Luận văn Những điều kiện và giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả của hình thức hợp tác liên doanh với nước ngoài trong các đơn vị thuộc Bộ xây dựng

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế: việc hoàn thiện hệ thống thuế một cách có hệ thống đặc biệt là thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng và hợp tác thuế quan với các nước ASEAN. Mở rộng hệ thống hiệp định thuế quan song phương, theo dõi và thực hiện tốt các hiệp định đã ký là phương thức tốt nhất để thúc đẩy hoạt động liên doanh với nước ngoài của Bộ xây dựng. - Cương quyết xử phạt các hoạt động trốn thuế: DNLD có nhiều cơ hội để thực hiện thủ đoạn trốn thuế như : nâng giá tài sản góp vốn, nâng giá nguyên vật liệu để giảm tích luỹ, giảm thuế lợi tức, hạ giá bán sản phẩm, đặc biệt giá bán nội bộ công ty đa quốc gia bán nguyên vật liệu đã được miễn thuế nhập khẩu ra thị trường nội địa trốn thuế, chuyển lợi nhuận về nước dưới dạng xuất khẩu sản phẩm để trốn thuế lợi nhuận hoặc chuyển đối tác mà thực chất là bán cổ phân. Các hoạt động kinh doanh như ủy thác mua bán của các văn phòng đại diện, các loại dịch vụ của các tổ chức nước ngoài không theo luật đầu tư nước ngoài dễ bị thất thu thuế. Không kê khai thu nhập để trốn thuế thu nhập, nhât là đối vơi các văn phòng đại diện, các DNLD hạch toán chi phí cao mà cán bộ chuyên quản chưa kiểm soát được. Quyết toán các chi phí cao bất hợp lý cũng thường xảy ra để giảm lợi tức chịu thuế cần phải được thu hồi cho ngân sách.

doc89 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 928 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những điều kiện và giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả của hình thức hợp tác liên doanh với nước ngoài trong các đơn vị thuộc Bộ xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khẩu còn phức tạp và nhiều thời gian do chủ đầu tư phải liên hệ qua lại giữa nhiều cơ quan để xin ý kiến (Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Khoa học công nghệ môi trường, Bộ quản lý ngành) nhất là khi hàng nhập có sự thay đổi so với giải trình kinh tế kỹ thuật ban đầu hoặc so với giấy phép nhập khẩu đã được cấp để phù hợp hơn với điều kiện thị trường thay đổi. + Về đất đai. Giá đất của ta còn cao so với nhiều người trong khu vực, nếu tính cả chi phí đền bù giải toả thì giá đất bị đẩy lên quá cao. Đây là một yếu tố làm giảm sức cạnh tranh thu hút đầu tư. Thủ tục cấp đất còn phức tạp kéo dài: muốn thuê đất chủ đầu tư phải thực hiện đo đất tới 3 lần. Lần I: tổ chức có tư cách pháp nhân về đo đạc địa chính đo và vẽ bản đồ (bước này hình thành trong quá trình hình thành dự án đầu tư). Sau khi được cấp giấy phép đầu tư, phải thông qua Sở Địa chính đo lại đất hai lần: đo đất để kiểm tra xác nhận vào bản đồ địa chính và đo lại đất để lập biên bản thẩm tra hồ sơ (hai bước này do hai phòng khác nhau của Sở Địa chính chủ trì tiến hành). Theo phản ánh của một số doanh nghiệp tại Hà Nội để được cấp giấy phép quyền sử dụng đất phải qua 11 cơ quan với 8 chữ ký trùng lặp nhiều lần của các nhà lãnh đạo các cơ quan chức năng của Thành phố như: Phó chủ tịch Thành phố (2 người) - 3 lần; giám đốc Sở Địa chính - 3 lần; Kiến trúc sư trưởng Thành phố - 2 lần. Việc giao đất nhất là đối với các dự án có đền bù giải toả kéo dài, nhiều khi vài ba năm, thậm chí có dự án đến 5 năm. + Kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài Việc kiểm tra doanh nghiệp của các cơ quan quản lý Nhà nước còn chồng chéo, nhiều đầu mối, kiểm tra dồn dập một số doanh nghiệp gây ảnh hưởng tới kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc xử lý kết quả kiểm tra còn chậm chạp, kéo dài, chưa thực sự hỗ trợ cho doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn để ổn định sản xuất kinh doanh. Chương III Một số điều kiện và giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả hình thức hợp tác liên doanh với nước ngoài của các đơn vị thuộc Bộ xây dựng trong thời gian tới. I - Phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu để nâng cao hiệu quả hoạt động hợp tác liên doanh với nước ngoài 1. Phương hướng, nhiệm vụ chung của cả nước - Xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ phát triển kinh tế xã hội ở mức thấp hơn nhiều lần so với nước khác (ví dụ: Việt Nam cách Thái lan khoảng 20 đến 25 năm phát triển theo tốc độ 8% năm từ năm 1997 trở về trước). Vì vậy nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong những năm tới là vượt qua tình trạng của một nước ngheò nàn, lạc hậu, nâng cao mức sống của nhân dân và từng bước hội nhập vào quĩ đạo kinh tế thế giới , tránh nguy cơ tụt hậu phát triển, nguy cơ diễn biến hoà bình, tránh nguy cơ trệch hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ tham nhũng, nguy cơ khủng hoảng tài chính-tiền tề... Để thực hiện được những nhiệm vụ trên đây đòi hỏi nền kinh tế phải phát triển đạt được mục tiêu là : tăng trưởng cao, bền vững và có hiệu quả. - Nhìn một cách chung nhất về hoạt động FDI 0 năm qua ở Việt nam đã đóng góp 28,5% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội tạo ra những năng lực sản xuất và sản phẩm tiêu dùng lớn lao, đa dạng, gốp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu (chỉ riêng năm 1998 các DNCVDTNN đã xuất khẩu được 1,79 tỉ USD, chiếm hơn 19% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước tăng gần 20% so với năm 1997, trong khi kim ngạch xuất khẩu cả nước chỉ tăng 0,9%); tạo việc làm cho khoảng 270.000 người, mang vào Việt Nam nhiều loại công nghệ tiên tiến và góp phần tích cực cho tiến trình hội nhập của Việt Nam với khu vực và thế giới. - Hình thức liên doanh với nước ngoài mà sản phẩm của nó là DNLD được thành lập là một hình thức phổ biến trong hình thức FDI của Việt Nam. Nó chiếm khoảng trên 50% tổng số vốn FDI của Việt Nam được sử dụng để thành lập các doanh nghiệp liên doanh vì vậy mà trong thời gian qua các doanh nghiệp liên doanh đã đóng góp một phần đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của đất nước, đưa lại cách nhìn nhận mới về các nguồn lực cho sự phát triển. - Mục tiêu cụ thể trong năm năm 1996-2000, dự kiến phải tranh thủ khoảng 13-15 tỉ USD vốn FDI thực hiện. Như vậy số vốn FDI thực hiện trong 10 năm (1991-2000) đạt được 18-20 tỉ USD, gần gấp đôi mức dự kiến ban đầu. Dự tính vốn thực hiện (1996-2000) 1 Các dự án đã được cấp giấy phép từ năm 1995 trở về trước 10.000 triệu USD 2 Phát triển các mỏ dầu khí thương mại gồm cả xây dựng đường óng dẫn dầu, khí và các nhà máy lọc dầu số 1 2.500 triệu USD 3 Các nhà máy xi măng 500 triệu USD 4 Luyện cán thép (1,5-2 triệu tấn) 500 triệu USD 5 6 Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư năm 1995 Sau đây là phương hướng và nhiệm vụ chủ yếu chung của cả nước để thu hút FDI nói chung và hình thức DNLD nói riêng. Một là: Giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội, xây dựng bộ máy quản lý nhà nước trong sạch, vững vàng, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và đảm bảo lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước. Đảm bảo trật tự an toàn xã hội, ngăn chặn và xử lý thật nghiêm mọi hành vi gây rối, bảo vệ sinh mạng và tài sản của các thành viên trong xã hội. Hai là: Giữ vững sự ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc dân, kiềm chế lạm phát và ổn định tiền tệ, giá cả. Ba là: Hoàn thiện môi trường pháp lý, đảm bảo hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài bằng những điều khoản có tính chất ưu đãi về mặt lợi ích kinh tế của họ và đảm bảo an toàn về vốn cho họ. Xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ, đảm bảo thi hành pháp luật nghiêm minh. Bốn là: Xây dựng chiến lược hợp tác liên doanh với nước ngoài trên cơ sở của chiến lược phát triển kinh tế quốc dân. Khẩn trương hoàn thiện qui hoạch tổng thể đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài trong đó cần qui hoạch cụ thể về cơ cấu kinh tế (theo ngành và theo lãnh thổ), qui hoạch các khu công nghiệp các sản phẩm quan trọng. Năm là: Phát triển kinh tế thị trường và thiết lập hệ thống thị trường đồng bộ tạo điều kiện cho chính thị trường đầu tư hoạt động có hiệu quả. Nhanh chóng hình thành thị trường tài chính, hoàn thiện thị trường lao động... và phát triển các ngành dịch vụ, tài chính, ngân hàng đáp ứng những đòi hỏi bức bách của hoạt động sản xuất kinh doanh Sáu là: Tích cực chủ động tiến hành xúc tiến đầu tư, tạo lập và lựa chọn các hình thức thu hút FDI phù hợp và có hiệu quả, đa dạng và đa phương hoá trong hợp tác đầu tư. Tăng cường quan hệ ngoại giao với các nước theo chủ trương "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước". Bảy là: Chú trọng đào tạo cán bộ quản lý nhân viên kỹ thuật, tay nghề cho công nhân theo hướng vừa trang bị kiến thức cơ bản vừa đào tạo chuyên sâu. Tám là: Củng cố quản lý nhà nước đố với hoạt động FDI, nâng cao năng lực quản lý của các cấp, các ngành, các địa phương và các đơn vị hợp tác đầu tư với nước ngoài. Phân cấp quản lý chặt chẽ, đồng bộ đảm bảo sự tập trung thống nhất, khắc phục hiện tượng chia cắt, phân tán. Cải tiến các thủ tục hành chính theo hướng nhanh gọn, hiệu quả, đơn giản hoá các thủ tục hành chính tiếp nhận FDI. Chín là: Cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới kết cấu hạ tầng. Đây là công việc không dễ thực hiện mau được trong điều kiện tiềm lực kinh tế Việt Nam còn nhỏ bé, nhất là nguồn vốn ngân sách nhà nước còn hạn chế. Vì vậy một mặt chúng ta cần huy động tối đa khả năng của mình, mặt khác cần tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức và chính phủ các nứoc. Khi chưa có đủ điều kiện phát triển đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng của nền kinh tế thì nên tập trung xây dựng dứt điểm những công trình then chốt của nền kinh tế Mười là: phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN có sự tham gia của các thành phần kinh tế, trong đó một mặt phải củng cố kinh tế quốc doanh theo hướng hiêu quả, đồng thời phải phát triển mạnh kinh tế tư nhân dưới nhiều hình thức. Mười một là: Dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế cho phù hợp với sự phát triển của phân công lao động quốc tế. Một cơ cấu kinh tế mới chỉ nên tập trung phát triển mạnh mẽ những ngành và lĩnh vực Việt Nam có lợi thế so sánh. Mười hai là: Mở cửa về thông tin trong và ngoài nước, nhất là thông tin kinh tế, thị trường, văn hoá, xã hội, khoa học công nghệ dưới mọi hình thức. Thiết lập một thị trường thông tin công bằng với mọi thành viên trong xã hội, đảm bảo quyền được thông tin của mọi người dân và các doanh nghiệp trong nền kinh tế. - Những yếu tố trên đây có ảnh hưởng đến kết quả của việc thu hút FDI vào hoạt động hợp tác liên doanh. Nhưng nếu chỉ có các điều kiện vật chất của nền kinh tế thôi thì chưa đủ lôi kéo FDI (tất nhiên nếu không có thì thiếu và sẽ gây khó khăn, trở ngại cho hoạt động liên doanh với nước ngoài). Điều quan trọng là phải dung hoà được các lợi ích của cả hai bên, vì những mục đích lâu dài của đất nước, trong một số trường hợp chúng ta cũng cần phải nhượng bộ và chấp nhận hi sinh lợi ích trước mắt. Chúng ta sẽ thành công trong hợp tác liên doanh với nước ngoài nếu chúng ta biết xử lý các vấn đề một cách khôn khéo và không để mắc phải những sai lầm có tính nguyên tắc. - Qua đây cũng thấy quan điểm của Việt Nam về tác động của hoạt động hợp tác liên doanh với nước ngoài đến nền kinh tế xã hội. 1.1. DNLD là một bộ phận cấu thành toàn bộ hoạt động đầu tư nước ngoài của quốc gia. FDI là không thay thế được các nguồn đầu tư khác nhưng nó có thế mạnh riêng của nó. Trong những năm trước mắt khi nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn hạn hẹp, nguồn ODA chưa đáng kể thì FDI chiếm vị trí quan trọng (trong đó doanh nghiệp liên doanh là chủ yếu) góp phần cải tiến cơ cấu kinh tế quốc dân. "DNLD là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp nhận để thành lập doanh nghiệp liên doanh". Rõ ràng thành lập doanh nghiệp liên doanh không gây ra nợ nần cho thế hệ sau. Khi bỏ vốn vào Việt Nam chủ đầu tư buộc phải quan tâm làm cho tiền đẻ ra tiền. Trong quan hệ làm ăn với đối tác Việt Nam theo nguyên tắc được cùng ăn thua cùng chịu theo tỉ lệ góp vốn của mỗi bên. + Tất cả các doanh nghiệp liên doanh đều là pháp nhân Việt Nam trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước thì doanh nghiệp liên doanh là một trong năm thành phần kinh tế được thừa nhận. Đó là một hình thức CNTB nhà nước thời hạn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh không quá 50 năm và các dự án đặc biệt có thể kéo dài đến 70 năm nhưng nếu xin gia hạn thì phải được sự cho phép của phía Việt Nam. 1.2. Quan điểm "mở" và "che chắn" trong chính sách thu hút FDI nói chung và hình thức DNLD nó riêng. - Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, các mục tiêu của FDI có đạt được hay không còn phụ thuộc nhiều vào vấn đề đảm bảo an ninh, chính trị, kinh tế và xã hội. Để giải quyết mối quan hệ này phải bắt đầu từ cách đặt vấn đề an ninh, chính trị, kinh tế , xã hội trong quá trình thực hiện hoạt động liên doanh. - Trong một số trường hợp, vì lợi ích tối đa của đầu tư là lợi nhuận, người ta bất chấp những đòi hỏi tôn trọng truyền thống văn hoá, xã hội của dân tộc. - Thông thường phía nước sở tại mong muốn nguồn vốn liên doanh của nước ngoài hỗ trợ trong việc thực hiện chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho việc phát triển đồng đều ở các cơ sở công nghệ tiên tiến, cho việc khai thác tài nguyên hợp lý và bảo vệ môi trường sinh thái.... - Nhưng phía chủ đầu tư nước ngoài vì yếu tố tối thượng hoá lợi ích là lợi nhuận nên lợi dụng khai thác nhiều mặt sự yếu kém của chính phủ nước tiếp nhận đầu tư và các nhà doanh nghiệp nước sở tại. Trong đó các chủ đầu tư thường chú ý khai thác những sơ hở, yếu kém về luật lệ, thủ tục và cán bộ. - Những sự khác biệt đó về mục tiêu khi vượt qua mức độ nào đó sẽ xuất hiện tình trạng thiếu đảm bảo cần thiết về an ninh, chính trị, kinh tế, xã hội trong quá trình hợp tác, liên doanh và tất yếu sẽ có hại cho cả hai bên. Trong thời đại ngày nay khi chấp nhận nguyên tắc "bình đẳng, hai bên cùng có lợi" thì vấn đề an ninh trong quá trình liên doanh với nước ngoài là cần thiết cho cả hai phía. - Đối với nhà đầu tư nước ngoài có sự an ninh cho đồng vốn, cho quá trình thực hiện dự án, an ninh cho người hoạt động đầu tư và chuyển lợi nhuận về nước. Còn đối với nước sở tại cần có sự an ninh chính trị, kinh tế, xã hội chẳng những cho sự phát triển, mở rộng liên doanh có hiệu quả mà còn giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, bảo vệ bản sắc dân tộc, giữ vững định hướng chính trị - xã hội Do vậy mở cửa cho bên ngoài vào để tham gia hoạt động liên doanh với Việt Nam nhưng không quên những biện pháp che chắn cần thiết cho an ninh chính trị, kinh tế xã hội. Tư tưởng trên chi phối toàn bộ luật đầu tư nước ngoài và được thể hiện tại nhiều điều khoản của luật và các văn bản dưới luật. Một " hành lang" dù rộng rãi đến đâu cũng có khuôn khổ của nó. Do vậy, bên cạnh những quy định có tính chất rộng rãi thường có những quy định có tính chất " che chắn". " Rộng rãi" hay " che chắn" đều phải trên cơ sở tuân thủ theo pháp luật, tuân theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, phù hợp với thông lệ với tập quán quốc tế, hợp lý, có sức thuyết phục. 1.3. Giải quyết hợp lý mối quan hệ về lợi ích giữa các bên trong hoạt động hợp tác liên doanh với nước ngoài của Việt Nam. - Xét nhu cầu, khả năng và lợi thế của mỗi bên, hợp tác liên doanh giữa nước ta với nước ngoài thực chất là tìm " điểm gặp nhau" về lợi ích để cùng nhau sản xuất kinh doanh và trả giá cho nhau trên nguyên tắc thoả thuận, tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi. Theo nguyên tắc đó, cái giá trả cho nhau phải: + Phù hợp với tương quan về nhu cầu và khả năng của bên này và bên kia trong hợp tác liên doanh + Có lựa chọn, so sánh cái giá phải trả cho các bên liên doanh khác nhau trong cùng một mục tiêu và một thời điểm. + Có tính đến những điều kiện về mội trường liên doanh, bảo đảm phát huy có hiệu quả lợi ích của mỗi bên (chủ đầu tư nước ngoài, các pháp nhân Việt Nam tham gia liên doanh và nhà nước Việt Nam) trong đó, quan trọng nhất đối với nhà đầu tư nước ngoài là được quyền kinh doanh có hiệu quả và được bảo đảm an toàn vốn, lợi nhuận của họ. Hợp tác liên doanh như mối tình dẫn đến hôn nhân giữa các bên tham gia (bên Việt Nam và bên nước ngoài). Cho nên trong quá trình triển khai dự án cần phải chú ý tới những nguyên nhân dẫn đến những mâu thuẫn trong nội bộ liên doanh. Những mâu thuẫn này thực chất xuất phát từ sự khác biệt về quan hệ sở hữu bên nước ngoài hầu hết là những công ty, hãng tư nhân, họ là người sở hữu thật sự tài sản mà họ đem góp vào liên doanh. Cho nên từ quan niệm, cách nhìn nhận cho đến cách hành động, hoạt động sản xuất kinh doanh họ đều thể hiện tính tư bản tư nhân. Mục đích, đối tượng của họ là lợi nhuận, nên bằng mọi cách để đạt được lợi nhuận tối đa.Trong khi đó bên Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu nhà nước. Bên nước ngoài là công ty xuyên quốc gia nên rất hùng mạnh về nhiều mặt, ngược lại các công ty quốc doanh Việt Nam lại kém mọi lĩnh vực. Trong quá trình thực hiện dự án liên doanh bên nước ngoài không muốn thành lập các tổ chức đoàn thể (tổ chức Đảng, công đoàn...) trong liên doanh , cho nên các tổ chức này hiện nay rất ít và khó hoạt động. Nhìn chung chúng ta cần tránh một số quan điểm mơ hồ trong quá trtình thu hút vón liên doanh với nước ngoài là: + Không muốn trả giá , chỉ đứng về lợi ích riêng mình, muốn ăn cả. Điều này trái với nguyên tắc hợp tác liên doanh "cùng chung trách nhiệm kinh doanh cùng ăn chịu lợi nhuận". + Hiểu nguyên tắc "bình đẳng, cùng có lợi" một cách máy móc, không đứng trên quan điểm tổng thể để xác định thoả đáng lợi ích mỗi bên phù hợp với lợi thế so sánh. + Trả giá không tính toán, trả bất cứ giá nào miễn là tranh thủ được vốn, công nghệ mà không tính toán đến hậu quả và mặt trái của vấn đề. 1.4. Hiệu quả kinh tế - xã hội được coi là tiêu chuẩn cao nhất trong hợp tác kinh doanh - Một dự án liên doanh được xem xét cả về mặt lợi ích kinh tế - tài chính và lợi ích kinh tế xã hội. Thế nhưng về mục tiêu chủ yếu của liên doanh là lợi ích hay lợi nhuận vì thế mà đôi khi do quá coi trọng lợi nhuận trước mắt mà không ít trường hợp có lợi ích kinh tế tài chính cao nhưng hiệu quả kinh tế xã hội thấp, thậm chí gây tổn hại đến lợi ích kinh tế xã hội, có lợi cíh trước mắt nhưng lại hại lâu dài. - Do đó, khi thẩm định xem xét dự án liên doanh cần phải đặt hiệu quả kinh tế xã hội lên trên và coi đó là phương hướng cơ bản của biện pháp khuyến khích đầu tư. - Trong điều kiện của đất nước còn kém phát triển như hiện nay chỉ tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội của DNLD nhìn tổng thể phải đáp ứng các yêu cầu vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, giải quyết thị trường tiêu thụ cho sản phẩm . - Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là các chỉ tiêu trên đều nhất thiết phải được hội tụ đủ trong một dự án cụ thể. Trong điều kiện nước ta trước mắt có lẽ nên coi trọng mục tiêu tạo công ăn việc làm. Hơn nữa liên doanh được coi là một trong hai sức kéo có ý nghĩa trong giai đoạn đến năm 2000, việc tạo ra công ăn việc làm cũng là biện pháp hữu hiệu tích luỹ vốn cho công nghiệp hoá hiện đaị hoá, cho mua sắm công nghệ ở bước tiếp sau. 1.5. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa quản lý nhà nước và quyền tự chủ của các doanh nghiệp liên doanh - Cơ chế quản lý đầu tư nước ngoài cũng dựa vào những nguyên tắc cơ chế trên. Tuy nhiên, do đặc thù của doanh nghiệp liên doanh nên bên cạnh sự giống nhau về cơ chế quản lý, trong đó quản lý và quản trị có những điểm khác nhau, khác cơ chế chung cần được quan tâm trong đó vấn đề quan trọng nhất là xác định vai trò quản lý của nhà nước về quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh (các chủ đầu tư) đảm bảo đầy đủ quyền tự chủ của họ trong khuôn khổ luật định. Địa vị pháp lý của doanh nghiệp liên doanh được thể hiện: + Thứ nhất doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân của Việt Nam được thành lập dưới hình thức Công ty TNHH. + Thứ hai: doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp có người nước ngoài tham gia, nắm quyền sở hữu. Do vậy sự quản lý của nhà nước Việt Nam phải làm cho doanh nghiệp liên doanh trong khi phục vụ lợi ích của họ cũng phải đưa lại lợi ích chính đáng cho bên Việt Nam và nhà nước Việt Nam. Hoạt động FDI sẽ thực hiện theo các bước sau: Bước 1: Các ngành và lĩnh vực ưu tiên là nông nghiệp, trồng rừng, xây dựng các vùng nguyên liệu, chế biến lương thực - thực phẩm. Các vùng được ưu tiên là các tỉnh trung du, miền núi, Tây Nguyên, duyên hải miền Trung và miền Tây Nam Bộ. Đối với các tỉnh và thành phố đã có nhiều dự án đầu tư như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Sông Bé thì cần tập trung vào việc thu hút các dự án có quy mô lớn, công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, các xí nghiệp trong các khu chế xuất và các khu công nghiệp. Dành sự quan tâm thích đáng đối với các dự án có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước như khai thác và chế bến dầu khí, xi măng, liên lạc viễn thông, cảng, sân bay, điện, sản xuất thép, công nghiệp hoá chất phân bón, khu công nghệ cao... Bước 2: Thông qua hợp tác đầu tư trực tiếp với nước ngoài để tiếp cận với công nghệ kỹ thuật hiện đại, tiếp thu trình độ quản lý và kỹ thuật tiếp cận thị trường. Một mặt Việt Nam cần thiết phải tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại, nhưng mặt khác cũng phải chú ý đến những dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có sử dụng nhiều lao động tại chỗ. Về phương diện này thì sự chuyển giao công nghệ theo kiểu "làn sóng" có một ý nghĩa nhất định đối với chung ta. Bước 3: Mở rộng các hình thức thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khuôn khổ pháp luật theo phương hướng đa phương hoá, đa dạng hoá. Duy trì mối quan hệ hợp tác với các nước ASEAN, đồng thời tăng cường một bước quan hệ hợp tác đầu tư với Nhật Bản, Hàn Quốc, Oxtraylia, Mỹ và các nước Tây Âu, coi đó là những đối tác quan trọng để tranh thủ vốn, công nghệ, tạo thế cân bằng lực lượng có lợi hco việc đảm bảo độc lập chủ quyền, giữ vững an ninh chính trị và kinh tế. Bước 4: Hoạt động hợp tác đầu tư với nước ngoài cuối cùng cũng là để nâng cao đời sóng của nhân dân vì vậy phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn hàng đầu và đó cũng là lợi ích lâu dài của hoạt động đầu tư trực tiếp nưóc ngoài. Bước 5: Hợp tác đầu tư với nước ngoài phải góp phần mở rộng thị trường, từng bước hội nhập nền kinh tế Việt Nam với thế giới, và nâng cao vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế. 2. Phương hướng, nhiệm vụ riêng của Bộ xây dựng - Bộ xây dựng là một cơ quan quản lý nhà nước thuộc Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quán triệt quan điểm, phương hướng chung của Đảng và nhà nước đề ra tại nghị quyết trung ương 6 (lần I) đã nhận định "bước vào năm 1999 những thách thức và khó khăn của đất nước còn rất lớn, gay gắt và phức tạp do những yếu kém từ bên trong của nền kinh tế và những bất cập trong quản lý, điều hành, của khủng hoảng tài chính - tiền tệ dẫn đến suy thoái kinh tế ở một số nước trong khu vực có thể còn diễn biến phức tạp, khí hậu và thời tiết bất thường chưa thể lường hết được". Năm 1999 tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhất là công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Quốc hội khoá X kỳ họp thứ 4 đã quyết nghị các chỉ tiêu chủ yếu của năm 99 như sau: Tổng sản phẩm quốc nội GDP tăng 5-6% Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 3,5-4% Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 10-11% Giá trị các ngành dịch vụ tăng 4-5% Kim ngạch xuất khẩu tăng 5-7% Mức lạm phát dưới 10% Tạo việc làm mới 1-1,5 triệu người Năm 1999 ngành xây dựng đứng trước những thách thức còn lớn hơn năm 1998 đó là bức xúc về công ăn việc làm đối với khối xấy lắp và tư vấn, sự cạnh tranh gay gắt trong tiêu thụ sản phẩm vật liệu xây dựng. Quán triệt nghị quyết Hội nghị trung ương lần thứ VII, khoá VIII về "phát triển công nghiệp, công nghệ theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới", ngành xây dựng đã đề ra chương trình và mục tiêu phát triển toàn ngành đến năm 2000 và định hướng nghiệp vụ kế hoạch 5 năm 1996-2000 với các nội dung chủ yếu như sau: + Phát huy thế mạnh của đất nước về tài nguyên khoáng sản làm vật liệu xây dựng, phải tập trung mọi nguồn vốn và các giải pháp để tạo vốn đầu tư, phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây dựng theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Phấn đấu đưa nhanh ngành công nghiệp VLXD trở thành một trong những ngành công nghiệp có hiệu quả, vừa đáp ứng cho nhu cầu trong xã hội, vừa góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế, tăng tích luỹ nhà nước. Ưu tiên phát triển xi măng và các loại vật liệu cao cấp, để tạo thành ngành công nghiệp mũi nhọn, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Huy động năng lực hiện có của toàn ngành VLXD để phấn đấu sản xuất đạt mức tăng trưởng hàng năm 18 -20%, góp phần thực hiện chỉ tiêu tăng trưởng GDP của nhà nước trong 5 năm 1996-2000. Tiếp tục tăng cường các biện pháp quản lý để chấn chỉnh kỷ cương trong đầu tư và xây dựng, đồng thời tập trung đầu tư nâng cao năng lực của các tổ chức xây dựng, đầu tư đổi mới trang thiết bị thi công, sắp xếp và tổ chức lại các lực lượng để đủ mạnh, đủ sức thắng thầu và tổng nhận thầu thi công các công trình có quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp, các công trình quan trọng của nhà nước, của nước ngoài đầu tư tại Việt Nam. + Tập trung chỉ đạo để thực hiện nhiệm vụ phát triển đô thị nông thôn theo quy hoạch, theo các chương trình quốc gia, theo các dự án nhằm nhanh chóng đổi mới bộ mặt đô thị nông thôn và cơ sở hạ tầng đô thị. Triển khai thực hiện chương trình đổi mới cơ sở hạ tầng nông thôn theo tinh thần nghị quyết V khoá VII của Đảng. Tổ chức thực hiện tốt các chính sách về nhà ở, đất ở trong cả nước, đảm bảo vừa có kết quả trong việc tăng thu cho ngân sách, vừa ngăn chặn và tiến tới chấm dứt hiện tượng buông lỏng quản lý, vi phạm kỷ cương trong các đô thị. Kế hoạch năm 1999 ngành xây dựng phấn đấu giữ mức tăng trưởng như thực hiện của năm 1998: - Về xây lắp có mức tăng trưởng khoảng 6%; - Về sản xuất vật liệu xây dựng và cơ khí xây dựng khoảng 13,6% so với thực hiện của năm 1998. Cụ thể chỉ tiêu định hướng kế hoạch 1999 của các lĩnh vực như sau: a. Sản xuất công nghiệp vật liệu xây dựng và cơ khí xây dựng: Về xi măng dự báo nhu cầu xi măng năm 1999 khoảng 11,3 - 11,5 triệu tấn. Khả năng sản xuất năm 1999 của toàn ngành khoảng 11,25 triệu tấn, trong đó: - Tổng công ty xi măng Việt Nam 5.800.000 tấn; - Các nhà máy liên doanh 2.600.000 tấn; - Các trạm nghiền địa phương 850.000 tấn; - Xi măng lò đứng 2.100.000 tấn; Theo chỉ đạo của Chính phủ cần phải có những biện pháp thích hợp nhằm cân đối sản xuất và tiêu thụ xi măng đến năm 1999 không phải nhập xi măng và clinker. Sứ vệ sinh: dự kiến toàn ngành sản xuất 1.420.000 sản phẩm tăng 16% so với 1998, trong đó các doanh nghiệp của Bộ xây dựng sản xuất 810.000 sản phẩm. Kế hoạch năm 1999 so với chỉ tiêu định hướng năm 2000 dự kiến đạt 59,7% (19 triệu m2/31,8 triệu.m2). Cơ khí xây dựng sản xuất 45.000 tấn tăng 6% so với 1998. Các doanh nghiệp của Bộ Xây dựng sản xuất 40.000 tấn trong đó có sản phẩm mới là thanh, ống nhôm. Các sản phẩm khác: gạch, ngói, đá, cát sỏi, gạch chịu lửa samốt A ... sản xuất theo nhu cầu thị trường. Với các kế hoạch nêu trên, ngành vật liệu xây dựng thoả mãn nhu cầu trong nước và phải khai thác tích cực tìm kiếm thị trường xuất khẩu. b. Xây lắp: Dự kiến kế hoạch năm 1999 toàn ngành thực hiện sản lượng xây lắp 34.500 tỷ đồng, tăng 6,2% so với thực hiện năm 1998. Trong đó khối doanh nghiệp trung ương là 16.000 tỷ đồng, địa phương 18.500 tỷ đồng. Các đơn vị trực thuộc Bộ dự kiến kế hoạch sản lượng xây lắp năm 1999 là 8354 tỷ đồng, tăng 15,5% so với thực hiện năm 1998. Trong 21 đơn vị trực thuộc Bộ dự kiến kế hoạch xây lắp có Tổng Công ty Sông Đà, TCT XD Hà Nội, TCT Lắp máy, TCT Vinaconex, TCT XD số 1 đăng ký kế hoạch xây lắp trên 1000 tỷ đồng. c. Tư vấn: Các đơn vị tư vấn trực thuộc Bộ (bao gồm cả công việc tư vấn của các Viện) đăng ký kế hoạch năm 1999 là 204 tỷ đồng giảm 9,9% so với dự kiến thực hiện năm 1998 (227 tỷ đồng). Công tác tư vấn: cần tập trung nâng cao năng lực các đơn vị tư vấn đặc biệt nâng cao trình độ tư vấn quản lý dự án và chất lượng công tác lập dự án đầu tư. d. Xuất nhập khẩu. Dự kiến kim ngạch xuất nhập khẩu năm 1999 của các đơn vị thuộc Bộ là 223 triệu USD, tăng 35% so với dự kiến thực hiện năm 1998. Trong đó xuất khẩu 25,2 triệu USD tăng 11,9% so với thực hiện năm 1998, nhập khẩu 198 triệu USD tăng 39% so với năm 1998. Về nhập khẩu chủ yếu máy móc thiết bị cho các dự án xi măng, vật liệu và cơ khí, máy móc thiết bị thi công, đồng thời nhập một số phụ tùng, vật tư phục vụ cho sản xuất (như gạch chịu lửa, thạch cao, giấy craf, bột màu v.v....) Về xuất khẩu chủ yếu xuất khẩu lao động, dự kiến TCTXD Bạch đằng xuất khẩu thi công công trình tại Nhật khoảng 410.000 USD; xuất nhập khẩu các sản phẩm vật liệu XD như kính ôto (xuất tại chỗ), sứ vệ sinh, gạch xây, gạch bông, gạch ốp lát, một số sản phẩm cơ khí v..v...dự kiến tăng so với năm 1998. Đặc biệt Công ty liên doanh ống thép Sài gòn dự kiến xuất khẩu ống thép sang CAMPUCHI. 3. Kế hoạch đầu tư và phát triển của Bộ Kế hoạch đầu tư phát triển của bộ Xây dựng năm 1999 dự kiến tổng mức: 2366tỷ đồng. Chia ra: Nguồn vốn ngân sách: (được nhà nước cân đối) Nguồn vốn ngân sách: (được nhà nước cân đối) 46,5 tỷ đồng Nguồn vốn ngân sách: (được nhà nước cân đối) 34,5 tỷ đồng Đầu tư: Trường, viện, ytế ... 12 tỷ đồng Nguồn vốn tín dụng ưu đãi: (đăng ký ké hoạch) 860 tỷ đồng Nguồn vốn quỹ ĐT tập chung các đơn vị 460 tỷ đồng Nguồn vốn tự huy động, tự bổ xung 600 tỷ đồng Nguồn vốn vay tín dụng thương mại 400 tỷ đồng (Bao gồm: vay tín dụng thương mại trong nước và vay tín dụng nước ngoài) Vốn của liên doanh Nghi Sơn(150 tr.USD) 1.900.000tỷ đồng Mục tiêu đầu tư và chủ trương bố trí vốn: Thực hiện nghiêm chỉnh chỉ đạo của chính phủ tại quyết định 248/1998-QĐ-TTg ngày 24/12/1998 về chủ trương biện pháp điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 1999. Nguồn vốn ngân sách được bố trí chấp hành đúng chỉ đạo của chính phủ. Tổng số 51 dự án nhóm C của bộ, trong đó hoàn thành trong năm 1999 là 38 dự án, chiếm 74,5%. Vốn ngân sách được dầu tư cho các công trình thuộc các lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế các trung tâm phục hồi chức năng, nhà xuất bản, các công trình kỹ thuật hạ tầng, khảo sát thiết kế quy hoạch. Năm 1999 thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Bộ tiến hành lập dư án khả thi sửa chữa mối nối nhà nắp ghép Thanh Xuân, trưòng trung học XD số 1. (Mục tiêu này chưa được nhà nước cân đối vốn) Về khảo sát thiết kế quy hoạch 12 tỷ đồng, trong đó cho 6 dự án chuyển tiếp, còn lại 50 dự án. Mục tiêu điều chỉnh quy hoạch cho: 4 quy hoạch vùng; 30 quy hoạch đo thị mới; 5 quy hoạch thí đ iểm các khu dân cư; 3 quy hoạch vật liệu xây dựng và 5 quy hoạch thí diểm các thị trấn. Thực hiện dự án trong số các công trình vốn ngan sách có dự án kết thúc đầu tư tương ứng với 6,596 tỷ đồng, trong đó có 1 dự án nhóm B và 6 dự án nhóm C. Các dự án chuyển tiếp đầu tư tập trung dứt điểm từng hạng mục, từng mục tiêu để sớm đưa vào sử dụng. Các dự án đầu tư mới gồm trường đào tạo công nhân của Tổng công ty xây dựng Sông Hồng; Trung tâm phục hồi chức năng Sầm Sơn, Viện Vật liệu xây dựng và Trung tâm Kiểm định Kỹ thuật an toàn xây dựng. Nguồn vốn tín dụng, và các nguồn khác: Các dự án thuộc lĩnh vực Vật liệu XD thực hiện những mục tiêu chính sau: Tập trung đầu tư hoàn thành dự án phụ kiện sứ vệ sinh bắt đầu sản xuất cuối 1999, đầu tư hoàn thành xây lắp dự án gạch chịu lửa kiềm tính để bắt đầu sản xuất vào đầu năm 2000. Hoàn thành cơ bản công tác xây lắp để bắt đầu sản xuất vào kế hoạch năm 2000. Đối với các dự án cải tạo nhà máy xi măng Bỉm Sơn, xi măng Hà Tiên 1, xi măng Nghi Sơn. Khởi công trạm tiếp nhận xi măng Nhơn Trạch. Hoàn thành công tác chuẩn bị để khởi công xây dựng nhà máy xi măng Hải Phòng vào cuối năm 1999. Ngoài các mục tiêu đầu tư trên, kế hoạch 1999 còn triển khai đầu tư các dự án bông thuỷ tinh, bông khoáng, mở rộng các nhà máy gạch ceramic Tân Bình, Thanh Thanh, Đà Nẵng, Việt Trì; lọc cao lanh Sông Bé, một số mỏ đá: Sóc Lu, Đà Nẵng, Xuân Hoà, Tân Đông Hiệp, Thượng Hoà, Sơn La... Lĩnh vực cơ khí xây dựng: Hoàn thành dự án phụ kiện sứ vệ sinh Đại Mỗ và 3 dự án kết cấu thép để có thêm năng lực là 22.000 tấn/năm và khởi công mới DA Nhà máy chế tạo kết cấu thép số 3 tại Quảng Nam, công suất 15.000 tấn/năm và một số cơ sở cơ khí của Tổng Công ty lắp may, xưởng đúc thép Hoà Khánh, dự án sản xuất ống vuông, dự án sản xuất tôn kém mạ và dự án sản xuất ống gió cơ điện lạnh. Về thiết bị thi công tiếp tục đầu tư 6 dự án chuyển tiếp của 6 đơn vị: TCT Sông Đà, TCT xây dựng số 1, TCT XD Bạch Đằng, TCT XD Hà Nội, LICOGI và công ty XD số 7. Đầu tư mới 3 dự án của Công ty XD Miền Tây, Công ty khảo sát xây dựng và Constrexim. Các dự án đầu tư theo hình thức BOT: Tổng công ty xây dựng Sông Đà đầu tư dự án thuỷ điện Cần Thơ, chuẩn bị dự án điện sức gió tại Miền Trung. Tổng công ty VINACONEX đầu tư nhà máy nước Dung Quất. Chương trình nhà ở Đồng bằng sông Cửu Long: Tập trung ưu tiên vốn tín dụng đầu tư cho các dự án phục vụ chương trình nhà ở đồng bằng sông Cửu Long, vì đây là một chủ chương lớn của chính phủ. Triển khai song DA sản xuất cấu kiện nhà ở bằng vật liệu nhẹ KCN Cần Thơ phục vụ chương trình phát triển nhà ở ĐBSCL. Các dự án về nhà ở và đô thị: Tập trung các nguồn vốn để triển khai các khu đô thị mới, đẩy nhanh tốc độ xây dựng nhà ở, bao gồm: Vốn tín dụng đầu tư; vốn huy động của các đơn vị; khai thác tốt nguồn vốn ứng trước của dân: Tranh thủ nguồn vốn hỗ trơ của các địa phương và vốn ODA đối với việc xây dựng cơ sở hạ tầng của các khu đô thị mới. Tập trung đẩy nhanh tiến độ đối với những khu đô thị mới triển khai thuận lợi về thủ tục đầu tư, thu hút nhanh nhu cầu về nhà ở của dân. Thực hiện dự án xây dựng quỹ nhà công vụ cho các cán bộ được điều động về trung ương công tác. Ngoài nhà ở có thể kinh doanh đa dạng đối với các công trình để phục vụ lợi ích công cộng: thể thao, văn hoá, vui chơi giải trí,... Các dự án khu công nghiệp tập trung: theo chỉ đạo của Chính phủ, rà soát lại các công việc, hạng mục của các khu công nghiệp tập trung. Không đầu tư dàn trải. Những dự án có chủ đầu tư đăng ký chắc thì mới tập trung đầu tư. Chú ý việc tìm kiếm các đối tác đầu tư, đặc biệt các dự án đầu tư trong nước về chế biến nguyên liệu, nông, hải sản trong nước. Góp vốn đầu tư các dự án liên doanh: Tổng công ty xi măng đang triển khai góp vốn liên doanh xây dựng Nhà máy xi măng Nghi Sơn, kế hoạch đầu tư là 150 triệu USD, trong đó TCT xi măng góp 9,5 triệu USD. Tổng công ty VINACONEX góp 125.900 USD liên doanh nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới để SX lắp dựng cấu kiện bê tông ứng suất trước, đồng thời góp 462.000 USD chuẩn bị dự án liên doanh Trung tâm thương mại quốc tế với DAEWOO. - Các chỉ tiêu: Về vật liệu xây dựng phấn đấu sản xuất đạt mức tăng trưởng hàng năm 18-20%, góp phần thực hiện chỉ tiêu tăng trưởng 5 năm 1996-2000 trong đó: về xi măng đến năm 2000 có công suất từ 18-29 triệu tấn theo nghị quyết của Đảng lần thứ VIII. Về liên doanh với nước ngoài, Bộ đã ............... II - Một số điều kiện và giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả hoạt động hợp tác liên doanh với nước ngoài của các đơn vị thuộc Bộ xây dựng. 1. Đối với các nguyên nhân chủ quan. 1.1. Khắc phục quan liêu phiền hà, trậm chễ phải có thái độ đúng đán thiện chí trong giải quyết công việc. Mỗi doanh nghiệp cần xem xét các tồn tại mà các lao động thường gặp phải để xác định lao động mà đơn vị tham gia có tồn tại gì phải khắc phục.. Một vấn đề chính lưu ý các doanh nghiệp phải quan tâm khi củng cố các lao động đã có là: Một là: Việc xây dựng mới hoặc bổ sung và hoàn chỉnh: “Bản quy chế hoạt động của công ty lao động” đã có. Hai là: “Xác định cho được các yếu tố làm giảm hiệu quả hoạt động của lao động như phương thức kinh doanh việc quản lý hành chính, chi phí chung của lao động,... Ba là: xem xét các cán bộ mà doanh nghiệp cử tham gia Hội đồng quản trị , các chức danh chủ chốt trong lao động chỉ nắm chắc Hợp đồng lao động, điều lệ công ty liên doanh, , bản quy chế hoạt động công ty lao động, để bảo vệ quyền lưọi của bên Việt Nam trong lao động cũng như có thế đóng góp để lao động ngày càng phát triển , Những cán bộ không đáp ứng được yêu cầu trên cần được thay thế sớm. Bốn là: tuỳ từng hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp và lĩnh vực lao động (xây dựng , tư vấn,k sản xuất nguyên vật liệu xây dựng ...) để đề ra các giải pháp tình thế. Có một thực tế là từ một số rất ít các lao động có lãi ngay từ năm đầu sản xuất kinh doanh còn phầnlớn các lao động đều chưa có lãi hoặc lỗ trong một số năm. đây là thời kỳ khó khăn nhất của liên doanh như phương thúc kinh doanh, việc quản lí hành chính , chi phí chung của lilên doanh ... Năm là: Xem xét các cán bộ mà doanh nghiệp cử tham gia Hội Đồng Quản Trị, các chức danh chủ chốt trong liên doanh đã nắm chắc hợp đồng liên doanh, điều lệ vông ty liên doanh , bản quy chế hoạt động công ty liên doanh,.. .Để bảo vệ quyền lợi của bên Việt Nam trong liên doanh cũng như có thể đóng góp để liên doanh ngày càng phát triển. Những cán bộ không đáp ứng được các yêu cầu trên cần được thay thế sớm. 1.2. Tuỳ từng hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp và lĩnh vực liên doanh (xây dựng, tư vấn, sản xuất nguyên vật liệu xây dựng...). Để đề ra các giải pháp thích hợp kể cả giải pháp tình thế. Có một thực tế là trừ một số rất ít các liên doanh có lãi ngay từ năm đầu sản xuất kinh doanh còn phần lớn các liên doanh đều chưa có lãi hoặc lỗ trong một số năm. Đây là thời kỳ khó khăn nhất buộc các liên doanh phải vượt qua để tồn tại và phát triển. Thời kỳ này các liên doanh rất cần sự quan tâm giúp đỡ của các Bộ, ngành liên quan và trước hết là nỗ lực của chính các bên tham gia liên doanh. 1.3. Cụ thể hoá và rõ ràng các văn bản dưới luật cho nhất quán và đồng bộ được thực hiện đúng tinh thần ở các cấp, các ngành và địa phương. Các ngành, các địa phương nhanh chóng ra các hướng dẫn, quyết định cụ thể hoá thể chế của Nhà nước ban hành theo yêu cầu. 1.4. Nâng cao chất lượng thị trường nhân công và giảm giá nhân công bằng cách nâng cao hiệu suất lao động chứ không phải là giảm lương của người lao động. 1.5. Sắp xếp lại các liên doanh để thích hợp với mô hình hợp tác quốc tế và nâng cao ý thức về tầm quan trọng cuả đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp liên doanh. 1.6. Xây dựng các danh mục dự án kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài cụ thể của mỗi đơn vị, mỗi địa phương, mỗi ngành phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, nhu cầu phát triển của ngành, của địa phương và hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Việc này xưa nay chúng ta vẫn làm nhưng còn thô sơ và chưa kết hợp tốt các yêu cầu trên. Vì vậy mà nên cụ thể hoá và cập nhật phát hành các danh mục trên để các doanh nghiệp nắm được. 1.7. Các doanh nghiệp liên doanh cần phải xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn của đơn vị mình. Trên cơ sở định hướng của ngành mỗi doanh nghiệp nhà nước cần xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn có những mục tiêu cụ thể, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển hàng năm để đạt được các mục tiêu đề ra bằng cách tập trung vào việc đổi mới công nghệ, tăng cường năng lực quản lý, sản xuất kinh doanh để đáp ứng đòi hỏi của thị trường trong nước và xuất khẩu trong các năm tới. Từ kế hoạch trên các doanh nghiệp sẽ xác định mỗi mặt mạnh, mặt yếu của đơn vị mình và đề ra các dự án cần triển khai gồm các dự án đầu tư chiều sâu, các dự án mới. Trong các dự án này cần cân nhắc các dự án mà doanh nghiệp đầu tư và dự án nào cần hợp tác liên doanh với nước ngoài. Riêng các dự án liên doanh với nước ngoài cần xác định các mục tiêu cụ thể sẽ đạt được và dự kiến được đối tác nước ngoài là những công ty và quốc gia nào. Kế hoạch phát triển dài hạn cần căn cứ vào yêu cầu thị trường để xem xét điều chỉnh khi cần thiết, từ đó để chuẩn xác tiến độ triển khai cũng như phương thức thực hiện các dự án đầu tư đã dự kiến trứơc đây. Đối với các dự án liên doanh với nước ngoài các doanh nghiệp cần: + Rà soát các liên doanh đã có để nắm lại quá trình đầu tư cũng như sản xuất kinh doanh của từng liên doanh. Trên cơ sở đó xác định liên doanh cần củng cố để phát triển và liên doanh nào không cần thiết cho doanh nghiệp để có biện pháp xử lý giải thể trước thời hạn hoặc chuyển nhượng cho đối tác khác. + Tiếp tục đề xuất các dự án liên doanh mới: Việc triển khai các dự án mới nhất thiết phải phân tích kỹ nhu cầu thị trường, khảo sát kỹ và dựa trên các số liệu tin cậy. Quá trình chuẩn bị dự án cần đặc biệt chú ý việc bồi dưỡng và bố trí lực lượng cán bộ thích hợp, có trình độ kỹ thuật, kinh tế, ngoại ngữ, ngoại thương, luật pháp,....cử cán bộ tham gia dự án ngay từ khi hình thành dự án và sau này ở khâu quản lý dự án. 2. Đối với các nguyên nhân khách quan - Các ngành, các địa phương nên phải có các bộ phận chuyên nghiên cứu phát triển kinh tế khu vực và thế giới ảnh hưởng đến lĩnh vực, địa phương của mình để có đối sách và những chương trình phát triển phù hợp chẳng hạn tham gia xây dựng các danh mục ưu tiên và loaị trừ để cho phép đầu tư 100% vốn nước ngoài ,giảm miễn thuế và các ưu tiên khác ... và lộ trình diễn biến của các điều kiện danh mục đó ...để đến lúc cơn khủng hoảng tài chính tiền tệ và kinh tế khu vực phục hồi thì ta vẫn nằm trong khối các nước hấp dẫn đầu tư nước ngoài trong khi đó các đơn vị thuộc bộ xây dựng vẫn tìm được các đối tác hợp lý cho liên doanh. - Vận dụng thích hợp chính sách bảo hộ mậu dịch và không nên coi bảo hộ mậu dịch là chính sách lâu dài trong môi trường hội nhập quốc tế ,nhưng cũng không nên tự do hoá hoàn toàn qúa sớm khi mà hàng hoá cúa các doanh nghiệp liên doanh sản xuất ra chưa đủ sức cạnh tranh vói hàng nhập khẩu từ bên ngoài .Tuy nhiên rtong giai đoạn chuẩn bị hội nhập chúng ta nên triệt để vận dụng chính sách bảo hộ mậu dịch nhưng không nên coi là biện pháp lâu dài vì nếu như vậy thì tự mình không xây dựng được khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường .Mà có cạnh tranh thì mới phát triển . - Hoà mình cùng xu thế chung của toàn thế giới nhưng chú ý rằng hoà nhập chứ không “hoà tan”. - Cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa Bộ kế hoạch và đầu tư là đầu mối với các Bộ chuyên ngành. Hớn nữa cần phải có quy định bắt buộc của Bộ kế hoạch và đầu tư về thời hạn các liên doanh đồng thời phải ban hành “bản quy chế hoạt động công ty liên doanh” mà nội dung bản quy chế này đã được đề cập ở trên. Việc điều chỉnh giấy phép đầu tư là cần thiết ở nhiều liên doanh do nhiều nguyên nhân: Thay đổi đối tác liên doanh, thay đổi địa điểm liên doanh, thay đổi vốn ngay trong quá trình đầu tư hoặc để phát triển sản xuất... Thực tế đã xảy ra việc điều chỉnh giấy phép đầu tư chỉ căn cứ vào đề nghị của công ty liên doanh mà không biết phía Việt Nam trong liên doanh có ý kiến ra sao và cũng không có ý nghĩa của Bộ quản lý ngành. Những việc này phải được khắc phục để tránh những phát sinh mâu thuẫn giữa hai bên tham gia liên doanh, do vậy phía nước ngoài không có cơ sở để lấn lướt bên Việt Nam và thao túng hoạt động của liên doanh. Theo quy định hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam không được dùng vốn vay Ngân hàng để góp liên doanh do vậy tỷ lệ góp vốn của phía Việt Nam thường rất thấp. Việc bảo lãnh các khoản vốn vay theo tỷ lệ vốn góp của bên Việt Nam với các khoản vay do bên nước ngoài thu xếp với các điều kiện được ngân hàng chấp thuận cũng gặp nhiều khó khăn về tài sản thế chấp của doanh nghiệp Việt Nam. Nguồn vốn góp và việc bảo lãnh là khó khăn chưa có lời giải chung của các doanh nghiệp Việt Nam khi liên doanh. Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định 10/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 về một số biện pháp khuyến khích và hoạt động FDI tại Việt Nam sau khiđã có Nghị định 12-CP ngày 18/2/1997 của Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Để khắc phục hậu quả giảm sút vốn liên doanh với nước ngoài do hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực. Tuy nhiên vẫn có nhiều khó khăn mà liên doanh gặp phải chưa được giải quyết. Vì vậy Bộ kế hoạch và đầu tư nên tiếp tục thường xuyên tổng hợp ý kiến của các liên doanh để trình Chính phủ giải quyết. Đồng thời Bộ xây dựng cần phải kết hợp chặt chẽ với Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ tài chính, Bộ khoa học công nghệ môi trường...để ra các quyết định đúng đắn xác thực đảm bảo thu hút nguồn vốn vào liên doanh và có hiệu quả cao. 3. Đối với các nguyên nhân khác * Thứ nhất: không nên cho phép thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và tư vấn xây dựng. Ngoài những quy định chung của nhà nước thì phía đối tác nước ngoài trong liên doanh phải đăng ký các chuyên gia hoạt động tại Việt Nam theo pháp luật. Bộ xây dựng và các cơ quan Bộ ban ngành có liên quan nên cử chuyên gia hoặc sử dụng các biện pháp để tìm hiểu kỹ về đối tác liên doanh của mình thông qua lĩnh vực mà họ hoạt động hoặc các công ty mẹ ở nước chủ nhà và các nước hay trụ sở trên thế giới, mặt khác nên quy định ràng buộc về khả năng tài chính, uy tín của đối tác nước ngoài trươc skhi tham gia liên doanh với ta nhưng tránh trường hợp qua khắt khe mà đôi khi lại bỏ qua các đối tác lớn. - Nên quản lý chặt chẽ các liên doanh với nước ngoài về hoạt động xây dựng và tư vấn xây dựng. Trường hợp xét đủ điều kiện về vốn và năng lực thì mới cho phép thành lậpc ác liên doanh, nhưng phải tuân thủ điều kiện nhằm bảo đảm hiệu quả trong kinh doanh và thuận lợi về mặt đào tạo và chuyển giao công nghệ cho phía Việt Nam. Tỷ lệ góp vốn của các đối tác nước ngoài không nên cho vượt quá 70% vốn pháp định. - Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sẽ trở thành pháp nhân Việt Nam cho nên các quy định về thành lập và hoạt động của họ cũng phải tuân thủ một số điều kiện bắt buộc như quy định đối với doanh nghiệp trong nước: Phải góp đủ vốn theo tiến độ nêu trong dự án khi xin phép thành lập, phải kê khai năng lực và lập hồ sơ đăng ký để được cấp chứng chỉ nanưg lực hoạt động theo đúng năng lực thực tế của mình. Các DNLD được quyền nhận thầu các công trình có vốn đầu tư trong nước để mở rộng thị trường, đảm bảo khả năng tồn tạiv à cạnh tranh nhất là trong điều kiện các công trình có vốn đầu tư nước ngoài bị thu hẹp. - Số lượng cán bộ chuyên môn kỹ thuật của đối tác nước ngoài trong các liên doanh dịch vụ xây dựng và tư vấn xây dựng không nên vượt quá 30% tổng số cán bộ chuyên môn kỹ thuật của liên doanh đó. - Chỉ có sự hoàn thiện về các điều kiện pháp lý nêu trên thì mới có thể bảo đảm sự ổn định thị trường trong nước, sự phát triển vững chắc của lực lượng xây dựng Việt Nam, nhằm tăng cường năng lực và khả năng cạnh tranh của các DNLD sản xuất về lĩnh vực xây dựng trên thị trường xây dựng quốc tế. - Cần xây dựng một “sân chơi” bình đẳng cho tất cả các liên doanh trong cùng với các doanh nghiệp trong nước. Các chế độ quản lý kế toán thị trường....cần phải thống nhất có như vậy mới đánh giá khách quan toàn diện các hoạt động của công ty. Nói như vậy nghĩa là các luật, các qui định, chế độ của Việt Nam, phải cần cải tiến sao cho phù hợp và tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế trong thời kỳ mới phù hợp với thông lệ quốc tế được các nhà đầu tư nước ngoài chấp nhận. - Cần tăng cường vai trò trách nhiệm của cán bộ được cử và liên doanh bằng các qui chế quản lý, chế độ thông tin báo cáo từ dưới lên trên, lên tổng công ty và chỉ đạo từ tổng công ty xuống bằng cơ chế trả lương.... - Để giảm suất đầu tư các bên liên doanh, đặc biệt là cần đấu tranh để tiết kiệm mọi chi phí trong quá trình xây dựng nhà máy và các chi phí khác trong quá trình sản xuất kinh doanh của DNLD - Bộ xây dựng và các Bộ ngành có liên quan nên xem xét và cho ý kiến để các doanh nghiệp phía Việt Nam tham gia liên doanh thực hiện nghiên cứu dự báo thị trường để xác định thị phần của dự án một cách xác thực, xác định các sản phẩm cần thiết sản xuất để từ đó xác định công suất thiết kế dự án liên doanh, thực hiện quá trình đầu tư tránh dàn trải, tránh tình trạng một số sản phẩm thừa lãng phí còn một số lại thiếu hụt và như vậy sẽ ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận ròng của dự án sẽ dẫn đến thua lỗ. Chính vì vậy mà phải nên liên doanh đúng lĩnh vực, đúng ngành nghề mà thị trường đang cần và sẽ cần sản phẩm của nó. - Nên mời hoặc thuê các chuyên gia kỹ thuật để xem xét đối tác liên doanh xem họ có thực sự có năng lực về lĩnh vực xây dựng, sản xuất nguyên vật liệu xây dựng, tư vấn xây dựng... hay không. Để từ đó quyết định lựa chọn đối tác nước ngoài cho phù hợp. * Thứ hai: Để giải quyết những vướng mắc với nhà đầu tư nước ngoài thì cần có một số điều kiện và giải pháp sau. - Các doanh nghiệp liên doanh cần kiến nghị tổng cục hải quan rà soát lại các qui định hiện hành, cải tiến các thủ tục theo hướng tạo điều kiện giải phóng nhanh chóng, tăng cường thanh tra, quản lý hoạt động của các hải quan cửa khẩu, siết chặt kỷ luật, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm của nhân viên hải quan. - Thể chế hoá các qui định pháp lý, kinh tế, đầu tư sang hình thức luật: tuy khung luật pháp về FDI đã khá đầy đủ nhưng để hoàn chỉnh nước ta cần chuyển đổi những qui định bằng các văn bản dưới luật sang hình thức luật để có giá trị pháp lý cao hơn nhất là đối với qui chế khu công nghiệp tập trung, qui chế xây dựng đô thị. Việc thể chế hoá sẽ đem lại niềm tin cho các nhà đầu tư về việc đỡ phải đối phó với việc thay đổi điều chỉnh quá nhiều về pháp lý kinh tế, đầu tư và trong điều kiện có thay đổi thì họ có thể yên tâm về bồi thường thiệt hại về những thay đổi qui định trong luật. - Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế: việc hoàn thiện hệ thống thuế một cách có hệ thống đặc biệt là thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng và hợp tác thuế quan với các nước ASEAN. Mở rộng hệ thống hiệp định thuế quan song phương, theo dõi và thực hiện tốt các hiệp định đã ký là phương thức tốt nhất để thúc đẩy hoạt động liên doanh với nước ngoài của Bộ xây dựng. - Cương quyết xử phạt các hoạt động trốn thuế: DNLD có nhiều cơ hội để thực hiện thủ đoạn trốn thuế như : nâng giá tài sản góp vốn, nâng giá nguyên vật liệu để giảm tích luỹ, giảm thuế lợi tức, hạ giá bán sản phẩm, đặc biệt giá bán nội bộ công ty đa quốc gia bán nguyên vật liệu đã được miễn thuế nhập khẩu ra thị trường nội địa trốn thuế, chuyển lợi nhuận về nước dưới dạng xuất khẩu sản phẩm để trốn thuế lợi nhuận hoặc chuyển đối tác mà thực chất là bán cổ phân. Các hoạt động kinh doanh như ủy thác mua bán của các văn phòng đại diện, các loại dịch vụ của các tổ chức nước ngoài không theo luật đầu tư nước ngoài dễ bị thất thu thuế. Không kê khai thu nhập để trốn thuế thu nhập, nhât là đối vơi các văn phòng đại diện, các DNLD hạch toán chi phí cao mà cán bộ chuyên quản chưa kiểm soát được. Quyết toán các chi phí cao bất hợp lý cũng thường xảy ra để giảm lợi tức chịu thuế cần phải được thu hồi cho ngân sách. - Qui định cụ thể và hạn chế miễn thuế nhập khẩu thiết bị vật tư: nên có các khoản khuyến khích sử dụng vật tư nguyên liệu và cả thiết bị sản xuất trong nước, các thiết bị kỹ thuật cao mới phải nhập khẩu và tiêu chuẩn công nghệ, máy móc, tình trạng sử dụng phải đựơc kiểm tra của các tổ chức tư vấn phải được kiểm tra chuyên ngành. Còn các thiết bị khác khuyến khích sử dụng trong nước để kích thích công nghiệp nặng, cơ khí chế tạo là mục tiêu công nghiệp hoá phải đi qua. - Cải cách thủ tục hành chính, hình thành cơ chế chính sách đồng bộ nhằm phát huy tiềm năng, hỗ trợ và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia thu hút vốn FDI - Cải cách thủ tục cấp giấy phép sử dụng đất cho các DNLD có chính sách đền bù thoả đáng để tránh tình trạng làm mất nhiều thời gian mất cơ hội đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. - Hoàn thiện thủ tục tuyển dụng lao động vào các doanh nghiệp liên doanh, chế độ trả lương cho công nhân một cách đồng bộ và phù hợp với thông lệ quốc tế. - Cụ thể hoá về giá cả của các nguyên liệu sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh của các DNLD như giá điện, giá nước... đúng tiến độ đáp ứng được nhu cầu sử dụng. - Xem xét xử lý và hoàn thiện công tác kiểm tra hoạt động của DNLD Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0042.doc
Tài liệu liên quan