Luận văn Nghiên cứu những tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch hiện tàng trữ tại viện nghiên cứu Hán Nôm

[/B] MỞ ĐẦU 1. Lí do lựa chọn đề tài: Theo sách DSHNVN-TMĐY cho biết, hiện nay ở Viện nghiên cứu Hán Nôm có tới 9 tác phẩm chữ Hán mang tên tác giả Nguyễn Khắc Trạch, với đủ các thể loại như thơ, văn, trướng, đối Ngoài số này ra, tác phẩm của Nguyễn Khắc Trạch còn được chép lẫn trong không ít sách của người khác. Trong các tác phẩm đó, thơ chiếm phần chủ yếu. Bản nhiều nhất có đến 422 bài (bản VHv.212), về văn, bản nhiều nhất có 54 bài. Nếu tổng cộng các văn bản lại, có đến hơn một nghìn bài thơ và mấy trăm bài văn. Số lượng thơ văn như thế quả là đồ sộ. Nhưng đó mới chỉ là nhìn từ góc độ hình thức. Còn khi đi sâu vào nội dung cụ thể từng văn bản ta mới thấy chúng đang hàm chứa nhiều ẩn số. Các nhà văn bản học Hán Nôm cho biết kho thư tịch Hán Nôm của chúng ta hiện nay, nhất là các văn bản viết tay, thường có nhiều vấn đề phức tạp, rối rắm về mặt văn bản. Nào là “thật giả lẫn lộn, sao đi chép lại quá nhiều”; nào là “khó đọc, khó hiểu” Các văn bản của nhóm tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch hiện còn cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Khi xem cụ thể nội dung trong từng tác phẩm, thấy sự tương đồng và dị biệt giữa các tác phẩm rất nhiều. Ngoài ra, có những bản còn có chép cả thơ văn của người khác. Bởi vậy, việc nghiên cứu văn bản nhóm tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch là một nhu cầu khách quan mang tính điển hình về mặt văn bản học đối với di sản Hán Nôm. Đó là lí do đầu tiên thôi thúc tôi lựa chọn đề tài này. Lí do thứ hai, nhóm tác phẩm mang tên tác giả Nguyễn Khắc Trạch chủ yếu ra đời vào thời Nguyễn. Đây là thời kì khoa cử rất phát triển, người đỗ đạt rất nhiều, vì vậy người trùng tên trùng họ cũng không ít. Trong các sách như Cổ kim trùng tính trùng danh khảo của Mai Phong - Đặng Xuân Khanh, sách Hán ra đời vào khoảng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, hay Quốc triều Hương khoa lục của Cao Xuân Dục, hoặc Trạng nguyên Tiến sĩ hương cống Việt Nam, và Những ông nghè ông cống triều Nguyễn đều cho biết thời Nguyễn có bốn người trùng tên họ, đều đỗ Cử nhân tên là Nguyễn Khắc Trạch. Vậy nhóm tác phẩm mang tên tác giả Nguyễn Khắc Trạch trên là thuộc về ai trong số bốn vị này? Học giả Trần Văn Giáp trong sách Lược truyện các tác gia Việt Nam Nxb.KHXH, 1971 đã cho rằng nhóm tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch hiện còn là của Nguyễn Khắc Trạch ở làng Bình Hồ, huyện Đông Yên, nay thuộc huyện Châu Giang, tỉnh Hải Hưng. Gần đây, Nguyễn Khắc Chính, hậu duệ của họ Nguyễn Khắc ở xã Bình Hồ, huyện Đông Yên này đã viết sách Danh nhân Nguyễn Khắc Trạch thân thế và sự nghiệp, Nxb VHTT 2004. Sách giới thiệu về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Khắc Trạch ở xã Bình Hồ, huyện Đông Yên, và sách này đã mặc nhiên coi nhóm tác phẩm mang tên tác giả Nguyễn Khắc Trạch là của Nguyễn Khắc Trạch làng Bình Hồ. Phần Phụ lục trong sách có trích dịch khoảng 80 bài thơ trong nhóm các tác phẩm này. Nhưng điểm mấu chốt khiến cho tôi băn khoăn trăn trở và dẫn dắt tôi thao thức với mỗi dòng chữ trong các văn bản của các phẩm, chính là lời của GS Trần Nghĩa người được tác giả Nguyễn Khắc Chính mời viết “Lời giới thiệu” cho cuốn sách, GS viết rằng: “Nguyễn Khắc Trạch là quan chức thanh liêm, chính trực, được người đời ngưỡng mộ, quý mến, triều đình trọng dụng. Ông đồng thời còn là một nhà văn hóa đa diện, có những đóng góp nhất định trong các lĩnh vực giáo dục, lịch sử, kiến trúc, xây dựng và văn hóa. Về sáng tác, sách Lược truyện các tác gia Việt Nam, Tập I, do Trần Văn Giáp chủ biên, NXB KHXH, 1971, cho biết Nguyễn Khắc Trạch có các tập thơ văn sau đây: Nhuế Xuyên bạch bút thi tập, Nhuế Xuyên tập, Nhuế Xuyên thi tập, Nhuế Xuyên văn tập Nhìn chung, đối với một số tác phẩm Hán Nôm hiện nay, còn có điều chưa được rõ ràng, cần tiếp tục được nghiên cứu”. Ngay soạn giả Nguyễn Khắc Chính trong sách Danh nhân Nguyễn Khắc Trạch (1797-1884), thân thế và sự nghiệp, trang 50, chú thích (32), sau khi liệt kê các tác phẩm của Nguyễn Khắc Trạch, cũng cảm thấy băn khoăn: “Danh mục các tác phẩm trên tập hợp từ nhiều sách, báo, tạp chí. Tuy nhiên vẫn còn những điều chưa được xác định rõ ràng, cần nghiên cứu thêm”. Quả thực khi xem hết lượt các tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch hiện còn, thấy nhận định của học giả Trần Văn Giáp trong Lược truyện các tác gia Việt Nam về tác giả của nhóm tác phẩm trên đã có chỗ không đúng. Ông đã “lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Bởi vậy tôi quyết định nghiên cứu văn bản những tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch hiện còn, nhằm làm sáng tỏ ai trong bốn vị Nguyễn Khắc Trạch cùng đỗ Cử nhân dưới triều Nguyễn là tác giả đích thực của nhóm tác phẩm này. 2. Lịch sử vấn đề: Từ trước đến nay chưa có một chuyên khảo nào về văn bản những tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch. Chỉ có sách Danh nhân Nguyễn Khắc Trạch – thân thế và sự nghiệp xuất bản năm 2004 của Nguyễn Khắc Chính nói trên có đề cập đến một số khía cạnh nhỏ về nội dung nhóm tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch. Như trong phần viết về tình hình văn học của tác giả Nguyễn Khắc Trạch làng Bình Hồ, Nguyễn Khắc Chính đã giới thiệu tác phẩm của ông bao gồm những tác phẩm như LTCTGVN và sách DSHNVN-TMĐY đã thống kê. Trong phần phụ lục sách này, tác giả Nguyễn Khắc Chính có giới thiệu bản dịch và chú thích khoảng 80 bài thơ trích trong tác phẩm Nhuế Xuyên tùy bút thi tập (VHv.212) và Nhuế Xuyên thi tập (A.444). Theo nguyên chú ở trong sách, phần trích dịch này do GS.Trần Nghĩa và Thọ Nhân dịch. Ngoài ra, trong sách này tác giả Nguyễn Khắc Chính còn trích rất nhiều những nhận định, nhận xét của các sách, các bài báo khác ở tỉnh Hưng Yên viết về sự nghiệp văn học của Nguyễn Khắc Trạch ở xã Bình Hồ. Chẳng hạn như Nguyễn Phúc trong sách Danh nhân Hưng Yên (Sở VHTT và Hội VHNT Hưng Yên, 1997) viết: “Nói về văn chương Nguyễn Khắc Trạch thì thật là một điều khiến nhiều người sửng sốt, ông để lại trên một chục tác phẩm với hàng nghìn bài thơ, vài trăm bài văn ”. Còn Hai trăm năm nhớ về một con người (Báo Hưng Yên ngày 06- 12- 1997) Thế Hải viết: “Ân Thi xưa sau Nguyễn Trung Ngạn (1298 - 1370) có tài học rộng, văn thơ hay phải kể đến Nguyễn Khắc Trạch (1797- 1884), ông đã để lại hàng nghìn bài thơ và hàng trăm bài văn”. Tóm lại, cũng như Nguyễn Khắc Chính, các sách báo khác ở Hưng Yên khi viết về Nguyễn Khắc Trạch ở xã Bình Hồ đều cho biết ông có những tác phẩm như Trần Văn Giáp đã cho biết trong LTCTGVN và DSHNVN-TMĐY đã lên thư mục. Những nhận định, đánh giá về những tác phẩm của Nguyễn Khắc Trạch còn dừng lại ở mức chung chung, chưa thật cụ thể. Bởi vậy, luận văn của tôi sẽ là cố gắng đầu tiên đi vào nghiên cứu văn bản những tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch hiện còn được lưu trữ ở thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu: Văn bản nhóm tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch được viết bằng chữ Hán, hiện lưu giữ ở thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm. Ngoài ra, những tài liệu liên quan đến các nhân vật mang tên Nguyễn Khắc Trạch sống dưới triều Nguyễn cũng là đối tượng nghiên cứu của luận văn. - Phạm vi nghiên cứu: Trong điều kiện tư liệu hiện có, và với điều kiện khả năng cho phép tiến hành việc khảo sát, so sánh, đối chiếu và làm thư mục của 7 tác phẩm bao gồm cả thơ lẫn văn. 4. Phương pháp tiến hành: 4.1. Phương pháp văn bản học: Do yêu cầu nghiên cứu văn bản, luận văn sẽ vận dụng các phương pháp của văn bản học, bắt đầu là việc thu thập đầy đủ văn bản nhóm tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch mà cuốn DSHNVN-TMĐY đã nêu trong thư mục. Thứ đến, tiến hành mô tả vật lý, đọc văn bản, xử lí các nội dung chứa trong văn bản, làm thư mục các bài thơ bài văn để so sánh đối chiếu nhằm tìm ra bản tiêu biểu nhất, đáng tin cậy nhất. Ngoài ra còn tìm hiểu về quá trình truyền bản, chữ kiêng húy để xác định niên đại của văn bản. 4.2. Phương pháp thống kê, so sánh đối chiếu, phân tích chứng minh. Luận văn thống kê những cứ liệu liên quan đến thân thế và sự nghiệp của các vị Cử nhân Nguyễn Khắc Trạch trong và ngoài tác phẩm (nội chứng, bàng chứng) để từ đó tiến hành so sánh đối chiếu, từ đó chứng minh ai là tác giả đích thực của nhóm văn bản này. 5. Đóng góp mới của luận văn. Thứ nhất, trên cơ sở thu thập văn bản những tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch hiện còn, tiến hành nghiên cứu văn bản tìm ra bản đáng tin cậy nhất, đây là điều trước đây chưa ai làm. Đồng thời, lập thư mục số lượng các bài trong các dị bản, tiến hành so sánh đối chiếu sự tương đồng và dị biệt để đi đến xác định số lượng các bài thơ, bài văn đích thực của tác giả là bao nhiêu. Thứ hai, từ các nội chứng trong tác phẩm, kết hợp với những bàng chứng về thân thế và sự nghiệp của tác giả, luận văn đã chứng minh được ai là tác giả đích thực của nhóm tác phẩm này, nhằm đem lại quyền tác giả cho tác phẩm. Tránh tình trạng từ một ngộ nhận của một học giả đi trước mà kéo theo bao nhận định sai lầm khác của các thế hệ kế sau. 6. Bố cục của luận văn. Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, luận văn có 3 chương như sau: Chương 1: Về văn bản những tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch hiện còn. Chương 2: Ai là tác giả đích thực của nhóm tác phẩm trên. Chương 3: Sơ bộ tìm hiều giá trị nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm. Cuối luận văn là phần Phụ lục (phần trích dịch những bài mà trong luận văn đã đề cập đến trong Chương 2 và Chương 3) MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1: VỀ VĂN BẢN NHỮNG TÁC PHẨM MANG TÊN NGUYỄN KHẮC TRẠCH HIỆN CÒN 1.1. Tình trạng văn bản 1.1.1. Tình trạng văn bản thơ 1.1.2. Đối chiếu các bản thơ độc lập là một vài nhận định bước đầu 1.2.1. Tình trạng văn bản văn, trướng văn, phú và bản tổng hợp 1.2.2. So sánh sự tương đồng, dị biệt và một vài nhận định bước đầu 1.3. Tiểu kết chương 1 Chương 2: AI LÀ TÁC GIẢ ĐÍCH THỰC CỦA NHÓM TÁC PHẨM MANG TÊN NGUYỄN KHẮC TRẠCH 2.1. Những cứ liệu bên ngoài tác phẩm nói về bốn vị Cử nhân Nguyễn Khắc Trạch dưới triều Nguyễn 2.2. Những thông tin về tác giả do chính tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch cung cấp 2.3. Tiểu kết chương 2 Chương 3: SƠ BỘ TÌM HIỂU GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA NHÓM TÁC PHẨM MANG TÊN NGUYỄN KHẮC TRẠCH 3.1. Sơ bộ tìm hiểu về nội dung 3.2. Nghệ thuật trong thơ văn Nguyễn Khắc Trạch 3.3 Tiểu kết chương 3 KẾT LUẬN CHUNG TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

doc200 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2115 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu những tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch hiện tàng trữ tại viện nghiên cứu Hán Nôm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
: “Kinh Sở kí: tuế mộ gia gia cụ hào túc, vị chi bị túc tuế chi chư, chí tân niên khí chi cù nhai, vị chi khứ cố nạp tân = Sách Kinh Sở viết: Cuối năm nhà nhà đều bày thức ăn ngon bảo là trữ sẵn cho năm tới, đến năm mới đặt ra ngoài đường rồi nói là trừ cái cũ để đón cái mới” 68. 永 祥 元 旦 (丙 子) VĨNH TƯỜNG NGUYÊN ĐÁN (BÍNH TÍ) 年 開 逢 子 月 逢 春, Niên khai phùng Tí nguyệt phùng xuân, 棲 鶴 關 河 萬 景 新. Thê hạc quan hà vạn cảnh tân. 雨 洗 宜 男 花 色 潤, Vũ tẩy nghi nam hoa sắc nhuận, 風 吟 反 哺 鳥 聲 頻. Phong ngâm phản bộ điểu thanh tần. 祝 齡 客 亦 虛 諛 我, Chúc linh khách diệc hư du ngã, 減 算 兒 曾 重 益 新. Giảm toán nhi tằng trọng ích tân. 旦 得 一 官 長 此 地 , Đản đắc nhất quan trường thử địa, 城 中 歲 歲 若 而 人 . Thành trung tuế tuế nhược nhi nhân. Dịch nghĩa: TẾT NGUYÊN ĐÁN Ở PHỦ VĨNH TƯỜNG(1) Đầu năm gặp chuột, tháng vào xuân, Quan hà hạc đậu vạn cảnh đổi thay. Mưa rửa cây nghi nam nên sắc hoa nhuần nhã, Gió ngâm khúc khúc ru con tiếng chim gấp. Chúc tuổi khách cũng nịnh ta quá, Ta thì tính trừ đi con lại tính thêm lên. Chỉ được một chức quan mãi ở chốn này, Trong thành mỗi năm đều bằng người. Chú thích: (1) Tức tết năm Bính Tí (1876) 69. 新 定 名 號 呈 永 凌 二 守 臺 TÂN ĐỊNH DANH HIỆU TRÌNH VĨNH LĂNG NHỊ THÚ ĐÀI 此 地 週 迴 莫 逆 三 , Thử địa chu hồi mạc nghịch tam, 詩 談 餘 暇 又 心 談 . Thi đàm dư hạ hựu tâm đàm. 舊 新 最 好 雙 賢 守 , Cựu tân tối hảo song hiền thú, 仕 止 俱 成 一 孝 男 . Sĩ chỉ câu thành nhất hiếu nam. 欲 喚 寅 兒 明 有 卯 , Dục hoán Dần Nhi minh hữu Mão, 更 稱 北 道 別 於 南 . Cánh xưng bắc đạo biệt ư nam. 汭 川 四 字 新 題 號 , Nhuế Xuyên tứ tự tân đề hiệu, 暗 想 諸 賢 只 半 堪 . Ám tưởng chư hiền chỉ bán kham. Dịch nghĩa: MỚI ĐỊNH DANH HIỆU TRÌNH VỚI HAI VỊ THÁI THÚ ÁN SÁT VĨNH LĂNG(1) Quay đi quay lại ở đất này chớ có ngược lại đến ba lần, Luận đàm thơ, rỗi rãi lại luận đàm về nhân tình thế thái(2). Hai thái thú, một cũ một mới đều hiền lương cả, Ra làm quan cốt đều trở thành người con trai có hiếu. Định gọi Dần Nhi vì rõ ràng đã có mẹ là Mão, Lại còn phải xưng sao cho khác với ông Nguyễn ở đạo nam. Cùng với Nhuế Xuyên thành bốn chữ mới đề làm hiệu, Ngầm sánh với các bậc tiên hiền chỉ bằng nửa họ thôi. Chú thích: Nc: “Tô Triệt Kỉ Mão sinh Thức đương hiệu vi Mão quân, sinh tử như hổ nhi, dĩ Dần niên sinh Thức = Tô Triệt sinh Tô Thức vào năm Kỉ Mão nên gọi là Mão quân, sinh con giống con hổ con vì sinh Thức vào năm Dần” Nc: “Tấn nhị Nguyễn, Nam Nguyễn đạo phú, bắc Nguyễn đạo bần, dư dữ Thú đồng dĩ Canh Dần sinh nhi dư thân độc dĩ Mão sinh, chính hợp Tô gia phụ tử điển. Dư dữ thú giai tính Nguyễn, nhi nhất tại Bắc kì, nhất tại Nam kì, chính hợp nhị Nguyễn điển, lưỡng cú thượng ngôn thân, hạ ngôn gia bần = Hai ông họ Nguyễn đời Tấn, ông Nguyễn ở đạo Nam giàu, ông Nguyễn ở đạo Bắc thì nghèo. Ta và Thái thú cùng sinh năm Canh Dần nhưng riêng mẹ ta sinh vào năm Mão, vừa hợp với chuyện cha con nhà họ Tô. Ta và thú đều họ Nguyễn, nhưng một người ở Bắc kì một tại Nam kì, chính hợp với chuyện về hai ông họ Nguyễn. Hai câu đầu nói về cha mẹ, sau đó nói về gia cảnh nghèo nàn” 70. 居 室 既 定 呈 二 同 僚 CƯ THẤT KÍ ĐỊNH TRÌNH NHỊ ĐỒNG LIÊU 西 凸 東 凹 路 半 他 , Tây đột đông ao lộ bán tha, 尋 常 榱 瓦 此 中 家 . Tầm thường suy ngõa thử trung gia. 晏 嬰 宅 外 趨 如 市 , Yến anh trạch ngoại xu như thị, 陳 孺 門 前 出 有 車 . Trần nhụ môn tiền xuất hữu xa. 吾 地 江 山 曾 信 美 , Ngô địa giang sơn tằng tín mỹ, 客 亭 風 物 亦 繁 多 . Khách đình phong vật diệc phồn đa. 宦 遊 未 定 居 先 定 , Hoạn du vị định cư tiên định, 只 恐 無 瑕 道 作 瑕 . Chỉ khủng vô hà đạo tác hà. Dịch nghĩa: Phía tây lồi lên phía đông lõm xuống, khoảng giữa đường là nhà ta, Nhà chỉ là đan rui lợp ngói tầm thường. Bên ngoài nhà mọi người đi lại tấp nập như chợ(1), Trẻ con nhà họ Trần trước cửa ra khỏi nhà có xe(2). Non sông ở chốn này từng tuyệt mỹ, Phong vật đình làng cũng phồn hoa. Làm quan vẫn chưa an định nhưng chỗ ở đã yên định, Chỉ sợ không tì vết gì nhưng kể ra lại thành có tì vết(3). Chú thích: Nc: “Dư tại cận cố nhân đa hữu hai giả cố viết như thị = Ta ở gần, bạn cũ có nhiều người hay đến cho nên nói như chợ” Nc: “Ngô tự hữu xa hựu xa phường thường tại môn tiền = Ta vốn có xe lại xe của phường thường ở trước cổng” 71. 泛 舟 玩 月 PHIẾM CHU NGOẠN NGUYỆT 軍 中 無 事 又 逢 秋 , Quân trung vô sự hựu phùng thu, 慢 學 老 宏 泛 渚 遊 . Mạn học lão Hoành chiếm chử du. 萬 里 暗 光 同 一 兔 , Vạn lí ám quang đồng nhất thố, 半 空 景 色 屬 雙 鳩 . Bán không cảnh sắc thuộc song cưu. 縱 無 殿 腳 歌 栘 棹 , Túng vô điện cước ca di trạo, 賸 有 姮 娥 影 照 舟 . Thứng hữu hằng nga ảnh chiếu chu. 回 首 十 年 前 宦 海 , Hồi thủ thập niên tiền hoạn hải, 此 霄 爭 似 此 風 流 . Thử tiêu tranh tự thử phong lưu. Dịch nghĩa: BƠI THUYỀN VỜN TRĂNG Trong lúc đóng quân không có việc gì lại gặp lúc thu sang, Mạn phép học lão Hoằng bơi thuyền chơi trong bãi nhỏ. Muôn dặm tranh tối tranh sáng đều nhờ vào một con thỏ(1), Cảnh sắc ở lưng trời là của đôi chim cưu. Vốn không có cung điện ở đây nên cứ vừa chèo vằ hát, Riêng có bóng chị hằng nga rọi sáng ở trên thuyền. Qoay đầu lại thế mà đã qua đi qua mười năm bể hoạn, Khoảng trời này tranh tựa với khoảng phong lưu đó. Chú thích: Nc: “Y giang tại Cầu Sơn địa phận = Sông đang bơi thuyền ở địa phận Cầu Sơn” 72. 十 月 八 日 吟 誌 靜 棲 堂 THẬP NGUYỆT BÁT NHẬT NGÂM CHÍ TĨNH THÊ ĐƯỜNG 正 後 門 前 外 諜 中 , Chính hậu môn tiền ngoại điệp trung, 五 間 棲 托 静 坊 東 . Ngũ gian thê thác tĩnh phường đông. 白 灰 壁 上 能 留 月 , Bạch hôi bích thượng năng lưu nguyệt, 青 竹 藩 頭 不 阻 風 . Thanh trúc phiên đầu bất trở phong. 居 不 惡 囂 圓 團 遠 , Cư bất ố hiêu viên đoàn viễn , 出 常 憂 跌 路 途 通 . Xuất thường ưu điệt 路 đồ thông . 行 人 莫 謾 楊 雄 我 , Hành nhân mạc mạn Dương Hùng ngã , 宅 此 雄 文 孰 薦 雄 . Trạch thử hùng văn thục tiến hùng. Dịch nghĩa: NGÀY 8 THÁNG 10 NGÂM GHI LẠI NGÔI NHÀ YÊN TĨNH Đứng dòm trong, ngoài, trước cổng, sau lưng. Năm gian nhà ngói yên chốn phường đông. Trên tường vôi trắng lưu bóng nguyệt, Đầu dậu trúc xanh gió ùa qua. Ở vốn gét ồn tránh xa nơi tụ tập, Đi thường lo ngã đường sá phát quang. Mọi người chớ bịp Dương Hùng là ta(1), Bởi hùng văn của Trạch ta đây có được ai tiến cử là hùng đâu. Chú thích: Dương Hùng chưa rõ tiểu sử. 73. 居 室 示 兒 CƯ THẤT THỊ NHI 吾 西 產 也 汝 吾 兒 , Ngô Tây sản dã nhữ ngô nhi 靜 圃 經 营 此 最 宜 . Tĩnh phố kinh doanh thử tối nghi . 宅 必 有 鄰 花 自 益 , Trạch tất hữu lân hoa tự ích , 山 猶 如 海 邴 隨 師 . Sơn do như hải bỉnh tùy sư . 接 ….近 慰 樓 前 望 . Tiếp … cận uý lâu tiền vọng , 桂 玉 終 閒 枕 上 思 . Quế ngọc chung nhàn chẩm thượng tư . 數 訓 庭 磚 還 食 木 , Sổ huấn đình chuyên hoàn thực mộc , 李 公 誡 語 有 當 知 . Lí công giới ngữ hữu đương tri . Dịch nghĩa: Ở NHÀ DẠY CON Của cải ở Sơn Tây ta là ngươi con của ta, Ở nơi phố vắng trù việc cũng rất tốt đó. Ở ắt phải có hàng xóm láng giềng thì hoa mới có ích, Núi giống như biển có tên tuổi phải theo thầy. …………..trông ngóng trước lầu, Cuộc sống khó khăn qua, nhàn rồi nhưng trên gối cũng phải suy nghĩ. Mấy lời giáo huấn nơi sân gạch còn phải trồng cây, Lời răn dạy của ông Lí(1) cũng nên biết. Chú thích: (1) Lí công giới ngữ: Có lẽ là lời răn dạy của Khổng Tử đối với con trai Khổng Lí. Một lần Khổng Lí rảo bước qua sảnh đường của cha, Khổng Tử nhìn thấy, hỏi đã học Kinh Thi chưa, rồi bảo: Không học Kinh Thi thì biết gì mà nói chuyện. Nghe xong, Khổng Lí bèn trở về đọc Kinh Thi. Lại một lần khác, Khổng Tử hỏi Khổng Lí đã đọc Kinh Lễ chưa, và bảo: Không học lễ thì chẳng có cách nào để lập thân. Khổng Lí lại trở về học Kinh Lễ. Về sau dùng “Quá đình huấn” (dạy bảo lúc qua nhà) để chỉ sự giáo dục của người cha. 74. 再 附 丙 子 冬 十 月 初 七 夜 夢 出 野 外 見 落 葉 交 飛 寓 詠 一 律 醒 而 記 之 TÁI PHỤ BÍNH TÍ ĐÔNG THẬP NGUYỆT SƠ THẤT DẠ MÔNG XUẤT DÃ NGOẠI KIẾN LẠC DIỆP GIAO PHI NGỤ VỊNH NHẤT LUẬT TỈNH NHI KÍ CHI 春 來 疑 是 不 曾 來 , Xuân lai nghi thị bất tằng lai, 抱 痛 山 城 瘦 似 梅 . Bão thống Sơn thành sấu tự mai. 藥 力 全 應 風 易 識 , Dược lực toàn ưng phong dị thức, 詩 腸 并 浩 兩 難 催 . Thi trường tính hạo lưỡng nan thôi. 樹 眠 晝 尚 三 番 起 , Thụ miên trú thượng tam phiên khởi, 雁 去 年 猶 一 度 回 . Nhạn khứ niên do nhất độ hồi. 愁 殺 暗 中 長 臥 客 , Sầu sát ám trung trường ngọa khách, 故 鄉 只 在 喝 江 隈 . Cố hương chỉ tại Hát giang ôi. Dịch nghĩa: PHỤ CHÉP PHẦN THƠ LÀM VÀO MÙA ĐÔNG NĂM BÍNH TÍ (Đêm mùng 7 tháng 10 mùa đông năm Bính Tí nằm mơ đi ra ngoài cánh đồng, thấy lá rụng bay tơi tả, ngụ vịnh lại tất cả, tỉnh dậy rồi ghi lại đây) Bài 7. Xuân đến rồi mà ngỡ là xuân chưa đến, Ôm nỗi đau ở chốn Sơn thành gầy tựa mai. Gió dễ biết hiệu lực của thuốc hoàn toàn ứng nghiệm, Thơ và ruột đều mênh mông nên cả hai khó thúc giục. Ngủ dưới gốc cây,trong đêm ngõ hầu ba lần thức giấc, Chim nhạn bay rồi năm còn một lần về. Trong u ám buồn đến chết người mà khách vẫn mãi nằm. Vì cố hương chỉ ở khúc cong của con sông Hát mà thôi 75. 城 西 歲 除 THÀNH TÂY TUẾ TRỪ 歲 已 除 官 未 得 除 , Tuế dĩ trừ quan vị đắc trừ, 客 中 獨 坐 守 窮 盧 . Khách trung độc tọa thủ cùng lư. 昨 朝 眉 鬢 三 更 後 , Tạc triêu mi mấn tam canh hậu, 故 國 精 神 一 舍 餘 . Cố quốc tinh thần nhất xá dư. 適 見 酺 來 還 得 句 , Thích kiến bô lai hoàn đắc cú, 欲 將 酒 下 又 窺 書 . Dục tương tửu hạ hựu khuy thư. 遙 知 家 樨 焚 香 後 , Dao tri gia tế phần hương hậu, 意 母 心 頭 并 憶 予 . Ý mẫu tâm đầu tịnh ức dư. Dịch nghĩa: ĐÊM TRỪ TỊCH Ở PHÍA TÂY THÀNH Năm đã hết mà quan vẫn chưa được nghỉ, Trong khi làm khách chỉ ngồi giữ túp lều tranh. Sáng qua tóc mày sau nhiều lần thay đổi, Nước cũ tinh thần chỉ hơn một xá thôi. Lại được câu khi gặp hội uống rưọu đến, Định đem rượu xuống lại dòm sách. Xa biết ở nơi quê nhà sau khi đốt hương, Trong lòng, trong tâm tưởng của mẹ lại nhớ về ta. 76. 丁 丑 誌 年 并 叙 性 體 暘 歷 二 篇 ĐINH SỬU CHÍ NIÊN TỊNH TỰ TÍNH THỂ DƯƠNG LỊCH NHỊ THIÊN Bài 1. 丑 後 生 予 丑 四 週 , Sửu hậu sinh dư Sửu tứ chu, 正 予 四 十 八 春 秋 . Chính dư tứ thâph bát xuân thư. 通 明 遜 了 昌 黎 伯 , Thông minh tốn liễu Xương Lê bá, 筋 骨 強 於 沈 隱 侯 . Cân cốt cường ư Thẩm Ẩn Hầu. 早 悟 生 平 真 罪 過 , Tảo ngộ sinh bình chân tội quá, 卻 憐 性 習 慣 風 流 . Khước liên tính tập quán phong lưu. 欲 書 偶 得 誇 人 句 , Dục thư ngẫu đắc khoa nhân cú, 幾 已 成 翁 未 白 頭 . Kỉ dĩ thành ông vị bạch đầu. Dịch nghĩa: HAI BÀI THƠ GHI VỀ NĂM ĐINH SỬU (1877) ĐỒNG THỜI TRÌNH BÀY TÍNH CÁCH HÌNH THỂ VÀ SỰ KINH LỊCH (1) Bài 1. Ta sinh ra sau năm Sửu, giờ năm Sửu đã quay được bốn vòng(2), Đúng là lúc ta tròn bốn tám tuổi. Thông minh chẳng bằng Xương Lê bá(3), Gân cốt mạnh hơn Thẩm Ẩn hầu(4). Sớm biết ngày thường thực mắc nhiều tội lỗi, Nhưng tiếc cho tính tập nhiễm quen thói phong lưu. Viết ra đây ngẫu nhiên được câu khoe với người, Sắp đã thành ông nhưng đầu chưa bạc. Chú thích: Nc: “Tiền đề nhân chí niên nhi tự tính thể, hậu đề nhân chí niên nhi tự dịch lịch = Bài đầu nhân ghi chép về năm rồi trình bày tính cách và hình thể, bài sau nhân ghi chép về năm rồi trình bày về sự từng trải” Nc: “Dư dĩ Canh Dần niên sinh = Ta sinh vào năm Canh Dần (1830)” Nc: “Hàn Dũ niên tứ thập bát tác Ngũ châm nãi vân: thông minh tốn liễu tích niên hĩ = Hàn Dũ năm 48 tuổi làm Ngũ châm rồi nói rằng: Thông minh kém hơn năm trước rồi”. Xương Lê bá ở đây tức là Hàn Dũ học giả đời Đường. Nc: “Thẩm công niên tứ thập bát cân cốt dĩ suy = Ông Thẩm năm 48 tuổi gân cốt đã suy”. 77. Bài 2. 自 從 兔 穴 出 於 菟 , Tự tòng thố huyệt xuất ư đồ, 面 目 人 還 剩 得 吾 . Diện mục nhân hoàn thặng đắc ngô. 宦 秩 半 高 而 半 下 , Hoạn trật bán cao nhi bán hạ, 私 財 時 有 亦 時 無 . Tư tài thời hữu diệc thời vô. 自 慚 筆 法 難 希 柳 , Tự tàm bút pháp nan hi Liễu, 猶 幸 詩 才 不 及 蘇 . Do hạnh thi tài bất cập Tô. 筮 仕 認 來 多 利 丑 , Thệ sĩ nhận lai đa lợi Sửu, 寅 兒 指 日 又 名 途 . Dần Nhi chỉ nhật hựu danh đồ. Dịch nghĩa: Từ lúc theo con thỏ ra khỏi hang làm con hổ(1), Mắt mũi người còn thừa ra được ta đây. Phẩm trật trong đường hoạn đồ nửa cao nửa thấp, Của riêng lúc có cũng lúc không. Tự thẹn bút pháp không được hiếm có như Liễu Công Quyền(2), Còn may mắn vì tài làm thơ chưa bằng ông Tô Thức(3). Ra làm quan giờ mới biết nhiều lợi vào năm Sửu, Dần Nhi ta trỏ mặt trời tiếp tục con đường danh hoạn. Chú thích: Nc: “Sở vị hổ vi ư đồ. Tô Triệt dĩ Mão niên sinh vị Mão Quân, Dần niên sinh tử danh Dần Nhi. Dư Dần niên sinh, dư mẫu diệc sinh ư Mão, chính hợp Tô gia điển, cố hiệu vân = Nước Sở bảo con hổ là con thỏ. Tô Thức sinh vào năm Mão nên gọi là Mão Quân, năm Dần sinh con nên gọi tên là Dần Nhi. Ta sinh vào năm Dần, mẹ ta cũng sinh vào năm Mão, rất hợp với chuyện nhà họ Tô, cho nên ta lấy hiệu như thế” Nc: “Đường Liễu công Quyền bút báp tối diệu, đối Đường đế viết: tâm chính tắc bút pháp chính, cái dĩ bút gián dã = Liễu Công Quyền đời Đường bút pháp rất tuyệt diệu, đối đáp với vua nhà Đường rằng: Cái tâm ngay thì thì bút pháp mới ngay được, bởi bút là dùng để can gián”. “Liễu” ở trong câu tức chỉ Liễu Công Quyền, người đời Đường, bút pháp rất nghiêm cẩn. Nc: “Thức dĩ thi đắc tội = Tô Thức đắc tội vì làm thơ” “Tô” trong câu tức chỉ Tô Thức người đòi Tống, tức Tô Đông Pha, văn chương phóng túng, thi từ hào phóng”. 78. 赴 次 吟 懷 PHÓ THỨ NGÂM HOÀI 墨 哀 嗟 我 此 從 戎 , Mặc ai ta ngã thử tòng nhung, 裡 面 私 情 表 面 公 . Lí diện tư tình biểu diện công. 故 婦 骨 骸 遺 眾 樨 , Cố phụ cốt hài di chúng tể, 前 山 蹤 跡 逸 群 雄 . Tiền sơn tung tích dật quần hùng. 處 藏 箇 出 原 非 巧 , Xử tàng cá xuất nguyên phi xảo, 破 轉 而 平 便 是 工 . Phá chuyển nhi bình tiện thị công. 蘭 桂 有 香 蓬 孛 掃 , Lan quế hữu hương bồng bột tảo, 江 湖 外 有 庙 堂 中 . Giang hồ ngoại hữu miếu đường trung. Dịch nghĩa: NGÂM VỊNH NỖI LÒNG TRÊN ĐƯỜNG HÀNH QUÂN Mặc ai than vãn, ta tòng quân đây, Trước vì tình riêng sau nữa việc công. Cốt hài của vợ ta đã nằm dưới lớp cỏ non, Trước núi tung tích của bọn phỉ vẫn còn ẩn dật. Xuất hay xử cái hơn vốn chẳng phải là tốt cả, Phá tan chúng hay chuyển đi mà yên được lại là điều tốt. Lan quế có hương thơm hăng hái quét, Ngoài sông suối có, trong miếu đường thơm lây. Chú thích: Nc: “Bộc khứ niên tam nguyệt vi cô, thất nguyệt vi quan, tam tử mẫu tùy, tứ tử phụ hỗ, hựu bất miễn vi sồ, kim niên công trừ, lân hạt quần phỉ khởi, thượng ty dĩ bộc thổ trước địa vọng, sớ thỉnh Thương biện bản tỉnh, cầm phòng quân vụ, tự tri vũ nghệ cố phi sở học, nhi tá nhất cận chức, ngoại dụ tặc tử, nội phủ nhi quần, nãi kì sở nguyện dã. Tiếp hội tức hành ngâm thi tự bạch = Ta đi vào tháng 3 cô quạnh, tháng 7 trở thành người quan quả, 3 đứa con theo mẹ, còn bốn đứa cậy cha, không tránh khỏi cảnh chim non thiếu mẹ. Cuối năm nay bọn phỉ ở hạt bên nổi dậy, quan trên và ta bám bám theo xem, viết sớ xin Thương biện của tỉnh và Cầm phòng quân vụ. Tự biết võ nghệ chẳng phải điều được học, song nhờ cái chức này gần nhà, ngoài thì dụ hàng giặc, trong thì vỗ về đàn con, ấy là điều mong ước của ta bây giờ. Đón hội rồi đi, ngâm thơ tự bộc bạch”. 79. 泣 長 子 審 行 KHẤP TRƯỞNG TỬ THẨM HÀNH 陸 地 風 波 不 可 期 , Lục địa phong ba bất khả kì, 汝 來 何 自 去 何 之 . Nhữ lai hà tự khứ hà chi . 幾 千 里 外 遙 從 宦 , Kỉ thiên lí ngoại giao tòng hoạn , 十 五 年 前 假 做 兒 . Thập ngũ niên tiền giả đắc nhi . 平 日 工 夫 終 屬 費 , Bình nhật công phu chân thuộc phí, 半 霄 言 話 忽 成 欺 . Bán tiêu ngôn thoại hốt thành khi. 輪 臺 未 果 他 年 卜 , Luân đài vị quả tha niên bốc, 想 到 深 情 只 自 悲 . Tưởng đáo thâm tình chỉ tự bi. Dịch nghĩa: KHÓC CON CẢ THẨM HÀNH Không thể ngờ được sóng gió nổi lên trên đất liền, Con đến từ đâu và ra đi đến đâu. Theo ta đi làm quan ở ngoài xa mấy ngàn dặm, Mười lăm năm trước đã giả thác ra con. Ngày thường con rất giỏi nhưng cuối cùng .. Chuyện nói giữa tầng không bỗng trở thành lừa dối. Vầng đài chưa có kết quả sau này phải bói xem, Nghĩ đến mối thâm tình chỉ tự thấy đau lòng. 80. 泣 妻 白 娘 二 首 KHẤP THÊ BẠCH NƯƠNG NHỊ THỦ Bài 1. 哭 子 無 何 又 哭 妻 , Khốc tử vô hà hựu khốc thê , 妻 妻 重 使 我 凄 凄 . Thê thê trùng sử ngã thê thê . 北 南 從 宦 身 安 在 , Bắc nam tòng hoạn thân an tại , 今 昔 逢 場 運 不 齊 . Kim tích phùng trường phận bất tề . 病 裡 不 言 惟 下 淚 , Bệnh lí bất ngôn duy hạ lệ. 夢 中 相 見 只 長 啼 . Mộng trung tương kiến chỉ trường đề . 泉 臺 此 去 將 何 贈 , Tuyền đài thử khứ tương hà tặng , 兩 字 宜 人 粉 筆 題 . Lưỡng tự nghi nhân phấn bút đề . Dịch nghĩa: HAI BÀI KHÓC VỢ BẠCH NƯƠNG Khóc con không sao giờ lại khóc vợ, Vợ ơi, vợ ơi, cứ khiến cho ta càng thê thảm. Theo ta đi làm quan từ bắc chí nam giờ nàng ở đâu, Chốn gặp nhau xưa nay vận mệnh vốn không tày. Trong lúc ốm nàng không nói lời nào chỉ rơi lệ, Trong mơ thấy nhau chỉ kêu khóc hoài. Chốn cửu tuyền nàng đến đó biết đưa tặng gì đây, Chỉ có hai chữ “nghi nhân” viết bằng phấn bút đem tặng nàng. 81. Bài 2. 十 二 年 同 我 作 官 , Thập nhị niên đồng ngã tác quan , 娘 亡 我 在 獨 為 鰥 . Nương vong ngã tại độc vi quan . 我 才 有 用 生 猶 益, Ngã hữu tài dụng sinh do ích , 娘 命 如 窮 贖 得 難 . Nương mệnh như cùng thục đắc nan . 信 誓 忽 成 烏 墨, Tín thệ hốt thành ô trắc mặc , 藥 方 豈 乏 紫 金 丹 . Dược phương khởi phạp Tử kim đan , 夜 臺 至 與 冥 司 近 , Dạ đài chí dữ minh ti cận , 陰 錄 何 妨 借 一 看 . Âm lục hà phương tá nhất khan . Dịch nghĩa: Mười hai năm cùng ta làm quan, Nàng mất còn mình ta thành người góa vợ. Cái tài của ta hữu dụng nên đời còn có ích, Mệnh của nàng đến cùng rồi khó mà chuộc được. Lời thề thốt bỗng nhiên thành màu đen của con cá mực, Phương thuốc lẽ nào còn thiếu Tử kim đan. Chốn âm phủ đến với minh ti cận kề, Âm thầm ghi lại có ngại gì để nhờ một kho xem. 82. 蓮 亭 黃 掌 吏 值 妻 喪 述 三 絕 LIÊN ĐÌNH HOÀNG CHƯỞNG TRỊ THÊ TANG THUẬT TAM TUYỆT Bài 1 昨 夜 間 潭 夢 落 花 , Tạc dạ gian đàm mộng lạc hoa , 可 憐 遊 宦 此 還 家 . Khả liên du hoạn thử hoàn gia . 遺 衣 掛 壁 人 何 在 , Di y quải bích nhân hà tại , 琴 瑟 秋 風 逝 水 波 . Cầm sắt thu phong thệ thủy ba . Dịch nghĩa: KẺ LẠI LIÊN ĐÌNH HOÀNG CHƯỞNG GẶP LÚC TANG VỢ LÀM BA BÀI TỨ TUYỆT Bài 1. Đêm qua nằm mộng thấy hoa rụng ở giữa chằm, Đi làm quan lần này về nhà thật xót xa thay. Áo cởi ra còn treo trên tường thế mà người ở đâu, Tình vợ chồng thắm thiết giờ như gió thu đi qua trên sóng nước. 83.Bài 2. 雲 想 衣 裳 花 想 容 , Vân tưởng y thường hoa tưởng dung. 他 生 未 卜 更 相 逢 . Tha sinh vị bốc cánh tương phùng . 夜 臺 去 此 曾 知 否 , Dạ đài thử khứ tằng tri phủ, 歸 客 離 心 似 亂 蓬 . Quy khách li tâm tự loạn bồng. Dịch nghĩa : Mây ngỡ là xiêm áo hoa ngỡ là dung nhan, Kiếp sau chưa biết khi nào gặp lại. Chốn dạ đài nàng đi tới đó từng có biết, Khách về rồi lòng lìa ra như cỏ bồng bay trong gió. 84. Bài 3. 紅 衣 落 盡 暗 香 殘 , Hồng y lạc tận ám hương tàn, 無 那 春 枝 不 耐 寒 . Vô nả xuân chi bất nại hàn. 十 五 年 來 如 夢 寐 , Thập ngũ niên lai như mộng mị, 浮 生 消 得 幾 時 歡 . Phù sinh tiêu đắc kỉ thời hoan. Dịch nghĩa: Áo hồng rơi hết muội hương tàn, Không có cành xuân không chịu nỗi hàn. Mười lăm năm nay như ngủ trong mơ, Cuộc đời trôi nổi tiêu được mấy lúc vui. 85. 坐 見 季 女 善 詠 TỌA KIẾN QUÝ NỮ THIỆN VỊNH 春 來 娘 子 去 何 之 , Xuân lai nương tử khứ hà chi , 三 歲 兒 求 四 歲 兒 . Tam tuế nhi cầu tứ tuế nhi . 歌 未 圓 聲 言 未 曉 , Ca vị viên thanh ngôn vị hiểu , 足 能 健 步 手 能 持 . Túc năng kiện bộ thủ năng trì . 最 那 使 我 都 忘 恨 , Tối na sử ngã đô vong hận , 長 願 如 渠 不 解 悲 . Trường nguyện như cừ bất giải bi . 情 到 自 吟 還 自 慰 , Tình đáo tự ngâm hoàn tự uý , 悠 悠 九 水 否 曾 知 . Du du cửu thủy phủ tằng tri . Dịch nghĩa: NGỒI THẤY CON GÁI ÚT VỊNH VỀ ĐIỀU THIỆN Xuân đến rồi con gái đi đâu, Con ba tuổi lại mong con bốn tuổi. Tiếng hát chưa tròn lời chưa hiểu, Chân có thể bước vững tay có thể cầm. Điều đó làm ta quên hết hận, Mong mãi như con để khỏi phải đau lòng, Tình đến tự ngâm lại tự yên ủi, Cửu tuyền xa lắc có biết hay không. 86. 有 感 母 HỮU CẢM MẪU 昔 年 舞 弄 吾 親 邊 , Tích niên vũ lộng ngô thân biên, 今 年 春 垤 哭 悲 親 . Kim niên xuân điệt khốc bi thân. 前 地 下 未 應 猶 受 , Tiền địa hạ vị ưng do thụ, 歲 苫 中 怎 樣 尚 知 . Tuế chiêm trung chẩm dạng thượng tri. 年 凄 涼 桑 梓 朝 朝 , Niên thê lương tang tử triêu triêu, 路 黯 淡 杪 松 夕 夕 . Lộ ảm đạm diểu tùng tịch tịch. 煙 欲 關 容 何 處 是 , Yên dục quan chân hà xứ thị, 羡 祥 對 眼 亦 徒 然 . Tiễn tường đối nhãn diệc đồ nhiên. Dịch nghĩa: CẢM HOÀI VỀ MẸ Năm ngoái còn nhảy múa vui đùa bên mẹ, Xuân năm nay bên nắm đất nhỏ khóc bi ai. Dưới khoảnh đất phía trước chưa nên vẫn còn phải nhận, Trong năm để tang trăm ngày ta còn biết làm sao đây. Năm thê lương sáng sáng bên quê mẹ, Đường ảm đạm dưới cây tùng tối tối. Mây khói định đến ở chốn nào, Muốn điềm lành nhưng đối mặt cũng chỉ uổng công thôi. 87. 故 鄉 除 夕 CỐ HƯƠNG TRỪ TỊCH 客 年 除 夕 鶴 山 庠 , Khách niên trừ tịch Hạc sơn tường, 此 夕 今 年 舜 汭 鄉 . Thử tịch kim niên Thuấn Nhuế hương. 慈 母 能 生 成 一 宦 , Từ mẫu năng sinh thành nhất hoạn , 凶 神 死 不 得 三 郎 . Hung thần tử bất đắc tam lang . 清 貧 剩 喜 春 秋 富 , Thanh bần thặng hỉ xuân thu phú , 蠢 壽 仍 知 氣 勢 長 . Xuẩn thọ nhưng tri khí thế trường . 吟 興 正 濃 詩 未 祭 , Ngâm hứng chính nồng thi vị tế , 井 中 蘇 酒 暗 飛 香 . Tĩnh trung Tô tửu ám phi hương . Dịch nghĩa: ĐÊM TRỪ TỊCH Ở QUÊ HƯƠNG(1) Năm làm khách đêm cuối năm ở trường học núi Bạch Hạc(2), Đêm cuối năm năm này ở quê hương Thuấn Nhuế(3) Mẹ hiền đã sinh ra được một ông quan, Hung thần rồi sự chết chóc đã không có được ông quan tam lang. Thanh bạch bần hàn nhưng vẫn vui vì giàu có về năm tháng, Sống thọ rồi ngu dốt nhưng vẫn biết uy dũng lắm. Hứng ngâm thơ đúng lúc mãnh liệt nhưng vẫn chưa được tế(4), Rượu Đồ Tô ở trong giếng thoang thoảng phả hương thơm. Chú thích : Bài này ở trong VHv212 thuộc phần thơ làm năm Đinh Sửu (1877), nhưng ở bản này bài này gạch xóa nhiều, nên dịch theo bản VHv213. Hạc sơn tường: Tức trường học ở vùng núi Bạch Hạc, Bạch Hạc là huyện do phủ Vĩnh Tường kiêm lí. Thuấn Nhuế: xã ở huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây. Nc: “Giả Đảo trừ tịch dĩ tửu bô tế nhất niên sở đắc chi thi, viết: lao nhĩ tinh thần thị dĩ bổ chi = Giả Đảo vào đêm trừ tịch lấy rượu và nem tế thơ đã làm được trong một năm qua, rồi nói rằng: Làm mệt nhọc tinh thần ngươi, bởi vậy bù đắp cho ngươi.” 88. 春 旦 示 兒 二 首 XUÂN ĐÁN THỊ NHI NHỊ THỦ Bài 1 那 得 才 如 爾 故 兄, Na đắc tài như nhĩ cố huynh, 望 兒 蓋 體 爾 親 情 . Vọng nhi cái thể nhĩ thân tình . 嬉 閒 歲 月 增 牛 齒 , Hi nhàn tuế nguyệt tăng ngưu xỉ , 赫 奕 門 庭 劣 豹 名 . Hách dịch môn đình liệt báo danh . 莫 謾 風 流 資 父 廕 , Mạc mạn phong lưu tư phụ ấm , 最 當 奮 勉 繼 家 聲 . Tối đương phấn miễn kế gia thanh . 宦 貧 尚 有 書 田 在 , Hoạn bần thượng hữu thư điền tại , 及 此 春 韶 起 一 耕 . Cập thử xuân thiều khởi nhất canh . Dịch nghĩa: HAI BÀI THƠ DẠY CON VÀO ĐẦU XUÂN Làm sao tài được như anh quá cố của con, Quá mong con bởi vì con là tình thân của cha. Năm tháng nhàn rỗi quá sẽ tăng thêm tuổi, Lên mặt ở chốn cổng đình mất dần tiếng tăm. Chớ có nhờ vào tập ấm mà ngạo mạn phong lưu, Rất nên cố gắng thừa kế thanh danh gia đình. Ta làm quan nghèo nhưng hãy còn có sách và ruộng, Gặp tiết xuân sang ta khởi công cày. Bài 2. 纔 出 親 胞 便 北 南 , Tài xuất thân bào tiện bắc nam , 客 中 歲 月 宦 家 男 . Khách trung tuế nguyệt hoạn gia nam . 韶 齡 志 學 須 專 一 , Thiều linh chí học tu chuyên nhất , 暇 日 居 閒 莫 聚 三 . Hạ nhật cư nhàn mạc tụ tam . 有 義 理 膏 予 欲 飫 , Hữu nghĩa lí cao dư dục ứ , 為 文 字 飲 爾 當 酣 . Vị văn học ẩm nhĩ đương hàm . 由 來 紈 綔 多 庸 子 , Do lai hoàn khóa đa dung tử . 破 得 煙 樓 始 不 凡 . Phá đắc yên lâu thủy bất phàm. Dịch nghĩa: Mới lọt lòng mẹ đã phải hết bắc lại nam, Con trai của nhà làm quan xa làm khách quanh năm. Tuổi trẻ để chí vào việc học nên chăm chỉ, Rãnh rỗi thư nhàn chớ tụ tam. Có ý nghĩa có lí phải thì có gì ngon ta cũng muốn cho, Vì văn vì chữ mà uống thì con cũng nên say. Vốn nghề chăn tơ dệt vải lắm kẻ tầm thường, Phá được lầu khói mới là bất phàm(1). Chú thích: (1) Nc: “Yên lâu khóa táo dã, điển xuất bạch mi= Ý của yên lâu là con hơn cha, diển xuất phát từ chuyện lông mày trắng nói về năm anh em nhà Mã Lương ” 89. 丁 丑 歲 除 ĐINH SỬU TUẾ TRỪ 牛 生 兩 尾 客 知 夫 , Ngưu sinh lưỡng vĩ khách tri phu , 忽 发 云 除 守 得 無 . Hốt phát vân trừ thủ đắc vô . 三 百 六 旬 最 後 日 , Tam bách lục tuần tối hậu nhật, 四 十 八 歲 以 前 吾 . Tứ thập bát tuế dĩ tiền ngô . 還 將 年 月 從 元 起 , Hoàn tương niên nguyệt tòng niên khởi, 自 算 功 名 可 遂 途 . Tự toán công danh khá toại đồ . 五 運 就 吟 雞 唱 曉 , Ngũ vận tựu ngâm kê xướng hiểu , 戲 爭 群 幼 飲 屠 蘇 . Hí tranh quần ấu ẩm Đồ Tô . Dịch nghĩa: NGÀY CUỐI NĂM ĐINH SỬU (1877)(1) Trâu sinh ra hai cái đuôi khách có biết chăng(2), Bỗng phát phẫn bảo rằng hết rồi giữ được không. Khắp ba trăm sáu mươi ngày đến ngày sau cùng nhất, Bốn tám tuổi chính là ta ngày trước. Lại đưa năm tháng trở về với sơ khởi, Tự tính đường công danh đã khá toại đồ. Gà gáy sáng dậy ngâm nga ngũ vận(3), Vui tranh bọn trẻ uống rượi Đồ Tô(4). Chú thích: Nc: “Mậu Dần dĩ hạ = Phần sau là thơ làm năm Mậu Dần (1878)” Nc: “Thất tự = chữ thất 失” ở đây tác giả chơi chữ, chữ ngưu thêm hai cái phẩy ở phẩy ở sau thành chữ ‘thất: mất’ Nc: “Chỉ Dần = Chỉ năm Dần” tác giả chú cho “kê xướng hiểu” tức gà gáy sáng tức vào giờ Dần, và cũng chỉ sang năm Dần. Nc: “Dư dĩ Dần niên sinh, kê xướng vi Dần. Dư phương nhất tuế, dư gia quần ấu niên giai quá dư, Đồ Tô tửu thiểu giả tiên lão khứ hậu dư tranh tiên ẩm diệc hí dĩ bản sinh kê tuế = Ta sinh vào năm Dần, gà gáy vào giờ Dần. Khi ta mới một tuổi, bọn trẻ nhà ta đều hơn tuổi ta, rượu Đồ Tô ít, đợi cho các bậc tiên lão đi rồi ta tranh uống hết, ở đây cũng vui vịnh lại để kể về lúc ta còn nhỏ” 90. 賦 餞 丁 丑 公 PHÚ TIỄN ĐINH SỬU CÔNG 迎 於 鄉 送 不 於 鄉 , Nghênh ư hương tống bất ư hương, 數 盞 城 西 靜 圃 堂 . Sổ trản thành tây tĩnh phố đường. 六 月 同 夷 三 郡 匪 , Lục nguyệt đồng di tam quận phỉ, 半 年 能 就 一 山 商 . Bán niên năng tựu nhất sơn thương. 功 成 名 便 飄 然 去 , Công thành danh tiện phiêu nhiên khứ, 思 在 予 何 敢 爾 忘 . Tư tại dư hà nhĩ cảm vong. 又 十 二 周 予 與 客 , Hựu thập nhị chu dư dữ khách, 重 逢 大 約 在 岩 廊 . Trùng phùng đại ước tại nham lang. Dịch nghĩa: THƠ TIỄN NĂM ĐINH SỬU Đón ở quê tiễn lại không ở quê, Tiễn bằng mấy chén rượu ở phố vắng phía tây thành. Sáu tháng nay cùng dân mọi và thổ phỉ của ba quận, Nửa năm ròng phải luôn đến góc phố buôn bán trên núi. Công đã thành tựu thì danh cứ thế mà nhẹ đi theo, Nhớ ở ta rồi sao ngươi lại giám quên. Lại mười hai vòng ta với khách, Cùng gặp lại hẹn ước ở mái hiên nhà. 91. 靜坐 對 節 即 事 TĨNH TỌA ĐỐI TIẾT TỨC SỰ 居 亭 應 丑 又 逢 寅 , Cư đình ưng Sửu hựu phùng Dần , 四 月 中 成 兩 个 春 . Tứ nguyệt trung thành lưỡng cá xuân . 只 欠 米 錢 頒 赠 數 , Chỉ khiếm mễ tiền ban tặng số , 無 多 文 字 索 徵 頻 . Vô đa văn tự sách trưng tần . 當 門 弄 膝 珠 雙 樨 , Đương môn lộng tất chu song tế , 對 岸 鍾 情 玉 一 人 . Đối ngạn chung tình ngọc nhất nhân . 剩 有 閒 園 舊 栽 李 , Thặng hữu nhàn viên cựu tài lí , 葦 绡 萬 織 給 詩 貧 . Vi tiêu vạn chức cấp thi bần. Dịch nghĩa: YÊN TĨNH NGỒI ĐÓN TẾT TỨC SỰ Ở trong đình đang năm Sửu lại gặp năm Dần , Trong bốn tháng thành hai lần xuân(1). Chỉ thiếu số gạo tiền quan trên ban tặng(2), Không nhiều văn tự nhưng người tới xin luôn(3). Dưới chân trong sân còn chơi đôi tháp ngọc. Một người ngọc chung tình đang ở bên bờ sông. Còn thừa vườn trống để trồng mận cũ, Cỏ lau muôn ngọn cấp thơ nghèo. Chú thích: Nc: “Dư cư tự thập nguyệt tiểu xuân dã = Ta ở trong đình từ tháng 10 tức Tiểu xuân” Nc: “Thời Tổng đốc đa lĩnh mễ tiền, Phiên đài nhị vị diệc như hữu tặng = Bấy giờ quan Tổng đốc được lĩnh rất nhiều tiền gạo, hai vị bên Án sát cũng được tặng như thế” Nc: “Thời xuân tiết đa khánh sự, đồng liêu sĩ thứ đa cầu văn lai thi mính = Bấy giờ đang tiết mùa xuân nên nhiều việc mừng, đồng liêu học trò rồi thứ dân thường đến nhờ ta làm văn thơ, đồng thời đưa chè đến” 92. 戲 詠 李 小 姨 HÍ VỊNH LÍ TIỂU DI 小 姨 何 事 尚 含 嬌 , Tiểu di hà sự thượng hàm kiều, 最 我 花 情 久 寂 寥 . Tối ngã hoa tình cửu tịch liêu. 也 有 合 歡 歡 未 合 , Dã hữu hợp hoan hoan vị hợp, 豈 無 消 恨 恨 難 消 . Khởi vô tiêu hận hận nan tiêu. 不 三 影 照 宜 雙 照 , Bất tam ảnh chiều nghi song chiếu, 曾 九 標 評 識 數 評 . Tằng cửu tiêu bình thức cửu tiêu. 早 晚 東 風 便 未 嫁 , Tảo vãn đông phong tiện vị giá, 粧 奩 賸 願 滿 葦 綃 . Trang liêm thứng nguyện mãn vi tiêu. Dịch nghĩa: VỊNH ĐÙA CÂY MẬN NHỎ(1) Việc gì mà em gái nhỏ còn giữ vẻ yêu kiều, Thực ta tình hoa lâu rồi đã tịch liêu. Cũng có hợp hoan nhưng rồi chỉ hoan chứ chưa hợp, Vui không tiêu được hận vì hận này khó tiêu(2). Không phải ba bóng cùng soi mà nên đôi bóng, Từng đem chín tiêu chuẩn ra bàn luận nhưng biết có mấy điều. Sớm muộn gió đông vẫn chưa được gả, Hộp điểm trang còn muốn đầy cỏ lau. Chú thích: Nc: “Chước kì chi chi câu phóng hoa. Thời dư dự mãi nhất thiếp hựu hữu kỉ cá đào nương tương dữ chung tình, cập ư tam tứ cú ý =Các cành trên cây đều rờ rỡ nở hoa. Bấy giờ ta định mua một người thiếp nhưng lại có mấy cô đào muốn chung tình. Gặp ý đó trong ba bốn chữ” Nc: “Đào hoa tiêu hận = Hoa đào tiêu hận” 93. 寅 年 元 旦 自 述 DẦN NIÊN NGUYÊN ĐÁN TỰ THUẬT 庚 寅 吾 已 降 為 人 , Canh Dần ngô dĩ giáng vi nhân, 歲 箭 翻 然 五 放 寅 . Tuế tiễn phan nhiên ngũ phóng Dần. 玄 鬢 兩 莖 參 白 雪 , Huyền mấn lưỡng hành tham bạch tuyết, 素 衣 半 領 上 紅 塵 . Tố y bán lĩnh thượng hồng trần. 難 將 昔 玉 猶 幾 日, Nan tương tích ngọc do kỉ nhật , 便 作 今 陶 已 是 身 . Tiện tác kim đào dĩ thị thân. 烏 府 自 拋 霜 簡 去 , Ô phủ tự phao sương giản khứ, 年 年 夢 想 帝 城 春 . Niên niên mộng tưởng đế thành xuân. Dịch nghĩa: TẾT NGUYÊN ĐÁN NĂM MẬU DẦN (1878) TỰ THUẬT Năm Canh Dần ta đã sinh ra làm người, Năm tháng như tên vùn vụt đi qua năm lần phóng Dần. Tóc đen giờ đã lốm đốm màu tuyết trắng, Trên nửa cổ áo trắng vẫn còn đọng bụi hồng. Khó đem ngọc xưa so sánh với ngày nay, Lại ngày nay hun đúc đã là thân ta. Sương tự ném vào nhà của quan Ngự sử rồi tự tan đi, Hàng năm vẫn mộng tưởng đến mùa xuân ở chốn kinh thành. TUYỂN DỊCH VĂN CỦA NGUYỄN KHẮC TRẠCH, VÀ VĂN NGƯỜI KHÁC VIẾT VỀ ÔNG NGHĨ THƯỢNG HIỆP XÃ THƯỢNG THÔN TỪ BI KÍ (Nc: An Chi mẫu hương dã sinh trưởng ư hương tam thập ngũ niên hĩ tự Ất Sửu thủy hồi quán nhi mẫu nhưng tại thị hương cố vãng lai diệc lũ) Ấp hữu văn từ vi phong giáo kế dã. Nhất ấp chi văn vận thực quan yên. Ngã hoàng ngự lịch chi nhị thập niên, tuế tại Đinh Mão bát nguyệt nhật, Thượng thôn từ vũ thành, thậm thịnh cử dã. Tích niên hoang lạc chi khư nhất đán văn minh chi địa, chí kim thập tứ niên hĩ. Bản niên xuân tế hậu, hội trưởng Trần công (húy Thống Đinh Mùi khoa Tú tài) bình thuộc tạo, dư nhi trưng văn. Dư vấn kì kết cấu, viết hướng dã đàn duy, kim tắc ốc vũ hướng chuyên thạch, kim tắc ngõa phúc, hữu cửu trục chi quy mô yên. Vấn kì phương vị viết tọa tắc Ất Mão, hướng tắc Tân Dậu, mộc án đương tiền, long hình ủng hậu, hữu hoành trường chi khí tượng yên. Tướng địa bản Thùy Quận bác Ngạc Đình Nguyễn tiên sinh dã (bản phủ giáo thụ húy Chân). Dư tích sản tư hương (dư mẫu dĩ Canh Dần cửu nguyệt nhị thập cửu nhật sinh dư vu thị hương Ngõ Ngòi xứ), do cập kì thủy, hương đình lưỡng vũ hạ tiểu thác cung tường, tạm đăng trở đậu, hình thế thậm bất hợp cảnh. Nhập bản triều kỉ ngũ thập niên, nhất bạt giải (Cử nhân Nguyễn Ngọc Dịch), nhị đăng tường (Trần Huy Nghiễm, Trần Huy Thống) giai pháp tư nhi phi đắc pháp công dã. Mậu Thân niên thiên vu xứ Ma Tẩu (tại kim từ địa chi tây). Hội trưởng thủ chủ kì nghị nhiên nhi sảng khải dĩ đăng, hình thế vị chính. Kinh thập tam niên vị hữu kế đăng hương bảng, thạch đa văn thiểu, nhân hoặc liễu trào (liễu điền đa thạch nhi văn sĩ thiểu). Thiên nhi hựu thiên dã khả, hội trưởng công cái ư phong tàn thượng khởi kiến, văn vận thượng trí tư dã. Đương nhật hội đồng pháp quân tử, diệc giai dĩ tâm vi tâm, địa tương tiết kì bí, thiên tương phát kì trung, nhân duy thức dĩ hòa, thần cố tích chi cát. Dư văn tái thiên hậu trúng tú tài chí tam viên. Nhất nhị trường trấp dư nhân, tại sĩ tịch trung nhi liệp thủ danh diệc phục bất thiểu (Tú tài Nguyễn Thiên Bút, Trần Huy Thống, Nguyễn Văn Phiền dĩ xuất đơn đắc lục phẩm văn giai bản Nguyễn Kiện, Trần Huy Thận), thử phí kì tuấn dư. Địa đáo khởi thời nhân giai tri học, gia lư huyền tụng, lí thành y quan, thiên bách niên văn vận đương tòng thử văn mạch đắc chi, khả vị bốc vân kì cát, chung vi nguyên tàng bản dã. Hậu chi nhân kính thành nhi thức, tự tức trí nhi ngôn công, lịch lịch khẩu bi, tức vi lư sử, cố bất đãi văn yên nhi hậu truyền, nhi tầm thường kí bút. Văn hoặc nhân sự dĩ truyền, thị hựu dư chi nguyện dã. Ư thị hồ văn chi thành kí vu thạch, lập vu từ chi đông, thời chính Tự Đức tam thập niên Đinh Sửu quý xuân thượng hoán dã. (Thời dư quan Hàn lâm thị độc đinh ưu). Dịch nghĩa: NGHĨ BÀI BI KÍ CHO VĂN TỪ THÔN THƯỢNG XÃ THƯỢNG HIỆP (Nc: Thôn Thượng xã Thượng Hiệp là quê mẹ của An Chi, sinh trưởng ở quê 35 năm rồi, từ năm Ất Sửu ra làm quan mới về trường học ở, nhưng mẹ vẫn ở làng này cho nên thường qua lại luôn) Ấp có văn từ để làm kế sách cho phong giáo, nhưng văn vận của một ấp thực liên quan đến điều đó. Năm thứ hai mươi hoàng triều ta tức tháng 8 năm Đinh Mão (1867), từ vũ của thôn Thượng khánh thành, cử hành rất long trọng. Gò đất bỏ hoang lâu nay bỗng một sớm trở thành chốn văn minh. Đến nay đã trải mười bốn năm. Năm nay sau lễ tế xuân, ông hội trưởng Trần (nc: húy Thống tú tài khoa Đinh Mùi) sai liêu thuộc đến hỏi nhờ ta làm bài văn. Ta hỏi về kết cấu, đáp rằng trước đây là dãy tường thấp bao quanh nay đã là nhà có mái lợp, trước đây gạch đá nay thì lợp ngói, có quy mô lâu bền. Hỏi về phương vị, đáp lưng dựa vào Ất Mão, mặt hướng về Tân Dậu, bàn thờ gỗ đặt ở trước, hình rồng ôm sau, có con voi to lớn ở đó. Người xem tướng đất vốn là Thùy quận bác Ngạc Đình Nguyễn Tiên Sinh (giáo thụ của phủ ta húy Chân). Ta xưa sinh ra ở thôn xã này (nc: mẹ ta sinh ta vào ngày 29 tháng 9 năm Canh Dần tại xứ Ngõ Ngòi của thôn xã này). Giống như lúc đầu, phía dưới hai bên dãy nhà của đình làng xây trên đó bức tường trên nhà, tạm thời dâng đồ tế lễ, hình thế thật không hợp với quy mô. Vào bản triều ta, gần năm mươi năm mới có một người bạt giải (nc: là Cử nhân Nguyễ Ngọc Dịch) hai người đỗ Tú tài (nc: Trần Huy Nghiễm, Trần Huy Thống), đều được phép tư nhưng không được phép công. Năm Mậu Thân (1848) chuyển về xứ Ma Tẩu (nc: tại phía tây đất của văn từ ngày nay). Ông hội trưởng theo chủ ý của mình, thế rồi chuyển lên chỗ cao ráo thoáng đãng, nhưng hình thế vẫn chưa ngay. Trải 13 năm chưa có ai đỗ Cử nhân, đất đá nhiều nên văn ít, có người còn đưa chuyện ruộng liễu ra giễu cợt (ruộng liễu nhiều đá nhưng văn sĩ ít). Chuyển rồi lại chuyển khá lên chăng, ông hội trưởng bởi lo cho phong hóa bị tàn lụi đã đưa ra kiến nghị, văn vận trên hết phải nghĩ cho kĩ. Hôm đó hội đồng pháp theo những người có học thức, cũng đều lấy cái tâm làm cái tâm, đất sẽ phải theo cái thần bí của đất, trời sẽ đáp lại lòng ngay thực, người biết lấy điều hòa thuận, thần sẽ ban cho điềm lành. Ta nghe nói sau khi lại chuyển lần nữa, trúng Tú tài đến 3 người, một hai trường có hơn hai mươi người thi đỗ, trong sổ ghi người đỗ đạt thì người dành được danh tiếng địa vị cũng không ít (như Tú tài Nguyễn Thiên Bút, Trần Huy Thống, Trần Văn Phiền, đã đưa đơn tự về chức Lục Phẩm), đó chẳng không là tài giỏi ư. Đất đã đến lúc khởi phát rồi, người người đều muốn học, trong nhà ngoài ngõ đều đọc sách, làng toàn người phú quý, văn vận trăm ngàn năm đang phát khởi theo văn mạch này. Bảo quẻ bói nói tốt cuối cùng là cái gốc tàng ẩn ban đầu vậy. Người sau này nhìn thấy thành tựu thì biết tự tức trí mà nói về công lao. Bia miệng cũng rành rành ra đó. Như thế sử làng vốn không đợi văn viết ra thì sau đó mới được truyền, chỉ là tầm thường bút kí nhưng có khi văn cũng nhờ đó, đó lại là chí nguyện của ta. Văn làm xong ghi lên trên đá, dựng ở phía đông văn từ. Bấy giờ đúng ngày thượng hoán cuối xuân năm Đinh Sửu triều Tự Đức năm thứ 30 (1877). (Bấy giờ ta quan Hàn lâm thị độc đang để tang cho mẹ). Chú thích: Thôn Thượng xã Thượng Hiệp: thuộc tổng Thượng Hiệp huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây. Trong ngoặc là phần cước chú của tác giả. TỨ QUỐC OAI PHỦ NHA HẠ BẢN QUAN TRƯỚNG TỰ Quốc Oai cổ danh quận, sơn xuyên cảnh vật chi thắng, nhân tài phong tục chi mỹ, ngô sơn ngũ thành chi đệ nhất dã. Nhi kì quan tư thổ giả, vãng vãng đắc hiền thú, tân thú doanh phủ Nguyễn công lai, nhi phụ mẫu ngã thất nguyệt dĩ cập kim hĩ. Mệnh thủy hạ, mạc hữu thức kì tường giả, chất chư Ngự sử Nhuế Xuyên Nguyễn đài, đài viết ngô hữu dã, ngô tri chi, quốc sơ Thành Công tổng trấn quan, dĩ liêm tiết chính thanh văn thiên hạ. Công kì tốn dã tao tuế trì danh, nhân hữu năng văn tiệp thủ chi xưng, ngũ đăng tường nhi thủy lĩnh giải, vị ứng Hội nhi tiên nhập các, ngộ diệc kì tai. Tòng thử xuất phán Thang Châu, lịch doãn xích huyện, sở chí giai hữu huệ chính, ư kim nhật Thú lệnh. Công thị hiền, tạc ngô kiến phúc tinh (một sắc đắc hảo) thứ ngô Tây phận dã, ý giả kì ứng tại công hồ. Chư huynh đệ mạc hận Trúc ông (tiền Tri phủ Nguyễn Tuấn hiệu Trúc Đình, trị quận hữu liêm danh, nhân tích kì vãng. Hiện lị phủ quan, tự Khoa, tòng bán tự, xưng viết Đẩu ông) vãn bất lai. Đẩu ông hành thả chí hĩ (đẩu tự chiếu Thượng phúc tinh diệu hợp). Ty đẳng văn kì ngôn, mãn diện hỉ khí khả cúc, cức kíp bôi hương, chỉnh trúc mã, sĩ kì chí nhi nghênh chi, bất vị nhật phục nhất nhật việt tứ ngũ lục nhật, ngã phủ thủy đắc hữu công. Công lai hà mộ dã, truy tuân kì cố, Hòa Vang sĩ dân, an công chi chính, tích công chi biệt, hướng tỉnh cụ đơn, nguyện lưu phất toại, hướng kinh đỉnh cổ, khất tá hựu phất toại, nhi công nãi chuyển triệt di xa. Vấn Tản Lô tiền lộ đáo thử. Quảng Nam nhân chỉ đắc tụng khứ tư, Quảng Nam nhân bất đắc tư thục thủ (tỉnh quan sớ thỉnh cải bổ Hà Đông huyện dĩ tư thục thủ). Ngã Quốc Oai bất vị Trình Khanh chi đoạt, Phượng Tường chi tranh, nhi tự nhiên hữu vĩnh xuân chi hạnh dã. Tích nhân vị dục tri kì nhân quan kì hữu, Nhuế Xuyên sở ngôn, đương bất hư. Công tự chi chức, điếu tiên đắc ngư phỏng hiền nhi tri tục, nhân tục dĩ vi chính, thị Dương Trú giáo đơn phụ chi trí dã. Thời phương quan sự, quan sự như hỏa, nhi nhiệt bất đáo ngã, công vụ như vị, nhi súc bất đắc bỉ. Thường dĩ kì hạ luận văn, cổ lệ đa sĩ, chính thi vi giáo, quan kiêm vi sư, hựu ngôn yển hóa Vũ Thành chi đao dã. Ti đẳng hướng đắc công ư hữu tái giản chi khẩu, kim đắc công sư nhĩ, tự nhàn dã. Nhuế Xuyên thường tập Đường thi dĩ tiễn công khứ, thiên dĩ đãi báo kì niên chính, thử địa hoàn thành yếu tân, Hòa Vang nhất niên, nhi Quốc Oai thi tiện thị sám. Nhiên Quốc Oai chi vi tân dã, khởi tiện thị yếu da, sở dĩ công chi phúc trạch chi học hành chi chính tích. Tường loan ngẫu tập, thụy nhạn hạc đãi phi, tha nhật vi đài lang vi khổn thần, đãi phân nội sự. Ti đẳng tuy dục vị Hòa Vang chi ngọa triệt phan xa (ứng thượng Hòa Vang văn ý bất cô), hà bất đắc dã. Phục văn công hữu Lịch hoạn thi phổ, cận lai ngã phủ sơn xuyên cảnh vật nhân tài phong tục, đương dĩ nhập vịnh, hựu văn công gia hữu lệnh nam, giáo hối vũ tự, thứ cơ kế công nhi vi phó thị chi âm sơn (giá lưỡng đoạn đa thiểu tây đường tốn bút), tắc thi phổ tắc vi trị quận phổ. Ti đẳng phục thỉnh ư công hữu Nhuế Xuyên đài, tục nhất hạ văn, hợp khắc vu Phượng Hoàng sơn đầu phụ bất hủ. Dịch nghĩa: TRƯỚNG TRẦN BÀY BAN CHO SỞ QUAN PHỦ QUỐC OAI CHÚC MỪNG QUAN CỦA BẢN PHỦ Quốc Oai xưa gọi là quận, núi sông cảnh vật mĩ lệ, phong tục nhân tài phồn thịnh, đệ nhất trong ngũ thành của tỉnh Sơn Tây ta. Ông Nguyễn Thái thú mới đến vĩ đại thay, là cha mẹ ta chúng ta từ tháng 7 đến nay. Khi vừa có lệnh ông đến phủ, không ai biết rõ về ông, chất vấn Ngự sử Nguyễn Nhuế Xuyên ta, ta nói ông là bạn ta, ta là người quen biết về ông trước nhất ở Quốc Oai này. Ông là quan thanh liêm có tiếng ở tổng trấn Hòa Vang(1), nhưng rất khiêm tốn, nức tiếng phong nhã, cũng là người văn chương tiệp thủ, nhưng phải năm lần đi thi mới lĩnh giải, chưa đỗ kì thi Hội đã được ra lãnh chức quan, cảnh ngộ cũng thực kì thay. Từ đó ra lãnh chức Án sát ở Thang Châu, rồi trải làm tri huyện, nơi nào ông đến đều thi hành chính sách nhân ái. Đến nay đây, đang giữ chức Thái thú phủ ta, thực là người hiền tài, hôm qua ta thấy sao Phúc (nc: sao không có màu sắc được điềm lanh) đóng ở phận dã Sơn Tây ta, sự như thế có lẽ ứng ở ông chăng. Các anh em chớ có giận ông Trúc đã vời đến mà không đến (nc: tri phủ trước đây là Nguyễn Tuấn có hiệu là Trúc Đình, làm quan ở tỉnh ta nổi tiếng là liêm khiết, mọi người tiếc nuối khi ông đi. Quan hiện đang tới phủ ta tự là Khoa, trước có tự là Bán, thường gọi ông Đẩu). Ông Đẩu khi sắp đến, bọn người hèn mọn ta nghe tiếng tăm về ông, ai cũng hớn hở vui mừng hiện ra trên mặt, vội vàng đi chuẩn bị nén hương, chỉnh đốn ngựa xe, đợi ông đến để ra đón. Không nói rõ ngày đến , qua một ngày, lại bốn năm sáu ngày, phủ ta mới có được ông. Ông đến chiều nào, truy hỏi nguyên cớ, biết được sĩ và dân ở Hòa Vang đã yên với khuôn phép của ông, tiếc nuối khi ông đi, nên đệ đơn lên tỉnh xin giữ ông lại nhưng không được, lại gióng trống lên kinh, nhờ xin giữ lại cũng không được, thế là ông đành chuyển bánh rời xe, hỏi thăm đường cũ ở núi Tản sông Lô đi đến đây. Người Quảng Nam đành khen tụng khi nghĩ về ông, quan ở Quảng Nam đã không có được người nhờ cậy thân thuộc (nc: các bậc thần ở trên tỉnh cũng viết sớ xin đổi bổ chức ở huyện Hà Đông để nhờ cậy vì đã quen việc)(2). Quốc Oai ta không làm cái đoạt của Trình Lang, cái tranh của Phượng Tường mà tự nhiên có được sự may mắn của Vĩnh Xuân vậy(3).Người xưa nói muốn biết về anh ta thì phải xem bạn mà anh ta chơi thế nào. Lời của Nhuế Xuyên ta thật chẳng sai chút nào. Từ khi ông đến nhận chức, con cá đầu tiên ông câu được là tới hỏi người hiền để biết tập tục của dân, theo tập tục thi hành chính lệnh, đó chính là mưu trí của Dương Trú dạy cha sống một mình vậy. Bấy giờ đang là lúc việc quan, việc quan lại đang như lửa, nhưng cái nóng đó không tời đến ta, công vụ đang xúm xít bề bộn, đã được đẩy lùi. Vào những lúc rảnh rỗi ông thường luận đàm văn thơ, khuyên nhủ, cổ vũ các quan lại, thi hành chính lệnh cũng là để giáo hối, làm quan kiêm cả làm thầy, lại nói đó là đạo giáo hóa của Vũ Thành. Bọn tôi trước đây được biết ông từ lời của Nhuế Xuyên bạn ông, nay đã được tận tai nghe ông nói, tự thấy ổn rồi. Nhuế Xuyên thường làm thơ tập Đường để tiễn ông đi. Trời đợi để báo đáp chính sự trong năm đang mong chờ, đất này lại trở thành bến sông quan yếu cho ông dừng chân. Ông ở Hòa Vang một năm nhưng thơ ở Quốc Oai lại là lời sấm kí, vậy Quốc Oai mới là nơi ông cầm quyền trọng yếu. Lẽ nào lại trọng yếu như vậy, bởi vì đây là nơi nuôi dưỡng phúc trạch của ông, nuôi dưỡng văn hành của ông, công tích chính sự của ông đều thành tựu ở đây. Chim loan mang điềm lành ngẫu nhiên tụ tập, chim hạc tốt đang chờ để bay. Sau này, giữ chức quan Ngự sử hay là quan to hầu như đều xuất phát từ đây cả. Bọn người hèn mọn này dẫu vì sự ngọa trị của Hòa Vang mà kéo ông xe về đó, phỏng có thể được không. Còn trộm nghe ông có “Lịch hoạn thi phổ”, gần đây, phong tục nhân tài cảnh vật non sông của phủ ta đã được ông vịnh vào trong Thi phổ. Lại nghe nhà ông có con trai, được giáo hối theo võ nghệ, ngõ hầu nối tiếp ông giúp rập họ hàng (nc: hai đoạn trên nhờ bút gửi gắm bao nhiêu chuyện riêng tư ở nhà). Vậy thì “Thi phổ” của ông cũng chính là “Trị quận phổ” vậy. Bọn hèn mọn này sẽ lại mời bạn ông Nhuế Xuyên kế tiếp làm bài văn chúc mừng, rồi cùng khắc lên đầu núi Phượng Hoàng để gửi vào đó không bao giờ mất. Chú thích: Hòa Vinh: Huyện ở phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Nay thuộc huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Hà Đông huyện: huyện thuộc tỉnh Quảng Nam. Nay thuộc huyện Tam Kì tỉnh Quảng Nam. HỢP HÒA SĨ TỬ HẠ BẢN QUAN TRƯỚNG (Bản quan thị mỗ đại nhân hạ dĩ thực nam vi từ) Phiên âm: Phủ học chi thiết cửu hĩ, dĩ giáo thụ các kì quan dĩ Cử nhân sung kì tuyển. Đáo tự khánh lịch tứ niên thủy thành dĩ Nho lâm chi chức, phi kì nhân bất khả cư dã, đắc thị chức nhi cư chi dã. Khả hỉ nhân cư quan nguyện thiên ngã lạc thân bất hận tư ngôn dã. Cổ nhân hỉ vị học quan hĩ, đắc thị nhân nhi sư chi dã, lão khả hỉ. Đế lai sư huấn tác ngã huân đào, tư dâm hỉ đắc học quan hĩ. Ngã Hiệp Hòa huyện thống ư phủ học giáo đạo khóa thí chi sự, tư đạc bản kiêm chi huyện trung. Sĩ tử thường tương vị viết: ngã huyện sĩ số hi thiểu, khoa mục chi phát đa tốn, tha hạt an đắc hữu cửu ư chức giả. Sử ngã tư hóa hóa chi thâm hồ, an đắc hữu thiện ư chức giả, sử ngã thành tựu chi tốc hồ, ngã nhật vọng chi thứ cơ kiến chi. Kim Nhuế Xuyên tiên sinh thực cư thị chức, tiên sinh cái lạc cư thị chức dã. Tiên sinh thiếu thị học thả lạc thả dẫn nhân, thường dư nhị huynh nhất đệ sư hữu ư kì gia, suất giai khoa danh úy kì mẫu. Tân Dậu khoa thí trúng Cử nhân, thứ niên Hội thí dự hữu phân số, hoặc khuyến chi tòng chính, tiên sinh viết ‘ngô mẫu cố dĩ đại khoa kì tử, ngô kì miễn chi’. Ất Sửu khoa tái phó Hội hồi trường câu lợi ư văn nhi bất lợi ư trúng tích giả. Hựu khuyến chi sĩ khoa, tiên sinh viết ‘ngô mẫu lão hĩ’. Thích văn lại bộ vựng tấu bổ lệnh chức Cử nhân, dự hữu phân số bổ giáo thụ tân lệ dã, lệ tự tiên sinh thủy dã. Tiên sinh phụng tân sắc tiền đạo, mẫu dư hậu huề vũ khuông hân hân nhiên chi chức yên. Tiên sinh lai nhi viễn cận lai giả, đa kì nhân tụ phủ học, quan bất tịch hĩ. Tiên sinh tùy tài nhi thụ, tiên biên hoàng tiểu dữ chi đề huề, tề tề y quan vị chi Nho xướng. Khởi tiểu vô đại giai nguyện vi kì truyền, tử đệ cao giả thị chi như quan, ….lục giả thị chi như gia nhân. Viết tính hòa nhi khoan nhu, dĩ chức diệc chức đạo dã. Chí dư khảo duyệt khử thủ vị từng hữu tư tình. Viết phụng công nhi dĩ năng kích, bất năng diệc chức thuật dã. Kí tự thập bát niên chi thập nguyệt cập kim tam đông hĩ. Tiên sinh cái cửu ư chức nhi thiện sở chức hĩ. Tiên sinh duy cửu ư chức, ngã huyện tòng học số bội ư tích, hữu Hàn công nhi triều hà nhân nhật xu vu học đương vị ngã huyện chi nhật hạ tiên sinh duy thiện ư kì chức. Ngã huyện đăng khoa nguyên cập tha hạt. Hữu Trương công nhi các lạc sĩ khả dĩ hoa xưng đương vi ngã huyện. Tha nhật hạ tiên sinh duy lạc cư thị chức, tha nhật chi vi học chính vi tế tửu giai thụ dụng địa dã. Ngã bối lạc lưu chi hữu lạc cử chi thị khả dự vi tiên sinh hạ. Dịch nghĩa: TRƯỚNG CỦA SĨ TỬ HUYỆN HỢP HÒA(1) CHÚC MỪNG BẢN QUAN. (Bản quan tức là Nhuế Xuyên ta, ta thường chúc mừng thay người khác, nên rất khó từ chối lời chúc của các sĩ tử) Trường học của phủ đặt ra đã lâu, và gọi là Giáo thụ. Các quan về dạy ở đây đều từ Cử nhân được sung tuyển. Từ thời Khánh lịch năm thứ tư mới trở thành chức thuộc hàng Nho lâm. Chẳng phải những người đó không thể gánh vác được chức này, nhận được chức này đảm đương gánh vác, nhưng người ta lại vui khi được thăng chức khác. Ta suốt đời không giận về những lời đó. Người xưa mừng khi giữ chức quan là giáo thụ, được chức này người khác sẽ coi mình là thầy, quá vui mừng rồi. Vua đưa đến lời giáo huấn của người thầy hun đúc nên ta, điều đó quá vui vì được học với quan rồi. Huyện Hợp Hòa của ta lĩnh việc học hành dạy dỗ thi cử ở trong phủ, người giữ chức giáo thụ kiêm luôn cả những việc đó. Sĩ tử trong huyện từng bảo với nhau rằng: “ số lượng kẻ sĩ trong huyện ta ít, sự phát triển danh mục khoa cử kém hơn các hạt khác. Làm sao để có được người ở lâu với chức này, để ta nhờ đó được giáo hóa sâu hơn vậy, làm sao có được người tài giỏi về chức này, để cho ta thành tựu nhanh hơn vậy. Ta ngày ngày mong ngóng điều đó ngõ hầu đã thấy nó rồi. Nay Nhuế Xuyên tiên sinh thực đã gánh vác chức này, tiên sinh cũng yêu thích chức này. Tiên sinh thủa nhỏ ham học lại vừa thích dẫn dụ người, từng cùng với hai anh và một người em đối đãi với nhau như thầy bạn ở trong nhà, mấy anh em đều theo con đường khoa danh để vui lòng mẹ. Khoa thi năm Tân Dậu (1861) thi trúng Cử nhân, năm sau dự kỳ thi Hội có điểm nhưng không đỗ Tiến Sĩ. Có người khuyên nên ra làm quan, tiên sinh lại nói mẹ ta vốn luôn mong con đỗ đại khoa, ta vì thế lại gắng gỏi đáp lại lòng mong muốn của mẹ. Khoa thi năm Ất Sửu (1865) lại dự kì thi Hội, ở trường thi đều có lợi về văn chương nhưng không lợi về trúng, tiếc thay. Lại có người khuyên đợi khoa thi tiếp, tiên sinh nói mẹ ta già rồi ta sẽ ra làm quan. Vừa lúc nghe Lại bộ vựng tấu bổ chức quan cho Cử nhân, sẵn có điểm số, theo lệ mới được bổ chức Giáo thụ, lệ này từ tiên sinh bắt đầu mới có. Tiên sinh vâng sắc lệnh mới dẫn đường đi trước, mẹ đi sau xe xách hòm xiểng hân hoan đến nhận chức ở đây. Tiên sinh đến thì xa gần đều kéo đến. Rất nhiều người lại tụ tập nơi phủ học. Tiên sinh tùy tài mà nhận dạy, luôn quanh quẩn bên bọn trẻ để dẫn dắt chúng. Các quan lại cũng tấp nập vì tiên sinh mà xướng lên những điều nho nhã. Không kể lớn nhỏ, tiên sinh đều mong được truyền thụ cho họ. Con em mà cao siêu hơn cũng coi trọng như quan, học trò thì coi như người trong nhà. Mọi người đều bảo ông tính khoan hòa, bao dung độ lượng, đã gánh vác công việc làm đúng với chức trách của mình. Còn về việc khảo duyệt, thu nhận hay không, chưa từng có tư tình. Có người nói cung phụng tiên sinh thì có thể phấn phát lên, không thể quên được phương pháp giảng dạy của tiên sinh. Còn nhớ ngày tháng 10 năm thứ 18 (1865) đến nay đã trải ba mùa đông rồi. Tiên sinh không những ở lâu với chức này mà còn khéo léo đảm đương chức trách này. Tiên sinh ở lâu với chức này, nên số người theo học trong huyện ta gấp bội ngày trước, ấy là nhờ có ông Hàn mà người nào cũng ngày ngày đến để học. Nay đây thay huyện ta chúc mừng tiên sinh thiện lương đối với chức của mình. Người đăng khoa của huyện ta ngõ hầu đã bằng các huyện khác, ấy là nhờ có ông Trương mà kẻ sĩ ở khắp xóm làng có thể xứng với hoa. Sau này vì huyện ta mà chúc mừng tiên sinh yên vui với chức này, sau này dù có giữ chức Học chính, chức Tế tửu thì cũng cũng phải thụ dụng cho đất này. Lũ chúng tôi vui mừng giữ ngài lại cũng vui mừng tiến cử ngài, đó có thể là dự định chúc mừng cho tiên sinh. Chú thích: (1) Hợp Hòa: tức huyện Hợp Hòa còn gọi là Hiệp Hòa, thuộc phủ Đa Phúc, sau là phủ Bắc Hà tỉnh Bắc Ninh. BẢNG CHỮ VIẾT TẮT b Bài CKTTTDK Cổ kim trùng tính trùng danh khảo d Dòng ĐKDĐC Đồng Khánh dư địa chí ĐNCBLT Đại Nam chính biên liệt truyện ĐNNTC Đại Nam nhất thống chí DSHNVN-TMĐY Di sản Hán Nôm Việt Nam-Thư mục đề yếu LTCTGVN Lược truyện các tác gia Việt Nam NÔNÔCTN Những ông Nghè ông Cống triều Nguyễn NX Nhuế Xuyên QTCBTY Quốc triều chính biên toát yếu QTHKL Quốc triều hương khoa lục t Trang TNTSHCVN Trạng nguyên Tiến sĩ Hương cống Việt Nam q Quyển nc Nguyên chú VGHTT Vi giang hiệu tần tập VHNT Văn học nghệ thuật SVHTT Sở văn hóa thông tin MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1: VỀ VĂN BẢN NHỮNG TÁC PHẨM MANG TÊN NGUYỄN KHẮC TRẠCH HIỆN CÒN 1.1. Tình trạng văn bản 1.1.1. Tình trạng văn bản thơ 1.1.2. Đối chiếu các bản thơ độc lập là một vài nhận định bước đầu 1.2.1. Tình trạng văn bản văn, trướng văn, phú và bản tổng hợp 1.2.2. So sánh sự tương đồng, dị biệt và một vài nhận định bước đầu 1.3. Tiểu kết chương 1 Chương 2: AI LÀ TÁC GIẢ ĐÍCH THỰC CỦA NHÓM TÁC PHẨM MANG TÊN NGUYỄN KHẮC TRẠCH 2.1. Những cứ liệu bên ngoài tác phẩm nói về bốn vị Cử nhân Nguyễn Khắc Trạch dưới triều Nguyễn 2.2. Những thông tin về tác giả do chính tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch cung cấp 2.3. Tiểu kết chương 2 Chương 3: SƠ BỘ TÌM HIỂU GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA NHÓM TÁC PHẨM MANG TÊN NGUYỄN KHẮC TRẠCH 3.1. Sơ bộ tìm hiểu về nội dung 3.2. Nghệ thuật trong thơ văn Nguyễn Khắc Trạch 3.3 Tiểu kết chương 3 KẾT LUẬN CHUNG TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docvhoc03-t.doc