn lớn thì điều này là rất quan trọng, nhằm tránh những thông tin không minh bạch và thiếu chính xác do doanh nghiệp cung cấp. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hay các cá nhân, việc tiến hành thuê các công ty kiểm toán sẽ rất tốn chi phí. Chính vì vậy các khách hàng nhỏ sẽ không tìm đến ngân hàng để vay vốn, mà sẽ tìm đến một ngân hàng khác có yêu cầu thấp hơn. Đối với các thông tin mà cán bộ tín dụng thu thập cần được tổng hợp từ nhiều nguồn: từ khách hàng, thông tin nội bộ ngân hàng, thông tin từ CIC, báo chí, internet…Nếu chỉ dựa vào một nguồn thông tin thì độ chính xác không cao, và cán bộ tín dụng sẽ không có được cái nhìn đa chiều về vấn đề cần thẩm định. Tuy nhiên việc dựa vào nhiều nguồn thông tin khác nhau có thể có những chênh lệch, vì vậy cán bộ tín dụng cần phải tiến hành so sánh, điều chỉnh để có được nguồn thông tin chính xác và hiệu quả. Việc phân tích thông tin phải được xem xét, đánh giá dựa trên cơ sở khoa học như các phương pháp toán, thống kê… chứ không được chỉ dựa trên những đánh giá chủ quan của cán bộ thẩm định. Ngoài ra các thông tin thu thập cần phải được lưu trữ lại làm cơ sở thống kê cho các dự án sau đó, nhằm tránh tình trạng phải tiến hàng thu thập lại các thông tin khi có dự án tương tự, gây lãng phí về thời gian và tiền bạc. Hoàn thiện nội dung và phương pháp thẩm định TCDA Về thẩm định tổng vốn đầu tư và cơ cấu nguồn vốn Trong quá trình thẩm định dự án, cán bộ tín dụng thường đồng ý với tổng vốn đầu tư mà khách hàng đưa ra mà chưa có sự xem xét tính chính xác và hợp lý của nguồn vốn này. Để nâng cao chất lượng thẩm định TCDA thì các cán bộ tín dụng cần phải thẩm định chính xác quy mô và cơ cấu của tổng vốn đầu tư của dự án. Cán bộ tín dụng cần so sánh quy mô và cơ cấu tổng vốn đầu tư với các dự án cùng lĩnh vực, ngành nghề hoặc các dự án tương tự được tiến hành ở các doanh nghiệp khác. Đặc biệt cán bộ tín dụng cần xác định mức dự phòng hợp lý trên cơ sở phân tích những yếu tố liên quan như tỷ giá, lạm phát… Ngoài ra khi tính tổng vốn đầu tư, cán bộ tín dụng cũng cần phải xem xét tới yếu tố vốn lưu động. Nếu như dự án bỏ qua phần vốn lưu động khi soạn thảo, thì ngân hàng cũng phải làm tôt khâu tư vấn, giúp chủ dự án có thể bổ sung, hoàn thiện phần vốn này vào dự án của mình. Khi thẩm định nguồn tài trợ của dự án, ngân hàng cần phải đánh giá kỹ tính khả thi của từng nguồn vốn tài trợ, đặc biệt phải thẩm định kỹ nguồn vốn tự có của doanh nghiệp trên cơ sở phân tích tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh trên cơ sở các báo cáo tài chính trung thực gửi đến ngân hàng Về thẩm định doanh thu, chi phí Dự án vay vốn thường được triển khai trong một khoảng thời gian dài, chính vì vậy các dự án luôn chịu sự tác động của các yếu tố vĩ mô như lạm phát, tỷ giá…hay sự biến động của môi trường kinh tế. Những thay đổi này đôi khi ảnh hưởng rất lớn tới chi phí của dự án, hay tới doanh thu của dự án. Do đó khi tiến hành thẩm định, cán bộ tín dụng cần chú ý tới sự tác động của các yếu tố này, từ đó đưa ra các dự tính sát với thực tế. Ngoài ra, khi tính toán chi phí, cán bộ tín dụng cũng cần chú ý tới việc xác định mức khấu hao hợp lý. Hiện nay hầu hết các ngân hàng đều sử dụng phương pháp khấu hao đều. Tuy nhiên việc áp dụng phương pháp này đối với hầu hết các loại tài sản, các dự án là điều không hợp lý, do các TSCĐ càng về cuối dự án, mức độ khấu hao càng tăng. Điều này sẽ ảnh hưởng tới tính chính xác trong việc tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính của dự án. Chính vì vậy các cán bộ tín dụng cần nghiên cứu nhiều phương pháp khấu hao khác nhau và lựa chọn phương pháp hợp lý nhất đối với từng loại TSCĐ của từng dự án. Dù cán bộ tín dụng có lựa chọn phương pháp khấu hao nào đi nữa thì cũng cần phải đảm bảo rằng tổng mức khấu hao qua các năm phải bằng nguyên giá TSCĐ. Về thẩm định dòng tiền Thực tế có rất nhiều các dự án mà các TSCĐ có tuổi thọ dài hơn rất nhiều so với vòng đời của dự án. Mặc dù giá trị của TSCĐ đã được tính khấu hao hết trong các năm, nhưng giá trị thanh lý của tài sản này khi dự án kết thúc lại không nhỏ. Chính vì vậy khi xác định dòng tiền, cán bộ tín dụng cần phải đưa giá trị thanh lý TSCĐ vào tính toán dòng tiền. Ngoài ra, cán bộ tín dụng cũng cần phải tính đến chi phí cơ hội và giá trị thu hồi vốn lưu động ròng. Có như vậy việc tính toán dòng tiền mới đầy đủ và chính xác. Mặt khác, đối với các dự án có vốn đầu tư dàn trải trong nhiều năm thì cán bộ thẩm định nên xác định lượng vốn cụ thể chi ra trong từng thời kỳ, sau đó tiến hành quy về năm 0, không nên tính toán tất cả vốn đầu tư chỉ được chi ra tại thời điểm năm 0. Về thẩm định lãi suất chiết khấu Việc áp dụng lãi suất chiết khấu cần được thống nhất theo một quan điểm chung để có thể đánh giá so sánh các dự án với nhau.Đối với các dự án vay vốn tại SHB, có cấu vốn là hỗn hợp, vì vậy lãi suất chiết khấu áp dụng cho dự án là chi phí vốn bình quân gia quyền WACC WACC=Wd*Kd * ( 1-T) + Ws*Ks Trong đó: Wd là tỷ trọng vốn vay trong tổng nguồn vốn Kd là chi phí vốn vay ( lãi vay) Ws là tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn Ks là chi phí vốn chủ sở hữu T là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế hiện nay, khi mà các doanh nghiệp xin vay vốn đều chưa thực hiện niêm yết trên thị trường chứng khoán thì việc tính toán chi phí vốn chủ sở hữu Ks là rất khó khăn. Chính vì vậy ngân hàng có thể dùng lãi suất cho vay áp dụng với dự án cộng thêm phần bù rủi ro. Phần bù này phải được xác định dựa trên mức độ rủi ro, thời hạn của dự án. Việc xác định này nhằm tạo ra cơ sở thống nhất trong cách xác định lãi suất chiết khấu. Về phân tích rủi ro của dự án Hiện nay, khi phân tích rủi ro của dự án, ngân hàng thường sử dụng phương pháp phân tích độ nhạy khi cho một biến số thay đổi. Tuy nhiên trên thực tế, rất ít khi có trường hợp một yếu tố thay đổi, vì vậy ngân hàng nên xem xét sự biến động của các chỉ tiêu tài chính (NPV, IRR) dưới tác động đồng thời của nhiều yếu tố. Mặt khác phương pháp phân tích độ nhạy không lượng hóa được cơ bản các chỉ tiêu hiệu quả tài chính trong trường hợp tốt nhất và xấu nhất sau đó so với cơ sở, do sự phân tích chỉ bằng cách thay đổi các biến trong phạm vi có thể và không được tính toán dựa trên sự phân bố xác suất. Chính vì vậy để đánh giá rủi ro của dự án một cách toàn diện và chính xác hơn, ngân hàng nên áp dụng thêm phương pháp phân tích tình huống và phương pháp phân tích mô phỏng. Tuy nhiên việc để đưa vào và áp dụng phương pháp này ngân hàng cần phải có những lộ trình cụ thể trong việc nghiên cứu và ứng dụng, sau đó đào tạo, hướng dẫn cán bộ tín dụng sử dụng. Phương pháp phân tích tình huống và mô phỏng có thể giúp ngân hàng đánh giá rủi ro một cách toàn chính xác hơn phương pháp phân tích độ nhạy, nhưng nó cũng đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có trình độ cao và phải được nghiên cứu và áp dụng trong từng ngân hàng. Về phương pháp thẩm định Hiện nay các phương pháp thẩm định tại ngân hàng còn sơ sài, mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá TCDA thông qua chỉ tiêu cơ bản là NPV, IRR và PP. Ngân hàng cần nghiên cứu, bổ sung thêm các phương pháp khác như phương pháp chỉ số lợi nhuận (PI), hay điểm hòa vốn cả đời dự án... Mặc dù có thể đánh giá hiệu quả TCDA nếu không có các chỉ tiêu này, nhưng nếu sự có mặt của chúng di kèm với các phương pháp cũ thì việc đánh giá hiệu quả dự án sẽ đầy đủ và chính xác hơn. Tăng cường trang thiết bị và công nghệ phục vụ thẩm định dự án Hiện nay tại SHB, mỗi cán bộ tín dụng đều được tranh bị một máy tính cá nhân để bàn. Tuy nhiên những máy tính này chỉ dừng lại ở những công việc đơn giản như đánh máy, lưu trữ tài liệu hay những tính toán đơn thuần trên Excel. Ngân hàng vẫn chưa có những phần mềm chuyên biệt phục vụ cho việc phân tích rủi ro dự án. Chính vì vậy để tạo điều kiện thuận tiện cho cán bộ thẩm định được hiệu quả, ngân hàng cần tiến hành nghiên cứu xây dựng các chương trình phần mềm phục vụ công tác thẩm định TCDA để tiết kiệm thời gian, đảm bảo việc phân tích và xử lý thông tin một cách chính xác và khoa học, từ đó nâng cao chất lượng thẩm định TCDA trong ngân hàng. Một số kiến nghị Kiến nghị với Chính phủ Chính phủ cần xây dựng một hành lang pháp lý đồng bộ, chặt chẽ với các chính sách nhất quán trong lĩnh vực đầu tư và hoạt động của ngân hàng. Điều này một mặt sẽ thu hút nhiều vốn đầu tư cho các dự án, phát triển kinh tế, mặt khác cũng tạo điều kiện thuận lợi cho cả chủ đầu tư khi triển khai dự án và cho các ngân hàng trong công tác thẩm định dự án của mình. Hiện nay, hoạt động tư vấn đầu tư còn rất sơ khai ở Việt Nam. Một mặt là do các doanh nghiệp chưa có thói quen tìm đến với hoạt động tư vấn, một mặt cũng do chất lượng hoạt động tư vấn chưa cao, do chưa có nhiều các tổ chức tài chính kinh tế lớn, có uy tín, chuyên nghiệp xâm nhập vào thị trường Việt Nam. Vì vậy, Nhà nước cần tạo ra một môi trường pháp lý hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp này hoạt động. Một trong những yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định TCDA đó chính là độ tin cậy của nguồn thông tin thu thập được của ngân hàng. Hiện nay nguồn thông tin thẩm định tình hình tài chính của khách hàng đều được cung cấp thông qua các báo cáo tài chính mà các doanh nghiệp tự lập. Chính vì vậy mà độ tin cậy của nguồn thông tin này là chưa cao. Do đó Chính phủ cần đẩy mạnh hoạt động kiểm toán Nhà nước và kiểm toán độc lập trong nền kinh tế, vì đây là những cơ quan có thể cung cấp thông tin một cách chính xác và khách quan giúp cho các ngân hàng cũng như các cơ quan quản lý. Ngoài ra Chính phủ cần có một chế tài xử lý thích hợp đối với những doanh nghiệp không tuân thủ nhưng quy định của Nhà nước về chế độ kế toán, tài chính hoặc cố tình cung cấp những thông tin sai lệch. Chính phủ cần có những biện pháp nhằm phát triển thị trường chứng khoán một cách ổn định, bền vững.Thị trường chứng khoán phát triển một mặt tạo điều kiện phát triển nền kinh tế, mở rộng hoạt động đầu tư, dẫn đến nhu cầu về vốn đầu tư cho các dựa án sẽ tăng lên, mặt khác sẽ giúp các ngân hàng trong công tác thu thập thông tin đáng tin cậy trong quá trình, đặc biệt đối với những doanh nghiệp có nhu cầu vốn mà niêm yết trên thị trường chứng khoán. Hơn nữa khi thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả thì việc tính chi phí vốn chủ sở hữu sẽ trở nên dễ dàng hơn, và lãi suất chiết khấu sẽ được xác định một cách chính xác hơn hiện nay. Việc xây dựng quy hoạch, phát triển kinh tế cho cả nước cũng như cho từng ngành phải đẩm bảo một sự thống nhất và ổn định, tránh trùng lập. Một chính sách kinh tế phù hợp sẽ góp phần hạn chế những thay đổi nằm ngoài dự tính của các biến số kinh tế , giúp công tác thẩm định rủi ro của dự án được chính xác hơn. Việc công bố thông tin một cách chính xác cũng có nhiều ý nghĩa không chỉ đối với ngân hàng mà đối với các chủ thể khác trong nền kinh tế. Vì vậy Chính phủ cần chỉ đạo hoạt động của các cơ quan thống kê một cách hiệu quả. Việc công bố các thông tin về định mức trung bình ngành, các lĩnh vực… sẽ giúp các ngân hàng có cơ sở để so sánh, đánh giá. Kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước Ngân hàng nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách, quy định trong lĩnh vực ngân hàng, cần phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng các văn bản quy phạm dưới luật như Nghị định, Thông tư, các văn bản hướng dẫn… Ngân hàng nhà nước cần có các biện pháp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro. Trung tâm này cần đưa ra mức độ rủi ro của từng ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp, trên cơ sở đó làm căn cứ cho ngân hàng trong việc đánh giá, phân loại, xếp hạng doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án. Ngoài ra ngân hàng nhà nước cần nâng cao vai trò của trung tâm thông tin tín dụng (CIC) trong việc đảm bảo cung cấp các thông tin kịp thời, đầy đủ, chính xác về tình hình của khách hàng…Trung tâm này cũng nên phối hợp với các cơ quan khác như tổng cục thống kê...hay các Bộ, ban ngành để có nguồn thông tin đa chiều, đáng tin cậy. Ngân hàng nhà nước cũng nên tư vấn cho các NHTM các thông tin về phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, nhưng ngành kinh tế mũi nhọn…để giúp cho các NHTM nghiên cứu, thu thập thông tin nhằm đón đầu nhu cầu đầu tư, nâng cao chất lượng trong viêch thẩm định các dự án hoạt động trong các lĩnh vực này. Ngân hàng nhà nước cần hướng dẫn các NHTM tăng cường hợp tác trong việc cung cấp thông tin khách hàng cho nhau nhằm hạn chế rủi ro. Bên cạnh đó, ngân hàng nhà nước cũng cần có sự phối hợp với các ban ngành đặc thù như Bộ xây dựng… để xây dựng những hệ thống những tiêu thức đánh giá các doanh nghiệp hoạt động trong ngành một cách thống nhất, tránh tình trạng một doanh nghiệp nhưng các ngân hàng đánh giá, xếp loại khác nhau gây khó khăn trong việc trao đổi thông tin. Hiện nay, do chưa có sự thống nhất chung trong quy trình, nội dung thẩm định dự án giữa các NHTM dẫn đến khi thẩm định dự án các NHTM có kết quả khác nhau. Chẳng hạn việc tính lãi suất chiết khấu ở các NHTM hiện nay còn rất khác nhau nên các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính dự án cũng khác nhau. Điều này gây khó khăn cho các NHTM khi tiến hành đồng tài trợ cho các dự án lớn. Vì vậy để tạo thuận lợi cho các ngân hàng, ngân hàng nhà nước cần nghiên cứu đưa ra những nguyên tắc chung, những quy trình và nội dung thẩm định thống nhất cho hệ thống ngân hàng. KẾT LUẬN Dự án đầu tư có vai trò rất quan trọng không chỉ đối với các chủ thể trong nền kinh tế ( chủ dự án, NHTM…) mà còn đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Đối với các NHTM, dự án đầu tư là một trong những hoạt động mang lại thu nhập lớn cho các NHTM. Tuy nhiên hoạt động này lại chứa đựng rất nhiều rủi ro, chính vì vậy công tác thẩm định dự án trước khi cho vay là một yêu cầu tất yếu. Trong những năm gần đây, ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội mở rộng tiếp cận đối với nhiều dự án gồm cả ngắn hạn, trung và dài hạn. Trong đó có các dự án được tài trợ với quy mô vốn lớn, như dự án Tuần Châu Hà Tây với số vốn tài trợ là 300 tỷ đồng, hay dự án “ Nhà máy kính nổi Chu Lai” do với tổng vốn đầu tư là 1102 tỷ đồng . Tuy nhiên công tác thẩm định TCDA của ngân hàng còn bộc lộ nhiều hạn chế, do các nguyên nhân cả chủ quan ( như chưa có quy trình thống nhất, hướng dẫn chung đối với công tác thẩm định, nội dung thẩm định có nhiều bất cập), lẫn khách quan (môi trường pháp lý, môi trường kinh tế xã hội). Trong thời gian tới, để đạt được những mục tiêu và thực hiện định hướng phát triển trong tương lai, ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội cần triển khai ngay các giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng thẩm định TCDA trong hoạt động cho vay của mình. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS.TS. Lưu Thị Hương (2004), giáo trình “ Thẩm định tài chính dự án”, nhà xuất bản tài chính. TS. Phan Thị Thu Hà (2005), “ Giáo trình ngân hàng phát triển”, nhà xuất bản lao động-xã hội. Trường Đại học tài chính kế toán, giáo trình “ Quản trị tài chính doanh nghiệp”, nhà xuất bản tài chính . PGS.TS. Trần Ngọc Thơ (2003), “ Tài chính doanh nghiệp hiện đại”, nhà xuất bản thống kê. PGS.TS.Phan Thị Thu Hà (2007), “ Giáo trình ngân hàng thương mại”, nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân. Quy chế tổ chức, hoạt động của ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội. Báo cáo tài chính thường niên của ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội. Quy chế hoạt động cho vay của ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội. Quyết định 493/QĐ- NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng tại các tổ chức tín dụng . DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Tài chính dự án Thương mại cổ phần Ngân hàng thương mại Tài sản cố định Tài sản lưu động Ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội TCDA TMCP NHTM TSCĐ TSLĐ SHB Báo cáo tài chính BCTC MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33211.doc
Tài liệu liên quan