Nghiên cứu hiệu quả của phản ứng hòa hợp để sử dụng kháng Globulin người tại bệnh viện Đa khoa trung ương Thái Nguyên

KẾT LUẬN Từ các kết quả nghiên cứu trên 100 bệnh nhân bị bệnh máu được truyền KHC trong quá trình điều trị và được làm PƯHH sử dụng AHG, chóng tôi rút ra một số kết luận sau: - Phát hiện được 5 bệnh nhân có PƯHH sử dụng AHG dương tính trên tổng số 100 bệnh nhân chiếm 5%. - Phát hiện thêm được 3 bệnh nhân có kết quả âm tính ở điều kiện 220C nhưng lại cho kết quả dương tính khi thực hiện PƯHH sử dụng AHG . - Tỷ lệ bệnh nhân có PƯHH sử dụng AHG dương tính ở nữ cao hơn nam (nữ: 8, 1%; nam: 1, 9%). - Tỷ lệ dương tính của PƯHH sử dụng AHG gặp nhiều nhất ở nhóm tuổi: 41 - 60 (9,3%). - Tỷ lệ dương tính của PƯHH sử dụng AHG găp nhiều ở nhóm bệnh nhân được truyền máu nhiều lần (<5lần: 3, 2%; > 5 lần: 8, 1%). KHUYẾN NGHỊ Để góp phần nâng cao hiệu quả truyền máu và hạn chế tối đa các phản ứng truyền máu do nguyên nhân miễn dịch, các cơ sở truyền máu trong toàn quốc cần triển khai thực hiện một cách nghiêm túc xét nghiệm PƯHH có sử dụng AHG trước khi truyền máu toàn phần, KHC cho bệnh nhân. Điều này cũng đó được quy định trong quy chế truyền máu năm 2007 mà Bộ Y Tế đã ban hành.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 24 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu hiệu quả của phản ứng hòa hợp để sử dụng kháng Globulin người tại bệnh viện Đa khoa trung ương Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 432 NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ CỦA PHẢN ỨNG HÒA HỢP ĐỂ SỬ DỤNG KHÁNG GLOBULIN NGƯỜI TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN Vũ Bích Vân*, Cao Minh Phương*, Tăng Bá Tùng*, Nguyễn Kiều Giang*, Nguyễn Thế Tùng** TÓM TẮT Mục tiêu: “Đánh giá hiệu quả của phản ứng hòa hợp có sử dụng kháng globulin người ở bệnh nhân được truyền khối hồng cầu để nâng cao chất lượng an toàn truyền máu”. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành trên các bệnh nhân được truyền khối hồng cầu tại khoa Huyết học lâm sàng Bệnh viện đa khoa trung ương Thái Nguyên, nghiên cứu mô tả cắt ngang, sử dụng các kỹ thuật định nhóm và phản ứng hòa hợp phát máu trên ống nghiệm và trên gelcard. Kết quả: Qua nghiên cứu phản ứng hoà hợp có sử dụng kháng globulin người trên 100 bệnh nhân được truyền máu tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên, chúng tôi thu được một số kết quả sau: - Phát hiện được 5 bệnh nhân có phản ứng hoà hợp sử dụng kháng globulin người dương tính trên tổng số 100 bệnh nhân, chiếm 5%. - Phát hiện thêm được 3 bệnh nhân có kết quả âm tính ở điều kiện 220C nhưng lại cho kết quả dương tính khi thực hiện phản ứng hoà hợp sử dụng kháng globulin người. - Tỷ lệ bệnh nhân có phản ứng hoà hợp sử dụng kháng globulin người dương tính ở nữ cao hơn nam (nữ: 8, 1%; nam: 1, 9%). - Tỷ lệ dương tính của phản ứng hoà hợp sử dụng kháng globulin người gặp nhiều nhất ở nhóm tuổi: 41 đến 60 (9, 3%). - Tỷ lệ dương tính của phản ứng hoà hợp sử dụng kháng globulin người gặp nhiều ở nhóm bệnh nhân được truyền máu nhiều lần (5 lần: 8, 1%). Kết luận: Thực hiện phản ứng hòa hợp có sử dụng kháng globulin người là cần thiết cho tất cả bệnh nhân phải truyền máu. Từ khoá: Phản ứng hoà hợp (PƯHH), kháng globulin người (AHG), Bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên. ABSTRACT RESEARCH EFFECT OF REACTION HARMONY USING ANTI HUMAN GLOBULIN AT THE THAI NGUYEN CENTRAL GENERAL HOSPITAL Vu Bich Van, Cao Minh Phuong, Tang Ba Tung, Nguyen Kieu Giang, Nguyen The Tung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 432 - 437 Objective: "Research effect of reaction harmony using anti human globulin at the patients received red blood cells to improve blood transfusion safety". Methods: The study was conducted on the patient who required blood transfusion at the department of clinical hematology of Thai Nguyen national hospital general, cross-sectional descriptive study, using the techniques of identify blood group and reaction harmony in vitro and in gelcard. Resultst:By studying the reaction harmony using anti human globulin for 100 patients who received blood at the Department 2 of Thai Nguyen Central general Hospital, The results were as followed: - Identify the 5 *Trung tâm Huyết học - Truyền máu - BVĐKTƯ Thái Nguyên, **Trường Đại học Y - Dược Thái Nguyên Tác giả liên lạc: ThS.BS Nguyễn Kiều Giang, ĐT: 0983171276, Email: Drgiangk27@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 433 patients positive with reaction use anti human globulin of total 100 patients, the rate is 5%. - Identify additional 3 patients’ negative results at 22oC, but positive results when performing reaction harmony using anti human globulin. - The percentage of patients with positive use reaction anti human globulin in women higher than men (women: 8.1%; men: 1.9 %). - The percentage of positive use anti human globulin met use in most age groups: 41 to 60 (9.3%). - The percentage of positive use anti human globulin met a lot of patients in multiple received bloods ( 5 times: 8.1%). Conclusions: To perform the reaction harmony using the anti human globulin is necessary for all patients who required blood transfusion. Key word: The reaction harmony, anti human globulin, Thai Nguyen Central General Hospital. ĐẶT VẤN ĐỀ Máu rất quan trọng và cần thiết cho cuộc sống, nhờ có truyền máu mà nhiều người bệnh đó được cứu sống, máu cần cho điều trị ngoại khoa, nội khoa, sản khoa khi triển khai một số kỹ thuật cao như ghép tạng, mổ tim... Máu quan trọng như vậy, nhưng truyền máu cũng có thể gây ra các tai biến nghiêm trọng nếu các nguyên tắc về truyền máu không được tuân thủ(5). Hiện nay, vấn đề an toàn truyền máu (ATTM) về mặt miễn dịch ngày càng được quan tâm, do vậy việc triển khai một số xét nghiệm trước truyền máu để nâng cao hơn nữa ATTM là thực sự cần thiết. Tại các nước tiên tiến trên thế giới ATTM về mặt miễn dịch được thực hiện một cách triệt để và hạn chế được tới mức thấp nhất các tai biến truyền máu, trong khi đó tại Việt Nam mới chỉ thực hiện được việc định nhóm máu hệ ABO, Rh (D), việc định nhóm máu của một số hệ nhóm máu khác và sàng lọc kháng thể bất thường chưa được thực hiện(3). Theo quy chế truyền máu năm 2007, các cơ sở truyền máu phải triển khai phản ứng hòa hợp (PƯHH) sử dụng kháng globulin người (AHG: anti human globulin) cho những bệnh nhân bị bệnh máu được truyền khối hồng cầu trong quá trình điều trị. Để đánh giá hiệu quả của xét nghiệm này trong việc đảm bảo an toàn truyền máu, thực hiện truyền máu có hiệu lực, chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục tiêu sau: “Đánh giá hiệu quả của phản ứng hòa hợp có sử dụng kháng globulin người ở bệnh nhân được truyền khối hồng cầu để nâng cao chất lượng an toàn truyền máu”. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tất cả các bệnh nhân được truyền khối hồng cầu tại khoa Nội 2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu - Thời gian nghiên cứu: từ tháng 6 đến tháng 10/2010. - Địa điểm nghiên cứu: Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Miêu tả cắt ngang. Các bước tiến hành nghiên cứu - Tất cả những bệnh nhân được chỉ định truyền khối hồng cầu, đều được định nhóm máu hệ ABO theo hai phương pháp (huyết thanh mẫu và hồng cầu mẫu), định nhóm máu hệ Rh (D). - Làm phản ứng hòa hợp ở 220C bằng phương pháp trong ống nghiệm hoặc trên gelcard và trong điều kiện sử dụng kháng globulin người. - Những trường hợp có phản ứng hòa hợp sử dụng kháng globulin người dương tính tiến hành làm nghiệm pháp Coombs trực tiếp để loại những trường hợp bệnh do nguyên nhân tự miễn đồng thời được thăm khám lâm sàng để loại những trường hợp có biểu hiện xuất huyết, tan máu và những trường hợp có sử dụng thuốc ức chế miễn dịch trong quá trình điều trị. - Những trường hợp có phản ứng hòa hợp sử dụng kháng globulin người dương tính được Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 434 báo cho các bác sĩ lâm sàng xem xét lại chỉ định truyền máu. - Lựa chọn đơn vị máu hòa hợp nếu có chỉ định của bác sĩ lâm sàng: + Chọn 10 đơn vị máu cùng nhóm máu hệ ABO, Rh(D) với bệnh nhân để tiến hành làm xét nghiệm chọn máu. + Nếu không chọn được đơn vị máu hòa hợp, tiếp tục báo cho bác sỹ lâm sàng xem xét lại chỉ định truyền máu. Trong trường hợp bệnh nhân thiếu máu nặng, không thể trễ hơn việc truyền máu, bác sĩ lâm sàng vẫn có chỉ định truyền, thì chọn những đơn vị máu có kết quả chọn máu ngưng kết ít nhất để truyền cho bệnh nhân. Các chỉ số nghiên cứu Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu Tuổi, giới, chẩn đoán, nhóm máu, mức độ thiếu máu. - Kết quả của phản ứng hòa hợp ở 220C và sử dụng kháng globulin người. + Tỷ lệ dương tính của phản ứng hòa hợp ở 220C và sử dụng kháng globulin người. + Các yếu tố liên quan đến tỷ lệ dương tính của phản ứng hòa hợp sử dụng AHG: Tuổi, giới, chẩn đoán, nhóm máu, số lần truyền máu. - Kết quả chọn máu khi phản ứng hòa hợp sử dụng AHG dương tính: Tỷ lệ bệnh nhân chọn được đơn vị máu hòa hợp. Các kỹ thuật được sử dụng trong nghiên cứu - Phản ứng hòa hợp ở 22C bằng phương pháp ống nghiệm. - Phản ứng hòa hợp sử dụng AHG trên gelcard. - Kỹ thuật làm nghiệm pháp Coombs trực tiếp trên gelcard. Các kỹ thuật xét nghiệm được thực hiện theo quy trình đang được áp dụng tại phòng xét nghiệm Miễn dịch phát máu, Trung tâm Huyết học truyền máu Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên.. Xử lý số liệu Số liệu được nhập và xử lý theo chương trình SPSS. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Đặc điểm của bệnh nhân bị bệnh máu được truyền khối hồng cầu (KHC) Bảng 1. Phân bố bệnh nhân được truyền KHC theo nhóm máu hệ ABO Nhóm máu Số BN Tỷ lệ (%) O 38 38,0 B 29 29,0 A 30 30,0 AB 3 3,0 Tổng số 100 100 Nhận xét: Bệnh nhân được truyền Khối hồng cầu gặp nhiều nhất là nhóm máu O (38%), thấp nhất là nhóm máu AB (3%). Kết quả thực hiện PƯHH cho bệnh nhân bị bệnh máu được truyền Khối hồng cầu Bảng 2. Tỷ lệ bệnh nhân được truyền Khối hồng cầu có PƯHH dương tính ở 22 C Phản ứng hòa hợp ở 22C Tổng số BN Số BN dương tính Tỷ lệ % 100 2 2,0 Nhận xét: Trong 100 bệnh nhân được làm phản ứng hoà hợp ở 22oC, gặp 2 bệnh nhân có phản ứng hoà hợp dương tính. Bảng 3. Tỷ lệ bệnh nhân được truyền Khối hồng cầu có PƯHH sử dụng AHG dương tính Phản ứng hòa hợp sử dụng AHG Tổng số BN Số BN dương tính Tỷ lệ % 100 5 5,0 Nhận xét: 5% bệnh nhân dương tính khi làm phản ứng hoà hợp có sử dụng AHG. Bảng 4. Mối liên quan giữa PƯHH ở 22ºC và PƯHH có sử dụng AHG PƯHH sử dụng AHG Âm tính Dương tính Tổng số Âm tính 0 3 3 PƯHH ở 220C Dương tính 0 2 2 Tổng số 0 5 5 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 435 Nhận xét: Trong số 2 bệnh nhân có phản ứng hoà hợp ở 22oC dương tính thì có 2 bệnh nhân dương tính trong điều kiện AHG. Bảng 5. Phân bố bệnh nhân có PƯHH sử dụng AHG dương tính theo giới Giới Số BN PƯHH sử dụng AHG + Tỷ lệ % P Nam 52 1 1,9 Nữ 48 4 8,3 < 0,05 Tổng 100 5 Nhận xét: Tỷ lệ phản ứng hoà hợp dương tính ở nam là 1,9%, nữ là 8,3%, tỷ lệ này có sự khác biệt víi p< 0,05. Bảng 6. Phân bố bệnh nhân có PƯHH sử dụng AHG dương tính theo nhóm tuổi Nhóm tuổi N PƯHH có sử dụng AHG + Tỷ lệ % ≤ 20 6 0 0 21 – 40 32 2 6,25 41 – 60 58 3 9,3 > 60 4 0 0 Tổng số 100 5 Nhận xét: Tỷ lệ phản ứng hoà hợp sử dụng AHG dương tính cao nhất trong nhóm tuổi 41 - 60 (9,3%), tiếp đến là nhóm tuổi 21 - 40 (6,25%), nhóm ≤ 20 tuổi và > 60 tuổi không gặp trường hợp nào dương tính. Bảng 8. Phân bố bệnh nhân có PƯHH sử dụng AHG dương tính theo số lần truyền máu Số lần nhận máu Số mẫu NC Số mẫu (+) Tỷ lệ (%) P BN chưa nhận máu 20 0 0 Nhận máu ≤ 5 lần 31 1 3,2 Nhận máu > 5 lần 49 4 8,1 Tổng số 100 5 < 0,05 Nhận xét: Bệnh nhân chưa truyền máu thì không gặp kháng thể bất thường, Bệnh nhân truyền máu trên 5 lần thì có tỷ lệ KTBT cao hơn những bệnh nhân truyền máu dưới 5 lần (p <0, 05). BÀN LUẬN Đặc điểm của bệnh nhân bị bệnh máu được truyền Khối hồng cầu Trong số 100 bệnh nhân có 48 nữ (48%) và 52 nam (52%), độ tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất từ 41 đến 60 tuổi (58%). Tỷ lệ bệnh nhân được truyền KHC nhóm O chiếm tỷ lệ cao nhất (38%), sau đó đến KHC nhóm B, A, AB với tỷ lệ tương ứng là 29%, 30% và 3%. Sự phân bố về nhóm máu hệ ABO ở bệnh nhân bị bệnh máu được truyền KHC trong nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu về sự phân bố nhóm máu hệ ABO trong quần thể và nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thu Hạnh(7), khi nghiên cứu về sự phân bố của nhóm máu hệ ABO ở những bệnh nhân bị bệnh máu được truyền KHC trong quá trình điều trị (1). Kết quả thực hiện PƯHH cho bệnh nhân bị bệnh máu được truyền KHC Kết quả nghiên cứu trong bảng 2 trong số 100 bệnh nhân thì chỉ có 2 bệnh nhân có PƯHH dương tính ở 220C chiếm tỷ lệ 2%. Khi làm phản ứng hòa hợp ở 220C chúng ta mới chỉ đảm bào sự hòa hợp giữa người cho và người nhận về hệ nhóm máu ABO và phát hiện các kháng thể bất thường hoạt động ở 220C. Kết quả bảng 5 cho thấy có 5 trường hợp có PƯHH sử dụng AHG dương tính chiếm tỷ lệ 5%. PƯHH có sử dụng AHG ngoài khả năng phát hiện các tự kháng thể có mặt trong huyết thanh còn có khả năng phát hiện các đồng kháng thể miễn dịch gây ra bởi truyền máu hoặc bất đồng nhóm máu giữa mẹ và thai nhi(9,10,12). Kết quả nghiên cứu của chóng tôi thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của các tác giả Trịnh Xuân Kiếm (1990)(5), Bùi Thị Mai An (1994)(2), Trần Thị Thu Hà (1999)(8), khi nghiên cứu về tỷ lệ kháng thể bất thường ở những bệnh nhân được truyền máu nhiều lần. Điều này do nghiên cứu của các tác giả được thực hiện trên những bệnh nhân được truyền máu nhiều lần trong đó có cả những bệnh nhân đó được chẩn đoán là tan máu tự miễn. So sánh với kết quả nghiên cứu của Poposki G.P và Maver S: kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự tỷ lệ kháng thể bất thường trong nghiên cứu của tác giả Poposki là 5,05% trong số 514 bệnh nhân tuổi từ 9 - 74 được truyền máu Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 436 nhiều lần, và cao hơn của tác giả Maver S là 2, 8% trong tổng số 35,242 mẫu máu được thu thập trong thời gian 10 năm từ 1996 – 2005(12). Điều này do an toàn truyền máu về mặt miễn dịch tại các nước tiên tiến đó được quan tâm và thực hiện một cách đồng bộ, do đó tỷ lệ kháng thể bất thường ở những bệnh nhân được truyền máu thấp hơn. Kết quả ở bảng 4 cho thấy việc triển khai kỹ thuật PƯHH có sử dụng AHG đó phát hiện thêm được 3 bệnh nhân cho kết quả âm tính khi làm PƯHH ở điều kiện nhiệt độ 220C nhưng lại cho kết quả dương tính khi làm PƯHH có sử dụng AHG. Điều này cho thấy nếu chỉ thực hiện PƯHH ở 220C sẽ bỏ sót những trường hợp có kháng thể bất thường do truyền máu không hòa hợp nhóm máu ngoài hệ ABO, đây chính là nguy cơ gây ra truyền máu không hiệu lực trên lâm sàng đồng thời làm ảnh hưởng đến kết quả điều trị (do hiện tượng tan máu sẽ làm giảm lượng hemoglobin gây nên triệu chứng thiếu máu trên lâm sàng). Vì vậy, những bệnh nhân này phải truyền máu nhiều hơn so với những bệnh nhân có PƯHH sử dụng AHG âm tính để có thể duy trì lượng hemoglobin tối thiểu, như vậy họ sẽ phải chi trả viện phí nhiều hơn, thời gian điều trị kéo dài. Kết quả bảng 5 cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có PƯHH sử dụng AHG dương tính ở nữ (8,3%), cao hơn ở nam (1,9%) và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của tác giả Trần Thị Thu Hà, nghiên cứu của tác giả cho thấy tỷ lệ kháng thể bất thường ở nữ là 19,83% và của nam là 5,74%(8). Theo nghiên cứu của tác giả Maver S cho thấy tỷ lệ kháng thể bất thường gặp ở 80, 3% nữ và 19, 7% nam(6,12). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ nữ có PƯHH sử dụng AHG dương tính chiếm 8,3 %, những bệnh nhân nữ trong độ tuổi này phần lớn là đang ở độ tuổi sinh đẻ hoặc đó qua thời kỳ sinh đẻ, cơ thể của họ có thể bị mẫn cảm bởi những hồng cầu mang những kháng nguyên không hoà hợp của con trong những lần mang thai hoặc sinh đẻ trước đây, nên khi truyền máu cơ thể lại được mẫn cảm với các kháng nguyên hồng cầu không hoà hợp (sự tái mẫn cảm) sẽ thúc đẩy đáp ứng miễn dịch nhớ, sản xuất ra kháng thể đặc hiệu chống lại những hồng cầu mang kháng nguyên tuơng ứng. Điều này lý giải cho chúng ta thấy được tỷ lệ dương tính ở bệnh nhân nữ khi được làm PƯHH có sử dụng AHG lại cao hơn so với nam(4,6,10,12). Kết quả bảng 6 cho thấy tỷ lệ dương tính của PƯHH sử dụng AHG ở độ tuổi 41 – 60 là cao nhất (9,3%), nhóm tuổi trên 60 và < 20 không gặp trường hợp nào. Theo nghiên cứu của tác giả Trần Văn Bé thành phố Hồ Chí Minh, nhóm tuổi 21 đến 30 có tỷ lệ xuất hiện kháng thể bất thường cao nhất (42%), còn các nhóm tuổi khác tỷ lệ xuất hiện kháng thể bất thường dao động trong khoảng 9,3 đến 16,7%. Kết quả này có thể do ở độ tuổi 21 - 40 hệ thống miễn dịch đó được phát triển một cách hoàn thiện cho nên đáp ứng miễn dịch xảy ra nhanh nhạy. Ở độ tuổi trên 60, hệ thống miễn dịch bắt đầu suy giảm cho nên đáp ứng miễn dịch sẽ kém hơn(4,10,6,12). Kết quả ở biểu đồ 3.7 cho thấy: Trong 100 trường hợp có PƯHH sử dụng AHG dương tính, có 31 trường hợp nhận máu dưới 5 lần (chiếm 31%), 49 trường hợp nhận máu trên 5 lần (chiếm 49%). Kết quả này cho thấy tỷ lệ dương tính của PƯHH có sử dụng AHG cao hơn ở nhóm bệnh nhân có số lần nhận máu > 5 lần khá cao 8,1%. Theo nghiên cứu của tác giả Trần Thị Thu Hà(6), tỷ lệ xuất hiện kháng thể bất thường của nhóm bệnh nhân nhận máu ≤ 5 lần là 8,04% và nhóm nhận máu > 5 lần là 16,8%. Theo nghiên cứu của tác giả Bùi Thị Mai An, tỷ lệ xuất hiện kháng thể bất thường của nhóm bệnh nhân nhận máu ≤ 5 là 8,62% và nhận máu > 5 lần là 22,8%. Tuy nhiên, để gây được đáp ứng miễn dịch các kháng nguyên phải có một liều lượng thích hợp với số lần kích thích nhất định. Khi số lần truyền máu tăng lên sẽ kích thích hệ miễn dịch sinh ra kháng thể chống lại các kháng nguyên hồng cầu không hoà hợp, do đó sẽ làm tăng khả năng sinh kháng thể bất thường hệ hồng cầu. Điều này chứng tỏ nguy cơ dẫn đến sự hình thành các kháng thể bất thường hệ hồng Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 437 cầu cao hơn ở những bệnh nhân nhận máu nhiều(5,11). Theo quy chế truyền máu năm 2007, xét nghiệm phản ứng hoà hợp có sử dụng kháng globulin người là xét nghiệm bắt buộc cho tất cả các bệnh nhân phải truyền máu. Tuy nhiên, hiện nay xét nghiệm này mới được triển khai tại các trung tâm lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, còn các trung tâm và các bệnh viện nhỏ thì hầu như chưa triển khai được đồng bộ trên cả nước, do trong quá trình triển khai còn một số vướng mắc mà khó khăn nhất là việc thanh toán với Bảo hiểm Y tế. KẾT LUẬN Từ các kết quả nghiên cứu trên 100 bệnh nhân bị bệnh máu được truyền KHC trong quá trình điều trị và được làm PƯHH sử dụng AHG, chóng tôi rút ra một số kết luận sau: - Phát hiện được 5 bệnh nhân có PƯHH sử dụng AHG dương tính trên tổng số 100 bệnh nhân chiếm 5%. - Phát hiện thêm được 3 bệnh nhân có kết quả âm tính ở điều kiện 220C nhưng lại cho kết quả dương tính khi thực hiện PƯHH sử dụng AHG . - Tỷ lệ bệnh nhân có PƯHH sử dụng AHG dương tính ở nữ cao hơn nam (nữ: 8, 1%; nam: 1, 9%). - Tỷ lệ dương tính của PƯHH sử dụng AHG gặp nhiều nhất ở nhóm tuổi: 41 - 60 (9,3%). - Tỷ lệ dương tính của PƯHH sử dụng AHG găp nhiều ở nhóm bệnh nhân được truyền máu nhiều lần ( 5 lần: 8, 1%). KHUYẾN NGHỊ Để góp phần nâng cao hiệu quả truyền máu và hạn chế tối đa các phản ứng truyền máu do nguyên nhân miễn dịch, các cơ sở truyền máu trong toàn quốc cần triển khai thực hiện một cách nghiêm túc xét nghiệm PƯHH có sử dụng AHG trước khi truyền máu toàn phần, KHC cho bệnh nhân. Điều này cũng đó được quy định trong quy chế truyền máu năm 2007 mà Bộ Y Tế đã ban hành. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y Tế (2003), Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỷ 90 – thế kỷ XX, NXB Y học, tr. 73 – 78. 2. Bùi Thị Mai An (2004), “Những hiểu biết mới về nhóm máu hệ hồng cầu và ứng dụng kỹ thuật sinh học phân tử trong nghiên cứu kháng nguyên nhóm máu hệ hồng cầu”, Một số chuyên đề Huyết học - Truyền máu, Hà Nội, tr. 170 – 187. 3. Chapman J.F, Elliott C, Knowles S.M, Mikins C .E, Poole G.D (2004), “Guidelines for compatibility procedures in blood transfusion laboratories”, Transfusion Medicine, 14, pp 59–73. 4. Col DS, Brig PSD, et al (2008), “Comparative Study of Blood Cross Matching Using Conventional Tube and Gel Method. MJAFI, Vol 64, No 2, pp 129 – 130. 5. Đỗ Trung Phấn (2000), An toàn truyền máu, NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. 6. Maver S, Kramar I, Galvani V (2007), “ Clinical importantance of red cell alloantibodies detected in 10 years period in general hospial Izola”, Vox Sanguinis, Vol 93, Issue 1, pp 356 7. Nguyễn Thu Hạnh (2008), “Nghiên cứu hiệu quả của phản ứng hoà hợp có sử dụng kháng globulin người tại Viện Huyết học - Truyền máu trung ương.” Luận văn thạc sỹ y học, tr. 4 – 41. 8. Trần Thị Thu Hà (1999), “Nghiên cứu kháng thể bất thường hệ hồng cầu ở bệnh nhân nhận máu nhiều lần”, Luận văn thạc sỹ y học, tr. 4 – 21. 9. Trần Văn Bé (1994), “Tìm kháng thể bất thường bằng nghiệm pháp Gel”, Y học Việt Nam 1 (176), tr. 20 – 23. 10. Trần Văn Bé (1998), “Miễn dịch huyết học và truyền máu”, Lâm sàng huyết học, NXB Y học, chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, tr. 312 – 330. 11. Trịnh Xuân Kiếm, Bạch Quốc Tuyên, Trịnh Kim Ảnh (1990), “Kháng thể bất thường, nguyên nhân phản ứng tan máu tại Bệnh viện Chợ Rẫy”, Y học thực hành, số 5, tập 228, tr.14-15. 12. Vũ Triệu An, Jean Claude Homberg (1997), Miễn dịch học, NXB Y học, tr. 17 -298.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_hieu_qua_cua_phan_ung_hoa_hop_de_su_dung_khang_gl.pdf