Những giá trị trong quản trị Nhà nước triều Hậu Lê

Chất lượng quản trị chịu ảnh hưởng không nhỏ từ yếu tố cá nhân người đứng đầu Cá nhân người đứng đầu nhà nước và theo đó là đứng đầu các cơ quan nhà nước là yếu tố mang tính chất quyết định. Các quyết sách và đường lối cai trị của những người đứng đầu nhà nước chính là tôn chỉ hành động của Nhà nước, cũng chính là mục tiêu của quá trình quản trị. Lịch sử đã chứng minh, những vị vua mẫn cán, thương dân thường là những vị vua có chính sách quản trị tốt, được nhân dân tin yêu, hiệu quả quản trị thể hiện ở sự vững mạnh của bộ máy nhà nước, sự bền vững của triều đại, sự ấm no của dân chúng. Triều Hậu Lê đã có những vị vua xuất chúng như Lê Thái Tổ, Lê Thánh Tông, là những vị vua "lo cái lo trước thiên hạ và vui cái vui sau thiên hạ". Triều Hậu Lê thịnh trị cũng nhờ những vị vua đã đặt nền tảng và có những cải cách mạnh mẽ như hai vị vua này. Ngược lại, những vị vua như Lê Tương Dực, Lê Uy Mục chỉ chăm lo hưởng thụ, thích giết chóc, thị uy, không chăm lo đến đời sống nhân dân, đã sớm mang lại họa suy vong cho nước nhà, bị nhân dân oán thán, căm ghét. Tư cách, phẩm hạnh, tài năng của người đứng đầu nhà nước sẽ như một quy định bất thành văn, ảnh hưởng mạnh mẽ đến đội ngũ quan lại, công chức thừa hành công vụ. Do đó, triều Hậu Lê đã rất coi trọng và cũng đòi hỏi rất cao đối với vị trí của người đứng đầu, người chịu trách nhiệm trong các hoạt động quản trị. Các cách thức quy định trách nhiệm công vụ cũng như dự liệu về trách nhiệm pháp lý của quan lại đã thể hiện sâu sắc nhận thức này

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 201 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những giá trị trong quản trị Nhà nước triều Hậu Lê, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHÖÕNG GIAÙ TRÒ TRONG QUAÛN TRÒ NHAØ NÖÔÙC TRIEÀU HAÄU LEÂ Phạm Thị Duyên Thảo* Tóm tắt: Bài viết phân tích những đặc điểm cơ bản trong quản trị nhà nước triều Hậu Lê và rút ra những giá trị trong quản trị nhà nước triều Hậu Lê. Abstract: This article provides analysis of the substantial characteristics in the state governance by the Post-Lê and the values of the Post-Lê’s state governance. Thông tin bài viết: Từ khóa: quản trị nhà nước; quản trị nhà nước triều Hậu Lê; pháp luật triều Hậu Lê Lịch sử bài viết: Nhận bài: 30/11/2016 Biên tập: 12/06/2017 Duyệt bài: 19/06/2017 Article Infomation: Keywords: state governance, state governance of the Post-Lê, the laws of the Post-Lê Article History: Received: 30 Nov. 2016 Edited: 12 Jun 2017 Appproved: 19 Jun 2017 * TS, Bộ môn Lý luận - Lịch sử Nhà nước pháp luật, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. Năm 1428, nghĩa quân Lam Sơn đã giải phóng hoàn toàn đất nước, khôi phục nền độc lập dân tộc, đưa Lê Lợi lên ngôi tại kinh thành Thăng Long, triều đại Hậu Lê được thiết lập. Dựa trên đặc điểm phát triển, giới sử học chia nhà Hậu Lê thành hai giai đoạn: Lê sơ và Lê trung hưng. Giai đoạn Lê sơ (1428 - 1527) gắn liền với tên tuổi các vị vua anh minh: Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông và nhà chính trị - văn hóa thiên tài Nguyễn Trãi Nước Đại Việt dưới thời các vị này phát triển rực rỡ: Nhà nước trung ương tập quyền được củng cố vững chắc, biên giới phía Bắc được giữ yên, lãnh thổ phía Nam mở rộng tới Bình Định, hoạt động lập pháp cũng đạt nhiều thành tựu đáng kể, vai trò của Nhà nước trung ương tập quyền được khẳng định. 1. Những điểm cơ bản trong quản trị nhà nước triều Hậu Lê Coi trọng việc bảo vệ ruộng đất, phát triển nông nghiệp Triều đại Hậu Lê sớm xác định được vai trò của nguồn tài nguyên đất đai và của sản xuất nông nghiệp, nên đã coi việc bảo vệ ruộng đất, phát triển nông nghiệp là nền tảng thúc đẩy kinh tế đất nước. Theo đó, triều Hậu Lê đã có hàng loạt quy định pháp luật để bảo vệ ruộng đất công cũng như ruộng đất tư: cấm mua bán, chuyển nhượng, cầm cố; cấm quan lại làm sai quy định trong quá trình phân cấp ruộng đất công, thu sai hoặc chiếm đoạt thuế; cấm lấn, chiếm, tranh đoạt; cấm bán trộm ruộng đất của người khác; cấm ức hiếp để mua ruộng đất... NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 8 Số 12(340) T6/2017 Đi cùng với các chính sách về ruộng đất là chính sách khuyến nông. Nhà Lê cho thành lập hàng loạt các cơ quan chuyên môn liên quan đến phát triển nông nghiệp như Sở Tầm tang, Sở Thực thái, Sở Đồn điền, Sở Điền mục để phụ trách các việc trồng dâu, nuôi tằm, trồng rau hoa màu, khai hoang, chăn nuôi. Các quan chức phụ trách nếu làm không hết chức phận gây hậu quả sẽ bị xử phạt hoặc bãi chức. Đề cao quy tắc bảo vệ, tôn trọng quyền con người Pháp luật được chú trọng xây dựng ngay từ những ngày đầu triều Hậu Lê giành được chính quyền với một trình độ kỹ thuật lập pháp phát triển cao. Các sản phẩm pháp điển hóa, tập hợp hóa điển hình như: Từ tụng điều lệ (1468), Nhân mạng tra nghiệm pháp (1737), Quốc triều hình luật (1428), Lê triều quan chế (1471), Quốc triều khám tụng điều lệ (1717-1777), cùng hàng trăm văn bản pháp luật đơn hành của nhà vua được ban hành trong quá trình hoạt động, quản lý nhà nước. Trong quá trình vận hành quyền lực chính trị, triều Hậu Lê đã thể hiện tinh thần pháp chế mạnh mẽ như lời của vua Lê Thánh Tông: "Đặt luật là để trừ kẻ gian, sao dung được bọn coi thường pháp luật", "Quân pháp chỉ có một chứ không có hai"1. Pháp luật được các triều đại Hậu Lê sử dụng để tổ chức bộ máy nhà nước, quy định cách thức tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của các quan chức thừa hành công vụ, điều chỉnh các lĩnh vực quan trọng trong đời sống xã hội và đặc biệt, thể hiện tinh thần nhân văn, tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của con người. Qua việc thể chế tư tưởng “kính thiên ái dân” của Nho gia vào những quy định về trách nhiệm của quan lại với vua, trong công vụ, với bản thân và đồng liêu; việc thể chế hóa lễ để quản lý, giáo hóa dân chúng cho đến các biện pháp 1 Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2009, tr. 622. chế tài đa dạng để buộc các quan chức thừa hành công vụ phải thực hiện nghiêm túc trọng trách của mình trước nhà nước, trước nhân dân, pháp luật triều Hậu Lê đã hướng đến bảo vệ và tôn trọng các quyền, lợi ích cơ bản của con người. Tăng cường kiểm soát việc thực hiện quyền lực của bộ máy nhà nước Bộ máy nhà nước trong các triều đại Hậu Lê, đặc biệt là thời Lê sơ, được tổ chức theo hướng tăng cường hiệu quả, bước đầu có sự giới hạn quyền lực nhà nước để bảo vệ quyền con người, tăng trách nhiệm của các chủ thể công quyền. Vua trực tiếp nắm và điều tiết công việc của các cơ quan nhà nước ở trung ương mà không cần qua các chức quan như Tả, Hữu tướng quốc thời đầu Lê sơ. Các cơ quan nhà nước được chuyên môn hóa theo hướng các bộ giám sát từng lĩnh vực công việc mà bộ mình phụ trách, đồng thời giám sát các lĩnh vực khác theo thẩm quyền. Quan chức không biết hay để mặc, dung túng cho sai phạm trong quá trình kiểm tra, giám sát đều bị phạt. Sự siêng hay lười, lỗi lầm hay công trạng, thuyên chuyển hay thăng thưởng của quan lại đều được ghi vào sổ sách, quản lý chặt chẽ làm cơ sở để bổ dụng, thưởng phạt (Điều 25, 27, 60,61 Bộ Quốc triều hình luật). Ở địa phương, các Ty ngự sử có chức năng giám sát đạo. Ty ngự sử đóng ở đạo nhưng hoạt động độc lập, trực thuộc và báo cáo trực tiếp hoạt động giám sát các đạo lên Ngự sử đài ở trung ương. Việc quản lý đạo vốn chỉ bởi một cá nhân được thay bằng hệ thống các cơ quan là Thừa ty, Đô ty và Hiến ty với các chức năng tương ứng là quản lý hành chính, tài chính, dân sự; trông coi việc quân, quân sự, và thực hiện chức năng xét xử và giám sát các ty trên. Trách nhiệm cá nhân, đạo đức công vụ của người áp dụng pháp luật được xem là nguyên tắc xuyên suốt: "Từ Thượng thư Hình bộ trở xuống cho đến Đại lý tự và NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 9Số 12(340) T6/2017 các ngục quan, người nào làm không đúng phép, tha buộc tội cho người, phải nên tâu hặc”2. Bản thân nhà vua cũng chịu một cơ chế kiểm soát và hạn chế quyền lực khi dưới vua là một hệ thống quan lại và cơ quan nhà nước có tính chất tư vấn, khuyên can vua như Hàn lâm viện, Bí thư giám. Các cơ quan này ngoài chức năng cùng vua bàn bạc những việc trọng đại của đất nước, còn là để can gián vua, giúp vua có được những quyết định sáng suốt. Các công chức dưới triều Hậu Lê đều phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình, phải thực thi hiệu quả công việc được giao và chịu hậu quả khi chưa làm tròn trách nhiệm. Khía cạnh này đã được thể hiện xuyên suốt trong đời sống pháp luật Hậu Lê, bao gồm: trách nhiệm với bản thân (các quan chức phải là những người có đạo đức, năng lực, ứng xử chuẩn mực), trách nhiệm với nhà vua, với chức phận của mình; nếu không làm hết chức trách, hoặc nhũng nhiễu dân, gian lận sẽ phải chịu các hình thức xử lý thích đáng. Bên cạnh đó, là trách nhiệm với đời sống nhân dân. Quan lại phải làm cho nhân dân no đủ, an toàn, không để xảy ra tình trạng trộm cướp, vỡ đê, mất mùa do tắc trách trong lĩnh vực mình quản lý; phải chịu trách nhiệm về việc làm của cấp dưới trong phạm vi địa bàn phụ trách... Chính quyền Hậu Lê đã từng bước có cơ chế thực hiện việc giải thích, công khai những hoạt động của mình. Lê Thánh Tông đã từng tuyên bố: "Từ nay về sau, phàm các chỉ, các lệ về lớn nhỏ thì bộ phụ trách, xứ ty và các phủ huyện châu đều biên ra bảng treo dán lên, để cho nhân dân tuân theo mà làm"3. 2 Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tr. 663. 3 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 667. 4 Điều 19 Chương Tạp luật, Quốc triều hình luật, NXB. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2005. 5 Điều 110, Chương Vi chế, Quốc triều hình luật, Sđd. 6 Lệ kiện tụng sự ức hiếp, Quốc triều khám tụng điều lệ, Lệ kiện tụng sự ức hiếp, Quốc triều khám tụng điều lệ (người dịch Trần Kim Anh, người hiệu đính: Nguyễn Văn Lãng) in trong sách Viện Nhà nước và Pháp luật, Một số văn bản pháp luật Việt Nam, Thế kỷ XV - XVIII, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1994.. Nhận thức được mối quan hệ giữa quyền lực và tham nhũng, việc phòng chống tham nhũng được thường trực dự liệu và xử lý khá nghiêm khắc. Việc quy định nghĩa vụ của quan lại, các hành vi bị cấm như lợi dụng chức vụ, quyền hạn sách nhiễu nhân dân là những đảm bảo cho phòng, chống tham nhũng. Triều Hậu Lê cho rằng, quyền lực mà quan lại có được khi thi hành công vụ là quyền lực công, phải được sử dụng cho mục đích công, nên mọi hành vi của quan lại nếu đi trái với tôn chỉ đó đều bị coi là bất hợp pháp, là một dạng của tham nhũng và đều bị xử lý: "Những dân phu thợ thuyền đang làm việc mà chủ ty, giám đương sai làm việc riêng thì bị xử tội biếm hay bãi chức và phải trả tiền công thuê nộp vào kho"4. Trong quản lý hành chính, những hành vi sách nhiễu, tham nhũng của dân bị nghiêm cấm, nếu vi phạm, quan lại phải bồi thường: "Những quan thu thuế, không theo ngạch đã định mà thu, lại giấu bớt số thuế thì cũng coi như tội giấu đồ vật công; nếu thu thêm thuế để làm của riêng thì tội cũng như thế, lại phải bồi thường gấp đôi số thuế lạm thu trả lại cho dân"5. Hành vi tham nhũng còn làm biến dạng hiệu quả của quá trình quản trị nhà nước, nên trong lĩnh vực tư pháp, triều Hậu Lê càng chú trọng đến phòng chống và xử lý tham nhũng. Sự trong sạch trong hoạt động tư pháp đa phần tỷ lệ thuận với quyền lợi của những người yếu thế trong tố tụng: "Các nhà quyền quý thế gia ức hiếp người khác cho khám quan số tiền của ức hiếp, giam thu... thì lấy tội biếm bãi mà luận"6. Do đó, cần phải ngăn chặn tham nhũng ngay từ quá trình bắt người liên quan đến vụ kiện: "Trấn NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 10 Số 12(340) T6/2017 quan nơi sai bắt, nếu có dính dáng đến việc yêu sách, cho người kiện kêu tại khám quan, cũng lấy tội phạt mà luận"7. Trong quá trình xét xử, các khám quan phải đảm bảo sự liêm khiết, nếu vụ lợi sẽ bị xử lý nghiêm: "Nếu tụng lý đáng phạt lại cố thiên lệch do có sự thiên lệch về tiền tài, tình nghĩa, điên đảo thị phi, nhằm mục đích tham nhũng, tệ hại thì xét theo luật "cố ý thêm bớt tội" cho người mà luận hành"8. Triều Hậu Lê có cơ chế khá tốt cho việc đảm bảo sự tham gia của người dân. Trong việc xây dựng chính quyền địa phương, dưới thời vua Lê Thánh Tông, nhân dân đã được tham gia công khai vào việc bầu ra xã trưởng. Trên cơ sở các tiêu chuẩn về chọn đặt xã trưởng năm 14969 như: những người già, giám sinh, sinh đồ, con em nhà hiền lành 30 tuổi trở lên, có tư cách đạo đức, biết chữ, không thuộc diện anh em thân thích cùng làm xã trưởng trong một xã, nhân dân trong xã có quyền lựa chọn bầu ra người thay mặt mình thực hiện các công việc chung của xã. Đây được xem là bước tiến bộ vượt bậc của cuộc cải cách hành chính thời Lê Thánh Tông. Nhân dân được tham gia vào quá trình giám sát tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Trong các kỳ khảo hạch quan lại theo định kỳ, ý kiến của nhân dân sở tại là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá về hiệu quả công vụ và tư cách đạo đức của các quan. Sự đồng thuận của nhân dân là một trong những đảm bảo cho quá trình tiếp tục thực hiện quyền lực hoặc cất nhắc lên các vị trí cao hơn của các quan lại; ngược lại có thể là căn cứ giản thải những quan chức không đáp ứng tiêu chuẩn. Dưới thời vua Lê Thái Tông, nhà vua đã từng ban chiếu yêu cầu nhân dân, quân 7 Lệ tróc bắt, Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 289. 8 Lệ khám tụng, Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 280. 9 Viện Khoa học Xã hội, Một số văn bản pháp luật Việt Nam thế kỷ XV - XVIII, tr. 242. 10 Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tr. 580. 11 Quốc triều hình luật, Sđd, Điều 647. 12 Quốc triều hình luật, Sđd, Điều 649. dân, quan lại góp ý với vua để vua quản lý cho tốt10. Nhà nước cũng có luôn những quy định và chế tài để đảm bảo cơ chế đánh giá, lấy ý kiến này được chính xác, thực chất, khi quy định việc xử lý hình sự đối với những đánh giá gian lận. Nhân dân được yêu cầu tham gia trực tiếp hoặc tạo điều kiện cho pháp luật được thực thi trong cuộc sống, nếu họ đủ điều kiện trong những trường hợp cụ thể. Đó vừa là quyền vừa là nghĩa vụ: "Đuổi bắt tội nhân, sức không bắt nổi, kêu người đi đường giúp sức, người đi đường có thể giúp được mà không giúp, thì bị xử biếm một tư, thế không giúp được thì được miễn"11, hay "Thấy có người bị đánh từ bị thương què gãy trở lên, cùng là thấy quân trộm cướp hay kẻ cưỡng gian, thì những người láng giềng đều được bắt đem nộp quan"12. Bước đầu hình thành một số nguyên tắc tiến bộ trong hoạt động tư pháp Một trong những hạn chế lớn trong quản trị nhà nước thời Hậu Lê là chưa phân định rõ hành pháp với tư pháp (xã trưởng vừa quản lý hành chính vừa xử các vụ kiện tụng ở xã), làm cho yếu tố độc lập của tư pháp chưa được đảm bảo. Tuy nhiên, thực tiễn và pháp luật cho thấy, hoạt động tư pháp đã ít nhiều thể hiện tư tưởng liêm chính, minh bạch tư pháp. Tư pháp thời Hậu Lê đã hình thành một số nguyên tắc tố tụng hiện đại như: xét xử công khai nơi công đường; trong phiên tòa, bị can, bị cáo, người bị khiếu kiện có quyền trình bày vụ việc của mình khi phán quan xét hỏi; hoạt động tố tụng được tiến hành theo cấp, với nguyên tắc công bằng, đúng pháp luật. "Nếu xã quan xử đoán không hợp lẽ thì kêu lên quan huyện; quan huyện xử đoán không hợp lẽ thì kêu đến quan lộ; NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 11Số 12(340) T6/2017 quan lộ xử đoán không hợp lẽ thì mới đến kinh tâu bày"13. Bản án phải có “luận đoán về sự trái phải để các bên đều hiểu biết, không được lược chia trái phải, úp mở trong luận án, để bịt đường phúc kêu của người kiện, trái thế lấy tội biếm phạt mà luận”14. Bản án sau khi được tuyên, phải niêm yết công khai: “Luận bàn xong, phải treo niêm yết về luận tích để cho hai bên sao chép, không được bàn ngầm. Nếu quan khám xét dụng tình viết dôi năm tháng tới 2 đến 3 tháng về việc đã luận đoán... thì cho bên muốn phúc thẩm kêu để phản luận”15. Bước đầu đã có cơ chế đảm bảo năng lực tiếp cận công lý cho người dân nhằm thúc đẩy trách nhiệm của cơ quan tư pháp. Đó là những quy định hướng đến một "thời hạn hợp lý" khi giải quyết vụ việc tố tụng. Cơ quan công quyền phải công khai lịch tiếp dân và xử lý công việc: "Các nha môn hàng tháng, các ngày làm việc đều niêm yết tờ hiển thị vào các ngày đầu tháng để người kiện tụng biết, phàm có việc khiếu tố vì lý do giao nhận, cho vào ngày ấy trình nộp lên"16; "Các nha môn trong ngoài làm việc khám, vào tháng nào, ngày nào coi việc thì nên theo tháng đó yết thị để hiểu dụ và hiểu sức cho người trong vụ kiện theo đúng ngày mà đến hầu kiện"17. Trong quá trình tố tụng, cán bộ tư pháp phải có trách nhiệm đảm bảo các nguyên tắc tố tụng từ khâu hướng dẫn làm đơn, nhận đơn, khám nghiệm hiện trường, tróc bắt người. Phán quan phải giải quyết vụ việc đúng thời hạn, thời hiệu, nhưng vẫn có quy định ngoại lệ nhằm bảo vệ cao nhất quyền con người, như nếu việc chậm trễ đến từ 13 Quốc triều hình luật, Điều 672, tr. 229 14 Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 303 15 Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 303-304. 16 Lệ về trốn tụng, Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 290 17 Lệ về khám tụng, Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 278 18 Lệ người kiện tụng xin hoãn khám, Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 290. 19 Lệ kiện tụng vay nợ, Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 288. 20 Lệ về khám tụng, Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 278. 21 Lệ về soát tụng, Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 296-297. phía đương sự vì các lý do chính đáng, thì có thể châm trước; hoặc, đôi khi, thời hạn được hoãn lại vì những lý do rất nhân văn, thể hiện tư tưởng "trọng nông" của dân tộc: "những vụ kiện tụng về ruộng đất vào kỳ tháng 6, hoãn khám để tiện cho việc nhà nông"18. Với việc bắt người phục vụ hoạt động tố tụng, nếu "như nhà có tang chưa chôn cất, mà đến hạn phải trả nợ, thì chủ nợ cũng nên vì việc đó mà thương xót không được tróc bắt hoặc lấy ngày hẹn ra sách hỏi để đến nỗi làm tổn thương việc hiếu, phải để cho chôn cất xong mới truy hỏi”19. Pháp luật đã có những đảm bảo cho liêm chính và minh bạch tư pháp khi bước đầu đề cập đến sự độc lập trong xét xử của quan án, sự công tâm của cán bộ điều tra: "Quan khám xét không được phúc vấn, phải được lệnh quan, không được nhận riêng sự gửi gắm, nhờ vả", "Không được nhận riêng đơn kêu tố, rồi một mình làm việc tróc nã, bắt, không cùng chung khám xét"; "Cần để ý dụng tâm việc tra hỏi, cần hợp ở lý lẽ để cho công vụ được rõ ràng, chính xác"20. Hậu Lê là triều đại đầu tiên đề cập tới việc soát tụng (kiểm tra lại việc xét xử) để đảm bảo hiệu quả hoạt động này: "Cứ cuối năm, quan phủ soát quan huyện, quan thừa ty soát quan phủ... quan hiến soát trấn ty, thừa ty; ngự sử soát đề lĩnh, phủ doãn và hiến ty..."; "Quan chịu trách nhiệm kiểm soát nhất nhất phải thẩm tra... Ngoài ra xem trải qua kỳ tra soát, nhất thiết các việc không đúng lệ cùng các tiền soát lệ, đều phải xem xét. Nếu nha môn nào không chịu tuân, căn cứ vào sự việc được phát giác, không đợi phải khiếu tố, tra rõ sự thực, lấy trọng tội mà luận"21. Mục đích là để kiểm tra hiệu quả, NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 12 Số 12(340) T6/2017 chất lượng của hoạt động tố tụng, giúp nâng cao trách nhiệm công vụ cũng như góp phần làm giảm thiểu những án oan do cơ quan tố tụng có thể đã gây ra cho dân chúng. Điểm đáng ghi nhận là triều Hậu Lê đã đưa ra một hệ các quy tắc tố tụng để cán bộ tư pháp chỉ được phép thực hiện trong phạm vi đó, không được vượt quá, và phải luôn thể hiện trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của con người, đặc biệt là nhóm yếu thế trong tố tụng; mà không phải theo tinh thần ngược lại, là tạo ra một hệ quy tắc để bảo vệ hoạt động tố tụng của nhà nước. Vấn đề trách nhiệm của chủ thể có thẩm quyền luôn được đặt trong tương quan với quyền lợi của các bên tham gia tố tụng. Chế tài xử lý vi phạm luôn được dự liệu như một đảm bảo cho hiệu quả và hiệu lực của hoạt động tư pháp. 2. Giá trị hiện đại trong quản trị nhà nước triều Hậu Lê Xét ở góc độ quản trị nhà nước, quản trị tốt theo quan điểm hiện đại, thì quản trị nhà nước triều Hậu Lê còn không ít những hạn chế mang tính lịch sử như: tư pháp chưa độc lập, chưa thực sự thể hiện tính pháp quyền, cơ hội cho người dân tham gia vào việc ra quyết định mới ở bước đầu, đặc biệt, chưa có yếu tố tự do ngôn luận, xây dựng các tổ chức xã hội dân sự... Tuy vậy, đã có không ít những giá trị mà quản trị nhà nước triều Hậu Lê mang lại. Đó là: Quản trị nhà nước tốt là cơ sở cho sự phát triển của quốc gia dân tộc Quá trình thực hiện quyền lực chính trị của triều Hậu Lê đã chứng minh cho mối quan hệ tất yếu giữa quản trị nhà nước với sự phát triển của quốc gia dân tộc. Triều Hậu Lê đã từng bước khắc phục những khó khăn nhiều mặt từ kinh tế, chính trị đến xã hội để đưa đất nước phát triển, trở thành một trong những triều đại thịnh vượng và có thời gian trị vì lâu nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Tất cả những chính sách mà pháp luật Hậu Lê thực hiện từ khi vua Lê Thái Tổ lên ngôi đều là những khía cạnh tích cực của công tác quản trị nhà nước như: xây dựng, phát triển hệ thống chính sách pháp luật, đề cao pháp luật, coi pháp luật là công cụ chủ yếu để ổn định và phát triển xã hội, đề cao việc quản lý xã hội bằng pháp luật; chính sách xây dựng cơ chế quản trị mới với nguồn tài nguyên đất đai; chính sách cải cách toàn diện và mạnh mẽ bộ máy nhà nước nhằm làm cho bộ máy nhà nước được tổ chức khoa học, hoạt động hiệu quả hơn. Triều Hậu Lê đã từng bước thực hiện hữu hiệu các chính sách quản trị nhà nước của mình, từng bước chứng minh tính đúng đắn trong quá trình phát triển đất nước, chứng minh đó là một lựa chọn tất yếu sau khi giành lại được chính quyền từ tay nhà Minh, là con đường duy nhất để Nhà nước vững mạnh, xã hội phát triển. Mục tiêu cao nhất của quản trị nhà nước là sự thịnh vượng, an toàn của nhân dân, bảo đảm các quyền con người Trong quá trình quản trị nhà nước triều Hậu Lê, ở mỗi khía cạnh của quá trình quản trị nhà nước, mục tiêu cao nhất vẫn là phải bảo vệ được các quyền con người, những lợi ích cơ bản của nhân dân. Từ chính sách quân điền, việc tổ chức, hạn chế quyền lực nhà nước, xây dựng môi trường tư pháp minh bạch, liêm chính, đảm bảo sự tham gia của người dân vào việc giám sát và xây dựng chính quyền đều phải xuất phát từ mục tiêu vị con người. Mục tiêu đó của nhà Hậu Lê cũng chính là phương thức hoạt động, thực hiện quyền lực chính trị, đã làm cho nhà Hậu Lê có sự khác biệt với các triều đại khác. Ví như nhà Hồ, các chính sách hạn điền, hạn nô nhà Hồ ban đầu đều là nhằm hạn chế các thế lực nhà Trần, sau đó là khôi phục lại sự vững mạnh của nhà nước trung ương tập quyền, tuy nhiên, kết quả thực chất mang lại là quyền lợi chủ yếu tập trung vào tay các tôn thất, quý tộc nhà Hồ. Điều này đã làm cho nhà Hồ thất bại trong cuộc chiến chống quân Minh khi "lòng dân không thuận". Nhà Lý, Trần, mặc dù đề cao tinh thần đoàn kết dân tộc, củng cố sự đồng sức đồng lòng để bảo vệ độc lập dân tộc, phát triển đất nước, NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 13Số 12(340) T6/2017 nhưng về cuối, các chính sách cai trị của những triều đại này đều chưa đáp ứng được các nhu cầu của nhân dân, chưa lấy quyền lợi của nhân dân, các quyền con người làm tôn chỉ hành động, nên về cuối đã để xảy ra tình trạng kiêm tinh ruộng đất, điền trang thái ấp phát triển mạnh, chế độ bóc lột nô tỳ, nông nô gia tăng, đời sống nhân dân chật vật, các triều Hậu Lý, Trần bị nhân dân chán ghét... Triều Hậu Lê, đặc biệt là giai đoạn Lê sơ, đã nhận thức được sâu sắc cội nguồn của quyền lực chính trị, nhận thức được mục tiêu của việc thực hiện quyền lực chính trị không chỉ để phục vụ các mục tiêu chính trị, mà phải là để phục vụ cuộc sống, phải đáp ứng được những nguyện vọng chính đáng của nhân dân, các lợi ích cơ bản của họ. Vai trò và trách nhiệm chủ đạo trong quản trị nhà nước thuộc về Nhà nước, đội ngũ công chức thực thi công vụ Hậu Lê là một trong những triều đại thấm nhuần nhận thức về trọng trách của Nhà nước đối với nhân dân, với xã hội và về vận mệnh của quốc gia dân tộc. Trong quá trình thực thi quyền lực chính trị của mình, triều Hậu Lê luôn có cơ chế để khuyến khích, nâng cao trách nhiệm công vụ của đội ngũ quan lại, công chức thừa hành; cũng luôn có các biện pháp để hạn chế lạm quyền, nâng cao cơ chế giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động công quyền. Cách thức để kiềm giữ sự lạm quyền và nâng cao hiệu quả hoạt động là luôn có cơ chế gắn trách nhiệm chính trị, trách nhiệm công vụ với trách nhiệm pháp lý. Điều này thể hiện qua hầu hết các quy định pháp luật liên quan, đều được thiết kế có kèm theo trách nhiệm pháp lý để dự liệu các vi phạm có thể xảy ra của các chủ thể có thẩm quyền. Đó cũng chính là biểu hiện của việc nhận thức sâu sắc mối quan hệ giữa nắm quyền lực và lợi dụng quyền lực, mối tương quan giữa chất lượng quản trị nhà nước với quyền, lợi ích hợp pháp của người dân. Bởi người dân, nhất là ở giai đoạn phong kiến, họ vẫn ở vị trí "thần dân", mà chưa thật sự được ở địa vị của công dân như hiện nay, nhận thức còn hạn chế, theo đó mà quyền lợi của họ bị xâm hại. Nên các thành tố của quản trị như sự tham gia của người dân, hay trách nhiệm giải trình, về cơ bản cũng chỉ có thể thành hiện thực khi được đảm bảo bởi Nhà nước, bằng các cách thức và cơ chế cụ thể của Nhà nước. Chất lượng quản trị chịu ảnh hưởng không nhỏ từ yếu tố cá nhân người đứng đầu Cá nhân người đứng đầu nhà nước và theo đó là đứng đầu các cơ quan nhà nước là yếu tố mang tính chất quyết định. Các quyết sách và đường lối cai trị của những người đứng đầu nhà nước chính là tôn chỉ hành động của Nhà nước, cũng chính là mục tiêu của quá trình quản trị. Lịch sử đã chứng minh, những vị vua mẫn cán, thương dân thường là những vị vua có chính sách quản trị tốt, được nhân dân tin yêu, hiệu quả quản trị thể hiện ở sự vững mạnh của bộ máy nhà nước, sự bền vững của triều đại, sự ấm no của dân chúng... Triều Hậu Lê đã có những vị vua xuất chúng như Lê Thái Tổ, Lê Thánh Tông, là những vị vua "lo cái lo trước thiên hạ và vui cái vui sau thiên hạ". Triều Hậu Lê thịnh trị cũng nhờ những vị vua đã đặt nền tảng và có những cải cách mạnh mẽ như hai vị vua này. Ngược lại, những vị vua như Lê Tương Dực, Lê Uy Mục chỉ chăm lo hưởng thụ, thích giết chóc, thị uy, không chăm lo đến đời sống nhân dân, đã sớm mang lại họa suy vong cho nước nhà, bị nhân dân oán thán, căm ghét. Tư cách, phẩm hạnh, tài năng của người đứng đầu nhà nước sẽ như một quy định bất thành văn, ảnh hưởng mạnh mẽ đến đội ngũ quan lại, công chức thừa hành công vụ. Do đó, triều Hậu Lê đã rất coi trọng và cũng đòi hỏi rất cao đối với vị trí của người đứng đầu, người chịu trách nhiệm trong các hoạt động quản trị. Các cách thức quy định trách nhiệm công vụ cũng như dự liệu về trách nhiệm pháp lý của quan lại đã thể hiện sâu sắc nhận thức này NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 14 Số 12(340) T6/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhung_gia_tri_trong_quan_tri_nha_nuoc_trieu_hau_le.pdf