Nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam 15 i - Cơ sở pháp lý

+ Hoạt động thị trường mở chưa sôi động, số lượng các thành viên còn ít Chúng ta biết rằng các chủ thể tham gia trên thị trường mở là rất phong phú. Ở các nước phát triển, đó là NHTW, các NHTM, các tổ chức tài chính phi ngân hàng, kho bạc Nhà nước, các doanh nghiệp tốt, các nhà môi giới và cả các hộ gia đình. ở Việt Nam, do quy định của NHNN khá chặt chẽ nên thành viên tham gia thị trường mở đa số là các tổ chức tín dụng. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng chỉ có duy nhất một công ty tài chính tham gia. Các doanh nghiệp và hộ gia đình không thể trực tiếp tham gia vào thị trường mở. Muốn giao dịch ở đây, họ phải gián tiếp thông qua các NHTM. Một lý do khác là hiện nay hệ thống ngân hàng Việt Nam đang trong giai đoạn cải cách, củng cố nên còn ảnh hưởng đến khả năng tham gia vào thị trường. NHNN lại chưa phát huy tốt vai trò hướng dẫn thị trường nên việc tham gia thị trường của các tổ chức, cá nhân còn hạn chế. Một số định chế tài chính như công ty bảo hiểm, quỹ tương hỗ chưa hội đủ điều kiện để tham gia giao dịch trên thị trường.

doc33 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1050 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam 15 i - Cơ sở pháp lý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ền kinh tế. Do vậy cơ chế này mang tính áp đặt của NHTƯ đối với hệ thống ngân hàng hay bằng công cụ hạn mức tín dụng NHTƯ có thể kiểm soát khá chặt chẽ tổng lượng tiền cung ứng. Vì vậy công cụu này thực sự phát huy hiệu quả khi tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế tăng cao và các công cụ gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu lực. Tuy nhiên, bên cạnh các ưu điểm, kiểm soát trực tiếp hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế có một số bất lợi đặc biệt là có thể làm giảm cạnh tranh và sai lệch cơ cấu đầu tư của các NHTƯ, ảnh hưởng đến cơ cấu nền kinh tế. 3.6. Tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái là công cụ đòn bẩy điều tiết cung-cầu ngoại tệ, tác động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Tuy nhiên về thực chất, tỷ giá không làm tăng hay giảm lượng tiền trong lưu thông do vậy nó không phải là công cụ của Chính sách tiền tệ. Thực tế ở các nước, nhất là các nước đang phát triển, đang chuyển đổi, lại coi tỷ giá là công cụ bổ trợ quan trọng cho điều hành CSTT. IV - NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ 1. Khái niệm Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động mua bán chứng khoán giữa NHTƯ với các NHTM và các tổ chức tín dụng thành viên trên thị trường mở. Chứng khoán ở đây chủ yếu là tín phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ. 2. Cơ chế tác động 2.1. Khi NHTƯ thực hiện nghiệp vụ thị trường mở sẽ làm thay đổi lượng tiền cơ sở dẫn đến thay đổi lượng tiền cung ứng Ta xét ví dụ sau: Giả sử NHTƯ mua 100 triệu đồng trái phiếu chính phủ từ NHTM A và thanh toán cho ngân hàng này bằng một séc 100 triệu đồng. NHTM A sẽ gửi tờ séc đó vào tài khoản của mình tại NHTƯ hoặc đổi lấy tiền mặt. Dù hành động theo cách nào thì ngân hàng này sẽ thấy bản thân có thêm 100 triệu tiền dự trữ và giảm 100 triệu tài khoản trái phiếu chính phủ. Tài khoản NHTM A: Tài sản có Tài sản nợ Trái phiếu chính phủ -100 triệu Tiền dự trữ +100 triệu Trong khi đó NHTƯ thấy rằng tài sản nợ của mình đã tăng thêm 100 triệu là tiền dự trữ, đồng thời tài sản có của NHTƯ tăng thêm 100 triệu trái phiếu chính phủ. Tài khoản của NHTƯ: Tài sản có Tài sản nợ Trái phiếu chính phủ +100 triệu Tiền dự trữ +100 triệu Kết quả của việc mua trên thị trường mở này là tiền dự trữ tăng lên thêm 100 triệu. Do không có sự thay đổi nào về đồng tiền lưu hành nên lượng tiền cơ sở cũng tăng thêm 100 triệu làm cho lượng tiền cung ứng tăng lên. Như vậy khi NHTƯ tiến hành mua trên thị trường mở làm tăng lượng tiền cơ sở do đó tăng lượng tiền cung ứng, khi NHTƯ bán trên thị trường mở làm giảm lượng tiền cơ sở dẫn đến giảm lượng tiền cung ứng. 2.2. Tác động khác Khi NHTƯ mua vào càng nhiều (giả sử) trái phiếu CP, lượng trái phiếu còn lại càng ít, giá trái phiếu bị đẩy lên. Giá trái phiếu tăng do cung > cầu làm giảm giá tín dụng (lãi suất ngân hàng giảm), lượng tín dụng và đầu tư tăng lên , tăng sản lượng, việc làm và giá cả cũng tăng. Như vậy khi NHTƯ mua các giấy tờ có giá trên thị trường mở là thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ, mở rộng lượng tiền cung ứng. Ngược lại việc NHTƯ bán chứng khoán trên thị trường mở nhằm thực hiện chính sác thắt chặt tiền tệ. Khi đó: Làm giảm lượng tiền trong lưu thông cả tiền mặt và tiền gửi, từ đó giảm khả năng cho vay của các NHTM. Nguồn vốn kinh doanh của các NHTM giảm, các khoản cho vay của hệ thống NHTM giảm hẳn. Giá chứng khoán hạ, lãi suất chứng khoán tăng. Lãi suất chứng khoán tăng buộc các NHTM phải tăng lãi suất tín dụng để tránh tình trạng khách hàng rút tiền để mua chứng khoán. Lãi suất tăng làm giảm lượng tiền trong lưu thông do số người mua chứng khoán và tiền gửi ngân hàng tăng lên. Tiền khan hiếm làm cho giá cả hàng hoá, tỉ giá giảm, sức mua giảm, nhập khẩu giảm, sản lượng giảm... 3. Hàng hoá giao dịch trên thị trường mở Chủng loại các chứng khoán được giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở không giống nhau ở từng nước. Ở những nước như Anh, Mỹ, nghiệp vụ thị trường mở là hành vi giao dịch các chứng khoán chính phủ của NHTW nhưng chủng loại các chứng khoán được giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở lại phong phú hơn các nước khác như Nhật Bản, Pháp, Úc. Mặt khác, có nước chỉ cho phép các chứng khoán ngắn hạn được giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở, trong khi các chứng khoán dài hạn lại được chấp nhận ở các nước khác. Về mặt lý thuyết, nghiệp vụ thị trường mở không giới hạn cụ thể chủng loại cũng như thời hạn các chứng khoán giao dịch, tuy nhiên những loại chứng khoán nợ chủ yếu bao gồm: Tín phiếu kho bạc là giấy nhận nợ do chính phủ phát hành để bù đắp thiếu hụt tạm thời trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu thông thường là dưới 12 tháng. Đây là công cụ chủ yếu của nghiệp vụ thị trường mở của hầu hết NHTW các nước vì : thứ nhất Tín phiếu kho bạc có tính thanh khoản cao; thứ hai được phát hành định kỳ với khối lượng lớn và vì thế có thể thỏa mãn nhu cầu can thiệp của NHTW với liều lượng khác nhau. Bộ Tài Chính là người có vai trò quan trọng trong việc xác định khối lượng phát hành, thanh toán lãi và gốc của tín phiếu.Tín phiếu kho bạc được phát hành hàng tuần để chi trả các khoản nợ ngắn hạn của chính phủ, vì vậy, khối lượng tín phiếu này thay đổi tùy theo nhu cầu vay mượn của chính phủ. Chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của ngân hàng hay các trung gian tài chính phi ngân hàng phát hành, xác nhận một món tiền gửi vào ngân hàng trong một thời gian nhất định với mức lãi suất xác định trước. Thời hạn của chứng chỉ tiền gửi thường là ngắn hạn (cũng có trường hợp thời hạn lên tới 3-5 năm). Sự ra đời của chứng chỉ tiền gửi đánh dấu sự thay đổi căn bản trong cơ chế quản lý ngân hàng: Chuyển từ quản lý tài sản nợ sang quản lý tài sản có vì nó cung cấp một hình thức huy động vốn chủ động cho ngân hàng thay vì phải phụ thuộc vào người gửi tiền. Tính ưu việt của chứng chỉ tiền gửi chính là đảm bảo cho sức sống của nó, và do đó nó được sử dụng như là hàng hóa phổ biến cho nghiệp vụ thị trường mở. Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian xác định. Đây là giấy ghi nhận nợ được phát hành bởi các doanh nghiệp nhằm bổ sung nhu cầu vốn ngắn hạn của doanh nghiệp. Luật và pháp lệnh thương phiếu ở các nước đảm bảo tính chất an toàn cho công cụ này bằng các quy định về điều kiện được phép phát hành thương phiếu. Thương phiếu là tài sản có đối với người sở hữu, có thể là ngân hàng ( thông qua các hành vi chiết khấu hoặc cho vay có bảo đảm bằng thương phiếu) hoặc các tổ chức phi ngân hàng trong quan hệ thanh toán trực tiếp ( cơ chế bảo lãnh của ngân hàng là là cho thương phiếu có tính chuyển nhượng cao và vì thế được chấp nhận dễ dàng trong thanh toán của tổ chức này). Vì vậy, việc mua, bán thương phiếu của NHTW sẽ ảnh hưởng mạnh đến dự trữ của các NHTM hoặc tiền gửi của các khách hàng tại cá NHTM. Trái phiếu chính phủ là chứng khoán nợ dài hạn được nhà nước phát hành nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. Mặc dù là dài hạn nhưng trái phiếu chính phủ được sử dụng phổ biến trong nghiệp vụ thị trường mở ở một số quốc gia bởi tính an toàn, khối lượng phát hành, tính ổn định trong phát hành và khả năng tác động trực tiếp đến giá cả tín phiếu kho bạc trên thị trường tài chính. Trái phiếu chính quyền địa phương: tương tự như trái phiếu chính phủ, nhưng trái phiếu chính quyền địa phương khác về thời hạn và các điều kiện ưu đãi liên quan đển trái phiếu. Thông thường người sở hữu trái phiếu của chính quyền địa phương được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập từ trái phiếu. Sự can thiệp của NHTW qua việc mua bán loại trái phiếu này cũng tương tự như trái phiếu chính phủ. Chính quyền địa phương phát hành trái phiếu để tài trợ cho chi tiêu của họ và thường chỉ có chính quyền địa phương lớn phát hành. Loại chứng khoán này được các nhà đầu tư ưa chuộng và các NHTM thường dùng trái phiếu này để tái chiết khấu tại NHTW. Các hợp đồng mua lại: Đây là những món vay ngắn hạn trong đó tín phiếu kho bạc được dùng làm vất bảo đảm cho tài sản Có mà người cho vay nhận được nếu người đi vay không thanh toán nợ. Phần lớn các hợp đồng mua lại là do người kinh doanh thực hiện qua đêm. Nhà kinh doanh ngân hàng và phi ngân hàng thường vay để tài trợ cho tình hình vốn của họ. Các hợp đồng mua lại cũng có thể hiểu là các nghiệp vụ trên thị trường mở. Hàng hóa trên thị trường mở ngày càng có xu hướng đa dạng hóa , điều này phụ thuộc vào các yếu tố sau đây: Một là, do cạnh tranh trên thị trường tài chính ngày càng trở nên gay gắt, đặc biệt là dưới ảnh hưởng của xu hướng toàn cầu hóa các hoạt động tài chính và sự xuất hiện nhiều tổ chức cung cấp tài chính mới . Tình trạng này đòi hỏi các tổ chức tài chính phải tìm kiếm các công cụ mới thỏa mãn nhu cầu thu hút vốn về các mặt : thời hạn, mức độ, rủi ro, mức sinh lời và cách thức thanh toán nợ. Xu hướng này sẽ có ảnh hưởng đến sự thay đổi cơ cấu hàng hóa trên thị trường mở. Hai là, sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng phức tạp của khách hàng và mức độ khẩn trương của cuộc sống là động lực quan trọng ra đời các sản phẩm tài chính mới, có ảnh hưởng đến chủng loại hàng hóa trên thị trường mở. 4. Các loại nghiệp vụ thị trường mở và phương thức giao dịch trên thị trường mở 4.1. Các loại nghiệp vụ thị trường mở + Giao dịch các giấy tờ có giá: Giao dịch mua bán hẳn: Là việc mà NHTƯ mua bán chứng khoán với người giao dịch (mua bán một lần) và chuyển hẳn quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ cho người giao dịch và ngược lại. Nghiệp vụ này được áp dụng khi NHTƯ cần can thiệp vào cung cầu của thị trường. Khi NHTƯ mua, làm giá chứng khoán lên cơn sốt và lãi suất hạ rất nhanh. Ngược lại, mỗi lần NHTƯ bán ra, giá chứng khoán lại tụt dốc, lãi suất lại vọt lên. Giao dịch mua bán hẳn thường diễn ra dài hạn. Giao dịch mua bán có kỳ hạn: Là việc thực hiện mua bán các giấy tờ có giá theo kỳ hạn. Khi đã NHTƯ phải ký hai hợp đồng: Hợp đồng mua và hợp đồng bán có kỳ hạn hoặc hợp đồng bán và hợp đồng mua có kỳ hạn. Nếu mua bán theo thoả thuận RPs (hoặc theo hợp đồng mua lại): NHTƯ ký một hợp đồng mua chứng khoán với người giao dịch và người giao dịch sẽ đồng ý mua lại chứng khoán đã vào một ngày xác định trong tương lai. Đây là những hợp đồng mua bán có thời hạn rất ngắn. Do đó lượng tiền xuất ra hầu như không ảnh hưởng lớn đến lượng tền cung ứng. Có thể nói, một cách gián tiếp hoạt động này làm cho chu chuyển hàng hoá trên tệi trường tài chính tiền tệ trở nên linh hoạt và thuận lợi hơn. Nếu mua bán theo thoả thuận chuyển dịch tương đương hoặc mua bán lại dự trữ (còn gọi là theo hợp đồng mua lại đảo ngược): NHTƯ bán chứng khoán cho người giao dịch và người giao dịch đồng ý bán lại chứng khoán cho NHTƯ vào thời điểm xác định trong tương lai. Nói cách khác, đây là một hợp đồng vay tiền. Các ngân hàng trung gian hoặc công ty kinh doanh chứng khoán cho NHTƯ vay ngắn hạn chính dự trữ của họ tại tài khoản ở NHTƯ. Điều này sẽ tác động đến dự trữ của họ và do đã làm tăng, giảm khối lượng tín dụng cấp phát vào nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. + Giao dịch hoán đổi ngoại tệ Trong nghiệp vụ này, khi tham gia giao dịch, NHTƯ đồng thời ký hai hợp đồng: - Ký một hợp đồng mua hoặc bán ngoại tệ với tỷ giá giao ngay. - Ký một hợp đồng bán hoặc mua ngoại tệ với tỷ giá cã kỳ hạn. Tỷ giá có kỳ hạn = Tỷ giá giao ngay + điểm Swap + Giao dịch hoán đổi các chứng khoán khi đến hạn Loại hình này chủ yếu áp dụng ở các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ. Người nắm giữ các chứng khoán, khi đến hạn thì có thể thực hiện nghiệp vụ chuyển đổi chứng khoán cò thành chứng khoán mới trên thị trường mở. Khi chuyển đổi, mệnh giá chứng khoán có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn chứng khoán mới. Nếu giá chứng khoán cũ nhỏ hơn chứng khoán mới thì tức là NHTƯ thực hiện tăng lượng tiền cung ứng. Ngược lại nếu giá chứng khoán cũ lớn hơn chứng khoán mới thì tức là NHTƯ muốn hấp thụ khả năng thanh toán. Ngoài các loại hình nghiệp vụ trên, NHTƯ còn có thể thực hiện một số nghiệp vụ khác như: Phát hành chứng chỉ nợ của NHTƯ hoặc huy động tiền gửi với lãi suất cố định. 4.2. Phương thức giao dịch trên thị trường mở + Giao dịch song phương: NHTƯ giao dịch trực tiếp với người mua bán thực hiện mua bán hẳn chứng từ có giá. + Giao dịch qua thị trường chứng khoán: Thông qua thị trường chứng khoán, qua các đại lý chứng khoán mà NHTƯ tiếp cận với người mua hoặc người bán để tiến hành mua hoặc bán. + Giao dịch qua đấu thầu: Cã hai loại đấu thầu là đấu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất. Đấu thầu khối lượng: Theo phương thức này, NHTƯ sẽ đưa ra khối lượng, lãi suất, loại giấy tờ cã giá và thời hạn của nó. Người giao dịch sẽ thực hiện đặt thầu với khối lượng với mức lãi suất mà NHTƯ đã công bố. Trường hợp khối lượng đặt thầu nhỏ hơn hoặc bằng khối lượng mà NHTƯ can thiệp thì không cần phân bổ thầu. Ngược lại, nếu khối lượng đặt thầu lớn hơn tổng khối lượng mà NHTƯ can thiệp thì phải tiến hành phân bổ thầu. Tỉ lệ phân bổ thầu là tỉ lệ giữa tổng khối lượng mà NHTƯ can thiệp với tổng khối lượng đặt thầu của các ngân hàng tham gia. Sau đã tính khối lượng trúng thầu của từng ngân hàng thành viên bằng tích của tỷ lệ phân bổ thầu với số lượng đặt thầu của từng ngân hàng. Đấu thầu lãi suất: Theo phương thức này, các đơn vị đặt thầu đăng ký lãi suất đặt thầu và đi kèm là lượng tiền mua theo lãi suất đăng ký. NHTƯ sẽ quan tâm đến lãi suất đặt thầu và sẽ lấy từ lãi suất cao đến lãi suất thấp đến khi nào đạt được lượng tiền mà NHTW cần cung ứng vào lưu thông. Cả hai phương thức đấu thầu lãi suất: đầu thầu lãi suất thống nhất (kiểu Hà Lan) là tất cả khối lượng trúng thầu tính thống nhất theo mức lãi suất trúng thầu và đấu thầu lãi suất riêng lẻ (kiểu Mỹ) là tổng mức khối lượng trúng thầu sẽ tương ứng với mức lãi suất dự thầu. Nguyên tắc xét thầu là: Các đơn vị dự thầu được sắp xếp theo thứ tự lãi suất dự thầu giảm dần trong trường hợp NHTƯ mua chứng khoán (cung ứng tiền) và lãi suất dự thầu tăng dần trong trường hợp NHTƯ bán chứng khoán (hấp thụ khả năng thanh toán). Lãi suất trúng thầu là lãi suất dự thầu thấp nhất nêú NHTƯ mua các giấy tờ có giá hoặc lãi suất dự thầu cao nhất nếu NHTƯ bán các giấy tờ có giá mà tại mức lãi suất đó, NHTƯ đạt được khối lượng tiền cần can thiệp. Trường hợp khối lượng đặt mua lớn hơn mức cần can thiệp thì phải tiến hành phân bổ thầu. Sau khi xác định được lượng trúng thầu của từng ngân hàng thì sẽ xác định giá mua và bán giữa NHTW và đối tác theo công thức: Gd: giá bán các chứng từ có giá Gt: giá trị của giấy tờ có giá khi đến hạn thanh toán T : thời hạn còn lại của giấy tờ có giá L: lãi suất thống nhất hoặc lãi suất riêng lẻ Nếu thực hiện mua bán có kì hạn thì giá mua bán lại giữa NHTƯ với các tổ chức tín dụng được xác định theo công thức: Gv: giá mua lại Tb: thời hạn mua bán. 5. Nghiệp vụ thị trường mở - ưu nhược điểm Dưới giác độ là một công cụ của chính sách tiền tệ có thể thấy các ưu điểm của nghiệp vụ thị trường mở: + Nghiệp vụ thị trường mở tự nó có thể kiểm soát được hoàn toàn khối lượng mà nó thực hiện. Trong khi đó việc này không thể có được với các công cụ khác. Chẳng hạn với dự trữ bắt buộc, tự nó không phản ánh được toàn bộ dự trữ của hệ thống ngân hàng và do đó khó kiểm soát được lượng tiền cung ứng, đối với nghiệp vụ chiết khấu NHTƯ có thể dùng lãi suất chiết khấu để điều tiết việc các NHTM vay vốn nhưng tự nó không thể kiểm soát được khối lượng chiết khấu. Sở dĩ có thể nói nghiệp vụ thị trường mở có thể kiểm soát được toàn bộ khối lượng mà nó thực hiện bởi vì khối lượng chứng khoán mua, bán trên thị trường sẽ trực tiếp tác động làm tăng, giảm lượng tiền cung ứng. + Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ linh hoạt và chính xác. Sự linh hoạt và chính xác ở đây thể hiện trên hai phượng diện là mức độ điều tiết và khả năng đảo ngược sự điều tiết. - Mức độ điều tiết: Nghiệp vụ thị trường mở có thể sử dụng ở bất cứ mức độ nào. Mong muốn mức thay đổi của dự trữ hay lượng tiền cơ sở nhỏ đến như thế nào cũng được bằng việc mua hoặc bán một lượng chứng khoán ít tương ứng. Ngược lại nếu muốn sự thay đổi lớn trong dự trữ và lượng tiền cơ sở thì nghiệp vụ thị trường mở đủ sức thực hiện điều đó thông qua việc mua hoặc bán chứng khoán với khối lượng lớn - Khả năng đảo ngược sự điều tiết: nghiệp vụ thị trường mở có thể dễ dàng đảo ngược lại. Khi có một sai lầm xảy ra trong lúc tiến hành nghiệp vụ thị trường mở NHTƯ có thể lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó trong thời gian ngắn. Chẳng hạn khi NHTƯ thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhiều do mua quá nhiều trên thị trường mở thì có thể sửa chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trong phiên giao dịch sau. Khi mà khoảng thời gian giữa các phiên giao dịch trên thị trường mở ngày một được rút ngắn lại thì khả năng này càng được nâng cao. + Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ đầy quyền lực. Khi NHTƯ quyết định mua hoặc bán thì sẽ tìm mọi cách định giá và đặt ra các điều kiện để thu hút các NHTM tham gia tích cực đáp ứng được yêu cầu của NHTƯ. Mặt khác nghiệp vụ thị trường mở có thể được hoàn thành nhanh chóng mà không gây nên những chậm trễ về mặt hành chính. Về nhược điểm của công cụ nghiệp vụ thị trường mở. Nhược điểm duy nhất có lẽ là những điều kiện đòi hỏi để công cụ này phát huy hiệu quả: + Về thị trường tài chính: phải có một thị trường tài chính phát triển, trong đó hàng hoá của thị trường là các giấy tờ có giá ngắn hạn phải phong phú và đa dạng. + Về phía NHTƯ: NHTƯ phải có khả năng dự báo trước vốn khả dụng của toàn bộ hệ thống để can thiệp mua bán, có như vậy việc can thiệp mới có ý nghĩa lớn trong việc tác động vào lượng tiền cung ứng. Ngoài ra khi NHTƯ mua bán làm tác động đến lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Để tránh ảnh hưởng này NHTƯ phải có các biện pháp xử lí phù hợp, điều này đòi hỏi NHTƯ phải nhạy cảm và linh hoạt trong việc phối hợp các công cụ của chính sách tiền tệ. Từ những ưu nhược điểm nói trên có thể thấy nghiệp vụ thị trường mở có ưu thế hơn hẳn so với các công cụ khác của chính sách tiền tệ, khắc phục được hầu hết các nhược điểm của các công cụ khác, chính vì vậy đây là công cụ chủ yếu để điều hành chính sách tiền tệ tại các nước phát triển. Vậy ở Việt Nam công cụ này được sử dụng như thê nào, ta sẽ nghiên cứu trong chương tiếp theo. CHƯƠNG II: NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TẠI VIỆT NAM I - CƠ SỞ PHÁP LÝ Tại Việt Nam ngay từ năm 1997 trong luật ngân hàng nhà nước (NHNN) ban hành năm 1997 đã có khái niệm về thị trường mở: "Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua, bán các giấy tờ có giá ngắn hạn do NHNN thực hiện trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiên chính sách tiền tệ quốc gia". Tuy nhiên đến tháng 07/2000 công cụ này mới chính thức được đưa vào hoạt động với việc NHNN ban hành qui chế Nghiệp vụ thị trường mở theo đó các lại giấy tờ có giá được giao dịch trên thị trường bao gồm: tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN và các lại giấy tờ có giá ngắn hạn khác thoả mãn các điều kiện: Có thể giao dịch được; Được phát hành bằng đồng Việt Nam; Đăng ký tại Ngân hàng Nhà nước theo quy định về việc đăng ký giấy tờ có giá ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước; Giấy tờ có giá được mua, bán hẳn phải có thời hạn còn lại tối đa là 90 ngày. (Luật NHNN sửa đổi 16/06/2003 đã cho phép các lại giấy tờ có giá dài hạn còn thời hạn ngắn được giao dịch trên thị trường) Nội dung cơ bản của qui chế đã nêu lên được những quy định chung về ban hành nghiệp vụ thị trường mở, thành viên tham gia thị trường, phương thức đấu thầu, quy trình đấu thầu của nghiệp vụ thị trường mở tại Việt nam. Tiếp theo là hàng loạt các văn bản khác liên quan được ban hành như Quy trình nghiệp vụ thị trường mở, Quy định dăng ký giấy từ có giá, Quy chế quản lý vốn khả dụng, Quy trình nghiệp vụ đấu thầu tín phiếu kho bạc... Đã khẳng định sự chính thức đi vào hoạt động của công cụ này trong vận hành chính sách tiền tệ quốc gia của NHNN. II - ĐIỀU KIỆN VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM Như trong chương trước đã đề cập đến, để nghiệp vụ thị trường mở phát huy hiệu quả thì đòi hỏi một thị trường tài chính phát triển trong đó bao gồm các thị trường trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc, thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Tuy nhiên thị trường tài chính Việt Nam còn rất nhiều hạn chế cả về quy mô và chất lượng. 1. Thị trường tín phiếu kho bạc Tín phiếu kho bạc được phát hành qua Kho bạc từ tháng 10/1992 đến tháng 3/1995 với tổng doanh số trên 13.000 tỷ đồng. Lãi suất tín phiếu giảm dần qua các năm, từ 5%/tháng năm 1991 xuống còn 1,7%/tháng năm 1995. Từ tháng 6/1995 đến tháng 12/2004, Bộ Tài chính phối hợp với Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tổ chức 392 đợt đấu thầu tín phiếu kho bạc với 63.718 tỷ đồng. Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc năm 2005 gồm 47 thành viên với 5 ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước, 18 NHTM cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh, 13 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 6 công ty bảo hiểm, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương. Doanh số đấu thầu tín phiếu kho bạc 2000 - 2004 Năm Tổng số phiên giao dịch Giá trị phát hành dự kiến Giá trị trúng thầu Lãi suất bình quân tỷ đồng tỷ đồng %/năm 365 ngày 364 ngày 273 ngày 182 ngày 2000 3 43 6.750 4.766 5,4 2001 40 8.550 3.955 5,4 2002 50 6 8.410 8.410 5,9 2003 48 3 18.100 15.989 5,87 2004 43 6 23.200 19.468 5,76 Nguồn: NHNN Hiện nay, thường thường chỉ có 5 - 8 thành viên tham gia đấu thầu. Lãi suất là lãi suất chỉ đạo của Bộ Tài chính. Tuy nhiên, việc phát hành tín phiếu kho bạc vẫn còn những hạn chế. Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc qua NHNN đã được thành lập và hoạt động tương đối ổn định nhưng nội dung của nó còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu, cải tiến. Số thành viên tham gia vào thị trường đấu thầu vẫn chỉ là các NHTM quốc doanh và các công ty bảo hiểm Nhà nước quen thuộc. Các thành viên khác đã đăng ký nhưng rất ít tham gia. Trong tổng phiên đấu thầu còn quy định một loại kỳ hạn (364 ngày) và áp dụng cơ chế lãi suất trần. Cơ chế này, một mặt chưa được phát huy đầy đủ hiệu lực của pháp luật hiện hành (Luật NHNN Việt Nam cho phép tổ chức đấu thầu các loại tín phiếu và tín phiếu kho bạc), mặt khác chưa đáp ứng được nhu cầu huy động vốn của các công trình đầu tư bằng nguồn vốn của Ngân sách Nhà nước nhưng tạm thời Ngân sách Nhà nước chưa bố trí được. 2. Thị trường trái phiếu chính phủ Năm 1991, trái phiếu Chính phủ ra đời để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Chính phủ (không thông qua kênh phát hành tiền của NHTƯ nữa). Đến 1994, khi trái phiếu kho bạc, tín phiếu kho bạc và trái phiếu công trình được phép phát hành rộng rãi thì thị trường trái phiếu Chính phủ mới tương đối được mở rộng. Trước năm 1995, trái phiếu Chính phủ phát hành trực tiếp đến công chúng tại các chi nhánh kho bạc nên khối lượng trái phiếu nhỏ: 17 tỷ đồng (trong cả giai đoạn 1991-1995). Từ tháng 6/1995, bắt đầu phát hành qua NHNN, lượng trái phiếu đã dồi dào hơn. Theo Quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ được ban hành kèm theo NĐ 01/2000/NĐ - CP ngày 13-1-2000 của Chính phủ thì trái phiếu Chính phủ được ban hành qua các kênh như: đấu thầu qua NHNN; phát hành thông qua thị trường chứng khoán, bán lẻ qua hệ thống kho bạc Nhà nước, đại lý phát hành và bảo lãnh phát hành (đối với trái phiếu kho bạc và tín phiếu đầu tư). Như vậy, trong nền kinh tế chuyển đổi theo cơ chế thị trường, trái phiếu Chính phủ đã mở ra một kênh huy động vốn mới trong nền kinh tế với số lượng huy động hàng năm khá lớn, thời gian phát hành tương đối liên tục, đối tượng huy động chủ yếu là nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, đã gãp phần tích cực vào việc giảm bớt sức ép của tiền mặt trong lưu thông, hạn chế những tác động tiêu cực của lạm phát. Trái phiếu Chính phủ ngày càng khẳng định được ưu thế của nó trong thị trường tài chính. Với hình thức đa dạng, phương thức phát hành phong phú và không ngõng được cải tiến, độ an toàn cao, phạm vi và đối tượng huy động rộng, cơ chế quản lý ngày càng hoàn thiện, nó ã đảm bảo được quền lợi và thị hiếu của nhà đầu tư cũng như nhu cầu sử dụng vốn của Ngân sách Nhà nước, đồng thời cã khả năng đáp ứng được các nhu cầu giao dịch, tín dụng trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, việc phát hành trái phiếu Chính phủ còn bộc lộ một số hạn chế. Khối lượng trái phiếu Chính phủ phát hành hàng năm nhìn chung còn nhỏ bé (chỉ ở mức trên dưới 2,0%/GDP), chưa khai thác thoả đáng nguồn vốn nhàn rỗi còn khá tiềm tàng trong nền kinh tế. Thời hạn trái phiếu còn ngắn, lãi suất thấp. Trái phiếu Chính phủ được nắm giữ chủ yếu bởi các NHTM quốc doanh và một số ít NHTM cổ phần chủ yếu là để giải quyết lượng vốn tồn đọng. Do đã, khả năng phát triển thị trường thứ cấp là rất yếu. Hiện nay, khối lượng trái phiếu Chính phủ đang còn giá trị lưu hành chỉ đạt khoảng 4000 tỷ đồng. 3. Thị trường tiền tệ liên ngân hàng ở Việt Nam, thị trường nội tệ liên ngân hàng được thành lập từ năm 1993. Lúc đầu tổ chức các phiên giao dịch theo tuần và sau này thì thực hiện giao dịch theo ngày làm việc của các ngân hàng. Hàng hoá của thị trường chủ yếu là trái phiếu, tín phiếu kho bạc, tín phiếu ngân hàng được chuyển nhượng. Thị trường được tổ chức thành hai loại: thị trường liên ngân hàng do NHNN làm trung gian và thị trường tiền tệ mở rộng giữa ngân hàng với khách hàng do NHTM làm trung gian. Tuy đã có sự sôi động nhất định nhưng thị trường tiền tệ liên ngân hàng ở Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển, chỉ dừng ở mức giao dịch diễn ra đối với từng nhóm nhỏ trên cơ sở vay mượn thường xuyên và hiểu biết lẫn nhau. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tương đối tích cực tham gia vào thị trường này (do hạn chế huy động VND). So với doanh số giao dịch trên thị trường mở thì doanh số giao dịch trên thị liên ngân hàng lớn hơn nhiều. Khối lượng giao dịch trên thị trường liên ngân hàng của toàn hệ thống vào cuối năm 2000 đạt khoảng 12% lượng vốn huy động và gần gấp 3 lần lượng vốn vay từ NHNN. Nhìn chung thị trường tài chính Việt Nam còn khá nhỏ bé về qui mô, đơn sơ về chủng loại hàng hoá, lạc hậu về cư sử vật chất kĩ thuật. Đây là trở ngại lớn đối với việc phát huy hiệu quả của công cụ nghiệp vụ thị trưởng mở. Vì vậy từng bước xây dựng một thị trường tài chính phát triển trong thời gian tới là một yêu cầu không thể thiếu. III - THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TẠI VIỆT NAM 1. Những nội dung cơ bản về nghiệp vụ thị trường mở của NHNN Việt Nam 1.1. Phương thức mua bán trên thị trường mở Hiện nay, NHNN đang áp dụng hai phương thức mua bán đó là: + Mua hoặc bán hẳn: là việc mua, bán và chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá từ bên bán cho bên mua và không kèm theo thỏa thuận mua bán lại. Với phương thức này, chỉ được thực hiện với các hàng hóa mà thời hạn còn lại (tức là thời gian thanh toán còn lại của giấy tờ có giá ngắn hạn, tính từ ngày giấy tờ có giá được mua bán thông qua nghiệp vụ thị trường mở đến hạn thanh toán ) tối đa theo quy định của thông đốc trong từng thời kỳ ( hiện nay thời hạn thanh toán tối đa là 90 ngày ). + Mua, bán có thời hạn (còn gọi là giao dịch có kỳ hạn) là việc bên bán bán và chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá cho bên mua đồng thời cam kết mua lại và nhận lại quyền sở hữu giấy tờ có đó sau một thời gian nhất định. 1.2. Phương thức đấu thầu trên thị trường mở Có hai phương thức mà NHNN áp dụng để đấu thầu đó là đấu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất. + Đấu thầu khối lượng: Là việc xác định khối lượng trúng thầu của các tổ chức tín dụng tham gia nghiệp vụ thị trường mở trên cơ sở khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng, khối lượng giấy tờ có giá mua hoặc bán và lãi suất do ngân hàng nhà nước thông báo cụ thể như sau: NHNN thông báo cho các tổ chức tín dụng mức lãi suất và khối lượng các giấy tờ có giá cần bán hoặc cần mua ( NHNN có thể không thông báo khối lượng cần mua hoặc cần bán). Các đơn vị thành viên tham gia dự thầu khối lượng các loại giấy tờ có giá cần mua hoặc cần bán theo mức lãi suất ngân hàng công bố. Sau khi mở thầu, NHNN xác định khối lượng trúng thầu của các đơn vị tham gia dự thầu theo nguyên tác sau: Nếu tổng khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng bằng hoặc thấp hơn khối lượng NHNN cần mua hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu của đơn vị chính là khối lượng dự thầu. Nếu tổng khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng lớn hơn khối lượng NHNN cần mua hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu của các tổ chức tín dụng sẽ được phân bổ tỷ lệ thuận với khối lượng dự thầu theo công thức sau: Tỉ lệ phân bổ thầu Khối lượng dự thầu hợp lệ Khối lượng trúng thầu = 100 Trong đó: Khối lượng giấy tờ có giá NHNN cần bán(mua) Tỷ lệ phân bổ thầu = x 100 Khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng + Đấu thầu lãi suất: Là việc xác định lãi suất chung thầu của các tổ chức tín dụng tham gia nghiệp vụ thị trường mở trên cơ sở khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng, khối lượng giấy tờ có giá mà ngân hàng nhà nước cần mua hay bán NHNN có thể công bố hoặc không công bố trước khối lượng các loại giấy tờ có giá cần mua hoặc cần bán. Các đơn vị thành viên dự thầu theo mức lãi suất và khối lượng giấy tờ có giá cần mua hoặc cần bán với mức lãi suất đó. Lãi suất dự thầu được tính theo tỷ lệ phần trăm và được làm tròn đến hai con số sau dấu phẩy, lãi suất sẽ được sắp xếp theo thứ tự lãi suất dự thầu giảm dần, nếu ngân hàng nhà nước là người mua và ngược lại lãi suất sắp xếp theo thứ tự tăng dần nếu NHNN là người bán. Lãi suất trúng thầu là lãi suất dự thầu cao nhất (Trường hợp NHNN là người bán) và lãi suất dự thầu thấp nhất (trong trường hợp NHNN là người mua) mà tại đó, đạt được khối lượng giấy tờ có giá mà NHNN cần bán hoặc cần mua. Tùy tình hình cụ thể, NHNN có thể áp dụng phương thức xét thầu theo lãi suất thống nhất hoặc theo lãi suất riêng lẻ để tính toán số tiền phải thanh toán cho khối lượng giấy tờ có giá trúng thầu: - Lãi suất thống nhất: là toàn bộ khối lượng trúng thầu được tính theo một mức lãi suất trúng thầu để tính số tiền thanh toán. - Lãi suất riêng lẻ :Khối lượng trúng thầu được tính tương ứng với từng mức lãi suất dự thầu được công bố trúng thầu để tính số tiền thanh toán. Việc xác định khối lượng trúng thầu của các tổ chức tín dụng được tuân theo các nguyên tắc sau: Nếu tổng khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng nhỏ hơn hoặc bằng khối lượng mà ngân hàng nhà nước cần bán (hoặc tổng khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng bằng khối lượng mà ngân hàng nhà nước cần mua ) thì khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng chính là khối lượng trúng thầu. Nếu tổng khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng vượt quá khối lượng giấy tờ có giá mà NHNN cần mua hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu của các tổ chức tín dụng sẽ được tính theo công thức sau: Khối lượng trúng Tổng khối lượng Khối lượng Thầu của từng tổ = Trúng thầu của các + tại mức lãi suất Chức tín dụng mức lãi suất trước đó trúng thầu cuối cùng Tỷ lệ KL dự thầu của các TCTD Khối lượng trúng thầu phân bổ thầu x mức lãi suất cuối cùng tại mức LS trúng thầu cuối = cùng của từng thành viên 100 Trong đó: Tỷ lệ Tổng KL trúng thầu tại mức LS trúng thầu cuối cùng Phân bổ = x 100 thầu (%) KL dự thầu của các TCTD tại mức LS trúng thầu cuối cùng Tổng khối lượng trúng thầu tại mức lãi suất trúng thầu cuối cùng bằng tổng khối lượng ngân hàng nhà nứơc cần mua (bán) trừ đi tổng khối lượng trúng thầu của các mức lãi suất trúng thầu trước đó. Trường hợp tại mức lãi suất trúng thầu, có nhiều loại giấy tờ có giá cần bán hoặc cần mua, NHNN sẽ xét thầu theo thứ tự ưu tiên tưng loại giấy tờ có giá trị như sau: Giấy tờ có giá đăng ký với khối lượng lớn hơn. Giấy tờ có giá thời hạn ngắn hơn (trường hợp giao dịch kỳ hạn) Thời hạn còn lại giấy tờ có giá ngắn hơn (trường hợp mua bán hẳn) 2. Diễn biến hoạt động nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) giai đoạn 2000 - 2008 Nếu như trong thời gian đầu, các năm 2002 - 2003. doanh số giao dịch trên thị trường mở còn khiêm tốn, thì từ năm 2004 - 2006, doanh số giao dịch tăng hàng năm trên 200% và năm 2006 bằng 2,92 lần năm 2003 và 16 lần năm 2001. Doanh số giao dịch tăng nhanh bởi các phiên giao dịch thị trường mở đã được tổ chức thường xuyên hơn và doanh số giao dịch từng phiên tăng lên. Năm 2005, doanh số giao dịch bắng 165,5 % so với năm 2004.Phân tích thực trạng thời gian qua thì doanh số NHNN mua vào ngắn hạn các loại giấy tờ có giá qua thị trường mở tăng nhanh qua các năm và nhìn chung tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của tổng doanh số giao dịch NVTTM. Đặc biệt doanh số mua vào năm 2006 tăng cao, bằng 6.18 lần so với năm 2005. Doanh số mua vào năm 2007 bằng 172,1% so với năm 2006. Thực tế đó đã chứng tỏ kết quả đổi mới của NHNN trong điều hành chính sách tiền tệ, nhưng diễn biến thị trường cũng cho thấy các NHTM thường xuyên thiếu vốn khả dụng. Bên cạnh đó, tỷ trọng doanh số mua vào tăng từ 62,06% năm 2000 lên đến 98,2% vào năm 2006. Chỉ có năm 2003 tỷ trọng này giảm chỉ còn 46,5%. Doanh số trúng thầu mỗi phiên giao dịch NVTTM giai đoạn 2000 - 2008 Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 DS trúng thầu bình quân 173 82 105 198 504 649 702 825 1.024 DS trúng thầu cao nhất 250 400 1.000 1.111 3.442 3.939 4.536 5.412 6.783 DS trúng thầu thấp nhất 0 0 0 0 0 0 0 0 0 nguồn: NHNN Qua diễn biến của bảng số liệu trên cho thấy doanh số trúng thầu bình quân của từng phiên tăng lên qua các năm: năm 2000 đạt 173 tỉ đồng thì năm 2008 đã đạt 1.024 tỉ đồng, bằng 5.91 lần. Bên cạnh đó, doanh số trúng thầu cao nhất trong một phiên cũng tăng lên theo các năm. Điều này chứng tỏ khả năng điều tiết của công cụ này đến vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng và các điều kiện của thị trường tiền tệ ngày càng tăng. Trước khi thực hiện các phiên đấu thầu khối lượng, ban điều hành NVTTM công bố lãi suất để các thành viên đặt thầu mua bán giấy từ có giá. Lãi suất công bố này là lãi suất trúng thấu trong các phiên đấu thầu khối lượng thường chỉ có một lãi suất nhất định. Tuy nhiên, do lãi suất trúng thầu đã được NHNN xác định nên các thành viên không có sự lựa chọn về lãi suất khi giao dịch với NHNN và lãi suất này chưa phản ánh được nhu cầu về vốn của các thành viên trên thị trường. Đây là một nhược điểm của phương thức đấu thầu khối lượng trong giao dịch thị trường mở. Vì vậy, trong 2 năm trở lại đây NHNN đã không áp dụng phương thức đấu thầu khối lượng trong các phiên giao dịch nữa. 3. Những kết quả đạt được Thứ nhất: quy mô hoạt động NVTTM ngày càng được mở rộng. NHNN tăng cường khả năng điều tiết của công cụ này, tác động có hiệu quả đến vốn khả dụng Vốn khả dụng là số tiền gửi của các tổ chức tín dụng (bao gồm tiền gửi dự trữ bắt buộc, tiền gửi thanh toán và các loại tiền gửi khác) được gửi tại Ngân hàng Nhà nước (quy chế vốn khả dụng, NHNN 24/01/2000) của các tổ chức tín dụng cũng như các điều kiện của thị trường tiền tệ. NVTTM ngày càng trở thành công cụ có tác động lớn nhất vào vốn khả dụng và kinh doanh vốn của các tổ chức tín dụng. Điều này được thể hiện qua các khía cạnh sau: - Khối lượng giao dich NVTTM theo cả hai chiều mua và bán tăng mạnh qua các năm; khối lượng giao dịch trong từng phiên cũng ngày càng tăng từ bình quân 82 tỷ đồng /phiên năm 2001 lên gần 825 tỷ đồng/phiên năm 2007. Đặc biệt trong những dịp giáp tết có phiên lên đến 4.200 tỷ đồng. - Số lượng thành viên tham gia NVTTM ngày càng tăng. Năm 2000 khi NVTTM bắt đầu hoạt động thì chỉ có 21 thành viên, gồm NHNN và 20 tổ chức tín dụng; đến nay (2008)đã có hơn 40 thành viên thị trường trong đó có 35 tổ chức tín dụng. CÁC tổ chức tín dụng là thành viên tham gia NVTTM khá đao dạng bao gồm cả NHTM nhà nước, NHTM cổ phần, ngân hàng liên daonh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân Trung ương và công ty tài chính. Thứ hai: các cơ chế và qui trình NVTTM được NHNN không ngừng cải tiến và hoàn thiện, ngày càng đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và mong muốn của các tổ chức tín dụng, phù hợp với thông lệ quốc tế. - NHNN đã kịp thời sửa đổi, bổ sung cơ chế, quy chế, quy trình kỹ thuật có liên quan. Về cơ bản, các vướng mắc về cơ chế, cũng như qui trình kỹ thuật đã được từng bước xử lí, khắc phục. Công tác tổ chức, điều hành hoạt động NVTTM của NHNN được thực hiện bài bản, bảo đảm an toàn tuyệt đối trong các phiên giao dịch. - Các lại giấy tờ có giá được sử dụng trong NVTTM đã được mở rộng theo tinh thần luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật NHNN năm 2003. Đến nay các giấy tờ có giá không chỉ gồm tín phiếu kho bạc mà còn cả các loại trái phiếu dài hạn do ngân sách trung ương thanh toán. Mới đây, trái phiếu đô thị của Tp HCM cũng được thí điểm cho phép giao dịch trên thị trường mở. - Quy trình thanh toán NVTTM từng bước được rút ngắn. Từ thanh toán sau 2 ngày kể từ ngày đấu thầu (T + 2) năm 2000, thanh toán sau ngày đấu thầu 1 ngày (T + 1) năm 2001 và từ năm 2002 đến nay việc thanh toán được thực hiện ngay trong ngày đấu thầu. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng của NHNN đưa vào vận hành từ tháng 5/2003 đã tạo điều kiện cho các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng và NVTTM được thanh táon, quyết toán tức thời, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của các tổ chức tín dụng. - Số lượng các phiên giao dịch từng bước được tăng cường từ 10 ngày/ phiên trong năm 2001, 2 phiên/ tuần năm 2002. Từ tháng 11 năm 2004, hoạt động NVTTM đã thực hiện định kỳ 3 phiên/ tuần, góp phần điều tiết kịp thời vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng. Trong những dịp giáp tết NHNN thực hiện giao dịch hàng ngày và tổ chức thêm các phiên giao dịch đột xuất, giúp các tổ chức tín dụng đáp ứng kịp thời vốn đảm bảo khả năng thanh toán, đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ và an toàn hệ thống. Thứ ba: NVTTM được NHNN kết hợp chặt chẽ và đồng bộ với các công cụ khác nhằm phát tín hiệu điều hành chính sách tiền tệ theo hướng chuyển sang gián tiếp và thực hiện có hiệu quả mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kì. Từ tháng 7/2000 đến năm 2002, việc NHNN mua bán các giấy tờ có giá thông qua thị trường mở đã góp phần điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng theo mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Nhất là trong thời điểm các tổ chức tín dụng gặp khó khăn về vốn khả dụng, NVTTM đã được kết hợp sử dụng đồng bộ với các công cụ khác như nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ, nghiệp vụ cho vay cầm cố để hỗ trợ kịp thời cho các tổ chức tín dụng đảm bảo khả năng thanh toán, góp phần duy trì ổn đinh tiền tệ. Trong năm 2007, do NHNN tăng cường mua ngoại tệ từ các tổ chức tín dụng nên vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng tăng lên. Để điều hoà vốn khả dụng VNĐ của hệ thống ngân hàng, NHNN đã thực hiện chào bán tín phiếu NHNN thông qua thị trường mở. Từ tháng 04 - 07/2008 trước xu hướng các tổ chức tín dụng liên tục tăng lãi suất huy động VNĐ trong khi vốn khả dụng vẫn dư thừa khá lớn, bên cạnh việc điều chỉnh giảm lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc, NHNN đã liên tục chào mua trong các phiên giao dịch trên thị trường mở với lãi suất thấp nhằm phát tín hiệu sẵn sàng cung ứng vốn khả dụng với chi phí thấp, các tổ chức tín dụng cần theo dõi và chủ động cân đối vốn hợp lí. Trong hai năm 2006 - 2007 và những tháng đầu năm 2008, chỉ số giá tiêu dùng CPI ở nước ta liên tục tăng trong khi đó mục tiêu tăng trưởng kinh tế vẫn được chính phủ và NHNN hết sức quan tâm thực hiện. NHNN đã sử dụng NVTTM như một công cụ chủ yếu trong điều hành chính sách tiền tệ nhằm hỗ trợ tích cực cho việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra. Nhìn chung việc điều hành NVTTM được kết hợp tương đối đồng bộ với các công cụ của chính sách tiền tệ khác. Lãi suất trên thị trường mở kết hợp khá chặt chẽ với lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu để định hướng lãi suất thị trường. Thứ tư: NVTTM là kênh hiệu quả để NHNN có được nguồn thông tin về tình hình nguồn vốn, vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng và về tình hình thị trường tiền tệ nói chung, làm cơ sở cho việc điều hành chính sách tiền tệ có hiệu quả theo mục tiêu được đề ra. Thứ năm: NVTTM đã góp phần thúc đẩy sự phát triển thị trường tiền tệ, hỗ trợ các tổ chức tín dụng vốn có hiệu quả và năng động hơn trong kinh doanh vốn. Theo đó, thị trường liên ngân hàng cũng sôi động và phát triển hơn, tác động tích cực vào lãi suất trên thị trường. Thông qua hoạt động NVTTM tính thanh khoản của các giấy tờ có giá do các tổ chức tín dụng nắm giữ được tăng cường. Điều này góp phần thúc đẩy hoạt động của thị trường sơ cấp, giúp các tổ chức tín dụng yên tâm hơn khi đầu tư vào các trái phiếu dài hạn của chính phủ, khuyến khích các hoạt động mua bán lại trái phiếu chính phủ. Thứ sáu: Công tác phân tích, dự báo vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng làm cơ sở cho việc quyết định giao dịch trên thị trường mở ngày càng được tăng cường. Nhiều NHTM đã thành lập phòng kinh doanh vốn hay phòng nguồn vốn, bộ phận quản lí vốn khả dụng. Các đơn vị này làm tôt vai trò tham mưu, đã cố gắng cảo tiến phương pháp dự báo, nâng cao chất lượng dự báo vốn khả dụng, khắc phục khó khăn trong thu thập thông tin, khai thác tối đa các nguồn thông tin khác, thường xuyên trao đổi với các tổ chức tín dụng, nhất là với các NHTM nhà nước để nắm bắt diễn biến thị trường, qua đó giảm sai số khi dự báo, đáp ứng yêu cầu ngày càng phát triển của công cụ này. 4. Những hạn chế còn tồn tại Qua gần 8 năm triển khai thực hiện, bên cạnh những kết quả khả quan, NVTTM vẫn còn bộc lộ một số hạn chế sau đây: + Tác động của NVTTM đến thị trường tiền tệ còn hạn chế, chưa đạt được hiệu quả cao như mong đợi: - Công cụ này chủ yếu phát huy vai trò điều tiết khối lượng vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng hơn là điều tiết lãi suất của thị trường. - Mặc dù lãi suất thị trường mở mang tính thị trường nhưng NHNN vẫn áp dụng lãi suất chỉ đạo mang tính hành chính trong một số phiên giao dịch, để qua đó có thể can thiệp tới lãi suất của thị trường. Ngoài ra, mối quan hệ giữa lãi suất thị trường mở cũng như các lãi suất khác của NHNN và lãi suất thị trường chưa thật chặt chẽ. + Hoạt động thị trường mở còn một số bất cập trước đòi hỏi của thực tiễn. - Nhiều NHTM đã không trúng thầu trong một số phiên, do không nắm được định hướng tỉ lệ phân bổ xét thầu cho từng loại giáy tờ có giá của NHNN, nên đã đặt thầu giao dịch với các loại giấy từ có giá mà NHNN mua/ bán với khối lượng thấp mặc dù đã đặt thầu ở mức lãi suất cạnh tranh. - Thời gian để rút được giấy tờ có giá lưu ký ra khỏi NHNN phải chờ đợi lâu (5 - 7 ngày) + Hoạt động của thị trường mở chưa thực sự sôi động, các thành viên giao dịch vẫn chủ yếu là các NHTM nhà nước. Trong mỗi phiên giao dịch thường chỉ có từ 1 đến 5 thành viên tham gia, chiếm tỉ lệ tương đối thấp so với tổng số các thành viên đăng kí tham gia thị trường mở và chiếm tỉ lệ nhỏ so với tổng số các tổ chức tín dụng. + Kì hạn mua bán giấy tờ có giá ngắn và chưa đa dạng. Mặc dù quy định về kì hạn giao dịch được tăng từ 7 ngày lên 182 ngày nhưng trên thực tế NHNN thường chỉ giao dịch với các kì hạn từ 7 đến 30 ngày, dẫn đến các khoản thanh toán với NHNN đến hạn dồn dập trong một thời gian ngắm và tăng gánh nặng thanh toán cho các NHTM. 5. Một số nguyên nhân + Hoạt động thị trường mở chưa sôi động, số lượng các thành viên còn ít Chúng ta biết rằng các chủ thể tham gia trên thị trường mở là rất phong phú. Ở các nước phát triển, đó là NHTW, các NHTM, các tổ chức tài chính phi ngân hàng, kho bạc Nhà nước, các doanh nghiệp tốt, các nhà môi giới và cả các hộ gia đình. ở Việt Nam, do quy định của NHNN khá chặt chẽ nên thành viên tham gia thị trường mở đa số là các tổ chức tín dụng. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng chỉ có duy nhất một công ty tài chính tham gia. Các doanh nghiệp và hộ gia đình không thể trực tiếp tham gia vào thị trường mở. Muốn giao dịch ở đây, họ phải gián tiếp thông qua các NHTM. Một lý do khác là hiện nay hệ thống ngân hàng Việt Nam đang trong giai đoạn cải cách, củng cố nên còn ảnh hưởng đến khả năng tham gia vào thị trường. NHNN lại chưa phát huy tốt vai trò hướng dẫn thị trường nên việc tham gia thị trường của các tổ chức, cá nhân còn hạn chế. Một số định chế tài chính như công ty bảo hiểm, quỹ tương hỗ chưa hội đủ điều kiện để tham gia giao dịch trên thị trường. Mặt khác, một trong các điều kiện tham gia nghiệp vụ thị trường mở là các thành viên phải có giấy tờ có giá để bán và chủ động được vốn khả dụng của mình. Nhưng các tổ chức tín dụng lại chưa đầu tư nhiều vào giấy tờ có giá ngắn hạn do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa họ còn phải chịu sự thiếu bình đẳng trong kinh doanh. Các NHTM quốc doanh được vay theo chỉ định nên cã nhiều lợi thế trong giao dịch trên thị trường mở nhờ được vay với giá rẻ để mua giấy tờ có giá có lãi suất lợi hơn. Các NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh, quỹ tín dụng ít có ưu thế này. Điều này không kích cầu tín dụng và tạo ra sự phân biệt đáng kể trên thị trường. + Hàng hoá giao dịch trên thị trường ít ỏi cả về số lượng và chất lượng - Về mặt số lượng: một tồn tại tạo ra sự đơn điệu của nghiệp vụ thị trường mở vừa qua là sự khan hiếm hàng hoá. Theo quy định hiện nay, chỉ những giấy tờ có giá như tín phiếu NHNN, tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, dài hạn nhưng còn thời hạn ngắn khác mới được giao dịch trên thị trường. Nhưng trên thực tế, hiện nay mới chỉ có tín phiếu NHNN, tín phiếu kho bạc và số lựng ít trái phiếu chính phủ là được giao dịch trên thị trường. Trong đã chỉ có khoảng 4000 tỷ đồng giá trị trái phiếu Chính phủ và 400 tỷ đồng giá trị tín phiếu NHNN. Và những giấy tờ có giá này cũng chỉ tập trung vào những tổ chức tín dụng có quy mô lớn, đã tham gia giao dịch trên thị trường sơ cấp. Như vậy có thể thấy, quy định của NHNN về các loại giấy tờ có giá được phép giao dịch thông qua thị trường mở ngay từ đầu đã làm giảm khả năng và phạm vi mua bán của các loại giấy tờ có giá khác hiện có ở Việt Nam như trái phiếu trung và dài hạn khi mà thời gian đáo hạn của chúng còn dưới một năm. Ở các nước phát triển, các loại chứng khoán được giao dịch trên thị trường mở hoàn toàn không bị giới hạn về thời hạn. Tức là ngay cả các loại giấy tờ có giá trung và dài hạn cũng có thể được coi là hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở. Tuy nhiên, trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam hiện nay, khi mà thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động, nghiệp vụ thị trường mở còng chỉ đang ở giai đoạn khởi đầu và nền kinh tế còn tiềm ẩn nhiều khả năng rủi ro thì việc hạn chế sử dụng những chứng khoán có rủi ro cao hơn trong giao dịch trên thị trường mở là cần thiết. - Về chất lượng: chất lượng các giấy tờ có giá được giao dịch trên thị trường cũng là một vấn đề đáng suy nghĩ. Điều đầu tiên cần đề cập đến chính là lãi suất của các loại chứng khoán Chính phủ. Đối với các nhà đầu tư thì lãi suất của chứng khoán Chính phủ không có sức hấp dẫn. Lãi suất tín phiếu kho bạc đang thấp hơn lãi suất tiền gửi 12 tháng của các ngân hàng, không lẽ lại huy động tiền gửi với lãi suất 6,5%/năm để đi mua trái phiếu kho bạc lãi suất 5,5%/năm? Nó còn bị lệ thuộc vào chỉ đạo nên chưa phản ánh được lãi suất thị trường. Lãi suất của trái phiếu Chính phủ thì chỉ có 6,5% đến 6,6%/năm và lãi suất năm của tín phiếu kho bạc 5 năm tương đương với lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 1 năm và thấp hơn nhiều so với 10%/năm là tỷ lệ cổ tức nhỏ nhất mà các doanh nghiệp đảm bảo trả cho các cổ phiếu mà họ phát hành. Bên cạnh đó, kỳ hạn của tín phiếu lại hạn chế, chỉ gồm một kỳ hạn duy nhất là 364 ngày. Mặt khác, mục đích mua trái phiếu Chính phủ của các tổ chức tín dụng chủ yếu để giải quyết tình trạng thừa vốn tạm thời. Nhưng khi cần vốn thì khả năng thanh toán lại rất kém vì việc bán trái phiếu Chính phủ trên thị trường thứ cấp không dễ dàng. + Các nguyên nhân khác: - Phương thức giao dịch chưa đa dạng và linh hoạt. Hiện nay, ở nước ta, nghiệp vụ thị trường mở có thể áp dụng một trong 2 phương thức giao dịch: Bán và cam kết mua lại (giao dịch có kỳ hạn) Mua bán hẳn Tuy nhiên, thực tế các phiên giao dịch vừa qua chỉ áp dụng phương thức mua bán hẳn với tín phiếu NHNN, phương thức mua có kỳ hạn đối với tín phiếu kho bạc Nhà nước. Còn phương thức bán hẳn ít được thực hiện và đặc biệt phương thức bán có kỳ hạn chưa được thực thi. Phương thức giao dịch có kỳ hạn là một phương thức linh hoạt và có thể kích thích khối lượng giao dịch trên thị trường nhưng lại chưa được sử dụng đồng bộ. Đây là một tồn tại cần khắc phục kịp thời để góp phần làm cho thị trường mở trở nên sôi động hơn. - Việc thu thập thông tin về tình hình thị trường tiền tệ liên ngân hàng còn nhiều khó khăn. Đến nay, NHNN vẫn chưa có hệ thống theo dõi kịp thời và đầy đủ các hoạt động trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Việc theo dõi, dự báo vốn khả dụng vẫn còn có những khó khăn nhất định. Trong khi đó bản thân một số tổ chức tín dụng thành vien cũng gặp khó khăn trong việc nắm bắt thông tin về tình hình thị trường. Việc đánh giá, phân tích tình hình thị trường thông qua xem xét phản ứng của một số thành viên đôi khi không chính xác diễn biến thực tế. - Cơ sở hạ tầng cho hoạt động NVTTM còn bất cập. Sự không đồng bộ trong ứng dụng công nghệ thông tin giữa NHNN và các thành viên thị trường làm hạn chế số lượng thành viên tham gia, đặc biệt là các NHTM cổ phần. KẾT LUẬN Như vậy qua 2 chương trình bày ở trên ta có thể thấy nghiệp vụ thị trưởng mở là một công cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ với những ưu thế so với các công cụ khác. Việc đưa công cụ này vào hoạt động tại Việt Nam là một điều tất yếu, đưa NVTTM vào sử dụng là một bước đi quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN tuy nhiên để hoàn thiện công cụ này thì cần một khoảng thời gian dài hạn trước mắt. Nghiên cứu về NVTTM không chỉ dừng lại ở mức thấy được những ưu điểm của nó mà quan trong hơn là có thể kết hợp hài hoà với những công cụ khác trong việc thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Vấn đề này là câu hỏi đặt ra với NHNN Việt Nam trong giai đoạn tới. ____________hết___________ TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình lí thuyết tài chính tiền tệ - ĐH Kinh tế Quốc dân 2002 2. Giáo trình nghiệp vụ NHTƯ - ĐH Kinh tế quốc dân 3. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính - F. Mishkin 4. Tiền tệ, ngân hàng thị tường tài chính - NXB tài chính 2001 5. Nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương - Học viện Ngân hàng 6. Tạp chí Ngân hàng - số 14 tháng 07/2008, số 07 tháng 07/2008, kế hoạch phát triẻn KTXH 2006-2010 số chuyên đề 2008. 7. Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ - 01/03/2008 8. Quy chế nghiệp vụ thị trường mở (NHNN) và một vài văn bản luật khác. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6098.doc
Tài liệu liên quan