Nghiên cứu đánh giá tác động của thực tiễn sử dụng các yếu tố đầu vào cho sản xuất cà phê tỉnh Đắk Lắk

LỜI CẢM ƠN Nghiên cứu “Đánh giá tác động thực tiễn sử dụng các yếu tố đầu vào cho sản xuất cà phê" được hoàn thành với sự đóng góp của nhiều tổ chức cá nhân. Trước hết, nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn Đại Sứ quán Pháp - Dự án “Tăng cường năng lực thông tin phục vụ công tác hoạch định chính sách nông nghiệp” (MISPA) đã hỗ trợ kinh phí để triển khai nghiên cứu này. Nhóm nghiên cứu xin cảm ơn TS. Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện Kinh tế Nông nghiệp đã gợi ý tưởng, đóng góp ý kiến nhận xét và hỗ trợ nhóm nghiên cứu hoàn tất báo cáo này. Ngoài ra, cũng xin gửi lời cảm ơn tới các cán bộ Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp, Trung tâm Thông tin Chiến lược, Dự án MISPA và một số phòng ban khác trong Viện Kinh tế Nông nghiệp đã tạo điều kiện và đóng góp ý kiến cho nhóm nghiên cứu. Báo cáo này cũng không thể hoàn thiện nếu thiếu sự giúp đỡ, hướng dẫn nhiệt tình của các chuyên gia thuộc văn phòng Công ty Tư vấn Châu Á, Thái Bình Dương - EDE; đặc biệt là TS. Dave D’haeze. Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn Sở Nông nghiệp và PTNT Đắk Lắk, Trung tâm khuyến nông Tỉnh Đắk Lắk, Viện nghiên cứu khoa học nông nghiệp Tây Nguyên, Trạm Nghiên cứu đất Tây Nguyên, Phân viện Quy hoạch Nông nghiệp miền Trung, các Trung tâm khuyến nông huyện Krong Ana và CuMgar, lãnh đạo và nông dân hai huyện Krong Ana và CuMgar đã tham gia các cuộc họp chuyên gia, trả lời phỏng vấn của nhóm nghiên cứu. Báo cáo này được hoàn thiện trong thời gian ngắn (6 tháng) và điều kiện kinh phí hạn hẹp, vì vậy không thể tránh được thiếu sót. Nhóm nghiên cứu rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để tiếp tục hoàn thiện báo cáo này. Xin chân thành cảm ơn. PHẦN I: GIỚI THIỆU 1. Lịch sử phát triển cây cà phê Robusta ở Việt Nam Cây cà phê đầu tiên được đưa vào Việt Nam năm 1857 và được trồng ở Việt Nam từ năm 1888 (Nhạn và cộng sự, 1999). Người Pháp đã mang cây cà phê Arabica từ đảo Bourbon sang trồng ở phía Bắc Việt Nam sau đó mở rộng sang các vùng khác. Hầu hết cà phê được xuất khẩu sang Pháp dưới thương hiệu "Arabica du Tonkin". Đầu thế kỷ 20, cây cà phê được trồng ở một số đồn điền người Pháp tại Phủ Quỳ (Nghệ An) và một số nơi ở Tây Nguyên với diện tích không quá vài nghìn ha. Năm 1930, Việt Nam có khoảng 5900 ha cà phê (VICOFA, 2002). Trong thời kỳ những năm 1960-1970, cây cà phê được phát triển ở một số nông trường quốc doanh ở các tỉnh phía Bắc, khi cao nhất (1964-1966) đã đạt tới 13000 ha. Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, tổng diện tích cà phê Việt Nam có khoảng 20.000 ha. Nhờ vốn từ các Hiệp định hợp tác liên Chính phủ với các nước Liên Xô (cũ), CHDC Đức, Bungary, Tiệp Khắc và Ba Lan, cây cà phê bắt đầu được chú trọng đầu tư, đặc biệt ở các tỉnh Tây Nguyên. Năm 1980, Việt Nam xuất khẩu khoảng 6000 tấn cà phê với diện tích khoảng 23 nghìn ha. Bản kế hoạch ban đầu được xây dựng năm 1980 đặt mục tiêu cho ngành cà phê Việt Nam có khoảng 180 nghìn ha với sản lượng 200 nghìn tấn. Sau đó, bản kế hoạch này đã nhiều lần sửa đổi. Các con số cao nhất dừng lại ở mức 350 nghìn ha với sản lượng 450 nghìn tấn (VICOFA, 2002). Trong thời kỳ từ 1982 đến 1988, cà phê được trồng mới thêm khoảng vài chục nghìn ha. Đến năm 1990, Việt Nam có khoảng 119300 ha. Trong giai đoạn từ 1990 đến 1994, giá cà phê thế giới ở mức rất thấp và diện tích cà phê Việt Nam không thay đổi nhiều, mỗi năm tăng khoảng 10 nghìn ha. Năm 1994, tổng diện tích cà phê Việt Nam đạt 150.000 ha, vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn (1,32%) trong tổng diện tích các loại cây trồng của Việt Nam (ICARD & Oxfarm, 2002). Năm 1994, khi sương muối ở Brazil phá huỷ phần lớn diện tích cà phê nước này đã làm cung thế giới giảm mạnh, giá thế giới tăng đột biến. Giá tăng đã khuyến khích người trồng cà phê Việt Nam mở rộng diện tích trồng và tăng thâm canh cà phê. Những người nghèo và đồng bào dân tộc ít người mở rộng diện tích cà phê bằng cách khai hoang, phá rừng. Diện tích trồng cà phê đã tăng lên nhanh hơn, bình quân 23,9%/năm, đưa tổng diện tích cây cà phê năm 2000 lên đến 516,7 nghìn ha, chiếm 4,14% tổng diện tích cây trồng của Việt Nam, đứng thứ ba chỉ sau hai loại cây lương thực chủ lực là lúa (chiếm 61,4%) và ngô (chiếm 5,7%). Trong thập kỷ 90 thế kỷ XX, sản lượng tăng lên trên 20%/năm (và các năm 1994, 1995, 1996 sản lượng tăng thậm chí còn cao hơn với tỷ lệ lần lượt là 48,5%, 45,8% và 33%). Năm 2000, Việt Nam có khoảng 520 nghìn ha cà phê, tổng sản lượng đạt 800 nghìn tấn. Nếu so với năm 1980, diện tích cà phê của Việt Nam năm 2000 đã tăng gấp 23 lần và sản lượng tăng gấp 83 lần. Mức sản lượng và diện tích vượt xa mọi kế hoạch trước đó và suy đoán của các chuyên gia trong nước và quốc tế. Tăng trưởng cà phê Việt Nam trong quá khứ chủ yếu dựa trên tăng diện tích, đặc biệt là những năm đầu thập niên 90. Sau đó, tăng năng suất trở thành yếu tố chính đóng góp cho tăng trưởng sản lượng cà phê ở Việt Nam. Tính chung cho cả giai đoạn 1994 - 2002, năng suất đóng góp khoảng 38% tốc độ tăng sản lượng và diện tích đóng góp khoảng 62%. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báu và cộng sự, training profile on irrigation for coffee in daklak, WASI 1/2005 2. Báu và Dave D’Haeze, Technical Training of Trainers-Pest & Disease management, Dự án PPP 3. Dave D’Haeze, Over_Irrigation for Coffee canephora in the Central Highlands of Vietnam revisited simulation of soil moisture dynamics in Rhodic Ferralsols, 3/ 2003 4. Đoàn Triệu Nhạn và cộng sự, Cây cà phê ở Việt Nam, 1999 5. Hoang Thanh Tiem, physical characteristics of coffee, 2000 6. ICARD & Oxfam, Tác động của tự do hoá thương mại đến người trồng cà phê, 2003 7. Lịch và Tuấn, Bón phân cho cà phê vối ở Đắk Lắk, Trạm Nghiên cứu đất Tây Nguyên. 8. MISPA, Báo cáo tổng quan ngành hàng cà phê Việt Nam, 2004 9. Sở Nông nghiệp và PTNT Đắk Lắk, Báo cáo năm 2002. 10. Tin giá Reuters, 2004-2005 11. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2004, 2005 12. Tổ chức nông lương thế giới-FAO, Số liệu nông nghiệp, 2005 http://www.laodong.com.vn Báo cáo dài 47 trang, chia làm 3 chương

doc47 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2044 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu đánh giá tác động của thực tiễn sử dụng các yếu tố đầu vào cho sản xuất cà phê tỉnh Đắk Lắk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRUNG TÂM TƯ VẤN CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP **************** BÁO CÁO NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA THỰC TIỄN SỬ DỤNG CÁC YẾU TỐ ĐẦU VÀO CHO SẢN XUẤT CÀ PHÊ TỈNH ĐẮK LẮK Nhóm nghiên cứu: Trần Thị Quỳnh Chi Dave D’haeze Hà Nội, tháng 10/2005 LỜI CẢM ƠN Nghiên cứu “Đánh giá tác động thực tiễn sử dụng các yếu tố đầu vào cho sản xuất cà phê" được hoàn thành với sự đóng góp của nhiều tổ chức cá nhân. Trước hết, nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn Đại Sứ quán Pháp - Dự án “Tăng cường năng lực thông tin phục vụ công tác hoạch định chính sách nông nghiệp” (MISPA) đã hỗ trợ kinh phí để triển khai nghiên cứu này. Nhóm nghiên cứu xin cảm ơn TS. Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện Kinh tế Nông nghiệp đã gợi ý tưởng, đóng góp ý kiến nhận xét và hỗ trợ nhóm nghiên cứu hoàn tất báo cáo này. Ngoài ra, cũng xin gửi lời cảm ơn tới các cán bộ Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp, Trung tâm Thông tin Chiến lược, Dự án MISPA và một số phòng ban khác trong Viện Kinh tế Nông nghiệp đã tạo điều kiện và đóng góp ý kiến cho nhóm nghiên cứu. Báo cáo này cũng không thể hoàn thiện nếu thiếu sự giúp đỡ, hướng dẫn nhiệt tình của các chuyên gia thuộc văn phòng Công ty Tư vấn Châu Á, Thái Bình Dương - EDE; đặc biệt là TS. Dave D’haeze. Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn Sở Nông nghiệp và PTNT Đắk Lắk, Trung tâm khuyến nông Tỉnh Đắk Lắk, Viện nghiên cứu khoa học nông nghiệp Tây Nguyên, Trạm Nghiên cứu đất Tây Nguyên, Phân viện Quy hoạch Nông nghiệp miền Trung, các Trung tâm khuyến nông huyện Krong Ana và CuMgar, lãnh đạo và nông dân hai huyện Krong Ana và CuMgar đã tham gia các cuộc họp chuyên gia, trả lời phỏng vấn của nhóm nghiên cứu. Báo cáo này được hoàn thiện trong thời gian ngắn (6 tháng) và điều kiện kinh phí hạn hẹp, vì vậy không thể tránh được thiếu sót. Nhóm nghiên cứu rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để tiếp tục hoàn thiện báo cáo này. Xin chân thành cảm ơn. ĐÁNH GIÁ VIỆC SỬ DỤNG NƯỚC, PHÂN BÓN VÀ THUỐC TRỪ SÂU TRONG SẢN XUẤT CÀ PHÊ Ở TÌNH ĐẮC LẮC PHẦN I: GIỚI THIỆU 1. Lịch sử phát triển cây cà phê Robusta ở Việt Nam Cây cà phê đầu tiên được đưa vào Việt Nam năm 1857 và được trồng ở Việt Nam từ năm 1888 (Nhạn và cộng sự, 1999). Người Pháp đã mang cây cà phê Arabica từ đảo Bourbon sang trồng ở phía Bắc Việt Nam sau đó mở rộng sang các vùng khác. Hầu hết cà phê được xuất khẩu sang Pháp dưới thương hiệu "Arabica du Tonkin". Đầu thế kỷ 20, cây cà phê được trồng ở một số đồn điền người Pháp tại Phủ Quỳ (Nghệ An) và một số nơi ở Tây Nguyên với diện tích không quá vài nghìn ha. Năm 1930, Việt Nam có khoảng 5900 ha cà phê (VICOFA, 2002). Trong thời kỳ những năm 1960-1970, cây cà phê được phát triển ở một số nông trường quốc doanh ở các tỉnh phía Bắc, khi cao nhất (1964-1966) đã đạt tới 13000 ha. Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, tổng diện tích cà phê Việt Nam có khoảng 20.000 ha. Nhờ vốn từ các Hiệp định hợp tác liên Chính phủ với các nước Liên Xô (cũ), CHDC Đức, Bungary, Tiệp Khắc và Ba Lan, cây cà phê bắt đầu được chú trọng đầu tư, đặc biệt ở các tỉnh Tây Nguyên. Năm 1980, Việt Nam xuất khẩu khoảng 6000 tấn cà phê với diện tích khoảng 23 nghìn ha. Bản kế hoạch ban đầu được xây dựng năm 1980 đặt mục tiêu cho ngành cà phê Việt Nam có khoảng 180 nghìn ha với sản lượng 200 nghìn tấn. Sau đó, bản kế hoạch này đã nhiều lần sửa đổi. Các con số cao nhất dừng lại ở mức 350 nghìn ha với sản lượng 450 nghìn tấn (VICOFA, 2002). Trong thời kỳ từ 1982 đến 1988, cà phê được trồng mới thêm khoảng vài chục nghìn ha. Đến năm 1990, Việt Nam có khoảng 119300 ha. Trong giai đoạn từ 1990 đến 1994, giá cà phê thế giới ở mức rất thấp và diện tích cà phê Việt Nam không thay đổi nhiều, mỗi năm tăng khoảng 10 nghìn ha. Năm 1994, tổng diện tích cà phê Việt Nam đạt 150.000 ha, vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn (1,32%) trong tổng diện tích các loại cây trồng của Việt Nam (ICARD & Oxfarm, 2002). Năm 1994, khi sương muối ở Brazil phá huỷ phần lớn diện tích cà phê nước này đã làm cung thế giới giảm mạnh, giá thế giới tăng đột biến. Giá tăng đã khuyến khích người trồng cà phê Việt Nam mở rộng diện tích trồng và tăng thâm canh cà phê. Những người nghèo và đồng bào dân tộc ít người mở rộng diện tích cà phê bằng cách khai hoang, phá rừng. Diện tích trồng cà phê đã tăng lên nhanh hơn, bình quân 23,9%/năm, đưa tổng diện tích cây cà phê năm 2000 lên đến 516,7 nghìn ha, chiếm 4,14% tổng diện tích cây trồng của Việt Nam, đứng thứ ba chỉ sau hai loại cây lương thực chủ lực là lúa (chiếm 61,4%) và ngô (chiếm 5,7%). Trong thập kỷ 90 thế kỷ XX, sản lượng tăng lên trên 20%/năm (và các năm 1994, 1995, 1996 sản lượng tăng thậm chí còn cao hơn với tỷ lệ lần lượt là 48,5%, 45,8% và 33%). Năm 2000, Việt Nam có khoảng 520 nghìn ha cà phê, tổng sản lượng đạt 800 nghìn tấn. Nếu so với năm 1980, diện tích cà phê của Việt Nam năm 2000 đã tăng gấp 23 lần và sản lượng tăng gấp 83 lần. Mức sản lượng và diện tích vượt xa mọi kế hoạch trước đó và suy đoán của các chuyên gia trong nước và quốc tế. Tăng trưởng cà phê Việt Nam trong quá khứ chủ yếu dựa trên tăng diện tích, đặc biệt là những năm đầu thập niên 90. Sau đó, tăng năng suất trở thành yếu tố chính đóng góp cho tăng trưởng sản lượng cà phê ở Việt Nam. Tính chung cho cả giai đoạn 1994 - 2002, năng suất đóng góp khoảng 38% tốc độ tăng sản lượng và diện tích đóng góp khoảng 62%. Nghề trồng cà phê ở Việt Nam là một nguồn thu nhập cho một nhóm đông dân cư ở nông thôn, trung du và miền núi. Cà phê đã tạo việc làm cho hơn 600 nghìn nông dân và số người có cuộc sống liên quan tới cà phê trên 1 triệu người. Cà phê chiếm khoảng 8% giá trị sản lượng nông nghiệp khoảng 25% giá trị xuất khẩu nông nghiệp. Đắk Lắk là vùng trồng cà phê lớn nhất của Việt Nam, chủ yếu là cà phê vối với tổng diện tích năm 2004 đạt khoảng 160.000 ha. Việc mở rộng diện tích trồng cà phê cũng chủ yếu diễn ra ở tỉnh này. Đăk Lăk là tỉnh lớn nhất Việt Nam nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên với tổng diện tích tự nhiên khoảng 1,3 triệu ha bao gồm 422 nghìn ha đất nông nghiệp, chủ yếu là đất đỏ Bazan. Khí hậu thời tiết vùng Tây Nguyên đã tạo cho Đăk Lăk điều kiện rất thích hợp để phát triển những loại cây công nghiệp có giá trị hàng hoá lớn như cà phê, cao su, hồ tiêu v.v... Trong giai đoạn 1995 - 2000, cây cà phê là một cây công nghiệp đem lại nhiều lợi ích cho người dân nói riêng và cho cả tỉnh Đăk Lăk nói chung. Do lợi nhuận trồng cà phê cao nên người dân đã giàu lên và có tới hàng chục vạn người từ 61 tỉnh thành Việt Nam đến Đăk Lăk để lập nghiệp, trong đó phần lớn là dân di cư tự do, mở rộng diện tích trồng cà phê (Sở NN&PTNT Đắk Lắk, 2002). Những người dân đi di cư tự do này đã gây ra biết bao khó khăn cho Đăk Lăk trong quản lý nhân hộ khẩu, an ninh trật tự và thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Hàng ngàn vụ tranh chấp đất đai, hàng ngàn vụ vi phạm lâm luật đã xảy ra. Nhiều trường học, cơ sở y tế quá tải. Do diện tích trồng cà phê tăng trưởng quá nhanh và nước tưới được xem là yếu tố sống còn cho cây cà phê nên các vườn trồng cà phê ở khu vực này đang phải đối mặt với những dấu hiệu đáng báo động của việc khan hiếm nước tưới cũng như mực nước ngầm (D’haeze, 1999; Ha, 2002). Trong mùa khô, khi cây cà phê đến giai đoạn trổ hoa và ra quả, mỗi ha cà phê cần tới 1500-3000 m³ nước (Luu, 2002; Bau, L.N., 1984). Mặt khác, phân hoá học và thuốc trừ sâu dường như cũng đã được sử dụng quá mức quy định (D’haeze, 1999). Do đất bazal ở Đắk Lắk rất xốp nên các chất dinh dưỡng dễ thẩm thấu xuống nước ngầm, ảnh hưởng đến nước sinh hoạt và về lâu dài có thể ảnh hưởng đến việc nuôi trồng tôm ở vùng đồng bằng. Ngoài ra, giá đầu vào (phân bón và nhiên liệu) cũng đang ngày càng tăng trong thời gian gần đây. Việc sử dụng quá mức những yếu tố đầu vào này do đó không chỉ ảnh hưởng đến môi trường mà còn ảnh hưởng đến kinh tế của hộ gia đình. 3. Mục tiêu của nghiên cứu Mục tiêu tổng thể Nghiên cứu này được tiến hành nhằm phân tích thực trạng sử dụng các nguồn lực dành cho sản xuất cà phê hiện nay ở hai huyện trồng cà phê điển hình của tỉnh Đắk Lắk. Từ đó, nghiên cứu sẽ xác định những tác động của việc sử dụng nguồn lực này đến môi trường và kinh tế các hộ điều tra. Mục tiêu cụ thể Nghiên cứu nhằm đạt được một số mục tiêu cụ thể như sau: Đánh giá và giải thích việc sử dụng các nguồn lực trong sản xuất cà phê hiện nay ở hai huyện Cu M’gar và Krong Ana thuộc tỉnh Đắk Lắk. So sánh và giải thích việc sử dụng các yếu tố đầu vào này với các tiêu chuẩn địa phương do các viện nghiên cứu và trung tâm khuyến nông đưa ra. Đánh giá tác động môi trường và kinh tế của việc sử dụng các nguồn lực nước, phân bón và thuốc trừ sâu hiện nay. Đưa ra các đề xuất và kiến nghị cho nông dân và hệ thống khuyến nông. 4. Kết cấu bài viết Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu trên, trong phần giới thiệu chung bài viết trước hết sẽ giới thiệu qua về lịch sử phát triển của cây cà phê Vối ở Việt Nam, giới thiệu tóm tắt về các nghiên cứu trước đây trong lĩnh vực này, trên cơ sở đó nêu ra những lý do phải tiến hành nghiên cứu này. Phần này cũng nêu ra các mục tiêu nghiên cứu chung và cụ thể và đặc biệt nhấn mạnh đến những phương pháp nghiên cứu thu thập số liệu thứ cấp và sơ cấp thông qua phỏng vấn thực địa và tổ chức hội thảo chuyên gia. Trong phần thứ hai, tác giả sẽ mô tả kết quả điều tra để thấy rõ thực trạng sử dụng ba yếu tố đầu vào chính (nước, phân bón và thuốc trừ sâu) cho sản xuất cà phê ở các vùng điều tra. Trong phần thứ ba, bài viết sẽ phân tích các tác động của việc sử dụng những yếu tố này đến môi trường và kinh tế nông hộ. Cuối cùng, bài viết sẽ đề xuất ra một số khuyến nghị về việc sử dụng tối ưu nguồn lực cho hai đối tượng chính: nông dân và hệ thống khuyến nông. 5. Hạn chế của nghiên cứu Trong khuôn khổ của một nghiên cứu nhỏ bị hạn chế về thời gian và nguồn lực, nhóm tác giả chỉ lựa chọn 80 hộ trong 2 huyện điển hình về sử dụng các nguồn lực cho sản xuất cà phê ở Đắk Lắk để thấy được hiện trạng sử dụng hiện nay. Ngoài ra, nghiên cứu cũng không có tham vọng phân tích một cách rất cụ thể về mặt kỹ thuật các tác động của việc sử dụng này đến môi trường. Nhóm tác giả chỉ có thể dựa trên sự so sánh giữa thực trạng sử dụng và các khuyến nghị về việc sử dụng các nguồn lực này của các cơ quan khuyến nông, các Viện nghiên cứu trong vùng và cả những nghiên cứu ngoài nước. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1. Biện pháp thu thập số liệu a. Thu thập các thông tin, số liệu thứ cấp: chủ yếu là các kết quả nghiên cứu trước đây về các biện pháp kỹ thuật mà các đơn vị nghiên cứu trong và ngoài nước triển khai về việc sử dụng các nguồn đầu vào chính trong sản xuất cà phê. Nguồn thông tin chủ yếu là qua internet, thu viện và các Viện, tổ chức nghiên cứu. Ngoài ra, tác giả cũng thu thập những tờ rơi giới thiệu kỹ thuật trồng và chăm sóc cây cà phê của hệ thống khuyến nông tại tỉnh Đắk Lắk. b. Thu thập số liệu sơ cấp Lựa chọn địa điểm nghiên cứu Nhóm nghiên cứu đã lựa chọn 2 huyện điển hình của tỉnh đắk Lắk, tỉnh sản xuất cà phê vối lớn nhất của Việt nam. Đó là 2 huyện Krong Ana và CưMgar. Năm 2004, tổng diện tích trồng cà phê của tỉnh đạt khoảng 160.000 ha. Trong đó, diện tích trồng cà phê của 2 huyện đạt 52339 ha, chiếm 54% tổng diện tích nông nghiệp của hai huyện. Hai huyện và 4 xã được lựa chọn điều tra bắt đầu trồng cà phê từ thập kỷ 60 của thế kỷ 20 từ nhiều giống cà phê khác nhau do người Pháp đem vào. Quy mô vườn trồng cà phê lúc đó khoảng 10-20 ha, do các nông trường quốc doanh quản lý. Sau năm 1975, cà phê ở khu vực này không được đầu tư phát triển. Cho đến tận năm 1980, trong một số vùng thuộc huyện Krong Ana, đặc biệt là hai xã điều tra Ea Tieu and Ea Ktul, các công ty liên doanh Việt - Đức đã được thiết lập và năm 1991 được đổi thành Tổng công ty cà phê Việt Nam, đầu tư phát triển mạnh cà phê ở vùng này. Cà phê ở CuMgar phát triển chậm hơn Krong Ana. Cách lấy mẫu điều tra hộ Nhóm nghiên cứu đã lựa chọn 80 hộ nông dân thuộc 4 xã, 2 huyện, mỗi xã 20 hộ. Việc lựa chọn dựa trên tình hình thu nhập của hộ (trong đó phân ra nhóm hộ giàu, hộ nghèo và hộ trung bình). Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng có tính đến vấn đề dân tộc, cố gắng lựa chọn một số hộ dân tộc thiểu số để đưa vào nghiên cứu (số hộ dân tộc thiểu số chiếm 6,25% tổng số mẫu nghiên cứu) . Khả năng tiếp cận với các nguồn lực tự nhiên khác nhau cũng là một tiêu chí được sử dụng để lựa chọn hộ. Chẳng hạn như, nhóm điều tra đã lựa chọn cả các nhóm hộ tiếp cận rất dễ với nguồn nước, do vậy không bị ảnh hưởng nhiều của tình trạng hạn hán và cả các nhóm hộ gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn nước và do vậy bị ảnh hưởng rất lớn của hạn hán năm 2004. Nội dung bảng hỏi hộ nông dân Nhóm nghiên cứu đã tập trung vào một số nội dung chính trong khi lập bảng hỏi điều tra hộ như sau: - Các đặc điểm của hộ: tâp trung vào các đặc điểm của chủ hộ như tên, giới tính, dân tộc, quê gốc, trình độ học vấn, nghề nghiệp trước đây. Ngoài ra, bảng hỏi cũng lấy thêm các thông tin về tổng số thành viên trong gia đình, số lượng người trưởng thành và tổng số thành viên là nông dân. Những thông tin này sẽ cho biết số lượng lao động trong gia đình được huy động vào các sản xuất nông nghiệp, có thể sử dụng để đối chứng với các thông tin được cung cấp trong các phần sau về ngày công lao động trong sản xuất cà phê. Trong phần này, tình trạng hộ giàu, nghèo, trung bình cũng được đề cập đến theo đánh giá định tính của chính chủ hộ, của người đi điều tra và cán bộ địa phương. Thông tin này sau đó sẽ được so sánh với tổng thu nhập của hộ gia đình do nhóm nghiên cứu tính toán để thấy rõ tình trạng của hộ. Thông tin về tình trạng thu nhập của hộ là rất quan trọng để đánh giá mức độ sử dụng các nguồn lực của hộ trong những điều kiện kinh tế khác nhau. - Tình hình sử dụng đất: Bảng hỏi tập trung trước hết vào các thông tin chung về tổng diện tích đất nông nghiệp, đất trồng cà phê trong các mảnh khác nhau. Ngoài thông tin về diện tích, phần này cũng đề cập đến các loại đất, đá mẹ, độ dốc khác nhau trong từng mảnh ruộng. Những thông tin về sản lượng cà phê trong 3 năm, thu nhập của hộ trong 3 năm và tổng ngày công lao động vụ 2003-04 theo từng công đoạn chăm sóc khác nhau (có so sánh với năm 2002-03) cũng được thu thập ở đây nhằm có một bức tranh chung về tình hình sản xuất cà phê. Mặt khác những thông tin về thu nhập và chi phí lao động cũng giúp nhóm nghiên cứu phân tích được tác động của việc sử dụng các nguồn lực đến kinh tế hộ gia đình. - Thông tin về thực trạng sử dụng nước (chỉ tập trung vào 1 mảnh ruộng chính): Phần này đề cập đến các thông tin chung như phương pháp tưới, nguồn nước, số lượng tưới, chu kỳ tưới. Các câu hỏi giành riêng cho phương pháp tưới phun mưa và phương pháp tưới gốc và các thông tin về nguồn nước cụ thể (thuỷ lợi, giếng...), các loại công cụ sử dụng trong tưới nước cũng được nêu ra để tính lượng và chi phí về nước sử dụng thực tế trong sản xuất cà phê của vụ. Ngoài ra, phần này cũng nêu ra các câu hỏi định tính như có đủ nước tưới không, việc thiếu nước tưới có ảnh hưởng như thế nào đến cây cà phê và khó khăn trong việc tưới nước. - Thông tin về việc sử dụng phân bón: phần này tập trung vào các thông tin như số lượng bón trong mỗi lần bón, thời gian bón phân, giá phân bón cho các loại phân khác nhau. Lượng phân bón của các loại cũng được so sánh với mức của năm 2002. Các thông tin về việc chuyên chở phân bón cũng được để cập đến để thấy được tổng chi phí bón phân của các hộ nông dân. - Thông tin về việc sử dụng thuốc trừ sâu: loại thuốc, nhãn hiệu, số lượng phun, thời gian phun và giá thuốc là những thông tin định lượng chính trong bảng hỏi về thuốc trừ sâu. Những thông tin về số lượng phun thuốc cũng được so sánh với năm 2002. Các thông tin về biện pháp sử dụng thuốc phòng trừ sâu bệnh tổng hợp, biện pháp chuyên chở và dự trữ thuốc trừ sâu cũng được đề cập đến nhằm có bức tranh tổng thể về các biện pháp phòng trừ sâu bệnh và tổng chi phí cho việc sử dụng thuốc trừ sâu. - Thông tin về dịch vụ khuyến nông: các thông tin chung về dịch vụ khuyến nông tổng thể, dịch vụ khuyến nông cho từng loại đầu vào sản xuất cà phê đều được đề cập đến trong phần này với những nội dung chính tập trung vào số lần sử dụng trong năm và chi phí sử dụng cho từng nguồn thông tin khuyến nông khác nhau. Phần này cũng nêu ra các câu hỏi định tính như mong đợi của hộ về dịch vụ khuyến nông, đường truyền thông tin khuyến nông ở địa phương... - Câu hỏi mở: một số câu hỏi mở được đề cập ở đây là việc xây dựng kế hoạch chi tiêu cho các đầu vào sản xuất cà phê, mức giá hoà vốn trong sản xuất cả phê vối, và việc sử dụng các nguồn đầu vào này có ảnh hưởng như thế nào đến môi trường xung quanh. Những thông tin này được thu thập để biết được đánh giá của hộ nông dân đối với tác động của việc sử dụng đầu vào đến môi trường và kinh tế hộ. Trên cơ sở đó có thể so sánh với các số liệu định lượng đã lấy được trong các phần trên và ý kiến của chuyên gia về vấn đề này. Nội dung họp chuyên gia Ngoài các bảng hỏi phỏng vấn hộ, nhóm nghiên cứu cũng tổ chức các cuộc họp chuyên gia. Các cuộc họp chuyên gia với các trung tâm khuyến nông tỉnh và 2 huyện phỏng vấn. Nội dung của các cuộc họp này tập trung vào: (i) cơ cấu tổ chức, trình độ cán bộ của trung tâm; (ii) những thông tin chung về việc chuyển giao kỹ thuật trồng và chăm sóc cà phê: kênh nhận thông tin, kênh chuyển giao, đối tượng chuyển giao, hình thức chuyển giao, chi phí chuyển giao...; (iii) các thông tin cụ thể về kỹ thuật sử dụng phân bón (loại phân, thời gian bón cho từng loại đât, tuổi cây, năng suất khác nhau); kỹ thuật sử dụng thuốc trừ sâu (phương thức phun, thời gian phun cho các loại bệnh và năng suất khác nhau, kỹ thuật sử dụng phương pháp phòng trừ sâu bệnh tổng hợp); kỹ thuật tưới nước. Nhóm nghiên cứu cũng tổ chức họp chuyên gia với các Viện nghiên cứu như Viện Khoa học Kỹ thuật Tây nguyên, Trạm Nghiên cứu đất thuộc Viện Nông hoá Thổ nhưỡng. Các câu hỏi tập trung vào những lĩnh vực sau: (i) cơ cấu tổ chức, trình độ cán bộ, mạng lưới chuyển giao công nghệ của đơn vị; (ii) các thông tin về chuyển giao công nghệ: phương thức chuyển giao, loại thông tin chuyển giao, tần suất chuyển giao, đối tượng chuyển giao, mối quan hệ với các trung tâm khuyến nông; (iii) các thông tin cụ thể kỹ thuật như tỉ lệ lấy chất dinh dưỡng của cà phê Vối ở Tây nguyên, tỉ lệ chất dinh dưỡng thấm xuống đất ở các điều kiện đất, tuổi cây, năng suất khác nhau... d. Thảo luận về các vật tư/tài liệu sử dụng lấy từ bên ngoài (số liệu tham khảo của WASI, NISF, AEC + nêu rõ độ chính xác của số liệu) 6.2. Các biện pháp phân tích số liệu a. Bản đồ sử dụng, nêu rõ tỷ lệ và hệ phóng + nguồn cung cấp bản đồ (tham khảo + ngày) b. Các biện pháp phân tích thống kê (kiểm trình giá trị “t”, biểu đồ định tính, phân tích tương quan, phân tích phương sai ANOVA một chiều). Biện pháp kiểm định giá trị “t”, bao gồm hai biện pháp sau: + Kiểm định giá trị “t” một đuôi: được sử dụng để so sánh xem có sự khác biệt giữa giá trị trung bình của mẫu so với giá trị trung bình đã biết của tổng thể. Chẳng hạn như có thể kiểm định xem lượng nước sử dụng trung bình cho cà phê ở huyện Krong Ana có khác mức nước do Viện Khoa học Nông nghiệp Tây Nguyên (WASI) khuyến cáo hay không. + Kiểm định giá trị “t” hai đuôi: phương pháp này được sử dụng để kiệm định sự khác biệt giữa hai giá trị trung bình của hai nhóm mẫu thu thập. Chẳng hạn như có thể kiểm định lượng thuốc trừ sâu sử dụng cho huyện Krong Ana có khác huyện CưMgar hay không. Biện pháp phân tích phương sai ANOVA Phương pháp được sử dụng để so sánh giá trị trung bình của 3 nhóm mẫu độc lập trở lên. Chúng ta có thể kiểm định xem có sự khác biệt về thống kê của lượng nước sử dụng ở 4 xã. Nếu sắc xuất p value lớn hơn 0,05 thì chúng ta chấp nhận giả thiết Ho, tức là không có sự khác biệt về lượng nước sử dụng cho trồng cà phê ở 4 xã nghiên cứu. Phân tích tương quan (Correlation analysis). Phương pháp này dùng để phân tích mối quan hệ giữa hai biến. Chẳng hạn như chúng ta có thể xem xét mối quan hệ giữa tổng thu nhập của hộ và tổng chi phí cho các đầu vào sản xuất cà phê. Mối quan hệ này có thể là dương hoặc âm tuỳ theo từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Ở đây chúng ta có thể sử dụng phương pháp kiểm định Pearson. Giá trị Pearson sẽ chạy trong khoảng -1 đến +1. Nếu giá trị Pearson = -1, mối tương quan là nghịch hoàn toàn. Nếu giá trị Pearson = +1, mối tương quan là thuận hoàn toàn. PHẦN II: THỰC TIỄN SỬ DỤNG CÁC NGUỒN LỰC NƯỚC, PHÂN BÓN VÀ THUỐC TRỪ SÂU CHO SẢN XUẤT CÀ PHÊ ĐẮK LẮK Mô tả nông hộ Tại hai huyện điều tra, phần lớn chủ hộ là nam giới, chiếm khoảng 84% tổng số hộ, chỉ có 16% là nữ giới. Trong đó, huyện Krong Ana chỉ có 77% chủ hộ là nam trong khi ở huyện CuMgar, con số này lên tới 90%. Độ tuổi trung bình của chủ hộ được phỏng vấn là khoảng 45 tuổi. 96% nằm trong độ tuổi lao động (nam từ 16 đến 60, nữ từ 16 đến 55). Điều này cho thấy hai huyện điều tra đều có tiềm năng lao động cho sản xuất nông nghiệp. Độ tuổi phân bố khác biệt đôi chút theo huyện và theo giới. Chủ hộ là nam giới có độ tuổi trung bình 45 trong khi nữ giới là 43. Độ tuổi trung bình chủ hộ ở hai huyện Krong Ana và CuMgar là 43,5 và 46 (xem hình 2 và 3). Tính theo nhóm thu nhập, độ tuổi trung bình của hộ thu nhập cao, trung bình và thấp lần lượt là 46,44 và 47. Trong số các hộ được phỏng vấn, có tới 91% nhập cư từ nơi khác đến, chủ yếu từ miền Trung (Nghệ An, 32%; Quảng Ngãi, 18%, Hà Tĩnh, 14%). Chỉ có huyện Krong Ana là có hộ dân địa phương chính gốc, chiếm khoảng 18% tổng số hộ trong huyện. Trong khi đó, ở CuMgar, tất cả các hộ điều tra đều là dân nhập cư. Tính trung bình, các hộ nhập cư cách đây khoảng 25 năm, đủ dài để định cư và phát triển sản xuất. Tình trạng nhập cư còn khác biệt theo dân tộc. 75% só hộ dân tộc được phỏng vấn là dân địa phương gốc, chỉ có 1 hộ nhập cư từ Nghệ An cách đây 17 năm Số thành viên trung bình trong các hộ khu vực điều tra là 5 người/hộ, với 3,4 là người trưởng thành. Ở hai huyện Krông Ana và CuMgar, số thành viên trung bình mỗi hộ lần lượt là 4,5 và 5,4 người, số người trưởng thành là 3 và 3,8 người và trẻ em dưới 16 tuổi là 1,5 và 1,6 người. Điều này cho thấy lực lượng lao động khá dồi dào ở vùng điều tra. Tuy nhiên, nguồn lao động trong khu vực còn phụ thuộc vào số người trưởng thành còn lại trong gia đình tham gia vào hoạt động nông nghiệp. Mặc dù 100% số người được phỏng vấn cho biết trước đây họ tham gia vào sản xuất nông nghiệp nhưng chỉ có 2,4 trong số 5 thành viên hiện nay là nông dân. Điều tra cũng cho thấy, rất nhiều người trưởng thành (đặc biệt là thanh niên) đã ra thành phố lớn làm việc và học tập chứ không ở nhà làm nông nghiệp. Chỉ có lúc thu hoạch khi quá hiếm lao động hoặc chi phí sản xuất quá cao, một số người có thể trở về giúp đỡ gia đình. Khi phân loại hộ theo nhóm, rất khó để có thể thống nhất các tiêu chí phân hộ giàu, nghèo và trung bình. Nên ban đầu, nghiên cứu chỉ dựa vào quan sát của người điều tra, chính quyền địa phương và nong dân để xác định nhóm hộ. Theo cách phân biệt này, hầu hết các hộ ở đây đều thuộc nhóm hộ trung bình, chiếm 80% trong khi hộ giàu và hộ nghèo chỉ chiếm lần lượt 11 và 9%. Tất cả các hộ dân tộc thiểu số đều thuộc nhóm hộ trung bình. Tuy nhiên, do tiêu chí phân loại không rõ ràng nên trong quá trình phân tích, nhóm nghiên cứu đã chia số hộ điều tra thành 3 nhóm dựa vào thu nhập hàng năm của hộ lấy từ kết quả phỏng vấn, đó là nhóm thu nhập thấp, trung bình và cao. Số lượng hộ trong mỗi nhóm và thu nhập trung bình của hộ được trình bày trong bảng sau. Bảng 1: Thu nhập trung bình của 3 nhóm hộ (000 đ)   Biến số  Số quan sát  %  GT trung bình  Độ lệch chuẩn  Min  Max   Nghèo  27  33.75  17884  4152  3400  23000   Trung bình  27  33.75  31084  5055  23900  43500   Giàu  26  32.5  77515  36562  44100  200000   Theo Ngân hàng Thế giới, chuẩn nghèo quốc tế là 1 USD/người/ngày, tương đương với 6 triệu đồng/người/năm. Với số lượng thành viên trung bình trong hộ ở Đắk Lắk là 5 người, thu nhập trung bình của hộ thoát nghèo là phải trên 30 triệu đồng/hộ/năm. Kết quả nghiên cứu cho thấy có tới khoảng 30% số hộ điều tra ở đây có thu nhập dưới 30 triệu/năm, nằm trong mức nghèo thế giới. Nhưng người lại nhóm hộ giàu chiếm 33% có thu nhập rất cao, cá biệt có hộ thu nhập lên tới 200 triệu đồng/năm. Có tới 5% số hộ có thu nhập trên 100 triệu/năm. Điều này cho thấy chênh lệch giàu nghèo ở khu vực này khá lớn. Phỏng vấn nông dân cho thấy, sở dĩ khoảng cách thu nhập khác biệt như vậy phần lớn là do thu nhập từ cà phê tăng đột biến ở một số hộ vào khoảng giữa những năm 90. Sau khủng hoảng, nhiều hộ vẫn duy trì được thu nhập khá, tuy không được như trước nhưng ngược lại, một số hộ còn nghèo hơn trước đây. Ngoài ra, một phần thành viên trong gia đình ra thành phố cũng gửi tiền về nhà, đây cũng là nguồn thu nhập lớn của một số hộ. Trình độ giáo dục của các hộ điều tra khá thấp. Có tới 55% số hộ mới tốt nghiệp cấp II và 30% tốt nghiệp cấp I. Chỉ có 10% tốt nghiệp cấp III và 1% có bằng đại học. Không có ai tốt nghiệp từ cao học trở lên. Trình độ giáo dục cũng khác biệt giữa các huyện. Krong Ana có trình độ giao dục cao hơn CuMgar với 1 người tốt nghiệp đại học, 1 người có bằng cao đẳng và 7 người tốt nghiệp câp III. Trong khi đó, 62,5% số người điều tra ở CuMgar chỉ tốt nghiệp trường cấp II và 3,7% tốt nghiệp cấp I. Người Kinh (với 59% tốt nghiệp cấp II và không có ai mù chữ) có xu hướng học cao hơn người dân tộc Edê (với 20% người mù chữ và chỉ có 40% tốt nghiệp cấp II). Phụ nữ có trình độ giáo dục cao hơn nam giới chút ít với 55 và 58% nam giới và nữ giới có bằng cấp II và 9 và 15% tốt nghiệp trung học. 2. Tình hình sử dụng đất. Diện tích đất trung bình trên 1 hộ ở hai huyện điều tra khoảng 1,45 ha, trong đó 1,15 ha dành cho sản xuất cà phê, chiếm 79%. Tình hình sử dụng đất có khác biệt rõ rệt ở hai huyện. Ở Krong Ana, hầu hết đất được giành cho sản xuất cà phê trong khi ở CuMar, chỉ có 68% tổng diện tích đất nông nghiệp giành cho sản xuất cà phê, cho thấy xu hướng đa dạng hoá cao hơn ở huyện CuMgar. Có tới 96% số hộ ở đây đều đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tình hình sử đụng đất giữa các nhóm hộ cũng khác nhau. Biểu đồ 8 cho thấy hộ có thu nhập càng cao thì càng có xu hướng dành ít đất hơn cho sản xuất cà phê. Trong khi đó, nhóm hộ thu nhập thấp nhất lại giành toàn bộ đất cho sản xuất cà phê, con số này của nhóm hộ trung bình và hộ giàu là 79% và 74%. Mức độ tương quan giữa đa dạng hoá và thu nhập của hộ sẽ được chứng minh bằng thống kê trong phần phân tích cụ thể về thu nhập sau). Diện tích đất của nhóm người Kinh (1,5 ha tổng diện tích đất NN/hộ và 1 ha cho cà phê) có xu hướng cao hơn nhóm dân tộc (0,5 ha/hộ). Tổng diện tích đất trung bình/hộ là 1,45 ha, chia thành 1,7 mảnh, tương đương với 0,85 ha/mảnh. Quy mô đất cà phê cao hơn chút ít 0,875 ha/mảnh. Đất nông nghiệp ở huyện Krong Ana manh mún hơn huyện CuMgar. Như đã đề cập ở trên, hầu hết đất ở Krong Ana dành cho sản xuất cà phê, với diện tích trung bình 0,74 ha/mảnh. Ở CuMgar, quy mô đất trồng cà phê là 1 ha/mảnh và quy mô đất nông nghiệp là 0,93 ha/mảnh. Diện tích đất của các nhóm thu nhập cũng khác nhau. Nhóm thu nhập thấp có quy mô đất nhỏ, 0,6ha/mảnh. QUy mô đất nông nghiệp và đất trồng cà phê của hộ trung bình là 0,75 và 0,77 ha/mảnh, so với quy mô rất cao của hộ thu nhập cao lần lượt là 1,37 và 1,5 ha/mảnh. Điều này phản ánh xu hướng tập trung đất của nhóm thu nhập cao. Tính trung bình, cây cà phê được trồng khoảng 16 năm ở 2 huyện, với cây lâu năm nhất là 25 năm và non nhất là 6 năm. Tuổi cây cà phê ở huyện Krong Ana cao gấp 1,2 lần huyện CuMgar. Như vậy, cà phê ở các hộ điều tra đều đã trưởng thành và già, trồng chủ yếu trên đất đỏ bazal. 3. Thu nhập và chi phí Khác với xu thế tăng sản lượng cà phê liên tục từ giữa thậm kỷ 90 đến năm 2002, kể từ năm 2003 sản xuất cà phê có xu hướng giảm. Có một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Trước hết, khi giá cà phê liên tục giảm từ năm 1998 xuống mức thấp kỷ lục năm 2002, đầu tư vào sản xuất cà phê do đó cũng giảm liên tục. Thứ hai, chính sách của chính phủ cũng khuyến khích giảm diện tích trồng cà phê ở những khu vực không thuận lợi xuống khoảng 450.000 ha trồng cà phê cả nước, điều này cũng khiến sản lượng cà phê giảm theo. Chính vì vậy sản lượng cà phê năm 2004 ở những vùng này đã giảm 14% so với năm 2003. Năm 2005 sản lượng cà phê ước tính đạt bằng năm 2004 (2.8 tấn/hộ). Tuy thời tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều trang trại trồng cà phê, song sản lượng ước tính năm 2005 của vùng điều tra có thể sẽ ngang bằng với năm 2004 do khu vực này có nhiều hộ sinh sống gần nguồn nước, hoặc có nguồn nước tưới ổn định từ hệ thống nước tưới tiêu công cộng. Nếu phân theo huyện, năng suất cà phê trung bình 3 năm của Krong Ana cao hơn CuMgar, đặc biệt là năm 2003 năng suất cà phê của Krong Ana cao gấp 1,3 lần so với CuMgar. Tuy nhiên, do diện tích đất trồng cà phê trung bình năm 2004 của CuMgar (1,3ha/hộ) cao hơn Krong Ana (1ha/hộ) tổng sản lượng cà phê bình quân hộ của CuMgar vì thế cùng cao hơn so với Krong Ana (3,14 tấn so với 2,95 tấn). Năng suất cà phê không có sự khác biệt nhiều giữa hộ giàu và hộ trung bình. Tuy nhiên, do diện tích đất trồng cà phê năm 2004 của nhóm hộ giàu cao hơn rất nhiều so với nhóm hộ nghèo (gấp 4 lần) và nhóm hộ trung bình (gấp 2,3 lần) nên tổng sản lượng cà phê bình quân của hộ giàu cao gấp 4,6 lần so với hộ nghèo và 2,1 lần so với hộ trung bình. Năng suất cà phê của hộ nghèo rất thấp, chỉ đạt 2 tấn/ha. Nguyên nhân chính là do mức đầu tư vào cây cà phê của hộ nghèo giảm trước tín hiệu giá cà phê sụt giảm vào cuối thập niên 90. Thu nhập Bảng 2: Tổng thu nhập năm 2003-2004 từ các nguồn khác nhau #  Nguồn thu nhập  2003  2004     Giá trị (000 d)  %  Giá trị (000 d)  %    Cà phê  32283  79.99  33200  79.58    Lương thực  688  1.7  700  1.68    Chăn nuôi  2869  7.11  3040  7.29    Cây trồng khác  3169  7.85  3410  8.17    Làm thuê, phi NN  1350  3.35  1369  3.28    Tổng  40358  100  41719  100   Nhìn chung, tổng thu nhập bình quân hộ năm 2004 có cao hơn chút ít so với năm 2003 (chênh lệch khoảng 1,4 triệu VNĐ). Cơ cấu tổng thu nhập không khác nhau nhiều trong hai năm 2003 và 2004. Thu nhập từ sản xuất cà phê chiếm gần 80% tổng thu nhập trong cả hai năm. Chăn nuôi và trồng trọt cũng là những nguồn thu nhập quan trọng, chiếm khoảng 8% tổng thu. Bảng 3: Nguồn thu nhập phân theo huyện Nguồn thu nhập   Krong Ana  CuMgar    2003  2004  2003  2004      Giá trị (000 đ)  %  Giá trị (000 đ)  %  Giá trị (000 đ)  %  Giá trị (000 đ)  %   Cà phê  33123  92.28  29838  90.64  31485  70.58  36399  72.67   Lương thực  0  0.00  0  0.00  1341  3.01  1366  2.73   Chăn nuôi  1205  3.36  1518  4.61  4451  9.98  4488  8.96   Cây trồng khác  0  0.00  0  0.00  6183  13.86  6654  13.28   Làm thuê, phi NN  1564  4.36  1564  4.75  1146  2.57  1183  2.36   Tổng  35892  100  32920  100  44607  100  50098  100   Tổng thu nhập hộ là rất khác nhau trong 2 huyện. Ở huyện CuMgar, tổng thu nhập hộ trong năm 2004 cao gấp 1,12 lần so với năm 2003, trong khi ở huyện Krong Ana con số này có thấp hơn đôi chút so với năm 2003. Sự khác biệt chủ yếu ở thu nhập từ sản xuất cà phê. Thu nhập từ sản xuất cà phê của CuMgar tăng hơn 2% trong năm 2003-2004 trong khi ở Krong Ana lại bị giảm mất gần 2%. Năm 2003, tổng thu nhập hộ ở huyện CuMgar cao gấp 1,24 lần so với huyện Krong Ana, trong khi đó con số này của năm 2004 là 1,52 lần. Thông tin chi tiết về nguồn thu nhập năm 2004 sẽ được phân tích cụ thể ở phần dưới đây. Phân tích chuyên sâu về các nguồn thu nhập cho thấy cây cà phê vẫn là nguồn thu nhập chính. Tỷ trọng cà phê trong tổng thu nhập năm 2004 của Krong Ana cao hơn CuMgar 18%. Điều này cho thấy sự phụ thuộc rất nhiều của Krong Ana vào sản xuất cà phê, mặc dù sự phụ thuộc này đã giảm dần từ 92,3% năm 2003 xuống còn 90,6% năm 2004. Tuy nhiên, giá trị tuyệt đối của cây cà phê trong tổng thu nhập huyện CuMgar lại cao gấp 1,22 lần so với huyện Krong Ana. Điều này cho thầy CuMgar có xu hướng đa dạng hóa thu nhập cao hơn Krong Ana. Có thể thấy rõ xu hướng này trong Biểu đồ 11. Thu nhập từ chăn nuôi và trồng trọt của huyện CuMgar chiếm 22.2% năm 2003 và 24% năm 2004, trong khi đó thu nhập từ cây lương thực và các loại cây màu khác ở huyện Krong Ana chỉ là con số không, còn thu nhập từ chăn nuôi thì vẫn còn rất khiêm tốn (lần lượt là 3,4% và 4,6% trong năm 2003 và 2004). Đây cũng là một trong những nguyên nhân giải thích tại sao tổng thu nhập của CuMgar lớn hơn Krong Ana. Cà phê vẫn là nguồn thu nhập chính trong các nhóm thu nhập. Đóng góp của cà phê trong tổng thu nhập của nhóm hộ nghèo và hộ trung bình cao hơn so với nhóm hộ giàu (lần lượt là 86%, 87% và 75%). Thu nhập từ trồng trọt trong số các hộ nghèo và hộ trung bình là rất thấp (chỉ chiếm 1% và 4%) trong khi ở các hộ giàu con số này khá cao, đạt 15%. Thu nhập từ chăn nuôi của hộ nghèo chiếm tới 10% tổng thu nhập. Điều này cho thấy nhóm hộ giàu có xu hướng đa dạng hoá thu nhập hơn hai nhóm còn lại. Điều này được giải thích rõ ràng qua bảng phân tích tương quan giữa tổng thu nhập năm 2004 với tỷ trọng diện tích đất trồng cà phê và tổng diện tích đất nông nghiệp của hộ. Kết qủa cho thấy có sự tương quan nghịch giữa hai biến này, với mức ý nghĩa 99% (kiểm định 2 đuôi) và hệ sô biến -0.52, nghĩa là hộ càng giàu thì mô hình sử dụng đất nông nghiệp của hộ càng được đa dạng hóa. Bảng 4: Tương quan giữa tỉ lệ đất cà phê/đất NN với thu nhập hộ   totincome04  prop   totincome04  Tương quan Pearson  1  -.520(**)    Mức ý nghĩa (2 đuôi)  .  .000    N  80  80   prop  Tương quan Pearson  -.520(**)  1    Mức ý nghĩa (2 đuôi)  .000  .    N  80  80   ** Tương quan có ý nghĩa ở mức 0.01 (2 đuôi) Chi phí sản xuất Trong trường hợp không sử dụng lao động gia ìinh, chi phí sản xuất năm 2004 (khi sử dụng biện pháp tưới phun) là 7.258 đồng/kg, cao hơn so với sử dụng biện pháp tưới gốc (6.589 đồng/kg). Để hiểu được nguyên nhân của sự khác biệt này, có thể tham khảo Chương quản lý nước. .  Bảng 5: Phân bổ chi phí sản xuất cà phê không sử dụng lao động gia đình         #  Hạng mục  Chi phí (000 đ/tấn)  Tưới gốc (%)  Tưới phun (%)   1  PP tưới gốc  2152  32.66         PP tưới phun  2821     38.87   2  Thuốc trừ sâu  208  3.16  2.87   3  Phân bón  3009  45.67  41.46   4  Làm cỏ  178  2.70  2.45   5  Làm luống  85  1.29  1.17   6  Tỉa cành  212  3.22  2.92   7  Thu hoạch  603  9.15  8.31   8  Vận chuyển  141  2.14  1.94                      Tổng chi phí-tưới phun  7257  100.00         Tổng chi phí-tưới gốc  6588     100.00   Trong số chi phí này, phân bón chiếm tỷ lệ cao nhất khoảng 41%, kế đến là nước tưới (39%) và thu hoạch (8%). Các hoạt động còn lại mỗi thứ chỉ chiếm từ 2%-3%, chủ yếu là chi phí thuê lao động. Chi phí về nước tưới, phân bón và thuốc trừ sâu sẽ được phân tích kỹ trong phần tiếp theo của báo cáo. Theo một cuộc điều tra do SDC_MISPA tiến hành vào năm 2003, chi phí sản xuất bình quân vào khoảng 8.020 đ/kg, có cao hơn đôi chút so với năm 2004, mặc dù giá phân bón và xăng dầu trong năm 2004 cao hơn năm 2003 (Xem Bảng 6). Sở dĩ như vậy là do cuộc điều tra năm 2003 không tính đến chi phí về đất đai, khấu hao đất đai, vay vốn, thuế sử dụng đất. Do vậy khó có thể so sánh nếu sử dụng các phương pháp tính toán khác nhau. Bảng 6: Đơn giá các loại phân bón năm 2004      Loại phân bón  Đơn giá (d/kg)   SA  2761   Urea  4354   Thermo-Phosphate  1992   Super-phosphate  1600   KCl  3859   NPK  4418   Nitrate  3867   Lime  3250   Manure  286   DAP  4200   Loại khác  4433       Trong trường hợp sử dụng lao động gia đình, tổng chi phí lớn hơn rất nhiều. Với biện pháp tưới phun, chi phí là 8.642 đ/kg trong khi với biện pháp tưới gốc chi phí là 8.026 đ/kg. Sự khác biệt giữa hai trường hợp này cho thấy lao động gia đình cũng là một nguồn quan trọng. Lao động gia đình sử dụng để làm cỏ, bảo dưỡng bồn tưới, tỉa thưa, thu hoạch và vận chuyển cũng chiếm tỷ lệ đáng kể. Chi phí lao động gia đình cao nhất là trong tỉa thưa, vận chuyển và thu hoạch, lần lượt chiếm 57%, 55% và 50% tổng chi phí nhân công. Kế đến là chi phí về làm cỏ và bảo dưỡng bồn tưới cây (lần lượt là 47% và 42%). Bảng 7: Chi phí sản xuất cà phê (có sử dụng lao động gia đình)         #  Chi phí  Chi phí (000 đ/tấn)  Tưới phun (%)  Tưới gốc (%)   1  PP tưới gốc  2321  28.92         PP tưới phun  2936     33.98   2  Thuốc trừ sâu  209  2.6  2.42   3  Phân bón  3009  37.49  34.82   4  Làm cỏ  334  4.16  3.87   5  Làm luống  147  1.84  1.71   6  Tỉa thưa  491  6.11  5.68   7  Thu hoạch  1205  15.01  13.94   8  Vận chuyển  312  3.89  3.61                      Tổng chi phí-tưới phun  8643  100.00         Tổng chi phí-tưới gốc  8027     100.00   Chi phí sản xuất cà phê khác nhau rất nhiều ở cả hai huyện, trong cả hai trường hợp áp dụng hai biện pháp tưới lẫn chi phí lao động gia đình. Với biện pháp tưới phun, có lao động gia đình, tổng chi phí của Krong Ana cao hơn CuMgar 335 đ/kg. Trong trường hợp không sử dụng lao động gia đình, chênh lệch thấp hơn nhiều (161 đ/kg). Với biện pháp tưới gốc, chênh lệch về tổng chi phí giữa hai huyện là không đáng kể, cho dù chi phí của Krong Ana có cao hơn đôi chút. Trong trường hợp sử dụng lao động gia đình, khoảng cách về chi phí vẫn còn lớn hơn so với khi không sử dụng lao động gia đình, ở mức 136 đ/kg. Qua so sánh ở trên có thể thấy rằng sự khác biệt về chi phí nhân công giữa Krong Ana và CuMgar khi áp dụng biện pháp tưới phun cao hơn so với khi áp dụng biện pháp tưới gốc. Bảng 8: Chi phí sản xuất cà phê không sử dụng lao động gia đình phân theo huyện (000 đ/tấn)          #  Activities  Không sử dụng lao động gia đình  Có sử dụng lao động gia đình     Krong Ana  CuMgar  Krong Ana  CuMgar   1  PP tưới gốc  2313.504  2008.698  2511.033  2151.424      PP tưới phun  2984.595  2592.937  3116.929  2683.548   2  Thuốc trừ sâu  246  170  246  170   3  Phân bón  2836  3244  2836  3244   4  Làm cỏ  208  157  359  318   5  Làm luống  67  102  145  150   6  Tỉa thưa  178  233  353  574   7  Thu hoạch  643  571  1272  1151   8  Vận chuyển  160  93  397  100                         Tổng chi phí-tưới phun  7324  7163  8725  8390      Tổng chi phí-tưới gốc  6653  6579  7922  7715   Thực tiễn tưới nước của các hộ điều tra Nông dân trồng cà phê Đắk Lắk thường sử dụng hai biện pháp tưới nước chính là tưới gốc và tưới phun mưa. tưới phun mưa là biện pháp được áp dụng rộng rãi nhất ở các nước trồng cà phê do rất dễ hoạt động ở những địa hình núi không bằng phẳng. Biện pháp này cũng cho hiệu quả cao do có khả năng tưới nước đều trên các ngọn cây. Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất của biện pháp này là chi phí đầu tư thiết bị rất tốn kém (trị giá của một hệ thống hoàn thiện la fkhoảng 1200 USD/ha cà phê), có nguy cơ bị mất nhiều nước, đặc biệt là trong điều kiện gió mạnh, tốn nhiên liệu do áp lực bơm phải rất khoẻ) (Bau& Hien, 2005). Ngoài ra, người trồng cà phê cũng áp dụng biện pháp tưới gốc. Biện pháp này có những ưu điểm sau: Đầu tư ban đầu thấp Không hao hụt nhiều nước nếu tưới đúng cách Không tốn nhiều nhiên liệu do không cần áp lực bơm quá khoẻ Không bị nhiều hao hụt do bay hơi vì nước được tưới trực tiếp vào hệ thống rễ Biện pháp này cũng có một số nhược điểm như sau: Đòi hỏi chi phí nhân cộng lớn để vận hành và chăm sóc bồn Hầu hết các nước sản xuất cà phê đều không muốn dùng biện pháp này bởi vì việc xây bồn xung quanh từng cây cà phê có thể gây hại đến hệ thống rễ (Bau& Hien, 2005). Tuy nhiên, có tới 85 % số hộ điều tra áp dụng phương pháp tưới gốc, chỉ có 15% áp dụng phương pháp tưới phun. Tất cả các hộ dân tộc đều áp dụng phương pháp tưới gốc, chỉ có người Kinh áp dụng phương pháp tưới phun. Số hộ áp dụng biện pháp tưới gốc ở hai huyện không khác nhau nhiều (82 % và 88 % số hộ ở Krong Ana và CuMgar). Lý do khiến cho Krong Ana sử dụng phương pháp tưới phun nhiều hơn là vì nhiều hộ nông dân ở đây ký hợp đồng sản xuất cà phê với các nông trường quốc doanh nên được hỗ trợ chi phí đầu tư trang thiết bị và hướng dẫn phương pháp tưới nước. Tuy nhiên, rất khó có thể rút ra kết luận do số lượng các hộ dùng biện pháp tưới phun mưa rất ít. Chỉ có thể đưa ra kết luận mang tính xu hướng. Điều này có thể thấy rõ phân bổ số hộ áp dụng các biện pháp tưới khác nhau theo các nhóm trong bảng sau. Bảng 9: Số hộ sử dụng các biện pháp tưới khác nhau trong năm 2004   Nhóm  Tưới phun  Tưới gốc   Tổng số  12  68   Dân tộc         Kinh  12  63   E-đê     5   Huyện         Krong Ana  7  32   CuMgar  5  36   Loại hộ         Nghèo  4  23   Trung bình  6  21   Giàu  2  24   Tỉ lệ hộ áp dụng biện pháp tưới gốc không khác nhau nhiều giữa nhóm thu nhập thấp và cao (85 và 92 %). Chỉ có nhóm thu nhập trung bình áp dụng biện pháp tưới phun nhiều hơn hai nhóm còn lại tới 22%. Mặc dù tỉ lệ hộ thu nhập cao áp dụng phương pháp tưới phun ít hơn nhóm có thu nhập thấp và trung bình nhưng đó cũng chỉ là xu hướng như đã trình bày ở trên, số hộ áp dụng biện pháp tưới phun hạn chế. Các hộ điều tra sử dụng các nguồn nước khác nhau: nguồn nước mặt (bồn chứa nước, công trình thuỷ lợi), và nước ngầm (giếng đào và giếng khoan). Có tới 88 % số hộ dùng nước ngầm (65% giếng đào và 23% giếng khoan). Chỉ có 1,2% số hộ dùng nước từ bồn chứa gần đó và 10% sử dụng nước của các công trình thuỷ lợi. Nguồn nước cũng được chia thành nước công cộng và tư nhân. Hầu hết số hộ đều sử dụng nguồn nước tư nhân (chiếm 85%). Chỉ có 15% số họ sử dụng các công trình thuỷ lợi hoặc nguồn nước công cộng do nhà nước đầu tư. Các hộ gia đình điều tra tưới khá nhiều lần trong cả năm 2003 và 2004. Có tới 65 % và 62.5 % số hộ tưới 4 lần trong hai năm 2003 và 2004. Có 1,25% số hộ tưới từ 6 lần trở lên trong 2 năm này. Sở dĩ số lượng tưới trong hai năm không khác nhau nhiều là do cả hai năm này đều là năm khô hạn với lượng mưa trung bình năm 2003 (1,680 mm) chỉ cao hơn năm 2004 chút ít (1,545 mm). Phân tích phân bổ lượng mưa theo tháng cho thấy đối với sản xuất cà phê, năm 2004 là năm khó khăn hơn nhiều do vào những tháng đầu năm và cuối năm khi bắt đầu mùa sản xuất cà phê, ở Đắk Lắk hầu như không có mưa, gây hạn hán lớn, làm giảm khả năng nở hoa của cây cà phê. Theo chuyên gia cà phê, nhìn vào biểu đồ phân bổ lượng mưa của hai năm này, nông dân nên tưới khoảng 2-3 lần vào giữa tháng 1 để kích thích hoa nở khoảng 70-80% và lần thứ hai vào tháng 2 để kích thích hoa nở nốt 20% còn lại. Đến tháng 3 và tháng 4, ở Đắk Lắk đã bắt đầu có mưa, đủ để quả phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế hầu hết các hộ đều tưới từ 4 lần trở lên, gây lãng phí nước nghiêm trọng. Các nhóm thu nhập áp dụng số lần tưới khác nhau. Nhóm thu nhập cao chỉ tưới 3-4 lần trong năm 2004. Trong số những hộ tưới 3 lần trong năm 2004, nhóm thu nhập cao chiếm tơi 58% so với 23 và 19% của nhóm thu nhập thấp và trung bình. Phân tích độ tương quan cũng cho thấy tương quan chặt chẽ giữa thu nhập và số lần tưới, với độ tin cậy tới 99% và (Pearson R = -0.317; p < 0.01). Nhóm thu nhập thấp tưới nhiều hơn hai nhóm kia rất nhiều, thậm chí có trường hợp tưới đến 7 lần trong năm 2004. Lượng nước Tại hai huyện điều tra, hộ nông dân tưới trung bình 820 lít/cây/lần đối với biện pháp tưới gốc và 630 lít/cây/lần đối với biện pháp tưới phun. Thực tế này có vẻ như trái ngược với bản chất của biện pháp tới phun là tốn nhiều nước hơn biện pháp tưới gốc. Nhưng trên thực tế, lượng nước tưới còn phụ thuộc vào nhận thức của hộ nông dân, lượng nước sẵn có và hỗ trợ của các dịch vụ khuyến nông. Như đã đề cập ở trên, phần lớn các hộ sử dụng biện pháp tưới phun ở Krong Ana được hỗ trợ kỹ thuật của các nông trường quốc doanh nên họ áp dụng hiệu quả hơn CuMgar. Bảng 11: Lượng nước trung bình áp dụng phương pháp tưới khác nhau   Biến số  Số quan sát  GT trung bình  Sai số  Min  Max   Lượng nước/cây-tưới gốc (m3)  68  0.82  0.31  0.48  1.45   Lượng nước/năm-tưới gốc (lít/ha)  68  3195  797  2123  5324   Lượng nước/năm - tưới phun (lít/ha)  12  2812  601  2000  4275   Lượng nước/cây-tưới phun (m3)  12  0.63  0.15  0.38  0.98   Khoảng cách giữa lượng nước tối thiểu và tối đa/cây của hai biện pháp này cũng khác nhau. Đối với các hộ dùng biện pháp tưới gốc, lượng tối thiểu là 480 lít/cây/lần tưới và lượng tối đa là 1450 lít/cây/lần tưới. Đối với hộ dùng biện pháp tưới phun mưa, số liệu này là từ 380 đến 980 lít/lần tưới/cây. Như vậy qua số liệu mô tả có thể thấy biện pháp phun mưa dường như hiệu quả hơn với lượng nước sử dụng ít hơn và khoảng cách giữa các hộ không lớn như các hộ dùng biện pháp tưới gốc. Lượng nước tưới hàng năm cho biện pháp tưới gốc là 3195.5 m3l/ha/year, lớn hơn nhiều so với hộ dùng biện pháp tưới phun mưa (2812 m3/ha/year). Tuy nhiên, độ giao động về lượng nước sử dụng hàng năm của hộ dùng biện pháp phun mưa (1140 m3-6,480 m3) cao hơn biện pháp tưới gốc (2122.5 m3-5324 m3). Bảng sau cho thấy sự khác biệt lượng nước sử dụng giữa các biện pháp tưới và giữa hai huyện. Đối với những hộ dùng biện pháp tưới gốc, lượng nước/cây tại Krong Ana thấp hơn rất nhiều so với CuMgar (654 và 959 lít/cây/lần tưới). Tình hình tương tự cũng diễn ra đối với các hộ dùng biện pháp phun mưa nhưng độ chênh lệch thấp hơn giữa hai huyện (610 và 654 lít/cây). Lượng nước hàng năm mà các hộ áp dụng hai biện pháp này ở Krong Âna cũng thấp hơn CuMgar (Bảng 12). Trong số các hộ dùng biện pháp tưới gốc, lượng nước tưới cao hơn ở nhóm thu nhập cao, trung bình và thấp ( 976, 735 và 722 lít/cây). Điều này được minh chứng rõ trong phân tích độ tương quan giữa tổng thu nhập và lượng nước sử dụng trong trường hợp tưới gốc. Tương quan này có ý nghĩa với độ tin cậy tới 99% (Pearson R=0.391, p<0.01). Bảng 12: Tương quan giữa lượng nước theo phương pháp tưới gốc và thu nhập hộ   totincome04  basin_tree   totincome04  Tương quan Pearson  1  .391(**)    Mức ý nghĩa (2 đuôi)  .  .001    N  80  68   basin_tree  Tương quan Pearson  .391(**)  1    Mức ý nghĩa (2 đuôi)  .001  .    N  68  68   ** Tương quan có ỹ nghĩa ở mức 0.01 (2 đuôi) Lượng nước hàng năm không cho thấy xu hướng như trên do mật độ cây của các nhóm thu nhập khác nhau. Trong khi lượng nước mà các hộ thu nhập thấp sử dụng hàng năm là 3,017 m3/ha thì nhóm thu nhập trung bình chỉ dùng 2,981 m3 và nhóm thu nhập cao dùng hết 3,553 m3. Tuy nhiên, do mật độ cây cà phê ở ba nhóm thu nhập thấp, trung bình vào cao lần lượt là 1116, 1110 và 1124 cây/ha, nên nhóm thu nhập cao có xu hướng dùng lượng nước hàng năm cho biện pháp tưới gốc nhiều hơn hai nhóm còn lại trong khi nhóm thu nhập thấp lại dùng nhiều nước hàng năm hơn nhóm thu nhập trung bình. Đối với các hộ dùng biện pháp tưới phun mưa, bức tranh này có khác đôi chút. Nhóm thu nhập cao vẫn dùng lượng nước lớn nhất (795 lít/cây) trong khi nhóm thu nhập thấp (634 lít/cây) dùng nhiều nước hơn nhóm thu nhập trung bình (569 lít/cây). Lượng nước hàng năm mà các hộ sử dụng cho biện pháp này tăng theo thu nhập (1,836, 2,420, and 5,950 m3 /ha cho 3 nhóm thu nhập thấp, trung bình và cao). Mối quan hệ này có ý nghĩa thông kê ở mức độ tin cậy 95% trong phân tích tương quan giữa thu nhập và lượng nước mà hộ sử dụng (Pearson R=0.391, p<0.05) Bảng 13: Tương quan giữa lượng nước theo phương pháp tưới phun và thu nhập hộ   totincome04  vol_sprinkler_tree   totincome04  Tương quan Pearson  1  .685(*)    Mức ý nghĩa (2 đuôi)  .  .014    N  80  12   vol_sprinkler_tree  Tương quan Pearson  .685(*)  1    Mức ý nghĩa (2 đuôi)  .014  .    N  12  12   * Tương quan có ỹ nghĩa ở mức 0.05 (2 đuôi). Các hộ sử dụng nguồn nước tư nhân dùng nhiều nước hơn các hộ sử dụng nguồn nước công cộng (với chênh lệch cho hai biện pháp tưới gốc và phun mưa là 50 và 70 lít/cây). Điều này là do nguồn nước công cộng chỉ cho phép người dân sử dụng một lượng nước nhất định. Các nông trường quốc doanh hoặc đơn vị cung cấp nước công cộng chỉ mở nguồn nước vài lần một tháng nên nông dân không được sử dụng nhiều như họ muốn. Bảng 14: Lượng nước sử dụng theo các nhóm    Tưới gốc  Tưới phun   Huyện  m3/cây  lit/ha  lít/ha  m3/cây   Krong Ana  0.654  2909  2163  0.610   CuMgar  0.959  3450  3720  0.654   Nhóm thu nhập               Nghèo  0.722  3017  1836  0.634   Trung bình  0.735 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docfinal_report_vn_28_10__5627.doc