Luận văn Quy trình kiểm toán chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán AASC thực hiện

Đối tượng kiểm toán là những nghiệp vụ cụ thể, những chứng từ cụ thể và thường được biểu hiện bằng số tiền cụ thể. Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên không thể soát xét và đối chiếu tất cả chứng từ kế toán hay các số dư của các tài khoản. Trong khi đó, chuẩn mực thận trọng lại không cho phép công tác kiểm toán bỏ qua những sai phạm trọng yếu để loại trừ những rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và giảm bớt rủi ro phát hiện. Do đó, trong thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên bắt buộc phải kiểm tra chọn mẫu. Có 2 phương pháp chọn mẫu là chọn mẫu xác suất và chọn mẫu phi xác suất. Sử dụng phương pháp chọn mẫu như hiện nay của AASC là chọn tất cả các khoản mục phát sinh có quy mô lớn, cách chọn mẫu này thì sẽ bảo đảm là không còn tồn tại bất kỳ sai phạm trọng yếu nào. Tuy nhiên nếu trong trường hợp sai phạm tồn tại dưới dạng quy mô nhỏ và phân bố đều cho các khoản mục thì kiểm toán viên phải sử dụng phương pháp chọn mẫu khác sao cho có tính đại diện cao hơn, cụ thể là phương pháp chọn mẫu xác suất. Kiến nghị Công ty là nên dùng song song 2 phương pháp chọn mẫu để có thể đảm bảo rủi ro phát hiện ở mức thấp nhất.

doc92 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1527 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quy trình kiểm toán chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán AASC thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g việc sau: { Phân tích tổng quát về Báo tổng hợp chi phí: Kiểm toán viên lập Bảng tổng hợp chi phí trong đó có cột năm trước và năm nay, sau đó thực hiện tính toán số biến động giữa năm trước và năm nay và tìm hiểu nguyên nhân. Bảng tổng hợp chi phí trang 64. Thực hiện phân tích sơ bộ Bảng tổng hợp chi phí hoạt động, kiểm toán viên phát hiện rất nhiều các biến động. Trước khối lượng các biến động lớn như vậy, kiểm toán viên không thể thực hiện ngay các bước kiểm tra chi tiết, vì khách hàng này quy mô rất lớn, số lượng các nghiệp vụ phát sinh nhiều. Thông thường bước công việc đầu tiên kiểm toán viên làm là thực hiện phỏng vấn kế toán viên để tìm hiểu nguyên nhân, thì được biết: Về chi phí dịch vụ thuê ngoài: trước đây công ty thuê lái xe trả lương tháng nay chuyển một phần sang thuê ngoài (ký hợp đồng với công ty vận tải) để phục vụ cho việc đưa đón công nhân. Chi phí vận chuyển hàng bán chịu ảnh hưởng của việc bán hàng trong nước và ngoài nước theo giá FOP hay CIF. Phí thành viên: phí đóng góp cho Ban giám đốc tham gia một số hiệp hội. Phí hàng mẫu: khoản phí này phát sinh là do gửi hàng mẫu cho khách hàng. Chi phí đào tạo nhân viên: trong năm 2002 công ty có gửi cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài. Các khoản chi khác cho nhân viên năm nay cao hơn năm trước vì năm 2002 tạm tính dự phòng về thuế thu nhập cá nhân cho nhân viên nước ngoài với số tiền 151.739,42USD và một số được tăng lương. Sau khi thu thập được các thông tin ban đầu về nguyên nhân biến động, kiểm toán viên sẽ tiếp tục làm rõ hơn bằng các thủ tục kiểm toán bổ sung. Kiểm toán viên sẽ xác nhận độ tin cậy của các thông tin mà kế toán viên đưa ra bằng cách yêu cầu cung cấp các chứng từ chứng minh như hợp đồng thuê xe đưa đón công nhân, thẻ hội viên Câu lạc bộ của Ban giám đốc,.. Tiếp theo, kiểm toán viên sẽ chọn mẫu một số khoản mục để kiểm tra chi tiết. Nếu có nghi ngờ về rủi ro của các biến động này thì số mẫu kiểm tra chi tiết sẽ càng cao. Do đánh giá ban đầu là hệ thống kiểm soát hoạt động hiệu quả và có thể sử dụng tư liệu của kiểm toán viên nội bộ nên kiểm toán viên chỉ kiểm tra chi tiết chi phí tiền lương, chi phí vận chuyển và chi phí hoa hồng. Sau đây trích trình tự các thủ tục kiểm toán chi tiết áp dụng đối với khoản mục chi phí vận chuyển hàng bán. { Kiểm tra tổng hợp chi phí vận chuyển Tên khách hàng: PEN Niên độ kế toán: 31/12/2002 Bước công việc: thực hiện thủ tục phân tích Người thực hiện: Hà Ngày thực hiện: 03/02/03 Bảng tổng hợp chi phí theo tháng 1 133.317,96 2 70.806,63 3 98.171,18 4 101.801,48 5 108.801,02 6 92.897,17 7 114.196,33 8 126.533,37 9 99.765,00 10 114.924,27 11 112.200,09 12 80.755,09 Cộng 1.283.667,38(f) f: cộng dọc đúng Nhận xét: - Chi phí các tháng biến động lớn phụ thuộc nhiều vào lượng hàng bán ra (xuất khẩu). - Thực hiện kiểm tra chi tiết các tháng: 1, 5, 10, 12. - Tổng số mẫu phải kiểm tra là 467.296,13 chiếm 36.4% tổng chi phí hoạt động phát sinh. - Kiểm tra chứng từ tháng 1/03 để xem việc chia cắt niên độ. Kiểm toán viên thực hiện thủ tục phân tích sơ bộ, xem xét biến động qua các tháng của chi phí vận chuyển hàng bán, thấy chi phí giữa các tháng có biến động và đã giải thích được nguyên nhân biến động là do chi phí vận chuyển phụ thuộc vào lượng hàng xuất khẩu trong tháng. Bước phân tích sơ bộ này còn giúp kiểm toán viên xác định được các khoản mục cần kiểm tra chi tiết. { Thực hiện thủ tục phân tích đối với chi phí vận chuyển hàng bán Tên khách hàng: PEN Niên độ kế toán: 31/12/2002 Bước công việc: thực hiện thủ tục phân tích Người thực hiện: Hà Ngày thực hiện: 03/02/03 - Theo Sổ Cái chi tiết chi phí vận chuyển phát sinh là 1.247.994,14 USD cho cả vận chuyển trong và ngoài nước. Cụ thể: Vận chuyển bằng đường biển: 616.163,85 USD Vận chuyển bằng đường bộ: 201.629,91 USD Hà Nội – TP Hồ Chí Minh: 20.476,78 USD TP Hồ Chí Minh – Hà Nội: 409.733,60 USD Như vậy chi phí vận chuyển ra nước ngoài chiếm 65,528%, trong nước là 34,472%. - Theo sổ chi tiết Tài khoản doanh thu thì: Tổng doanh thu hàng xuất khẩu là: 65.123.965,9 USD Doanh thu hàng bán nội địa: 34.247.502,68 USD Tổng: 99.371.468,9 USD % doanh thu xuất khẩu là: 65,54% và doanh thu nội địa là 34,46%. Năm 2001: tỷ lệ giá trị hàng xuất khẩu trên doanh thu bán hàng là 75.104.167,5 = 72,33% 103.828.658,28 Tỷ lệ này ở năm 2002 là 65.123.965,9 = 65% 99.371.468,58 Kết luận: Chi phí vận tải biến động phụ thuộc vào doanh thu bán hàng. Lượng hàng xuất khẩu năm 2002 giảm nên chi phí vận chuyển giảm theo. Bước thực hiện các thủ tục phân tích này là để xác minh lại nhận định ban đầu là chi phí vận chuyển thay đổi theo doanh thu bán hàng trong kỳ. Sau khi thực hiện xong thủ tục phân tích này, kiểm toán viên khẳng định tính hợp lý của sự biến động chi phí vận chuyển hàng bán. { Kiểm tra chi tiết các hợp đồng vận chuyển Sau khi thực hiện thủ tục phân tích để tìm sự giải thích tính hợp lý cho việc biến động của chi phí vận chuyển, kiểm toán viên thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết các hợp đồng vận chuyển để kiểm tra tính đúng đắn của nghiệp vụ phát sinh. Trích giấy tờ làm việc của kiểm toán viên khi thực hiện kiểm tra hợp đồng. hợp đồng vận chuyển { Kiểm tra chi tiết sổ sách kế toán Bước tiếp theo kiểm toán viên thực hiện chọn mẫu một số nghiệp vụ phát sinh trên sổ chi tiết để kiểm tra và đối chiếu với chứng từ gốc. Tên khách hàng: PEN Niên độ kế toán: 31/12/2002 Bước công việc: kiểm tra chi tiết Người thực hiện: Hà Ngày thực hiện: 03/02/02 Trích Bảng kê chi tiết các nghiệp vụ phát sinh: đơn vị: USD Ngày Số tiền Diễn giải Ghi chú 01/01/02 2.132,85 Vận chuyển hàng hoá xuất khẩu ỹ 07/01/02 9.000 Phí vận chuyển hàng hoá ỹ 05/01/02 470,51 Vận chuyển hàng mẫu cho khách hàng ỹ 10/05/02 20.074,85 Vận chuyển hàng vào TP Hồ Chí Minh ỹ 17/05/02 52.650,15 Vận chuyển hàng hoá xuất khẩu, đường biển ỹ ….. 01/01/03 32.832 Vận chuyển hàng xuất khẩu- CIF ỷ Phỏng vấn kế toán viên về việc quản lý và hạch toán các khoản phí này thì được biết cơ sở để ghi nhận là dựa vào các phiếu chi có đầy đủ chữ ký của Ban giám đốc và kế toán và Báo cáo chi phí vận chuyển hàng xuất khẩu do kế toán bán hàng lập (dựa vào các hợp đồng vận chuyển, hoá đơn tài chính) ỹ: đã kiểm tra chứng từ, khớp đúng với các chứng từ kế toán, các hợp đồng và các bảng tổng hợp chi phí chi tiết theo từng tiểu khoản. ỷ: các chi phí hạch toán vào tháng 1/03 đều là hàng hoá bán ra trong năm 2003, không có các chi phí vận chuyển của năm 2002. Sau khi hoàn thành các bước kiểm tra chi tiết, kiểm toán viên tiến hành tập hợp số liệu và điều chỉnh. Việc kiểm tra chi tiết các khoản mục chi phí hoạt động của PEN, không phát hiện được sai sót nào, Báo cáo chi phí được lập phản ánh trung thực, hợp lý thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty. So sánh quy trình kiểm toán chi phí hoạt động do AASC thực hiện tại ABC và PEN Về giai đoạn lập kế hoạch Đặc điểm chung về khách hàng: ABC là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ, quy mô vốn không cao, phí kiểm toán thấp. PEN là một doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá bán trong nước và cả xuất khẩu, vốn hoạt động lớn, phí kiểm toán cao. AASC thực hiện kiểm toán cho PEN cùng với một Công ty kiểm toán độc lập khác là Công ty Ernst & Young. Chế độ kế toán áp dụng: ABC áp dụng chế độ kế toán doanh nghiệp hiện hành của Việt Nam và các thông tư sửa đổi, bổ sung. PEN đăng ký áp dụng chế độ kế toán giành cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đặc điểm trong hạch toán chi phí hoạt động: ABC sử dụng hệ thống tài khoản cũng như hệ thống sổ sách theo hướng dẫn của Bộ Tài chính. PEN sử dụng hệ thống sổ sách kế toán chủ yếu là tự thiết kế tuy nhiên đầy đủ, khoa học và hợp lý, không hạch toán riêng biệt chi phí bán hàng và chi phí quản lý mà hạch toán chung vào một sổ có chi tiết theo từng tiểu khoản và bộ phận sử dụng. Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ và trọng yếu, rủi ro: Hệ thống kiểm soát nội bộ của ABC hoạt động trung bình, không có bộ phận kiểm toán nội bộ. Rủi ro cũng được đánh giá ở mức trung bình. PEN được đánh giá là hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động hiệu quả, có thể sử dụng tư liệu của kiểm toán viên nội bộ, mức rủi ro đánh giá là thấp. Mức trọng yếu được xác định dựa vào lợi nhuận trước thuế. Đặc điểm giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán Đối với ABC, các phần hành công việc được thực hiện dựa vào sự hiểu biết của kiểm toán viên về khách hàng trong các cuộc kiểm toán trước và theo sự hướng dẫn của chủ nhiệm kiểm toán và chương trình kiểm toán của công ty. Trong quá trình thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên phụ trách phần hành nào thì tự thu thập thêm thông tin, cập nhật các thay đổi (nếu có) để công việc kiểm toán được thực hiện dễ dàng hơn đồng thời để thay đổi một số giai đoạn trong quá trình thực hiện. Đối với PEN, do bản chất kinh doanh của khách hàng và khối lượng công việc lớn nên kiểm toán viên lập kế hoạch kiểm toán tổng quát đầy đủ để đảm bảo hoàn thành công việc trong phạm vi thời gian và phí kiểm toán cho phép. Việc lập kế hoạch kiểm toán cho PEN được tiến hành theo đúng phương pháp tiếp cận kiểm toán của AASC đó là bố trí nhân viên đến trụ sở khách hàng để tìm hiểu các thông tin trước khi thực hiện kiểm toán, xem xét hoạt động kinh doanh và chiến lược kinh doanh của khách hàng, thực hiện phỏng vấn các thành viên trong Ban giám đốc cũng như một số nhân viên kế toán để xác định vùng trọng tâm cần bố trí nhiều nhân lực. Sau đó đưa ra mức đánh giá ban đầu về hệ thống kiểm soát nội bộ và mức rủi ro có thể chấp nhận được. Về giai đoạn thực hiện kế hoạch Giai đoạn thực hiện kế hoạch áp dụng tại hai khách hàng trên về cơ bản là khác nhau. Tại ABC, kiểm toán viên chú trọng kiểm tra chi tiết, ít thực hiện các thủ tục phân tích, không thực hiện thử nghiệm kiểm soát. Khi kiểm toán tại ABC, kiểm toán viên chủ yếu kiểm tra tất cả chứng từ, chẳng hạn với chi phí marketing và nghiệp vụ phân bổ chi phí trả trước vào chi phí bán hàng được kiểm toán viên kiểm tra chi tiết 100% quy mô mẫu. Còn các khoản mục chi phí khác, kiểm toán viên đối chiếu chứng từ của tất cả các nghiệp vụ có quy mô lớn. Trong khi đó khi thực hiện kiểm toán cho PEN là một công ty có hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động hiệu quả, thì kiểm toán viên sử dụng thông tin do kiểm toán nội bộ cung cấp. Kiểm toán viên tập trung vào thực hiện thủ tục phân tích tính hợp lý của các số phát sinh và thực hiện kiểm tra chi tiết hơn 30% quy mô mẫu. Về thực hiện thủ tục phân tích đối với ABC, kiểm toán viên sử dụng kỹ thuật so sánh, đối chiếu để tìm ra biến động giữa các kỳ, sau đó tìm hiểu nguyên nhân của biến động thông qua phỏng vấn nhân viên kế toán. Trong khi đó thủ tục phân tích sử dụng khi kiểm toán cho PEN là thực hiện so sánh, đối chiếu giữa các kỳ có kết hợp với chỉ tiêu doanh thu. Về thực hiện kiểm tra chi tiết, kiểm toán viên thực hiện kiểm tra 100% các khoản mục chi phí hoạt động cho ABC, còn với PEN kiểm toán viên chỉ chọn một số khoản mục chi phí như tiền lương, chi phí vận chuyển và chi phí hoa hồng để kiểm tra chứng từ. Đối với việc thực hiện hạch toán chi phí hoạt động của ABC kiểm toán viên đã gặp phải các trường hợp hạch chi phí marketing mà không có chứng từ gốc và kiểm toán viên đã đưa vấn đề này vào thư quản lý. Còn PEN kiểm toán viên đưa ra ý kiến là việc hạch toán chi phí hoạt động tại PEN là hoàn toàn trung thực và hợp lý. Sau đây là mô hình tổng quát nhất về quy trình kiểm toán chi phí hoạt động trong kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty AASC thực hiện: Lập kế hoạch kiểm toán - Thu thập thông tin về hoạt động của khách hàng và những thay đổi trong năm kiểm toán. - Tìm hiểu về Hệ thống kế toán và Hệ thống kiểm soát nội bộ. - Đánh giá trọng yếu và rủi ro. - Xác định phương pháp kiểm toán đối với từng khoản mục. Thực hiện kiểm toán chi phí hoạt động Kiểm tra chứng từ Kiểm toán chi phí bán hàng Kiểm toán chi phí quản lý doanh nghiệp Thực hiện thủ tục phân tích Thực hiện kiểm tra chi tiết Kiểm tra các đối ứng bất thường Kiểm tra chứng từ Thực hiện thủ tục phân tích Thực hiện kiểm tra chi tiết Kiểm tra các đối ứng bất thường Tập hợp số liệu, xem xét các phát hiện kiểm toán Họp tổng kết, thống nhất số liệu kiểm toán Phát hành Báo cáo kiểm toán và Thư quản lý Nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình kiểm toán chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty AASC thực hiện Nhận xét chung về quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty AASC thực hiện Nhận xét chung về quy trình kiểm toán của AASC Sau hơn 10 năm cung cấp dịch vụ kiểm toán, Công ty dịch vụ tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC) đã xây dựng được một quy trình kiểm toán hiệu quả với đầy đủ các chương trình, thủ tục cần thiết, đảm bảo cho các kiểm toán viên một mức độ hợp lý để có thể đưa ra ý kiến về tính trung thực, hợp lý của các thông tin được trình bày trên Báo cáo tài chính của khách hàng. Sau đây là những nhận xét khái quát về quy trình kiểm toán chung do Công ty dịch vụ tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán: Về giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán Hiện nay AASC đã thiết kế các thủ tục kiểm toán cần thực hiện trong giai đoạn lập kế hoạch rất đầy đủ, theo đúng các quy định trong Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam. Đồng thời AASC cũng không ngừng hoàn thiện các thủ tục này. Mẫu kế hoạch chiến lược và kế hoạch kiểm toán tổng thể của AASC được thiết kế dựa trên quy định của chuẩn mực và áp dụng thống nhất trong toán Công ty. Tuy nhiên việc lập kế hoạch kiểm toán tổng thể chưa được thực hiện cho tất cả các cuộc kiểm toán, Công ty chỉ thực hiện lập kế hoạch kiểm toán tổng thể cho cuộc Kiểm toán Báo cáo tài chính của các khách hàng có quy mô lớn và phí kiểm toán cao. Tất cả các công việc cần thực hiện trong quá trình lập kế hoạch như đánh giá rủi ro, trọng yếu hay đánh giá chung về hệ thống kiểm soát nội bộ đều do chủ nhiệm kiểm toán thực hiện và phân công công việc cho các thành viên trong nhóm kiểm toán. Mặc dù vậy chương trình kiểm toán của AASC được lập cho các khoản mục rất chi tiết, cụ thể, do đó có thể đem lại sự bảo đảm hợp lý cho các ý kiến mà kiểm toán viên đưa ra. Về đánh giá trọng yếu và rủi ro Quy trình đánh giá mức trọng yếu của AASC được xây dựng dựa vào các chỉ tiêu như doanh thu, lợi nhuận, tổng tài sản. Việc xác định mức trọng yếu cho từng khách hàng cụ thể được thực hiện theo quy định chung của công ty. Tuy nhiên quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán cho từng khách hàng lại phụ thuộc chủ yếu vào kinh nghiệm của kiểm toán viên, Công ty chưa hoàn thiện quy định cụ thể hướng dẫn nhân viên về đánh giá rủi ro. Trong quá trình đánh giá rủi ro kiểm toán cho từng khách hàng, kiểm toán viên chỉ thực hiện đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát mà chưa thực hiện ước tính mức rủi ro kiểm toán để từ đó tính toán ra mức rủi ro phát hiện. Về đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ Tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng có liên quan đến quy mô, phạm vi và thời gian của một cuộc kiểm toán. Chuẩn mực kiểm toán Việt nam số 400 quy định, kiểm toán viên phải hiểu biết đầy đủ về hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng. Hiện nay Công ty AASC đã thiết kế Bảng câu hỏi đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ và không ngừng hoàn thiện Bảng các câu hỏi này trong quá trình thực hiện kiểm toán. Phương pháp này có ưu điểm là được lập sẵn nên kiểm toán viên có thể tiến hành nhanh chóng và không bỏ sót các vấn đề quan trọng. Đồng thời nó cũng giúp kiểm toán viên dễ dàng thấy được nhược điểm của hệ thống thông qua các câu trả lời không. Nhưng vì các câu hỏi được thiết kế chung nên có thể không phù hợp với mọi loại hình doanh nghiệp. Về việc thực hiện thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán Thủ tục phân tích trong Kiểm toán Báo cáo tài chính được sử dụng trong tất cả các giai đoạn của cuộc kiểm toán để có được sự đánh giá tổng quát nhất về tính hợp lý của Báo cáo tài chính. Thủ tục này là một trong những thủ tục kiểm toán quan trọng, ít tốn kém thời gian nhưng lại tìm ra được bằng chứng kiểm toán tổng quát nhất phục vụ cho việc xác định quy mô, phạm vi công việc và thời gian thực hiện. Trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán, việc thực hiện các thủ tục phân tích sơ bộ là để xác định vùng trọng yếu qua đó việc thực hiện kiểm toán tập trung vào vùng trọng yếu nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí của cuộc kiểm toán. Thực tế kiểm toán tại AASC cho thấy thủ tục phân tích được các kiểm toán viên chú trọng là so sánh giữa kỳ này với kỳ trước để phân tích biến động chung của khoản mục dựa vào bảng cân đối kế toán của khách hàng mà chưa sử dụng nhiều các thông tin phi tài chính. Do đó chưa thấy được mối quan hệ giữa các khoản mục và ảnh hưởng của biến động đó tới các chỉ tiêu khác liên quan. Về giai đoạn thực hiện kiểm toán Trên cơ sở kế hoạch kiểm toán đã lập, chủ nhiệm kiểm toán phân công công việc cho các kiểm toán viên và trợ lý kiểm toán theo các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Việc thực hiện kiểm toán được tiến hành kiểm tra chi tiết một cách toàn diện. Mặc dù phương pháp tiếp cận kiểm toán của AASC là theo khoản mục tuy nhiên trong quá trình kiểm toán các kiểm toán viên phụ trách các khoản mục có liên quan vẫn thảo luận, đối chiếu và sử dụng kết quả kiểm tra của nhau nhằm tiết kiệm thời gian và nâng cao chất lượng cuộc kiểm toán. Về chọn mẫu trong quá trình kiểm tra chi tiết Trong hầu hết các cuộc kiểm toán thì kiểm toán viên đều phải chọn mẫu kiểm toán sao cho phù hợp với bản chất của cuộc kiểm toán và phí kiểm toán thu được. Tại AASC phương pháp chọn mẫu được sử dụng chủ yếu là dựa vào xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên và chọn mẫu theo quy mô nghiệp vụ, cụ thể là chọn mẫu theo phương pháp số lớn, đây thuộc loại chọn mẫu phi xác suất. Với phương pháp chọn mẫu này, có thể đảm bảo là không còn sai phạm trọng yếu trên Báo cáo tài chính. Tuy nhiên có thể các sai phạm quy mô nhỏ, không trọng yếu thì bị bỏ qua. Về thực hiện thủ tục phân tích trong quá trình thực hiện kiểm toán Như trên đã trình bày, thủ tục phân tích là một trong những thủ tục kiểm toán quan trọng, ít tốn kém, giúp kiểm toán viên thu thập bằng chứng một cách nhanh nhất để đưa ra kết luận kiểm toán. Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, việc thực hiện các thủ tục phân tích giúp kiểm toán viên giảm bớt rủi ro phát hiện liên quan đến cơ sở dẫn liệu của Báo cáo tài chính đồng thời giúp kiểm toán viên thu hẹp quy mô mẫu kiểm tra chi tiết. Tại AASC trong quá trình thực hiện kiểm toán, thủ tục phân tích được các kiểm toán viên thực hiện đối với tất cả các cuộc kiểm toán tuy nhiên trong một số trường hợp lại không được thể hiện trên giấy tờ làm việc, chẳng hạn như Hồ sơ kiểm toán về khách hàng ABC trong chuyên đề đã đề cập đến. Về giai đoạn kết thúc kiểm toán Giai đoạn kết thúc kiểm toán bao gồm thực hiện các công việc như: lấy giải trình của Ban giám đốc, xem xét các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc niên độ, xem xét tính liên tục hoạt động, xem xét các khoản nợ ngoài dự kiến… các thủ tục này chỉ được kiểm toán viên thực hiện đầy đủ đối với các cuộc kiểm toán mà theo đánh giá ban đầu là rủi ro cao. Ngoài ra công việc chủ yếu trong giai đoạn kết thúc kiểm toán là trưởng nhóm kiểm toán tổng hợp, soát xét công việc của các kiểm toán viên và trợ lý kiểm toán, đánh giá tính hợp lý của các bằng chứng. Từ đó đưa ra ý kiến về Báo cáo tài chính và phát hành Báo cáo kiểm toán và Thư quản lý. Nhận xét về quy trình kiểm toán chi phí hoạt động trong kiểm toán Báo cáo tài chính do AASC thực hiện Chi phí hoạt động nói chung thường bao gồm những khoản mục chi phí đơn giản do đó khi thực hiện kiểm toán công việc được tiến hành cũng tương đối đơn giản. Tuy nhiên trong một số công ty hay tập đoàn lớn, công ty thương mại hay công ty cung cấp các dịch vụ thì khoản chi phí hoạt động đặc biệt là chi phí bán hàng phát sinh rất lớn và là chi phí chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp này. Do đó trong quá trình thực hiện kiểm toán, quy trình kiểm toán chi phí hoạt động phải xây dựng sao cho có thể phát hiện được tất cả các sai sót trọng yếu để giảm thiểu rủi ro cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán. Về kế hoạch kiểm toán chi phí hoạt động, hiện tại AASC chưa thiết kế hoàn thiện các thủ tục cần thực hiện trong giai đoạn thực hiện kế hoạch. Công ty đã thực hiện tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ áp dụng đối với chi phí hoạt động thông qua Bảng câu hỏi. Tuy nhiên Công ty chưa hoàn tất các thủ tục đánh giá rủi ro đối với khoản mục này. Ngoài ra Công ty không thực hiện phân bổ mức trọng yếu cho khoản mục này. Do đó nếu có chênh lệch kiểm toán thì sẽ gây khó khăn cho kiểm toán viên trong việc quyết định có nên điều chỉnh hay không. Chương trình kiểm toán của Công ty AASC được thiết kế phù hợp và hiệu quả, có thể áp dụng đối với bất kỳ khách hàng hoạt động theo loại hình kinh doanh nào. Tuy vậy, việc áp dụng các thủ tục phân tích trong thực hiện kiểm toán của Công ty AASC vẫn ít được sử dụng, công tác chọn mẫu kiểm toán vẫn phụ thuộc nhiều vào xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên. Giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình kiểm toán chi phí hoạt động trong kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty AASC thực hiện Sự cần thiết phải hoàn thiện quy trình kiểm toán Trước sự cạnh tranh của thị trường, các Công ty không thể đứng vững nếu thiếu các biện pháp nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, dịch vụ. Công ty kiểm toán AASC cũng không nằm ngoài số đó. Hiện nay số lượng các công ty cung cấp dịch vụ kiểm toán trên thị trường Việt Nam chưa nhiều, mỗi công ty đều chiếm một ưu thế nhất định. Tuy nhiên trong tương lai không xa, các công ty kiểm toán trong khu vực Đông Nam á sẽ vào Việt Nam với thế mạnh là cung cấp dịch vụ với giá phí thấp. Khi đó không những AASC mà các công ty kiểm toán của Việt Nam sẽ phải đối mặt với các đối thủ mạnh. Và để tiếp tục đứng vững trên thị trường, duy trì được lòng tin của khách hàng vào chất lượng dịch vụ do Công ty cung cấp. AASC phải không ngừng hoàn thiện quy trình kiểm toán của mình, đơn giản hoá các thủ tục kiểm toán, giảm thiểu tối đa khâu kiểm tra chi tiết. Để góp phần vào công cuộc hoàn thiện quy trình kiểm toán của AASC em xin đề xuất một số kiến nghị. Các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình kiểm toán chung của AASC Để ngày càng lớn mạnh và cung cấp được nhiều dịch vụ hơn cho đông đảo khách hàng, AASC không ngừng hoàn thiện quy trình kiểm toán, phương pháp kiểm toán cũng như các thủ tục áp dụng để đánh giá về hệ thống kiểm soát nội bộ, đánh giá rủi ro và trọng yếu cho mỗi khách hàng. Hoàn thiện quy trình đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 quy định Kiểm toán viên phải có đủ hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng để lập kế hoạch kiểm toán tổng thể và chương trình kiểm toán thích hợp, có hiệu quả. Quả thực đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ là một bước công việc quan trọng để xác định quy mô, thời gian và các thủ tục áp dụng trong một cuộc kiểm toán. Do đó một điều thực sự quan trọng và cần thiết là phải hoàn thiện quy trình đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ. AASC đã xây dựng một quy trình đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ dựa vào Bảng câu hỏi. Tuy nhiên với Bảng câu hỏi đó, kiểm toán viên chỉ có thể thấy được sự hiện hữu của các thủ tục kiểm soát mà chưa đưa ra được kết luận là các thủ tục kiểm soát đó hoạt động có hiệu quả hay không. Sau đây xin đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện hơn quy trình này. Quy trình đánh giá Hệ thống kiểm soát nội bộ được tiến hành qua 4 bước: Thu thập thông tin về hệ thống kiểm soát nội bộ và mô tả chi tiết hệ thống kiểm soát nội bộ trên các giấy làm việc. Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát để lập kế hoạch cho từng khoản mục. Thực hiện các thử nghiệm kiểm soát. Lập bảng đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ. Quy trình đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ hiện nay của AASC chỉ dừng lại ở khâu đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát mà chưa thực hiện các thử nghiệm kiểm soát. Quy trình trên được thiết kế để đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của một mô hình doanh nghiệp có hệ thống kiểm soát hoạt động hiệu quả. Kiểm toán viên sẽ thực hiện các thử nghiệm kiểm soát nhằm thu thập bằng chứng về sự hữu hiệu của các quy chế nội bộ và thủ tục kiểm soát của khách hàng để giảm bớt các thử nghiệm cơ bản trên số dư và nghiệp vụ, qua đó có thể tiết kiệm được giá phí kiểm toán. Tuy nhiên trong trường hợp hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng theo đánh giá ban đầu là kém hiệu quả thì kiểm toán viên không nhất thiết phải thực hiện các thử nghiệm kiểm soát mà thực hiện ngay các thử nghiệm cơ bản. { Hoàn thiện cách thức mô tả chi tiết hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng trên giấy làm việc Kiểm toán viên cũng phải ghi chép và lưu lại trong hồ sơ kiểm toán những thông tin thu được trong việc tìm hiểu hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán; những nhận xét và đánh giá về rủi ro kiểm soát của kiểm toán viên. Ngoài ra kiểm toán viên cũng phải ghi chép và lưu lại các tài liệu làm cơ sở cho việc đánh giá này. Kiểm toán viên có quyền lựa chọn các phương pháp khác nhau để lưu trữ thông tin liên quan đến hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ. Hình thức và phạm vi lưu trữ tài liệu về đánh giá rủi ro kiểm soát tuỳ thuộc vào quy mô và tính chất phức tạp, hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị. Theo đó để mô tả sự hiểu biết của mình về hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng, kiểm toán viên có thể sử dụng một trong các cách sau: Bảng câu hỏi về hệ thống kiểm soát nội bộ, phương pháp lưu đồ, phương pháp lập Bản tường thuật. Hiện tại cách thức chính mà các kiểm toán viên AASC sử dụng để ghi chép các thông tin thu thập được về hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng là dựa vào những thông tin đã thu thập được thông qua Bảng câu hỏi, kiểm toán viên tường thuật lại trên giấy làm việc. Đây là một cách thức phổ biến, thông qua bảng tường thuật kiểm toán viên có thể phân tích thêm về cơ cấu kiểm soát giúp kiểm toán viên hiểu biết đầy đủ hơn về hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng. Tuy nhiên trong một số trường hợp, nếu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng phức tạp thì sử dụng cách vẽ lưu đồ là rất tiện lợi. Lưu đồ là sự trình bày toàn bộ các quá trình kiểm soát áp dụng cũng như mô tả các chứng từ, tài liệu kế toán cùng quá trình vận động và luân chuyển của chúng bằng các kí hiệu và biểu đồ. Sử dụng lưu đồ này giúp kiểm toán viên nhận xét chính xác hơn về các thủ tục kiểm soát áp dụng đối với các hoạt động và dễ dàng nhận ra các điểm mạnh, điểm yếu của hệ thống. { Hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro kiểm soát Hệ thống câu hỏi mà AASC đang áp dụng để đánh giá rủi ro kiểm soát bao gồm đầy đủ các câu hỏi chung về hệ thống kế toán, hệ thống các câu hỏi về quy chế nội bộ và hệ thống câu hỏi cho các phần hành cụ thể. Để góp phần hoàn thiện hơn Bảng câu hỏi này, xin đề xuất thêm các câu hỏi sau để đánh giá rủi ro kiểm toán và môi trường kiểm soát: Bảng câu hỏi về đánh giá rủi ro kiểm toán và môi trường kiểm soát Các câu hỏi Rủi ro kiểm soát Môi trường kiểm soát Có vấn đề nào cần chú ý Tham chiếu 1. Có lý do nào cần phải đặt câu hỏi đối với quan điểm và tính chính trực của ban quản trị cũng như có thể tin tưởng vào những thông tin mà họ cung cấp không? 2. Có lý do nào để băn khoăn với những cam kết về sự hợp lý và chính xác của báo cáo tài chính? 3. Có lý do nào để băn khoăn với những cam kết của ban quản trị để thiết lập và duy trì hệ thống thông tin kế toán đáng tin cậy hay một hệ thống kiểm soát nội bộ đáng tin cậy? 4. Cơ cấu tổ chức có bất hợp lý với quy mô và hình thức kinh doanh hay không? 5. Quá trình kiểm soát quản lý có bất hợp lý không và có lý do nào để băn khoăn về khả năng của ban quản trị trong việc giám sát và điều hành hoạt động có hiệu quả cũng như phân công phân nhiệm không? 6. Phương pháp phân quyền hạn và trách nhiệm có bất hợp lý với quy mô và hình thức kinh doanh hay không? 7. Có lý do nào để băn khoăn về phương pháp quản lý lãnh đạo hay không? 8. Hình thức và phạm vi sử dụng máy tính có bất hợp lý với quy mô và hình thức kinh doanh hay không? 9. Ban giám đốc và nhóm kiểm toán nội bộ của đơn vị có bất hợp lý với quy mô và hình thức kinh doanh hay không? 10. Có lý do nào để băn khoăn với hình thức kinh doanh của đơn vị không? 11. Có những ảnh hưởng bên ngoài nào trong môi trường kinh doanh tác động đến hoạt động và khả năng tiếp tục kinh doanh của đơn vị hay không? 12. Ban quản trị có chịu áp lực nào trong việc đưa ra kết quả tài chính cụ thể hay không? 13. Có nhân tố nào tồn tại chứng tỏ khả năng đơn vị không thể tiếp tục hoạt động trong thời gian tới hay không? 14. Có lý do nào để băn khoăn về những ảnh hưởng xung quanh cuộc kiểm toán hay không? 15. Có lý do nào để nói rằng sự tuân thủ những chuẩn mực kế toán chung được thừa nhận của chúng ta sẽ bị thắc mắc hay không? 16. Có vấn đề nào về kế toán trọng yếu dẫn đến mức độ rủi ro kiểm toán lớn hơn mức trung bình hay không? 17. Có lý do nào để khẳng định rằng chúng ta không có những hiểu biết đầy đủ về những nghiệp vụ quan trọng và những quan hệ kinh doanh với những đơn vị khác hay không? 18. Có lý do nào để khẳng định chúng ta không tích luỹ đủ kinh nghiệm và kiến thức về khách hàng hay không? 19. Có lý do nào để khẳng định rằng chúng ta không có đủ nhân viên có khả năng hay không? 20. Có những vấn đề nào nói rằng có sự tồn tại những gian lận của ban quản trị hay không? Những câu hỏi trên sẽ hỗ trợ kiểm toán viên trong việc nhận diện các mục tiêu kiểm soát, các quá trình kiểm soát đặc thù. Thông qua đó kiểm toán viên cũng có thể nhận diện và đánh giá các nhược điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ. Khi đã nhận diện được quá trình kiểm soát và các nhược điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên tiến hành đánh giá và đưa ra kết luận ban đầu về mức rủi ro kiểm soát. { Về việc thực hiện các thử nghiệm kiểm soát Quy trình kiểm toán hiện nay của AASC chủ yếu thực hiện thử nghiệm cơ bản, kiểm toán viên hầu như không thực hiện các thử nghiệm kiểm soát. Việc áp dụng các thử nghiệm kiểm soát góp phần giúp kiểm toán viên hạn chế việc thực hiện các thử nghiệm cơ bản, tiết kiệm thời gian và giá phí kiểm toán. Tuy vậy, không phải trong trường hợp nào kiểm toán viên cũng xác định thực hiện thử nghiệm kiểm soát. Thử nghiệm kiểm soát chỉ được thực hiện trong trường hợp hệ thống kiểm soát nội bộ được đánh giá hiệu quả, có khả năng ngăn ngừa và phát hiện các sai phạm trọng yếu. Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp trong nước có hệ thống kiểm soát nội bộ được đánh giá trung bình. Nhưng với tốc độ phát triển như hiện nay cùng với sự gia nhập của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì rất cần thiết phải xây dựng các thử nghiệm kiểm soát để áp dụng đối với những khách hàng lớn, các tổng công ty. Qua đây kiến nghị Công ty nên áp dụng việc thực hiện các thử nghiệm kiểm soát cho những khách hàng lớn, có hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động hiệu quả. Chẳng hạn như khách hàng thứ hai đề cập trong Luận văn là một khách hàng quy mô lớn, đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ là cao nhưng kiểm toán viên không thực hiện thử nghiệm kiểm soát mà chủ yếu là thực hiện thủ tục phân tích. Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 về Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ quy định kiểm toán viên phải thực hiện các thử nghiệm kiểm soát để thu thập bằng chứng về sự đầy đủ, về tính hiệu quả của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ. Có hai phương pháp thực hiện các thử nghiệm kiểm soát đó là: Phương pháp kiểm tra tài liệu: phương pháp này được áp dụng nếu các thủ tục kiểm soát để lại các “dấu vết” trực tiếp trên tài liệu như chữ ký phê duyệt, hoá đơn lưu. Phương pháp thực hiện lại các thủ tục kiểm soát: phương pháp này được sử dụng khi các dấu hiệu kiểm soát để lại là gián tiếp. .. Về việc ghi chép trên giấy làm việc Giấy làm việc của AASC được thiết kế khoa học, hợp lý do đó rất thuận lợi cho việc kiểm tra và soát xét. Các phần hành kiểm toán được ghi chép rõ ràng và có đánh số tham chiếu. Để góp phần hoàn thiện hơn trong việc ghi chép trên giấy làm việc, sau đây đề xuất việc sử dụng Bảng kê chênh lệch và Bảng kê xác minh. Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên luôn phải kiểm tra đối chiếu các thông tin trên Báo cáo tài chính với các tài liệu bổ sung, đặc biệt trong trường hợp so sánh kết quả kiểm kê với số liệu trên số kế toán của các phần hành như tiền mặt hay nguyên vật liệu. Nếu phát hiện được chênh lệch và những dấu hiệu bất thường thì phản ánh vào Bảng kê chênh lệch và Bảng kê xác minh. Bảng kê chênh lệch được sử dụng trong trường hợp kiểm toán viên có đầy đủ các bằng chứng chắc chắn về các sai phạm trong việc hạch toán kế toán của doanh nghiệp. Mẫu bảng kê chênh lệch như sau: Chứng từ Nội dung Số tiền Ghi chú mức độ sai phạm SH NT Sổ sách Thực tế Chênh lệch … .. … Bảng kê xác minh sử dụng trong trường hợp kiểm toán viên chưa có bằng chứng cụ thể về các sai phạm trong việc hạch toán kế toán của khách hàng như thiếu chữ ký phê duyệt, thiếu chữ ký người nhận tiền, thiếu chứng từ gốc. Mẫu Bảng kê xác minh như sau: Chứng từ Nội dung Số tiền Đối tượng xác minh Ghi chú mức độ sai phạm SH NT Trực tiếp Gián tiếp .. … …. Với việc sử dụng Bảng kê xác minh và Bảng kê chênh lệch sẽ giúp cho kiểm toán viên ghi chép đầy đủ các các nghiệp vụ sai phạm hoặc các nghiệp vụ có dấu hiệu của sai phạm lên giấy làm việc một cách có hệ thống. Từ đó giúp kiểm toán viên thu thập đầy đủ bằng chứng phục vụ cho việc ra kết luận kiểm toán. Về áp dụng các thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch Thủ tục phân tích được áp dụng trong tất cả các giai đoạn của cuộc kiểm toán. Các kiểm toán viên thực hiện thủ tục phân tích để tìm ra những thay đổi bất thường hay những thay đổi ngoài dự kiến trong hoạt động kinh doanh của khách hàng mà có thể ảnh hưởng trọng yếu lên Báo cáo tài chính. Việc sử dụng thủ tục phân tích trong các giai đoạn của cuộc kiểm toán sẽ giúp kiểm toán viên tiết kiệm thời gian và chi phí, hạn chế phần công việc thực hiện đối với thủ tục kiểm tra chi tiết. Do đó, rất cần thiết phải áp dụng thủ tục phân tích trong thực hiện kế hoạch kiểm toán. Trong giai đoạn lập kế hoạch, khi thực hiện thủ tục phân tích, kiểm toán viên phải chú ý các thay đổi về chính sách kế toán mà doanh nghiệp mới áp dụng đồng thời phân tích Báo cáo tài chính dựa trên cơ sở nhất quán với sự thay đổi đó. Thông thường khi thực hiện thủ tục phân tích sơ bộ, kiểm toán viên chủ yếu dựa vào các chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính năm nay và năm trước, xác định số chênh lệch giữa các năm, sau đó tìm nguyên nhân dẫn đến chênh lệch đó. Đây là một phương pháp hay, có thể thấy được một cách tổng quan sự biến động của các chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính năm kiểm toán. Tuy nhiên để thấy được sự biến động của các chỉ tiêu có liên quan, kiểm toán viên sử dụng phương pháp phân tích tỉ suất. Phương pháp phân tích này dựa trên cơ sở so sánh tỉ lệ tương quan của các chỉ tiêu và khoản mục khác nhau trên Báo cáo tài chính. Các tỉ suất thường dùng trong phương pháp phân tích này là: Khả năng thanh toán Khả năng thanh toán hiện hành Tổng tài sản/ tổng Nợ Thời gian thu hồi nợ Khoản phải thu x 365/doanh thu Thời gian trả nợ Các khoản phải trả x 365 / tổng chi phí nguyên vật liệu trong giá vốn hàng bán Tốc độ luân chuyển hàng hoá Tỷ suất quay vòng hàng tồn kho Giá vốn hàng bán/ hàng tồn kho trung bình Tỷ suất lợi nhuận Tỉ suất lợi nhuận Tổng lợi nhuận x 100%/ doanh thu Tỉ suất lợi nhuận ròng Thu nhập trước thuế x 100%/ doanh thu Tỉ suất lợi nhuận trên vốn (Thu nhập trước thuế + chi phí lãi vay) x 100%/tổng tài sản Tỉ suất nợ Nợ ngắn hạn và dài hạn/ tổng vốn chủ sở hữu Sau khi tính toán các tỉ suất trên và so sánh năm nay với năm trước, có thể thấy được các biến động, các biến động này ảnh hưởng đến một hoặc một số khoản mục trên báo cáo tài chính. Nếu không giải thích được nguyên nhân biến động thì sai phạm trọng yếu có thể tồn tại đối với các khoản mục đó. Vì vậy điều cần thiết là phải xác định khoản mục nào là rủi ro nhất. Có thể thực hiện phân tích thêm các tỉ suất phân tích bổ sung sau: Khả năng thanh toán Tỉ suất thanh toán nhanh (Tiền + các chứng khoán ngắn hạn + các khoản phải thu)/ tổng nợ ngắn hạn Tỉ suất thanh toán tức thời Tiền mặt / tổng nợ ngắn hạn Tỉ suất hoạt động Số vòng luân chuyển của các khoản phải thu Tổng doanh thu bán chịu thực / số phải thu trung bình Số vòng luân chuyển của Vốn hoạt động Doanh thu/ ( tài sản lưu động – nợ ngắn hạn) Tỉ suất lợi nhuận % thay đổi doanh thu (Doanh thu kỳ này – doanh thu kỳ trước) x 100/ doanh thu kỳ trước Sức sản xuất của tài sản Doanh thu/ tài sản trung bình Hệ số doanh lợi của vốn chủ sở hữu Thu nhập trước thuế x 100/ tổng nguồn vốn chủ sở hữu Năng lực thanh toán Tổng nợ so với tổng NVCSH Nợ dài hạn/ vốn chủ sở hữu Tổng nợ so với giá trị ròng của TSCĐHH Tổng nợ/ ( vốn chủ sở hữu – TSCĐVH) Tỉ suất nợ Tổng nợ x 100%/ tổng tài sản Tỉ suất tự tài trợ NVCSH x 100%/ tổng tài sản Năng suất lao động động Chi phí nguyên vật liệu so với doanh thu Chi phí NVL trong giá vốn hàng bán/ doanh thu tương ứng Chi phí nhân công Chi phí nhân công trong giá vốn hàng bán/ tổng doanh thu tương ứng Năng suất lao động của 1 công nhân Giá vốn hàng bán/ số công nhân tham gia sản xuất Chi phí nhân công đầu người Chi phí nhân công/ số công nhân Phân bổ chi phí bán hàng và chi phí quản lý cho từng sản phẩm Phân bổ chi phí bán hàng và chi phí quản lý x 100%/ sản lượng Đánh giá Chi phí khấu hao Tổng chi phí khấu hao/ tổng giá trị tài sản khấu hao Sau khi tính toán được các tỷ suất trên và so sánh biến động giữa năm nay với năm trước hay giữa các quý thì có thể thu hẹp được vùng sai phạm, do đó có thể rút ngắn thời gian và chi phí kiểm toán. Các giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình kiểm toán chi phí hoạt động Sự cần thiết phải hoàn thiện quy trình kiểm toán chi phí hoạt động Qua tìm hiểu về quy trình kiểm toán chi phí hoạt động, mặc dù chi phí hoạt động là những khoản chi phí đơn giản nhưng trong quá trình kiểm toán cũng luôn nảy sinh các vấn đề phức tạp. Để cho công tác kiểm toán ngày càng hiệu quả hơn, tiết kiệm chi phí và thời gian kiểm toán cũng như nâng cao uy tín của kiểm toán viên và công ty kiểm toán thì cần phải hoàn thiện hơn nữa quy trình kiểm toán nói chung và quy trình kiểm toán các khoản mục nói riêng. Chi phí hoạt động cũng là một phần hành kiểm toán nên phải hoàn thiện quy trình kiểm toán để đảm bảo chất lượng chung của một cuộc kiểm toán. Thực tế tại AASC cho thấy, công ty chủ yếu thực hiện kiểm tra chi tiết đối với chi phí hoạt động, như thế sẽ rất mất thời gian và tốn kém. Sau đây xin đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện hơn quy trình kiểm toán chi phí hoạt động của Công ty. Phương hướng hoàn thiện { Về xác định mức rủi ro chi tiết cho cho phí hoạt động Vì chi phí hoạt động chỉ bao gồm các khoản mục nhỏ trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nên trong quá trình kiểm toán có thể bỏ qua khâu lập kế hoạch cho chi phí hoạt động. Tuy nhiên để hoàn thiện hơn quy trình kiểm toán chung thì tất cả các khoản mục nhỏ cũng cần được hoàn thiện nhằm nâng cao chất lượng chung của một cuộc kiểm toán. Sau đây là đề xuất về việc xác định mức rủi ro cho khoản mục chi phí hoạt động: - Thực hiện các thủ tục phân tích Các thủ tục phân tích được thực hiện để xem xét một cách chi tiết bản chất của tài khoản trong đó bao gồm các nghiệp vụ quy mô lớn, bất thường, các nghiệp vụ phát sinh không theo kế hoạch của doanh nghiệp mà có thể ảnh hưởng đến cuộc kiểm toán. - Xem xét các yếu tố có thể làm tăng rủi ro kiểm toán Đối với mỗi tài khoản quan trọng, cần phải xem xét tất cả các yếu tố có thể làm tăng rủi ro, bao gồm xem xét các sự kiện xảy ra mà có thể làm tăng khả năng tồn tại gian lận và sai sót trọng yếu trên Báo cáo tài chính. Có thể sử dụng các câu hỏi sau để đánh giá rủi ro: Các câu hỏi Có Không 1. Có tồn tại nghiệp vụ được hạch toán không theo hệ thống không? 2. Có tồn tại nghiệp vụ bất thường hay nghiệp vụ phức tạp nào không. Những loại nghiệp vụ này có thể bao gồm: - Các nghiệp vụ lạ đối với hoạt động kinh doanh của khách hàng - Các nghiệp vụ liên quan tới các bên hữu quan với quy mô lớn và bất thường. - Các nghiệp vụ nghi ngờ đến hoạt động vi phạm pháp luật của khách hàng. 3. Các nghiệp vụ mà thường xảy ra sai phạm trong hạch toán kế toán của khách hàng mà dựa vào hiểu biết của chúng ta về khách hàng có thể nhận ra sai phạm. 4. Có tồn tại các nghiệp vụ theo dự toán và được điều chỉnh cuối năm không. 5. Có được kiểm tra và đối chiếu thường xuyên không. 6. Có các nghiệp vụ đặc trưng theo ngành nghề kinh doanh của khách hàng không. 7. Có chịu áp lực hay nghi ngờ về tính liêm chính của Ban quản lý không. ….. Sau khi trả lời tất cả các câu hỏi trên, thì kiểm toán viên biết được là có rủi ro chi tiết nào được xác định không. Dựa vào đó thiết kế các thủ tục kiểm toán chi tiết đối với khoản mục được kiểm tra. Nếu rủi ro chi tiết được xác định thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khối lượng các thử nghiệm kiểm toán cần được thực hiện. { Việc áp dụng các thử nghiệm kiểm soát trong kiểm toán chi phí hoạt động Đối với một số khách hàng lớn, có hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động hiệu quả thì kiểm toán viên nên thực hiện các thử nghiệm kiểm soát nhằm tiết kiệm thời gian và giá phí của cuộc kiểm toán. Hiện nay khi kiểm toán chi phí hoạt động AASC hầu như không thực hiện thử nghiệm kiểm soát. Do đó, kiến nghị Công ty nên áp dụng thực hiện thử nghiệm kiểm soát. Thử nghiệm kiểm soát được thiết kế để kiểm tra các thủ tục kiểm soát của khách hàng nhằm khẳng định độ tin cậy của các hoạt động đó. Có thể thiết kế thử nghiệm kiểm soát đối với chi phí hoạt động dưới dạng như sau: Mục tiêu kiểm toán Hoạt động kiểm soát chủ yếu Thử nghiệm kiểm soát Sự phê chuẩn Sự phê chuẩn các khoản chi ở đúng cấp có thẩm quyền Kiểm tra dấu hiệu của sự phê chuẩn Tính đầy đủ Các hoá đơn mua hàng (điện, nước, điện thoại) phải được đánh số thứ tự và theo dõi việc vào sổ. Theo dõi một chuỗi liên tục các hoá đơn tiền điện, nước,.. Phân loại Doanh nghiệp có đủ sơ đồ tài khoản. Kiểm tra nội bộ quá trình phân loại - Kiểm tra các thủ tục vào sổ theo đúng sơ đồ tài khoản - Kiểm tra dấu hiệu của kiểm tra nội bộ Tính đúng kỳ Doanh nghiệp có các quy định ghi sổ nghiệp vụ càng sớm càng tốt sau khi thực hiện các khoản chi - Kiểm tra thủ tục vào sổ và quan sát liệu có hoá đơn nào của người bán chưa được vào sổ hay không. - Kiểm tra dấu hiệu của việc kiểm tra nội bộ { Việc thực hiện các thủ tục phân tích trong kiểm toán chi phí hoạt động Có thể chi phí hoạt động chỉ bao gồm các khoản mục chi phí nhỏ nên khi chọn khoản mục để thực hiện các thử nghiệm kiểm soát đã bị bỏ qua. Tuy nhiên không vì thế mà kiểm toán viên phải thực hiện hoàn toàn các thủ tục kiểm tra chi tiết. Để giảm bớt khối lượng công việc kiểm tra chi tiết cần thực hiện thì thủ tục phân tích được sử dụng là rất hiệu quả. Hiện tại AASC thiên về kiểm tra chi tiết, việc sử dụng thủ tục phân tích chưa đa dạng. Tuy nhiên trong tương lai, nếu chi phí kiểm toán ngày càng thấp thì các kiểm toán viên không thể thực hiện nhiều thủ tục kiểm tra chi tiết như hiện nay. Do đó việc thực hiện thủ tục phân tích sẽ rất hiệu quả đối với việc tiết kiệm thời gian và chi phí thay vì phải thực hiện nhiều thủ tục kiểm tra chi tiết, đối chiếu chứng từ. Vì vậy hoàn thiện quy trình phân tích là một việc làm cần thiết. Một thủ tục phân tích chi tiết áp dụng đối với tất cả các khoản mục bao gồm các bước sau: - Xác định các số dư cần kiểm tra Điều quan trọng nhất khi thực hiện thủ tục phân tích chi tiết là phải xác định được khoản mục cần kiểm tra. Làm được việc này phải dựa vào mức trọng yếu và mức rủi ro có thể đối với từng khoản mục. - Xác định số ước tính của kiểm toán viên Sau đó tiến hành xác định số ước tính. Kiểm toán viên có thể xác định số ước tính dựa vào dự toán chi năm nay của doanh nghiệp mà được lập dựa trên chi phí năm trước và dự đoán về những thay đổi trong hoạt động kinh doanh của năm nay. Nếu sử dụng dự toán của doanh nghiệp để ước tính thì phải đảm bảo rằng các thông tin dùng để lập dự toán là đáng tin cậy. Tuy vậy kiểm toán viên cũng có thể dựa vào hiểu biết tình hình hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính của khách hàng mà đưa ra con số ước tính. - So sánh giữa số ước tính và số ghi sổ của khách hàng Sau khi xác định được số ước tính, tiến hành so sánh với số liệu ghi sổ của kế toán đồng thời xác định được số chênh lệch (nếu có). - Xác định mức sai số có thể chấp nhận được Tiếp theo là xác định mức sai số có thể chấp nhận được, điều này dựa vào mức trọng yếu phân bổ cho từng khoản mục và do tính thận trọng nghề nghiệp nên kiểm toán viên luôn xác định mức sai số có thể chấp nhận được có xu hướng nhỏ. - Điều tra nguyên nhân chênh lệch Chênh lệch được phát hiện, để đưa ra ý kiến về nguyên nhân chênh lệch thì kiểm toán viên phải tiến hành điều tra (nếu mức chênh lệch lớn hơn sai số có thể chấp nhận được). Sau đó phỏng vấn người có trách nhiệm để lấy giải trình về sự chênh lệch và thực hiện chọn mẫu để kiểm tra tính hợp lý của việc chênh lệch. Ngoài ra trong trường hợp, doanh nghiệp không thực hiện lập dự toán ngân sách, thì kiểm toán viên thực hiện một số thủ tục phân tích khác khi kiểm toán chi phí hoạt động như: Tính tỉ lệ biến động chi phí bán hàng và chi phí quản lý năm nay so với năm trước và so sánh mức biến động đó với mức biến động của tổng chi phí. Tính tỉ lệ biến động của chi phí bán hàng rồi so sánh với mức biến động của doanh thu tương ứng. Về nguyên tắc các chi phí bán hàng như chi phí hoa hồng, chi phí vận chuyển hàng hoá biến động theo sự biến động của doanh thu. So sánh mức biến động của tiền lương nhân viên bán hàng với mức biến động của tổng tiền lương phải trả. Hoặc so sánh biến động của tiền lương bộ phận bán hàng với sự biến động của nhân sự bộ phận bán hàng. Các mức biến động trên có thể so sánh năm nay với năm trước, giữa các kỳ hoặc so sánh với cùng chỉ tiêu đó của các doanh nghiệp khác có cùng quy mô. { Về phương pháp chọn mẫu kiểm tra chi tiết Đối tượng kiểm toán là những nghiệp vụ cụ thể, những chứng từ cụ thể và thường được biểu hiện bằng số tiền cụ thể. Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên không thể soát xét và đối chiếu tất cả chứng từ kế toán hay các số dư của các tài khoản. Trong khi đó, chuẩn mực thận trọng lại không cho phép công tác kiểm toán bỏ qua những sai phạm trọng yếu để loại trừ những rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và giảm bớt rủi ro phát hiện. Do đó, trong thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên bắt buộc phải kiểm tra chọn mẫu. Có 2 phương pháp chọn mẫu là chọn mẫu xác suất và chọn mẫu phi xác suất. Sử dụng phương pháp chọn mẫu như hiện nay của AASC là chọn tất cả các khoản mục phát sinh có quy mô lớn, cách chọn mẫu này thì sẽ bảo đảm là không còn tồn tại bất kỳ sai phạm trọng yếu nào. Tuy nhiên nếu trong trường hợp sai phạm tồn tại dưới dạng quy mô nhỏ và phân bố đều cho các khoản mục thì kiểm toán viên phải sử dụng phương pháp chọn mẫu khác sao cho có tính đại diện cao hơn, cụ thể là phương pháp chọn mẫu xác suất. Kiến nghị Công ty là nên dùng song song 2 phương pháp chọn mẫu để có thể đảm bảo rủi ro phát hiện ở mức thấp nhất. Kết luận Với đề tài “ Quy trình kiểm toán chi phí hoạt động trong kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty dịch vụ tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán thực hiện” em đã đi sâu tìm hiểu lý luận về chi phí hoạt động và Kiểm toán chi phí hoạt động cũng như thực trạng kiểm toán chi phí hoạt động do Công ty AASC thực hiện tại các khách hàng. Dựa vào các kiến thức đã được học, em đã trình bày một cách chi tiết phần cơ sở lý luận về chi phí hoạt động và kiểm toán chi phí hoạt động. Trong đó, nêu rõ đặc điểm hạch toán chi phí hoạt động theo chế độ kế toán hiện hành đồng thời đưa ra mục tiêu, nội dung kiểm toán chi phí hoạt động và các thủ tục áp dụng khi kiểm toán chi phí hoạt động. Qua tìm hiểu thực tế kiểm toán chi phí hoạt động do công ty AASC thực hiện em đã mô tả quy trình kiểm toán nói chung của Công ty AASC và thực tế kiểm toán tại các khách hàng của AASC từ khâu lập kế hoạch cho đến kết thúc kiểm toán. Trong chuyên đề em lấy ví dụ thực tế tại 2 khách hàng của AASC. Hai khách hàng này về bản chất hoạt động kinh doanh thì không khác nhau nhưng quy mô kinh doanh, tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ lại tương đối khác nhau. Do đó quy trình kiểm toán mà AASC áp dụng để kiểm toán chi phí hoạt động tại hai khách hàng đó cũng khác nhau. Cuối phần thực trạng, em đưa ra một số nhận xét, so sánh về quy trình kiểm toán thực hiện cho 2 khách hàng đó đồng thời đưa ra mô hình chung tổng kết quy trình kiểm toán chi phí hoạt động trong kiểm toán Báo cáo tài chính do Công ty AASC thực hiện. Và cuối cùng sau khi nghiên cứu quy trình kiểm toán chi phí hoạt động của công ty AASC em đưa ra một số nhận xét, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa quy trình kiểm toán chi phí hoạt động của Công ty AASC. Luận văn tốt nghiệp của em hoàn thành là nhờ sự hướng dẫn tận tình của Thầy giáo Trần Mạnh Dũng và sự góp ý của các anh chị Phòng Kiểm toán các ngành sản xuất vật chất - Công ty kiểm toán AASC. Một lần nữa em xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của Thầy giáo và các anh chị trong Công ty kiểm toán AASC. Sinh viên thực hiện Phan Thị Kiều Hương Danh mục tài liệu tham khảo Lý thuyết kiểm toán – Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội. Chủ biên: GS. TS. Nguyễn Quang Quynh, NXB Tài chính Kiểm toán tài chính – Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội. Chủ biên: GS. TS. Nguyễn Quang Quynh, NXB Tài chính Kiểm toán - Alvin A. Arens. Dịch và biên soạn: Đặng Kim Cương – Phạm văn Dược Auditing- Jack C. Robertson Kế toán tài chính - Trường Đại học Kinh tế quốc dân Lý thuyết và thực hành kế toán tài chính, Chủ biên: PGS-TS Nguyễn Văn Công Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam Các văn bản pháp luật khác: Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Nghị định 30/1998/NĐ-CP, 26/2001/NĐ-CP, Thông tư 18/2002/TT-BTC, .. Các tài liệu của Công ty dịch vụ tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán AASC: Chương trình kiểm toán Kế hoạch kiểm toán Thư chào hàng, đề xuất kiểm toán Hồ sơ kiểm toán và các tài liệu khác Các tài liệu của Công ty kiểm toán Việt Nam VACO Chương trình và kế hoạch kiểm toán Chi phí hoạt động Tài liệu đào tạo nội bộ IAA Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29748.doc
Tài liệu liên quan