Nguồn nhân lực nông thôn: Lợi thế, thách thức và xu hướng phát triển

Nguồn nhân lực nông thôn: Lợi thế, thách thức và xu hướng phát triểnMỤC LỤC A. LỜI NÓI ĐẦU 1 B. NỘI DUNG 3 I. Những lý luận chung về nguồn nhõn lực nụng thụn (NNLNT) 3 1. Khỏi niệm NNLNT 3 2. Quan niệm của một số tổ chức quốc tế và một số nước về phát triển NNL NT 5 3. Đặc điểm của NNLNT 7 3.1. NNLNT dồi dào, tốc độ tăng nhanh hơn so với khu công nghiệp và thành thị 7 3.2. NNLNT nhỡn chung cú trỡnh độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật thấp và không đồng đều hơn so với các khu vực khác của nền kinh tế 8 3.3. NNLNT ( đặc biệt là bộ phân lao động sản xuất trực tiếp) làm việc có tính chất thời vụ, chưa có việc làm thường xuyên 8 3.4. Phân bố lao động nông thôn không đều giữa các vùng miền trong cả nước 9 3.5. Sức ép của lao động nông thôn đang ngày một lớn do xu hướng phát triển kinh tế 10 3.6. Thu nhập và thù lao lao động thuộc vào loại thấp nhất so với các lĩnh vực khác. Mức sống của lao động nông thôn thấp hơn nhiều so với thành thị 10 3.7. Thị trường lao động nông thôn chưa phát triển, sức cạnh tranh của hàng hóa sức lao động nông thôn cũn yếu 11 4. Vai trũ của NNL NT trong quỏ trỡnh phỏt triển kinh tế - xó hội 12 5. Các nhân tổ ảnh hưởng đến NNLNT 14 5.1. Quỏ trỡnh dõn số 14 5.2. Mức sống của dân cư 14 5.3. Giáo dục và đào tạo 14 5.4. Tăng trưởng và phát triển kinh tế 15 5.5. Việc làm và thu nhập 15 5.6. Sự phỏt triển hệ thống giao thụng và cụng nghệ thụng tin 16 5.7. Cỏc chớnh sỏch của chớnh phủ 16 II. Lợi thế, thỏch thức của NNLNT 16 1. Lợi thế của NNLNT 16 1.1. NNLNT dồi dào, trẻ và giỏ rẻ 16 1.2. Những phẩm chất tinh thần tốt đẹp 18 2. Thỏch thức của NNLNT 19 2.1. Chất lượng NNLNT thấp 19 2.2. Người nông dân có nguy cơ bị mất việc và khả năng kiếm việc mới của lao động nông thôn thấp do trỡnh độ chuyên môn và khả năng thích ứng với điều kiện mới không cao 21 2.3. Những thúi quen và truyền thống lạc hậu 22 2.4. Tạo ra phõn tầng xó hội, ảnh hưởng tới phát triển văn hóa, xó hội và mụi trường của nước ta 24 2.5. Một số thỏch thức khỏc 24 III. Xu hướng và giải pháp phát triển của NNLNT 25 1. Xu hướng phát triển của NNLNT 25 1.1. NNL trong nông thôn có độ tuổi trung bỡnh ngày càng tăng 25 1.2. NNLNT có tỷ lệ lao động nữ ngày càng cao 25 1.3. NNLNT có xu hướng giảm dần cả về số lượng tuyệt đối và tương đối 26 1.4. NNL nông - lâm - ngư nghiệp có xu hướng giảm dần cả về mặt số lượng và tỷ trọng trong tổng NNL xó hội 26 1.5. NNLNT có tính cơ động và chất lượng ngày càng cao 27 2. Cỏc giải phỏp phỏt triển NNLNT 28 2.1. Giảm lượng cung lao động 28 2.2. Phải sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nguồn lực đất đai 28 2.3. Nõng cao trỡnh độ văn hóa chuyên môn cho lao động nông nghiệp nông thôn 29 2.4.Những biện phỏp khỏc 30 C. KẾT LUẬN 31 D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 32

doc34 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1851 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nguồn nhân lực nông thôn: Lợi thế, thách thức và xu hướng phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nền kinh tế còn kém phát triển, đời sống người dân còn khó khăn đặc biệt là ở nông thôn thì lao động trẻ em dưới 15 tuổi chiếm một tỷ lệ khá lớn. Số lượng NNL được biểu hiện thông qua chỉ tiêu quy mô và tốc dộ tăng dân số. Quy mô và tốc độ tăng dân số quyết định đến quy mô và tốc độ tăng NNL. Quy mô và tốc độ tăng dân số càng cao thì dẫn đến quy mô và tốc độ tăng của NNL càng lớn và ngược lại. Tuy nhiên mối quan hệ giữa dân số và NNL được biểu hiện sau một thời gian nhất định vì đến lúc đó con người mới phát triển đầy đủ, mới có khả năng lao động . Về chất lượng của NNLNT bao gồm các yếu tố về tinh thần, thể lực, trí lực. Sức khỏe vừa là mục đích của sự phát triển vừa là điều kiện của sự phát triển. Sức khỏe là sự phát triển hài hòa của con người cả về mặt vật chất và tinh thần. Theo tổ chức Y tế thế giới: “ Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái về về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không chỉ là không có bệnh hay thương tật” GS.TS. Bùi Văn Nhơn: Quản lý và phát triển NNL xã hội. Nxb, Tư pháp,tr. 99. . Nhân tố trí lực của NNL thường được đánh giá xem xét trên hai giác độ: Trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng lao động thực hành của người lao động. Ngoài yếu tố thể lực và trí tuệ, quá trình lao động đòi hỏi người lao động phải có rất nhiều phẩm chất như tính kỷ luật, tự giác, có tinh thần hợp tác và tác phong lao động công nghiệp, có tinh thần trách nhiệm cao…những phẩm chất này gắn liền với truyền thống văn hóa của dân tộc. Như vậy nguồn lao động nông thôn là một bộ phân của NNL quốc gia, thuộc khu vực nông thôn, là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế- xã hội nông thôn và tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2. Quan niệm của một số tổ chức quốc tế và một số nước về phát triển NNL NT Phát triển NNLNT là nhân tố quan trọng của phát triển NNL một quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam đang trong quá trình Công nghiêp hóa - Hiện đại hóa (CNH - HĐH) và đô thị hóa. Phát triển NNLNT là thúc đẩy sự biến đổi về số lượng và chất lượng của lao động nông thôn về mặt thể lực, kiến thức, kỹ năng, tinh thần của người lao động cũng như cơ cấu nhân lực hợp lý cho sự phát triển của nền kinh tế và xã hội nông thôn để tham gia vào quá trình chung của các vùng phụ cận và cả nước. Hiện nay có nhiều quan niệm của các tổ chức quốc tế và một số nước về phát triển NNLNT. Theo Tổ chức Văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO): " Phát triển NNLNT là phát triển toàn bộ sự lành nghề của dân cư nông thôn trong mối quan hệ của dân cư nông thôn trong mối quan hệ với sự phát triển của đất nước" Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) quan niệm rằng, "con người có nhu cầu sử dụng năng lực của mình để tiến tới việc làm có hiệu quả cũng như thỏa mãn về nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân. Sự lành nghề được hoàn thiện nhờ bổ sung, nâng cao kiến thức trong quá trình sống và làm việc nhằm đáp ứng những kỳ vọng của cong người. Cũng như vậy, những quan điểm về cá nhân, xã hội là cần thiết lồng ghép nguyện vọng cá nhân vào khuôn khổ xã hội hay quốc gia một cách đồng bộ. Phát triển NNLNT là phát triển và sử dụng con người nông thôn có khả năng tham gia lao động, sẵn sàng tham gia vào quá trình lao động xã hội"1,2,3. PGS.TS. Nguyễn Tiệp: NNLNT ngoại thành trong quá trình đô thị hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội, Nxb. Lao động - xã hội, tr.9,10 . Theo UNICO, "phát triển NNLNT cũng như NNL nói chung là phát triển con người một cách có hệ thống có mục tiêu, là đối tượng của sự phát triển một quốc gia. Nó bao gồm mọi khía cạnh về kinh tế và khía cạnh xã hội như như nâng cao khả năng cá nhân, tăng năng lực sản xuất và khả năng sáng tạo, bồi dưỡng chức năng chỉ đạo thông qua việc giáo dục, đào tạo và nghiên cứu hoạt động thực tiễn" . Theo chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), đàng giá sự phát triển con người ở một mức độ nào đó phản ánh sự phát triển nhân lực và được lượng hóa bằng chỉ tiêu HDI. HDI là chỉ tiêu tổng hợp từ 3 yếu tố: Mức độ phát triển kinh tế: GDP/đầu người. Giáo dục và đào tạo: Tỷ lệ người lớn có học, số năm đi học trung bình/người. Y tế: Tuổi thọ bình quân. Giá trị HDI nằm trong khoảng 0 đến 1, HDI càng cao chứng tỏ con người và NNL của một đất nước, một vùng, một khu vực càng có sự phát triển. Nhìn chung ở các nước đang phát triển, giá trị HDI của khu vực nông thôn thường thấp hơn so với khu vực thành thị và so với khu vực nông thôn ở các nước phát triển. Nguyên nhân là do sự phát triển không đồng đều về kinh tế - xã hội, mức sống, các lợi thế so sánh, điều kiện tự nhiên, tập quán sản xuất,chính sách phát triển của chính phủ…giữa nông thôn và thành thị cũng như giữa các vùng khác nhau, giữa nông thôn các nước khác nhau. Phát triển NNLNT là quá trình nâng cao nguồn lực con người về thể lực, trí lực, tâm lực, thẩm mỹ làm cho con người trở thành những người lao động có năng lực, phẩm chất mới và cao hơn. Phát triển NNLNT là nhân tố quan trọng nhất đảm bảo cho sự phát triển của lực lượng sản xuất (LLSX) ở nông thôn, thúc đẩy sự phát triển của khoa học - công nghệ, tăng trưởng kinh tế và nâng cao hiệu quả các hoạt động con người ở nông thôn một quốc gia. 3. Đặc điểm của NNLNT 3.1. NNLNT dồi dào, tốc độ tăng nhanh hơn so với khu công nghiệp và thành thị Đây là đặc điểm cơ bản của NNL ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Do ở nông thôn người dân còn nghèo nên cơ hội tiếp xúc với hệ thống giáo dục cũng như các phương tiện truyền thông, biện pháp tránh thai còn hạn chế, trình độ dân trí còn thấp và còn nhiều tư tưởng lạc hậu như trọng nam kinh nữ, "trời sinh voi thì trời sinh cỏ", thích nhiều con để có nhân lực trong những mùa vụ nên tỷ lệ sinh và tốc độ phát triển dân số ở nông thôn tăng nhanh hơn so với khu vực thành thị và khu công nghiệp. 3.2. NNLNT nhìn chung có trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật thấp và không đồng đều hơn so với các khu vực khác của nền kinh tế Do cuộc sống ở nông thôn nhất là vùng sâu, vùng xa hết sức khó khăn, không có điều kiện đến trường nên hiện tại một bộ phân đáng kể số lao động ở nông thôn vẫn chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp I( khoảng 19.55% năm 2004). Nếu ở thành thị có khoảng 12% lao động làm việc chưa tốt nghiệp tiểu học thì con số đó ở nông thôn gấp 2 lần. Khoảng 90% lao động chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật và nghiệp vụ mới chỉ được đào tạo chắp cá trong một thời gian ngắn. Do khó khăn nên người dân không có điều kiện chăm lo cho sức khỏe cũng như học hành của con em mình. Trẻ em nông thôn phải đi làm rất sớm để phụ giúp gia đình nhất là trẻ em nữ. Những công việc mà các em làm chủ yếu là những công việc thủ công không đòi hỏi trí tuệ nhiều nhưng lại rất vất vả so với sức khỏe của các em. Do phải đi làm sớm nên hạn chế rất lớn đến khả năng khả năng phát triển thể lực, trí lực của các em sau này. Tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo thấp là trở ngại lớn trong việc thúc đẩy phát triển ngành nghề phi nông nghiệp, trở ngại tăng năng suất lao động để đáp ứng mục tiêu CNH - HĐH. 3.3. NNLNT ( đặc biệt là bộ phân lao động sản xuất trực tiếp) làm việc có tính chất thời vụ, chưa có việc làm thường xuyên Ở nông thôn hiện nay, sản xuất nông nghiệp vẫn là chủ yếu. Tính thời vụ cao là nét điển hình tuyệt đối không thể xóa bỏ được của sản xuất nông nghiệp bời vì quá trình sản xuất nông nghiệp là quá trình tái sản xuất tự nhiên, thời gian hoạt động và thời gian sản xuất xen kẽ nhau song lại không hoàn toàn trùng khớp nhau, hơn nữa do sự biến thiên của thời tiết, mỗi loại cây trồng có sự thích ứng nhất định với điều kiện đó cũng làm nên các mùa vụ khác nhau. Do tính chất thời vụ cao nên lao động ở nông thôn thiếu việc làm thường xuyên. Thất nghiệp ở nông thôn chủ yếu là bán thất nghiệp. Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động có xu hướng tăng lên trong thời gian qua. Năm 2005 tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở khu vưc nông thôn cả nước là 80,7%, tăng 1,6% so với 2004. Trong 8 vùng lãnh thổ có 3 vùng đạt tỷ lệ trên 80%, 3 vùng đạt từ 78 -80%, 3 vùng dười 78%. Tuy nhiên tỷ lệ này còn thấp, gần 21% thời gian lao động chưa được sử dụng. Nếu thực hiện phép tính đơn giản thì số lao động nhàn rỗi ở nông thôn sẽ tương đương với gần 7 triệu người (33 triệu lao động nông thôn nhân với 21%). Vùng nông thôn được coi là nơi "dư thừa" của nền kinh tế. Nguồn:Kết quả diều tra lao động - việc làm 1/7/2004 và 1/7/2005 3.4. Phân bố lao động nông thôn không đều giữa các vùng miền trong cả nước Lao động nông thôn thường tập trung ở các đồng bằng và ven biển do ở đây có diều kiện tự nhiên, khí hậu, địa hình… thuận lợi hơn . Đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long là 2 vùng có dân số đông nhất cả nước, đồng bằng sông Hồng chiếm 23,24% dân số cả nước. Những cùng có số dân và lao động ít là những cùng có trình độ kinh tế thấp hơn so với các vùng khác, chủ yếu là vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều dân tộc thiếu số sinh sống. Do sự cách biệt về các điều kiện mà hiện nay tình trạng di cư tự do vẫn còn tồn tại. Tại nhiều địa phương, sức ép tăng dân số cơ học đang làm mất cân đối nhiều kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, nhất là bố trí trường lớp để đào tạo nguồn lao động cũng như chăm sóc y tế cho người dân. 3.5. Sức ép của lao động nông thôn đang ngày một lớn do xu hướng phát triển kinh tế Do ở nước ta quy mô và tốc độ tăng dân số cao làm cho quy mô và tốc độ tăng nguồn lao động hàng năm về lao động ở nông thôn nhanh hơn khả năng tạo việc làm của nền kinh tế. Trong khi đó thì tư liệu sản xuất cỏ bản trong nông nghiệp là đất đai có hạn và có xu hướng ngày càng giảm do dân số tăng nhanh. Bên cạnh đó thì do quá trình CNH - HĐH và quá trình đô thị hóa nên đất đai của người đân bị thu hẹp, nhiều người dân bị mất đất mà khả năng tạo việc làm từ quá trình này còn hạn chế, đồng thời do người lao động nông thôn có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp không đáp ứng được yêu cầu công việc nên sức ép việc làm lao động nông thôn ngày càng tăng do xu thế phát triển của xã hội. 3.6. Thu nhập và thù lao lao động thuộc vào loại thấp nhất so với các lĩnh vực khác. Mức sống của lao động nông thôn thấp hơn nhiều so với thành thị "Ở Việt Nam lao động nông thôn chiếm 75% LLLĐ cả nước nhưng chỉ tạo ra khoảng 40% tổng sản phẩm xã hội. Hậu quả là tỷ lệ nghèo ở nông thôn còn rất cao chiếm trên 90% tổng số người nghèo cả nước và mặc dù Việt Nam được coi là "điểm sáng" trong công cuộc giảm nghèo của nhân loại nhưng 2005 tỷ lệ hộ nghèo là 22%, chênh lệch mức sống dân cư ở thành thị và nông thôn chiếm 5-7 lần. Theo đánh giá của ADB, nếu lấy ngưỡng thu nhập dưới 23USD/ ngày/ người làm chuẩn nghèo thì năm 2002 tỷ lệ nghèo của VN là 58,5 %" TS.Nguyễn Bá Ngọc: Vấn đề thừa lao động ở nông thôn Việt Nam hiện nay. Tạp chí Lao động - Xã hội, số 314 + 315, tr.56. . Trong thời kỳ 1999 -2002, chênh lệch về thu nhập giữa nhóm giàu nhất và nhóm nghèo nhất đã lên tới 14 lần, sự cách biệt giữa thành thị, nông thôn, giữa người giàu và người nghèo ngày càng tăng. Một con số cụ thể về mức thu nhập bình quân đầu người năm 2001 - 2002 cho thấy,trong khi mức chung của cả nước là 356000đ/ người/tháng, thì dân cư khu vực thành thị ở mức 622000đ/ người/tháng, vùng nông thôn chỉ là 275000đ/ người/tháng. Bên cạnh đó thu nhập giữa các vùng miền cũng có sự khác nhau. Ở các vùng đồng bằng và ven biển có mức thu nhập cao hơn so với vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo, vùng có dân tộc thiểu số siunh sống. Vùng Đông Nam Bộ là vùng có thu nhập bình quân cao nhất cả nước và vùng Tây Bắc có mức thu nhập thấp nhất. Nguyên nhân chính đưa đến sự phân hóa giàu nghèo, sự cánh biệt giữa thành thị và nông thôn là vấn đề sử dụng thời gian hữu ích. Ở đâu có thời gian sử dụng lao động hữu ích cao thì ở đó mức sống cao hơn. Trong 2001 - 2002, số gòi làm việc trung bình của thành thị cao hơn ở nông thôn gần 10 tiếng/ tuần, đặc biệt số hộ giầu có số giờ làm việc trong tuần nhiều hơn số hộ nghèo là 17 tiếng đồng hồ và mức tiền công ở khu vực thành thị cũng cao hơn so với khu vực nông thôn. 3.7. Thị trường lao động nông thôn chưa phát triển, sức cạnh tranh của hàng hóa sức lao động nông thôn còn yếu Thị trường lao động nông thôn còn chậm phát triển, nguyên nhân chủ yếu là do phương thức lao động ở nông thôn chưa vươn lên sản xuất hàng hóa một cách đồng đều. Nhiều nơi vẫn duy trì lối đổi công dựa vào mối quan hệ họ hàng, quen biến, còn những nơi có quan hệ thuê mướn phát triển đã phổ biến thì giá cả sức lao động cũng mới chỉ dựa vào thỏa thuận dân sự, trực tiếp, theo công nhật là chủ yếu. Việc thanh toán có thể thực hiện bằng tiền hoặc bằng hiện vật (lúa, gạo…) và đổi công cho nhau. Sức cạnh tranh yếu của thị trường lao động ở nông thôn xuất phát từ đặc thù của sản xuất có tính thời vụ và việc làm không thường xuyên, việc làm chỉ rộ lên vào mùa thu hoạch trong thời gian ngắn và bấp bênh. Ở nông thôn chủ yếu lao động làm việc trong các nghề không có trình độ chuyên môn kỹ thuật ( khoảng 80% năm 2002). Do việc làm bếp bênh nên nhiều lao động ở nông thôn đã rời quê ra thành phố, khu công ghiệp làm thuê. Đối với các khu công nghiệp tuy nguồn lao động ở nông thôn dồi dào nhưng tính hấp dẫn đối với người sử dụng lao động thấp. Nguyên nhân là do trình độ đào tạo của lao động nông thôn thấp, tính chất tùy tiện, kỷ luật lao động kém xuất phát từ lối sống và phương thức lao động tiểu nông đã ăn sâu vào tiềm thức của đa số lao động nông thôn. Cần có thời gian và dày công giáo dục mới có thể có được một tác phong công nghiêp thực thụ đối với lao động nông thôn. 4. Vai trò của NNL NT trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội NNL nông thôn là một trong những nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội nông thôn trong mối quan hệ phát triển của đất nước,là bộ phận quan trọng bật nhất của lực lượng sản xuất xã hội nông thôn. Đầu tư vào NNL nói chung và đầu tư vào NNLNT được Chính phủ ưu tiên, coi đó là đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất so với các loại đầu tư khác. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, phát triển NNLNT ngày càng có vai trò quan trọng khi các nước đang phát triển đang chuyển dần sang nền kinh tế tri thức và thông tin trở thành yếu tố quyết định đối với khả năng cạnh tranh, phát triển và sức mạnh của một quốc gia. Hàng hóa sức lao động là một hàng hóa đặc biệt vì trong quá trình sử dụng nó thì sẽ tạo ra một giá trị mới lớn hơn bản thân nó là giá trị thặng dư. NNL chính là nhân tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại đối với mỗi doanh nghiệp. Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết cần phải tiêu dùng lương thực, thực phẩm. Suy cho cùng thì mục đích cuả quá trình sản xuất cũng là để tiêu dùng. Một đất nước có thể tăng nguồn lương thực, thực phẩm của mình bằng sản xuất hoặc nhập khẩu lương thực. Tuy nhiên đối với Việt Nam là một nước đông dân, muốn phát triển kinh tế, đời sống nhân dân được ổn định thì phần lớn lương thực tiêu dùng phải được sản xuất trong nước. Chính NNL nông thôn với nghề nông nghiệp đã tạo ra nguồn lương thực, thực phẩm cung cấp cho nhu cầu của xã hội. Khi xã hội càng phát triển, đời sống con người ngày càng nâng cao thì nhu cầu về lương thực, thực phẩm ngày càng tăng về số lượng và chất lượng, chủng loại trong khi các nguồn lực về đất đai, nguồn vốn có hạn. Điều này đòi hỏi chất lượng NNL nông thôn ngày càng tăng, biết phát huy đầy đủ hơn nữa khả năng về thể lực và trí lực để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao. Chình vì vậy tiêu dùng chính là động lực của sự phát triển. Bên cạnh đó thì NNL nông thôn còn là thị trường tiêu thụ rộng lớn cho các ngành công nghiệp và dịch vụ ở khu vực nông thôn cũng như thành thị. Ở hầu hất các nước đang phát triển, sản phẩm công nghiệp bao gồm tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng được tiêu thụ chủ yếu dựa vào thị trường trong nước mà trước hết là khu vực nông thôn. Sự thay đổi về cầu trong khu vực nông thôn sẽ có tác động trực tiếp đến sản lượng phi nông nghiệp. Do đó mà phát triển mạnh mẽ khu vực nông thôn, nần cao đời sống của dân cư nông thôn làm tăng sức mua từ khu vực nông thôn sẽ làm cho cầu về sản xuất công nghiệp tăng, thúc đấy công nghiệp phát triển, từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp và có thể cạnh tranh với thị trường thế giới. Trong giai đoạn đầu của CNH - HĐH phần lớn dân cư sống bằng nông nghiệp và tập trung sống ở khu vực nông thôn. Vì thế NNLNT là nguồn dự trữ dồi dào và cung cấp lao động cho phát triển công nghiệp và đô thị. Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa, một mặt tạo ra nhu cầu lớn về lao động, mặt khác nhờ đó mà năng suất lao động nông nghiệp không ngừng tăng lên, lực lượng lao động nông nghiệp ngày càng giải phóng ngày càng tăng. Số lao động này dịch chuyển, bổ sung cho phát triển công nghiệp và đô thị. Như vậy ta không thể phủ nhận vai trò to lớn của NNL nông thôn trong sự phát triển của nông thôn cũng như sự phát triển chung của đất nước 5. Các nhân tổ ảnh hưởng đến NNLNT 5.1. Quá trình dân số Các biến đổi dân số như sinh đẻ, tử vong, di cư có tác động đến quy mô, cơ cấu tuổi, giới tính và phân bố theo không gian của dân số trong độ tuổi lao động. Quy mô và tốc độ tăng dân số càng cao thì dẫn đến quy mô và tốc độ tăng của NNL càng lớn và ngược lại. Trong khi các tỷ suất sinh tác động đến quy mô dân số trong độ tuổi lao động sau một thời gian(khoảng 15 năm) thì tác động của những biến đổi về tử vong, di cư có tác động tức thì. 5.2. Mức sống của dân cư Mức sống của dân cư có tác động đến NNLNT ở các khía cạnh như chế độ dinh dưỡng, sức khỏe sinh sản, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, chất lượng môi trường sống (nhà ở, nguồn nước, điện năng, chất lượng bầu không khí, đời sống văn hóa, tinh thần…) của dân cư và người lao động. 5.3. Giáo dục và đào tạo Mức độ tham gia của người lao động nông thôn vào các cấp trình độ giáo dục, đào tạo, dạy nghề có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển NNLNT. Chất lượng NNLNT thấp thể hiện qua tỷ lệ không biết chữ hoặc chưa tốt nghiệp cấp I là 19,55% năm 2004. Nếu đánh giá trình độ văn hóa bình quân theo giới có thể thấy số năm đi học văn hóa trung bình của nông thôn thấp hơn thành thị, của phụ nữ thấp hơn nam giới. Những năm qua trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nông thôn thay đổi không đáng kể, tình trạng thu nhập thấp và thiếu việc làm ở nông thôn, trong khi đó thì thu nhập cao hơn ở khu vực đô thị đã tăng sự dịch chuyển lao động nhất là lao động kỹ thuật từ nông thôn tới các thành thị, làm cho tỷ lệ lao động qua đào tạo giảm từ 6,91% xuống còn 5,94%. Trong số 8 vùng nông thôn, những vùng có trình độ có học vấn thấp cũng chính là những vùng có tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên môn thấp, vùng Tây Bắc chỉ có 2,3%, Tây Nguyên là 3,41%. 5.4. Tăng trưởng và phát triển kinh tế Nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng và phát triển cao có khả năng nâng cao thu nhập GDP/đầu người cho dân số và NNLNT; Tăng khả năng tiếp cận, khả năng chi trả và lựa chọn của NNLNT đối với hệ thống giáo dục, đào tạo và tìm kiếm, tự tạo việc làm phi nông nghiệp. Và chính các yếu tố này tác động trở lại nâng cao tiền lương, tiền công, thu nhập và mức sống của các hộ gia đình nông thôn. "Theo lý thuyết thì tăng trưởng kinh tể sẽ thu hút thêm lao động, giải quyết việc làm. Trong những năm qua tốc độ tăng bình quân của nông nghiệp là 5,4% nhưng hệ số co giãn việc làm so với 1% tăng trưởng kinh tế của nông thôn nước ta chỉ là 0,43 trong giai đoạn 1990-2000, nghĩa là mỗi năm khu vực nông nghiệp chỉ taọ thêm số việc làm mới bằng 2,3% LLLĐ, sự thu hút ít hơn số lượng lao động tăng thêm mỗi năm gần 1 triệu người" Bùi Quang Bình: Sử dụng NNLNT Việt Nam: Thực trạng và giải pháp . Khu vực nông thôn cũng chỉ đóng góp 0,7% vào tốc độ tăng trưởng GDP, tronh khi 2 khu vực công nghiệp và dịch vụ đóng góp là 6,9% (2004) 5.5. Việc làm và thu nhập Tham gia tích cực của NNLNT vào quá trình lao động là động lực quan trọng của phát triển NNL vì quá trình lao động là quá trình sáng tạo và phát triển của từng cá thể người lao động trong hệ thống xã hội: Làm cho con người không ngừng hoàn thiện bản thân về kiến thức, kinh nghệm, kỹ năng, kỹ xảo.Đảo bảo việc làm và thu nhập của LLLĐ đồng thời là đảm bảo vị trí xã hội của người lao động và sự phát triển toàn diện của họ. Hiện nay thì tình trạng thiếu việc làm diễn ra phổ biến ở khu vực nông thôn đó là do tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp. Vào mùa gieo trồng, thu hoạch thì ở nông thôn thiếu nhân lực và người lao động hầu như là làm việc cả ngày nhưng qua mùa vụ thì người lao động làm việc với thời gian rất ít nên thất nghiệp ở nông thôn chủ yếu là bán thất nghiệp. Ở nông thôn gần 20% thời gian lao động chưa được sử dụng (chỉ đạt khoảng 175 ngày công /năm cho 1 lao động ). 5.6. Sự phát triển hệ thống giao thông và công nghệ thông tin Giao thông và công nghệ thông tin có vai tò đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và phát triển NNLNT. Công nghệ thông tin ngày càng trở thành phương tiện đắc lực không thể thiếu được đối với hoạt động sản xuất - kinh doanh, học tập và nâng cao trình độ văn hóa của người lao động, các trang trại vừa và nhỏ của khu vực tư nhân…góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo, dạy nghề đáp ứng được yêu cầu lao động có kỹ năng của công nghiệp hoá, hiện đại hóa khu vực nông thôn. Điều quan trọng cho phát triển NNL là mức chi giáo dục - đào tạo thì sự chênh lệch giữa giữa thành thị và nông thôn là rất đáng kể. Ở nước ta ở nông thôn, nơi chiếm 3/4 nguồn lao động trong cả nước thì mức chi cho giáo dục ở khu vực nông thôn mới chỉ bằng 1/3 so với khu vực thành thị. 5.7. Các chính sách của chính phủ Cũng gây ra ảnh hưởng quan trọng đến số lượng NNL. Những chính sách phù hợp sẽ có tác động tích cực đến số lượng NNL và ngược lại. Ví dụ việc ban hành Luật Lao động, luật tiền lương tối thiểu, chính sách xuất khẩu lao động, bảo hiểm…Chính phủ hoạch định các chính sách liên quan đến chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn, hỗ trợ phát triển NNLNT đáp ứng được yêu cầu của CNH - HĐH khu vực nông thôn. II. Lợi thế, thách thức của NNLNT 1. Lợi thế của NNLNT 1.1. NNLNT dồi dào, trẻ và giá rẻ Dân số NT nước ta đông, tốc độ tăng dân số khá lớn. Tính đến ngày 1/7/2002, dân số cả nước là 79.39 triệu người, thì dân số nông thôn là 60,05 triệu người chiếm 75,13%. Tốc độ phát triển dân số trong những năm gần đây lại có xu hướng tăng, năm 2002 đã giảm xuống còn 1,32 % nhưng năm 2003 lại tăng lên 1,47%, năm 2004 là 1,44%. Do quy mô lớn và tốc độ tăng dân số nhanh dẫn đến LLLĐ nông thôn dồi dào và trẻ. Lao động nông thôn nước ta chiếm 75% tổng LLLĐ cả nước và với tốc độ tăng khoảng hơn 2,5 %/ năm. "Năm 2005, trong tổng LLLĐ ở thành thị có 11071,1 nghìn người chiếm 24,9%, nông thôn có 33313,9 nghìn người, chiếm 75,1%" Ban chỉ đạo điều tra lao động - việc làm Trung Ương: Báo cáo kết quả điều tra lao động - việc làm 1 - 7 - 2005, Hà Nội 11 - 2005. , so với năm 2004 thì LLLĐ nông thôn giảm 0,52%, tuy nhiên về tuyệt đối vẫn tăng lên 1,94%. Như vậy có thể thấy sự gia tăng dân số trong nông nghiệp, nông thôn là yếu tố chính bổ sung LLLĐ hàng năm cho xã hội. NNLNT VN cũng được đành giá là rẻ so với khu vực thành thị và so với các nước trong khu vực. Đây là một lợi thế quan trọng của NNLNT trong qua trình hội nhập kinh tế, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Nó đảm bảo một yếu tố cho đầu tư phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu đặc biệt là phát triển theo chiều rộng - xu hướng đặc trưng của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Gia nhập WTO gắn liền với Việt Nam sẽ phải mở của các thị trường. Chính điều dó sẽ thúc đẩy các loại thị trường phát triển trong đó có thị trường lao động. Việc tuân theo quy luật cung cầu như bất cứ thị trường nào sẽ đêm đến cơ hội tốt về việc làm cho những người có khả năng thích ứng cao. Tự do hóa thương mại và đầu tư sẽ có tác dụng thúc đẩy việc hình thành các khu trung tâm kinh tế, thương mại, các khu công nghiệp, khu chế xuất, thu hút mạnh lao động đến làm việc nhất là lao động nông thôn. Bên cạnh đó hội nhập kinh tế tạo điều kiện cho một số lượng lớn các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức quốc tế thâm nhập vào thị trường Việt Nam, làm tăng nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, thúc đẩy phát triển sản xuất, góp phần tạo nên nhiều việc làm, đặc biệt tại 3 khu vực chính: Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp sản xuất chế biến hành xuất khẩu; xuất khẩu lao động. Bên cạnh đó sự phát triển của ngành công nghiệp và dịch vụ gắn với quá trình đô thị hóa và việc mở rộng thêm thị trường cũng góp phần làm tăng cầu tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ từ đó gián tiếp tăng cầu lao động tạo thêm nhiều việc làm.Với lợi thế NNL dồi dào, trẻ và giá nhân công rẻ thì lao động nông thôn cùng với cầu lao động ngày càng tăng thì lao động có nhiều cơ hội kiếm được việc làm, tăng thu nhập, xuất khẩu lao động sẽ gia tăng. Các lao động dư thừa ở nông nghiệp, cơ hội để họ tiếp cận với các lớp đào tạo nghề cao hơn, do đó cơ hội cho họ thay đổi nghề nghiệp, thoát ly một phần hoặc thoát ly hẳn đối với nghề nông cao hơn rất nhiều nếu họ nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc được đào tạo nghề nghiệp chuyên môn. 1.2. Những phẩm chất tinh thần tốt đẹp Đây là lợi thế của NNL nói chung và của NNLNT nói riêng. Qua hàng nghìn năm tồn tại trong một nước nông nghiệp cổ truyền, người dân Việt Nam điển hình vẫn là người nông dân và cơ sở kinh tế - xã hội đó cho đến nay vẫn chưa có sự thay đổi căn bản. Nói chung con người Việt Nam có tư chất thông minh, sáng tạo, có truyền thống yêu nước, ý thức dân tộc, ý thức tự cường, tôn trọng đạo lý trong lối sống. Trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc, con người Việt Nam có truyền thống đoàn kết dân tộc, cố kết cộng đồng chặt chẽ, phương thức ứng xử thông minh, khôn khéo, linh hoạt… tạo nên sức mạnh vượt qua thử thách, chiến thắng được những kẻ thù xâm lượt mạnh hơn chúng ta rất nhiều. Trong giai đoạn hiện nay mặc dù giao lưu với nhiều nền văn hóa khác nhau nhưng con người Việt Nam không những không bị đồng hóa mà còn tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại. Cũng phải thấy rằng ở nông thôn, nhiều vùng có tinh thần hiếu học,tôn sư trọng đạo "nhất tự vi sư, bán tự vi sư" trọng học, dù điều kiện khó khăn cũng đều cố gắng cho con mình được học hành, đỗ đạt cao, để trở thành người có địa vị xã hội cải thiện cuộc sống của bản thân cũng như gia đình. Ngoài ra, quá trình lao động sản xuất trong nền kinh tế tiểu nông và điều kiện tự nhiên khắc nghiệt đã hình thành nên con người nông thôn truyền thống cần cù, chịu thương chịu khó, giỏi chịu đựng gian khổ. Chính tâm lý giỏi chịu đựng, cần cù đã giúp cho con người nông thôn Việt Nam có đức tính cần kiên trì, nhẫn nại, có khả năng thích ứng cao và nhanh chóng hòa nhập. Hơn nữa do cuộc sống gắn bó với sản xuất nông nghiệp nên con người nông thôn luôn gần gũi với thiên nhiên, hòa đồng và thích nghi với thiên nhiên, đó là cội nguồn chủ yếu tạo nên ở họ lối sống giản dị, chất phát, ghét cầu kỳ, xa hoa. Văn minh nông nghiệp với kinh tế tiểu nông cũng rèn luyện con người nông thôn tư duy thực tế, coi trọng kinh nghiệm. Hoàn cảnh sống của nông thôn - nông nghiệp - làng xã với tinh thần "tối lửa tắt đèn có nhau" và với sự ảnh hưởng phần nào của triết lý Phật giáo đã hình thành trong con người nông thôn lối sống trọng tình nghĩa, vị tha, khoan dung,"thương người như thể thương thân", "lá lành đùm lá rách". Những phẩm chất trên khẳng định năng lực trí tuệ của con người nông thôn có thể theo kịp tốc độ của công nghệ hiện đại. Nếu được đào tạo và sử dụng hợp lý, người lao động có thể làm chủ được loại hình công nghệ từ đơn giản đến phức tạp, hiện đại. Đồng thời những giá trị truyề thống trên nếu được giữ gìn, phát huy, phát triển lên một tầm cao mới, phù hợp với yêu cầu và điều kiện hiện nay sẽ tạo ra sức mạnh to lớn, tăng gấp bội chất lượng NNL. 2. Thách thức của NNLNT Trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, của quá trình CNH - HĐH đất nước cũng như khu vực nông thôn, bên cạnh những lợi thế thị NNLNT phải đương đầu với nhiều thách thức. So vớ khu vực trung tâm, thành thị thì NNLNT chịu nhiều thách thức hơn 2.1. Chất lượng NNLNT thấp Đây là một thách thức đầu tiên trong hội nhập kinh tế đối với lao động nông thôn. Mặc dù Việt Nam được đánh giá là cần cù, khéo tay nhưng nếu nhìn kỹ hơn vào nhiều mặt của lao động nông thôn thì có thể thấy nhân lực lao động nông thôn cần phải nâng cao rất nhiều về chất lượng, kỹ năng, nhận thức mới có thể đáp ứng được yêu cầu của quá trình CNH - HĐH nông thôn trong thời gian tới. Trong thời gian qua đất nước ta phát triển nhanh chóng nhưng đã nảy sinh ra tình trạng có 2 tốc độ phát triển trong một nền kinh tế. Một bên là phát triển nhanh chóng, đời sống của người dân được nâng lên rõ rệt, chủ yếu tập trung ở khu vực đô thị, nơi có nhiều dự án phát triển khu công nghiệp; một bên khác có tốc độ phát triển chậm hơn chủ yếu ở khu vực ngoại vi, khu vực ít bố trí các khu công nghiệp. Điều đó làm cho nền kinh tế vừa thừa lại vừa thiếu NNL. Thừa những người không đủ năng lực để đáp ứng những yêu cầu mới của sự phát triển, thiếu những người có trình độ thực sự để có thể đảm đương được những công việc đòi hỏi phải có tay nghề cao, kỹ năng lao động giỏi. Thừa lao động chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn trong khi thành thị, khu vực có nhiều đầu tư phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất thì thiếu lao động trầm trọng. Điều đó bắt nguồn từ 2 nguyên nhân chủ yếu như đã phân tích ở trên. + Do trình độ lao động ở nông thôn thấp. Về thể lực của Việt Nam vẫn kém hơn so với các nước trong khu vực và so với yêu cầu nguồn nhân lực cần có ở nước ta. Ở nông thôn thể lực NNL cũng thấp hơn khu vực thành thị do mức thu nhập thấp mà tốc độ tăng dân số cao, trình độ hiểu biết về dinh dưỡng và sức khỏe của nhân dân lại thấp, bên cạnh đó do phải đi làm công việc nặng nhọc trong độ tuổi còn phát triển nên NNLNT có chiều cao, cân nặng thấp hơn khu vực thành thị trong khi đó tỷ lệ suy dinh dưỡng lại cao hơn. Về trí lực NNLNT cũng thấp hơn so với thành thị, ở nông thôn số lượng NNL chất lượng cao rất ít; + Khả năng đầu tư cho đào tạo, đào tạo cũng còn ở mức thấp không những so với các nước láng giềng mà còn so với các khu vực trung tâm,thành thị của đất nước. Trước xu hướng xã hội hóa giáo dục hiện nay, thực chất là cập nhật các quan hệ thị trường vào quá trình huy động tài chình cho giáo dục, chưa thể đáp ứng được những đòi hỏi của xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế đang đặt ra cho đất nước. Trình độ lao động nông thôn thấp đây là một bất lợi rất lớn đối với lao động nông thôn trong khi tiếp tục nghề nông cũng như chuyển nghề nghiệp sang một lĩnh vực khác. Trước nhu cầu về lao động được đào tạo và có tay nghề cao để đáp ứng cho các ngành của nền kinh tế người nông dân lại rơi vào một tình trạng khó xử là vấn đề tài chính trong ngân sách gia đình để chu cấp cho con cái. Nhiếu gia đình cũng muốn cho con mình học cao để sau này có thể kiếm được những công việc có thu nhập ổn định, cải thiện đời sống nhưng lại hạn chế về khă năng tài chính trong khi đó thì chi phí sinh hoạt, chi phí cho giáo dục ngày càng tăng. Một sinh viên theo học ở thành phố, cha mẹ phải chu cấp thường xuyên ngoài tiền học phí tối thiếu phải 500 nghìn đồng/ tháng, trong khi đó với hạn mức 1 - 2 sào ruộng/ nhân khẩu, thì hai lao động chính ở nông thôn kho có thể làm ra một lượng tiền tương ứng để nuôi con học. Đây cũng là một nguyên nhân làm cho chất lượng NNLNT thấp. Thực trạng hiện nay của NNLNT là tuy đông nhưng không mạnh về chất lượng, đã làm cho lao động nông thôn không còn ưu thế, khi thị trường lao động cần công nhân có kỹ thuật tay nghề cao, có xu hướng tăng lên để cung cấp cho các doanh nghiệp, đây là điều mà chúng ta chưa có. Giá nhân lực rẻ của NNLNT không còn là lợi thế nữa nếu giá nhân lực rẻ đồng nghĩa với chất lượng NNL thấp. 2.2. Người nông dân có nguy cơ bị mất việc và khả năng kiếm việc mới của lao động nông thôn thấp do trình độ chuyên môn và khả năng thích ứng với điều kiện mới không cao Ở nông thôn Việt Nam hiện nay, NNL vẫn chủ yếu tập trung làm việc trong nông nghiệp. Việc gia nhập WTO đặt ra cho lao động nông nghiệp thách thức to lớn. Quy luật đào thải sẽ đào thải các sản phẩm trong nước hiện nay nếu không chịu thay đổi phương thức sản xuất cũng như cách nghĩ chạy theo lợi nhuận mà chấp bấp mọi thứ. Đây là nguy cơ đối với nông nghiệp trong việc thu hẹp quy mô sản xuất. Điều đó sẽ làm giảm nhu cầu đối với lao động phổ thông sản xuất nông nghiệp, tạo ra nguy cơ dư thừa lao động ở khu vực nông thôn. Ngoài ra xu hướng phát triển của mọi ngành hiện nay trong đó có ngành nông nghiệp đó là tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật nhờ đó tăng năng suất, giảm nhu cầu sử dụng lao động, giảm chi phí sản xuất. Do vậy, nhu cầu lao động nông thôn sẽ bị thu hẹp khi khả năng tiếp cận với ứng dụng công nghệ được tăng lên. Bên cạnh những nguy cơ mất việc của người nông dân do chính bản thân ngành nông nghiệp, việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang công nghiệp và dịch vụ đòi hỏi thêm đất trong khi đó quỹ đất không tăng. Không còn cách nào khác là phải phải lấy đất từ nông nghiệp để chuyển đổi mục đích sử dụng. Môi trường hội nhập cao tạo điều kiện cho kinh tế thị trường phát triển. Lúc này quy luật đào thải sẽ rất khắc nghiệt. Lao động nông thôn sẽ có cơ hội phát triển nếu khả năng thích ứng cao, ngược lại không thích ứng nổi, họ sẽ rơi vào tình trạng đã nghèo lại còn nghèo hơn. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, ảnh hưởng tới việc phát triển bền vững. Đây là một vấn đề cần được quan tâm. Hiện nay NNLNT dồi dào và chi phí sử dụng thấp mất dần lợi thế cạnh tranh do mất dần lợi thế cạnh tranh do sự phát triển sử dụng nhân lực có kỹ năng và thu hẹp lao động giản đơn. Mặt khác các cải cách trong lĩnh vực lao động và xã hội như: chính sách tiền lương, BHXH, trợ cấp thất nghiệp…sẽ làm tăng các khoản chi phí khác có liên quan đến lao động. Các doanh nghiệp sẽ thực hiện các biện pháp kỹ thuật để tăng năng suất nên khả năng lao động phi kỹ năng của nông thôn tìm được việc làm sẽ càng khó khăn hơn. 2.3. Những thói quen và truyền thống lạc hậu Bên cạnh những giá trị truyền thống tốt đẹp, những mặt hạn chế, tiêu cực đang tồn tại trong con người Việt Nam nói chung và nông thôn nói riêng cũng không phải nhỏ. Đây cũng là một thách thức cho lao động nông thôn trong tiến trình phát triển kinh tế. Nhược điểm nổi cộm nhất của tư tưởng và tâm lý người tiểu nông đó là: coi trọng địa vị, ngôi thứ, chủ nghĩa hình thức, gia trưởng, thiên về tình cảm, kinh nghiệm, thiếu lý trí, thực nghiệm khoa học, dễ thỏa hiệp, hay nể nang, lối sống mang nặng tâm lý cộng đồng, lấy các quan hệ họ hàng, làng xã làm chuẩn mực cư xử…Tất cả những điều đó đã làm cho con người trở nên thiển cận, bản vị, cục bộ, bè phái, ca tụng sự khôn khéo "ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau". Những đặc điểm này gây cho người lao động nông thôn sức ỳ ghê gớm, không thích ứng với lao động công nghiệp. Đây là lực cản cho quá trình CNH - HĐH đất nước. Vì vậy việc cải tạo, khắc phục và xóa bỏ những di sản tiêu cực của truyền thống thực sự là một đấu tranh khó khăn, lâu dài và phức tạp như Chủ tịch Hồ Chí Minh đă từng nói: "Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to, nó ngấm ngầm cản trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại không thể trấn áp nó, mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài" Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1996, t.9, tr.287. . Ngoài ra cũng cần thấy rằng, trong một thời gian dài, lao động nông thôn sống trong nền kinh tế bao cấp, với những hình thức quan hệ sản xuất (trong đó có chế độ phân phối bình quân), nền sản xuất nông nghiệp mang nặn tính tự cung, tự cấp và hệ thống quản lý nói chung không kích thích được tính tích cực của con người, làm triệt tiêu mọi động lực sáng tạo, tìm tòi của con người, hình thành nên một tập tính không quen hạch toán kinh tế, ngại trao đổi, buôn bán. Nền kinh tế bao cấp thậm chí còn để lại cho con người những thói quen không phù hợp với văn hóa lao động công nghiệp, yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội hiện nay như: thụ động, thiếu năng động, thiếu tinh thần trách nhiệm, tác phong tùy tiện, ý thức kỷ luật kém, tác phong làm việc chậm chạp…Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế, con người đã tích cực hơn tuy nhiên ở nông thôn tư duy và phong cách làm việc công nghiệp còn yếu, thiếu trách nhiệm với công việc,quan hệ hợp tác yếu và hầu hết không biết ngoại ngữ. 2.4. Tạo ra phân tầng xã hội, ảnh hưởng tới phát triển văn hóa, xã hội và môi trường của nước ta Với những thách thức như trên, nguy cơ đẫn tới việc tăng khoảng cách giàu nghèo chính trong khu vực nông thôn, giữa thành thị với nông thôn, giữa đồng bằng với vùng sâu, vùng xa…gây ảnh hưởng chung về phát triển bền vững ở Việt Nam. Bên cạnh đó, gia nhập WTO, môt loạt các yếu tố du nhập vào kinh tế, xã hội.. chính những yếu tố này sẽ phá vỡ những cấu trúc xã hội, phá vỡ những nét truyền thống văn hóa của khu vực nông thôn. Nhiều lao động nông thôn bỏ nghề nông ra thành thị kiếm sống. Lúc này lao động nông thôn hầu như chỉ còn người già, những quan hệ và cấu trúc đó do đó mà bị ảnh hưởng. Chính điều này đặt ra một loạt vấn đề tại khu vực nông thôn. Ngoài ra chính sự phát triển kinh tế sẽ kéo theo một loạt các vấn đề về môi trường và nạn phá rừng, khai thác tài nguyên cạn kiệt, chất thải từ các nhà máy công nghiệp gây ô nhiễm môi trường. Bên cạnh những thách thức trên thì thể lực và tình hình sức khỏe nói chung của lao động nông thôn yếu so với khu vực thành thị và nhiều nước về chiều cao, cân nặng, sức bền cũng là một trong những hạn chế lớn của NNLNT. 2.5. Một số thách thức khác Thị trường lao động nông thôn bị chia cắt với thị trường lao động thành thị và thị trường lao động các vùng vì các nguyên nhân: hạ tầng giao thông không thuận tiện, thiếu lao động có kỹ năng, thiếu hệ thống giới thiệu việc làm, thu nhập của người lao động nông thôn thấp… Khả năng tiếp cận chính sách và các nguồn lực cho phát triển NNLNT hạn chế. Kinh tế hộ gia đình chiếm tỷ trọng chủ yếu, trong khi khu vực ngoài quốc donh, kinh tế phi chính thức thu hút làm công ăn lương ở mức độ thấp, hạn chế phát triển thị trường lao động nông thôn. Thiếu và không đồng bộ của các chính sách phát triển NNL, phát triển thị trường lao động. III. Xu hướng và giải pháp phát triển của NNLNT 1. Xu hướng phát triển của NNLNT 1.1. NNL trong nông thôn có độ tuổi trung bình ngày càng tăng Do nhu cầu của lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ tăng lên, một bộ phận đáng kể lao động trẻ có sức khỏe và có trình độ cao hơn dần chuyển ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Ngược lại một bộ phận sức khỏe yếu đã hết tuổi lao động (đã mất sức, nghỉ hưu) hoặc không đáp ứng được yêu cầu lại chuyển từ lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ để trở lại sản xuất nông nghiệp. Các quá trình này diễn ra đồng thời và thường xuyên dẫn đến độ tuổi trung bình của NNL nông nghiệp, nông thôn cao hơn đồng nghĩa với sức khỏe hạn chế hơn so với các lĩnh vực khác. Độ tuổi trung bình xóa xu hướng tăng lên đặt ra áp lực thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp, giảm bớt cường độ lao động. Độ tuổi trung bình tăng lên có thể hạn chế khả năng tiếp thu khoa học công nghệ và thực hiện đổi mới các phương thức sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp. 1.2. NNLNT có tỷ lệ lao động nữ ngày càng cao Nhằm đáp ứng nhu cầu lao động của các lĩnh vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, đồng thời kiếm thêm thu nhập tron gia đình, phần đông lao động nam giới chuyển khỏi nông nghiệp và rời khỏi nông thôn đến làm việc trong các khu công nghiệp hoặc thành thị. Lao động nữ (đặc biệt là lao động phụ nữ) phần lớn ở lại nông thôn để là việc đồng áng và chăm sóc gia đình. Đây là đặc điểm cần xem xét trong chính sách phát triển NNL để tạo điều kiện cho lao động nữ được học tập và tiếp thu kiến thức khoa học công nghệ phục vụ sản xuất và đời sống tránh trường hợp đào tạo tập huấn không đúng trường hợp. 1.3. NNLNT có xu hướng giảm dần cả về số lượng tuyệt đối và tương đối Kinh tế xã hội ngày càng phát triển, đời sống nhân được cải thiện hơn do đó mà tăng cơ hội tiếp xúc với hệ thống giáo dục. Người dân có trình độ văn hóa, nhân thức hơn. Chính điều này làm cho tốc độ tăng dân số ở nông thôn có xu hướng giảm xuống, kéo theo NNLNT cùng giảm xuống cả về số tuyệt đối và tương đối. Bên cạnh đó do quá trình CNH - HĐH và quá trình đô thị hóa, các đô thị khu công nghiệp và khu chế xuất hình thành nhiều hơn dẫn đến dân số nông thôn cũng giảm xuống, nhiều lao động mất đất chuyển sang các linh vực phi nông nghiệp làm việc. Lao động nông thôn nước ta chiếm 75% tổng LLLĐ cả nước và với tốc độ tăng khoảng hơn 2,5 %/ năm. Năm 2005, trong tổng LLLĐ ở thành thị có 11071,1 nghìn người chiếm 24,9%, nông thôn có 33313,9 nghìn người, chiếm 75,1% so với năm 2004 thì LLLĐ nông thôn giảm 0,52%. 1.4. NNL nông - lâm - ngư nghiệp có xu hướng giảm dần cả về mặt số lượng và tỷ trọng trong tổng NNL xã hội Đây là xu hướng có tính quy luật của NNL cả nước cũng như NNLNT trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong những năm gần đây và những năm tiếp theo, tỷ trọng lao động trong ngành nông - lâm - ngư nghiệp có xu hướng giảm dần, lao động trong công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng, mặc dù tốc độ còn chậm và tốc độ này sẽ tăng nhanh hơn khi nền kinh tế càng phát triển. Theo sự tính toán của các nhà kinh tế thì 1 ha đất nông nghiệp tối đa chỉ tạo được việc làm cho 10 - 15 lao động, giá trị gia tăng lại rất thấp. Trong khi đó bình quân 100- 150 ha đất trong khu vực công nghiệp và xây dựng sẽ cần đến 1500 -1800. Vậy cầu lao động sẽ rất cao. Trong giai đoạn đầu của CNH - HĐH, nông nghiệp chuyển sang sản xuất hàng hóa, năng suất lao động nông nghiệp tăng lên, một số lao động được giải phóng trở nên dư thừa và được các ngành khác thu hút, sử dụng vào hoạt động sản xuất - dịch vụ nhưng do tốc độ tăng tự nhiên của lao động trong khu vực công nghiệp lớn hơn tốc độ thu hút lao động dư thừa từ nông nghiệp, nên thời kỳ này tỷ trọng nông nghiệp mới giảm về tương đối. Ở giai động thứ hai khi kinh tế đã phát triển ở trình độ cao, năng suất lao động trong nông nghiệp tăng nhanh và năng suất lao động xã hội đạt trình độ cao. Số lao động nông nghiệp giải phóng đã được ngành khác thu hút. Vì thế trong giai đoạn này số lượng lao động giảm cả tương đối và tuyệt đối. Như vậy xu hướng của chuyển dịch là gắn nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ, chuyển sản xuất nông nghiệp sang hướng sản xuất hiện đại. 1.5. NNLNT có tính cơ động và chất lượng ngày càng cao Do lao động có tính thời vụ nên trong những tháng nông nhàn thường có một bộ phận lao động nông nghiệp chuyển ra các thành phố để kiếm thêm việc làm. Đến thời vụ họ lại trở về với việc nhà nông. Sự di chuyển diễn ra thường xuyên làm cho lao động càng trở nên năng động. Chính điều này đòi hỏi các chính sách NNLNT phải giúp cho người lao động vừa giỏi nghề nông đồng thời cũng biết thêm một vài phụ khác để có thêm việc làm tạo thu nhập. Việt Nam khi gia nhập WTO thì có nhiều cơ hội để tiếp cận với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhiều cơ hội tiếp cận hơn với những chương trình đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn và tay nghề. Đi liền với việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và tăng đầu tư trong sản xuất, hiệu quả sản xuất sẽ tăng lên hàng đầu. Bởi vậy để phát huy tối đa đồng vốn bỏ ra, người lao động nông thôn phải nỗ lực để nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật. Bên cạnh đó, kinh tế càng phát triển thì yêu cầu đối với người lao động càng khắt khe, do đó để có thể kiếm được việc làm thì đòi hỏi chất lượng NNL NT phải ngày càng nâng cao là điều tất yếu. 2. Các giải pháp phát triển NNLNT Có nhiều biện pháp để phát triển NNLNT, dưới đây xin đưa ra một số biện pháp cơ bản và để đạt được hiệu quả cao thì cần thực hiện đồng thời các giải pháp này 2.1. Giảm lượng cung lao động Hiện nay ở nước ta dân cư vẫn sống tập trung ở khu vực nông thôn và tốc độ tăng dân số cộ cao. Điều này đã hạn chế chất lượng NNL. Chính vì vấy để nâng cao chất lượng NNL thi phải tiếp tục làm tố công tác kế hoạch hóa gia đình, tập trung nguồn lực để thực hiện chiến lược phát triển dân số đến năm 2010 tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,1%, tử đó giảm NNL. Muốn thực hiên được thì trước hết phải hỗ trợ cho họ có thể tiếp cận được với các phương tiên truyền thông, giúp cho họ hiểu được pháp lệnh dân số và kế hoạch hóa gia đình, sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp dân số, đồng thời cũng hỗ trợ cho họ các loại thuốc và dụng cụ trách thai không phải trả tiền. Cần phải có các biện pháp kinh tế để khuyến khích họ sinh đẻ đúng kế hoạch. 2.2. Phải sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nguồn lực đất đai Đất đai là yếu tố quan trọng tạo ra sự tăng trưởng kinh tế nói chung và phát triển kinh tế nông thôn nói riêng. Đối với kinh tế nông thôn, đất nông nghiệp được quan tâm nhiều, đặc biết đối với nước sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao và thu nhập từ nông nghiệp là nguồn thu chính đảm bảo đời sống cho đại bộ phận dân cư nông thôn, đất nông nghiệp là tài sản quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt trên 2 mặt: thứ nhất, đất nông nghiệp là môi trường tự nhiên tạo ra hệ sinh thái cần thiết cho sự sống; thứ hai, đất nông nghiệp là đối tượng lao động, tại đó, bằng lao động của mình con người tác động vào các yếu tố tự nhiên trong đất để nuôi dưỡng cây trồng, gia súc từ đó tạo ra sản phẩm cần thiết cho xã hội. Do đó mà cần phải hoàn thiện chính sách và pháp luật về đất đai để trở thành nguồn lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội và tạo việc làm. Thực hiện quyền về đất đai của nông đân có sự bảo đảm của nhà nước, khẩn trương giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các chủ cụ thể, tăng cường biện pháp thúc đẩy tích tụ và tập trung ruộng đất khuyến khích thực hiện phương thức "ai giỏi nghề gì thì làm nghề đó". Thực hiện thâm canh tăng vụ, tăng hệ số sử dụng đất, tích cực mở rộng diện tích bằng khai hoang và tăng vụ; đẩy mạnh việc chuyển đổi ruộng đất nhằm khắc phục tình trạng phân tán manh mún trong sử dụng đất; kết hợp chặt chẽ giữa khai thác với bảo vệ, bồi dưỡng và cải tạo ruộng đất; tăng cường quản lý nhà nước đối với ruộng đất. 2.3. Nâng cao trình độ văn hóa chuyên môn cho lao động nông nghiệp nông thôn Trình độ của LLLĐ là yếu tố quan trọng quyế định khả ăng cạnh tranh của nền kinh tế. Nó phản ánh khả năng làm việc của người lao động để đáp ứng sự cạnh tranh ngày càng lớn của thị trường. Do đó phải thực hiện biện pháp nâng cao trình độ văn hóa chuyên môn, trình độ nghiệp vụ cho lao động nông nghiệp nông thôn. Để thực hiện biện pháp này cần phải cải cách toàn bộ hệ thống giáo dục, đào tạo phù hợp với yêu cầu quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng nông thôn, coi trọng các hình thưc đào tạo ngắn và dài hạn, coi trọng các trường lớp của doanh nghiệp, công ty, trường công lập, dân lập. Xây dựng một số cơ sở sản xuất nông nghiệp có trình độ kỹ thuật công nghệ cao trong các vùng nông nghiệp trọng điểm nhằm kết hợp khuyến nông, nâng cao chuyển giao công nghệ cho người dân. Bên cạnh đó thì phải tại điều kiện giúp lao động nông thôn tiếp cận với việc làm. Để làm được điều này thì phải tiểm tục hoàn thiện có chế chính sách về lao động việc làm, tạo khung pháp lý cho lao động việc làm: Ban hành luật xuất khẩu lao động, luật dạy nghề, luật bảo hiểm thất nghiệp…nâng cao hiệu quả vay vốn hỗ trợ việc làm; phát triển các loại hình cung cấp trông tin về việc làm giúp người lao động nông thôn tiếp cận với các thông tin vê tuyển dụng như các trung tâm giơi thiệu việc làm, các hội chợ giới thiệu việc làm; 2.4.Những biện pháp khác Ngoài những biện pháp nêu trên thì còn có nhiều biện pháp khác để phát triển NNLNT như: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn; cải tiến và đổi mới cơ chế huy động huy động vốn, sử dụng và quản lý vốn đầu tư; thúc đẩy quá trình đô thị hóa nông thôn cùng với việc xây dựng các khu công nghiệp ở nông thôn. C. KẾT LUẬN Sau khi nghiên cứu về NNL nông thôn chúng ta có thể thấy rằng NNL nông thôn Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, có nhiều lợi thế trong quá trình hội nhập, bên cạnh đó thì cúng có không có không ít những thách thức có thể dẫn đến nguy cơ mất việc làm và tụt hậu ngày càng xa hơn so với NNL thành thị và các nước trong khu vực. Do đó mà phải có và thực hiện đồng bộ các biện pháp để phát triển NNL nông thôn, phát huy tối đa những lợi thế và hạn chế những yếu kém, thách thức của NNL nông thôn trong đó nhấn mạnh biện pháp đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho NNL. Có như vậy thì NNL nói chung và NNL nông thôn nói riêng mới có thể phát huy được vai trò là mục tiêu, đông lực của quá trình phát triển đất nước của mình. Có thể nói rằng đây là một đề tài rất thiết thực, cần được sự quan tâm và suy nghĩ của chúng ta. Trên đây em đã trình bày khái quát đề tài về những lợi thế, thách thức và xu hướng phát triển của NNL nông thôn. Mặc dù đã cố gắng rất nhiều để nắm rõ và hoàn thành được đề tài, song với thời gian, phạm vi nghiên cứu cũng như kiến thức còn hạn chế chắc chắn đề tài còn có nhiều khiếm khuyết, rất mong được sự đóng góp của người các thầy cô giáo trong khoa đặc biệt của thầy giáo hướng dẫn: PGS.TS. Trần Xuân Cầu để đề tài được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn! D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Ban chỉ đạo điều tra lao động - việc làm Trung Ương: Báo cáo kết quả điều tra lao động - việc làm 1 - 7 - 2005, Hà Nội 11 - 2005,tr.4 Bùi Quang Bình: Sử dụng NNLNT Việt Nam: Thực trạng và giải pháp TS. Bùi Thị Ngọc Lan :V.I.LêNin với vấn đề phát triển nguồn nhân lực, tạp chí: Bảo hiểm xã hội GS.TS. Bùi Văn Nhơn: Quản lý và phát triển NNL xã hội. Nxb, Tư pháp TS. Chu Tiến Quang: Huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát triển kinh tế nông thôn. Thực trạng và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia TS. Đoàn Văn Khái: Nguồn lực con người trong quá trình CNH - HĐH ở Việt Nam, Nxb.Lý luận chính trị Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1996, t.9, tr.287 Lê Minh Ngọc: Việc làm ở khu vực nông thôn - cơ hội và thách thức sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 5/2007,tr.26,27 TS. Nguyễn Bá Ngọc: Vấn đề thừa lao động ở nông thôn Việt Nam hiện nay. Tạp chí Lao động - Xã hội, số 314 + 315, tr.56 PGS.TS. Nguyễn Tiệp: Giáo trình nguồn nhân lực. Nhà xuất bản Lao động - Xã hội PGS.TS. Nguyễn Tiệp: Nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành trong quá trình đô thị hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội, Nxb. Lao động - Xã hội PGS.TS. Vũ Đình Thắng: Giáo trình Kinh tế nông nghiệp. Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc75505.DOC
Tài liệu liên quan