Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển công nghiệp hỗ trợ: Bằng chứng từ thành phố Hồ Chí Minh

Một số khuyến nghị chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ - Về nâng cao trình độ công nghệ của công nghiệp hỗ trợ, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ kinh phí để doanh nghiệp mua bản quyền công nghệ phục vụ sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ; thành lập các trung tâm phát triển chuyên sâu về công nghiệp hỗ trợ, giúp tư vấn kỹ thuật cần thiết cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ; có chính sách gắn ưu đãi cho các doanh nghiệp FDI với cam kết chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam. - Về kết nối công nghiệp hỗ trợ nội địa với FDI, Nhà nước cần có chính sách gắn ưu đãi cho FDI với cam kết tỷ lệ nội địa hóa hoặc tỷ lệ mua sắm hàng hóa trung gian trong nước. Các tổ chức khuyến công và Hiệp hội ngành nghề cần vươn lên làm đầu mối liên kết cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ; thường xuyên tổ chức các hội chợ công nghệ, triển lãm, hội thảo về công nghiệp hỗ trợ. Xây dựng cơ sở dữ liệu và website về danh mục các doanh nghiệp và sản phẩm công nghiệp hỗ trợ để kết nối thông tin. - Về phát triển nguồn nhân lực, ngoài việc nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học, cao đẳng, trung học và dạy nghề, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp FDI đầu tư cho nguồn nhân lực; hợp tác với các đối tác nước ngoài trong một số chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hỗ trợ. - Về vốn kinh doanh, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ nguồn vốn ưu đãi dành cho công nghiệp hỗ trợ, giảm 50% lãi suất và đầu tư hình thành một số khu, cụm công nghiệp hỗ trợ ở một số lĩnh vực chủ yếu; hỗ trợ tài chính cho công nghiệp hỗ trợ từ quỹ khuyến công, quỹ phát triển khoa học - công nghệ.

pdf10 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 189 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển công nghiệp hỗ trợ: Bằng chứng từ thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 243 tháng 9/2017 80 Ngày nhận: 16/4/2017 Ngày nhận bản sửa: 24/7/2017 Ngày duyệt đăng: 25/8/2017 1. Giới thiệu Kể từ khi đổi mới kinh tế 1986, Việt Nam đã đạt tăng trưởng cao trên thế giới với động lực phát triển là ngành công nghiệp (Berry, 2002 trích dẫn trong Tuan & Mai, 2012). Tuy nhiên, Porter (1990) cho rằng, các ngành công nghiệp liên kết và hỗ trợ là một trong 4 yếu tố hình thành lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất hoặc quốc gia. Công nghiệp hỗ trợ chậm phát triển làm môi truờng thu hút FDI kém hấp dẫn, nhất là trong ngành máy móc, thiết bị vì sản phẩm công nghiệp hỗ trợ các ngành này chiếm ~70% giá thành; cao hơn nhiều so với chi phí lao động rẻ ở Việt Nam (Mori, 2005). Thành phố Hồ Chí Minh, đầu tàu kinh tế cả nước với 21,3% GDP, 27,9% giá trị sản xuất công nghiệp, 34,9% dự án FDI, 40% kim ngạch xuất khẩu và 29,38% thu ngân sách cả nước. Từ trước 1975, Thành phố Hồ Chí Minh đã có công nghiệp hỗ trợ và hiện nay đang phát triển ở nhiều lĩnh vực: điện tử, da giầy, dệt may, cơ khí, xe máy (Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách công nghiệp - IPSA, 2010). Tuy vậy, công nghiệp hỗ trợ ở Thành phố Hồ Chí Minh chỉ mới ở giai đoạn đầu với các ngành thâm dụng lao động và kỹ thuật đơn giản như da giày, xe máy, điện gia dụng, điện công nghiệp, cơ khí đơn giản, dệt may; còn các ngành công nghệ phức tạp như thiết bị điện tử nghe nhìn, máy công nghiệp, NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ: BẰNG CHỨNG TỪ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Hồ Quế Hậu Email: hoquehau57@yahoo.com.vn Tóm tắt Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ với bằng chứng từ thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp phân tích tổng hợp dữ liệu thứ cấp được kết hợp với một khảo sát định lượng tại 312 doanh nghiệp. Các kết quả nghiên cứu cho thấy có sáu nhân tố quan trọng để phát triển doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ: (i) trình độ công nghệ tiên tiến, (ii) chất lượng sản phẩm tốt(iii) sự liên kết chặt chẽ với các đối tác, trong đó quan trọng nhất là với các doanh nghiệp FDI (iv) năng lực quản lý tốt; (v) Chất lượng lao động cao và (vi) khả năng vay vốn ngân hàng. Từ khóa: Doanh nghiệp, công nghiệp, công nghiệp hỗ trợ, Thành phố Hồ Chí Minh. Factors affecting the development of supporting industry: Evidence from Ho Chi Minh city Abstract: This paper aims at identifying the factors that affect the development of supporting industries with evidence from Ho Chi Minh city. This study employs the secondary data in combination with primary data collected from a survey of 312 enterprises. The findings show that there are six important factors for development of supporting industry enterprises, including: (i)The level of advanced technology; (ii) good quality of products; (iii) the close linkage with partners, especially with FDI enterprises; (iv) good management capacity; (v) high quality labor; and (vi) ability to borrow money from banks. Keywords: Enterprise; Ho Chi Minh City; industry; supporting industry. Số 243 tháng 9/2017 81 ô tô kém phát triển, chỉ đáp ứng 10% nhu cầu của các nhà sản xuất chính sản xuất thành phẩm cuối cùng (Nguyễn Văn Sáng, 2015); vì vậy, đã hạn chế khả năng thu hút các nhà lắp ráp FDI, vì sự tốn kém và mất thời gian tìm nguồn cung cấp địa phương (Ohno, 2007). Sức cạnh tranh của công nghiệp hỗ trợ ở Thành phố Hồ Chí Minh chưa cao do năng suất thấp, giá thành cao, chất lượng không ổn định; thiếu các cơ sở sản xuất vật liệu cơ bản như sắt, thép, nguyên liệu nhựa, cao su kỹ thuật, hoá chất cơ bản; dung lượng thị trường nhỏ, chưa đủ quy mô cho hiệu quả kinh tế. Chính sách về công nghiệp hỗ trợ của nhà nước chưa đủ mạnh; thiếu liên kết giữa nhà sản sản xuất chính với doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, giữa các nhà sản xuất công nghiệp hỗ trợ với nhau và giữa công nghiệp hỗ trợ nội địa với doanh nghiệp FDI (IPSA, 2010). Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam như: Mori (2005), HoàngVăn Châu (2010), Hà Thị Hương Lan (2014), hoặc các nghiên cứu về công nghiệp hỗ trợ ở thành phố Hồ Chí Minh như: IPSA (2010), Võ Thanh Thư & Nguyễn Ðông Phong (2014), Nguyễn Văn Sáng (2015) đã phân tích đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ. Đáng chú ý, đã có những nghiên cứu thực nghiệm kiểm định những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ như: Phan Văn Hùng (2014) trong ngành xây dựng và Luu Tien Dung & Nguyen Minh Quan (2014) với bằng chứng ở Đồng Nai nhưng cần bổ sung các biến độc lập cho mô hình nghiên cứu và sửa đổi các mục hỏi (items) cho phù hợp với ngành công nghiệp hỗ trợ trong một nước đang phát triển như Việt Nam vì: (i) đại bộ phận doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ là vừa và nhỏ nên có sự lệch pha về nhận thức, trình độ trong “Năng lực quản lý” với các nhà sản xuất chính FDI; (ii) Cơ cấu công nghiệp còn thiếu những ngành sản xuất các nguyên, vật liệu cơ bản làm ảnh hưởng đến“chất lượng hàng hóa đầu vào”cho công nghiệp hỗ trợ; (iii) “Năng lực của doanh nghiệp sản xuất chính” đối với doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ là rất quan trọng cho phát triển bền vững công nghiệp hỗ trợ. Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn nêu trên, nghiên cứu này được thực hiện nhằm (i) Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ và (ii) kiểm định các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển công nghiệp hỗ trợ với bằng chứng từ thành phố Hồ Chí Minh. Để đạt được mục tiêu trên, sau đây sẽ trình bày cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu; tiếp đến mô tả phương pháp nghiên cứu; phần tiếp theo trình bày kết quả nghiên cứu và một số khuyến nghị chính sách. 2. Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu 2.1. Cơ sở lý thuyết 2.1.1. Khái niệm công nghiệp hỗ trợ Thuật ngữ “công nghiệp hỗ trợ” được sử dụng rộng rãi ở Đông Á. Ngành công nghiệp hỗ trợ gồm các nhà sản xuất các đầu vào là hàng hóa trung gian cho sản xuất sản phẩm cuối cùng (Mori, 2005). Với Hoa Kỳ, “công nghiệp hỗ trợ là ngành cung cấp nguyên vật liệu, linh kiện hoặc thực hiện hỗ trợ sản xuất các nguyên vật liệu và linh kiện đó, phục vụ việc lắp ráp các sản phẩm cuối cùng” (Nguyen, 2006). Theo Chính phủ Việt Nam (2015), “công nghiệp hỗ trợ là các ngành công nghiệp sản xuất nguyên liệu, vật liệu, linh kiện và phụ tùng để cung cấp cho sản sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh”. Tuy nhiên, theo Mạnh Đức (2015) về thực chất, công nghiệp hỗ trợ không phải là ngành công nghiệp “phụ trợ” hay “hỗ trợ”, mà là ngành xương sống của nền công nghiệp quốc gia. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, công nghiệp không phát triển được và thu hút vốn đầu tư FDI sẽ hạn chế nếu không có ngành công nghiệp hỗ trợ, bởi nó sẽ quyết định giá thành sản phẩm, giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm cuối cùng (Mori, 2005). 2.1.2. Tiêu chí đánh giá sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ Có nhiều tiêu chí để đánh giá sự phát triển công nghiệp hỗ trợ như: “tốc độ tăng trưởng sản lượng” (GDP), “tốc độ tăng giá trị gia tăng” (VA) hoặc “tốc độ tăng năng suất các yếu tố tổng hợp” (TFP) (Phan Văn Hùng, 2014); “số lượng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ”, “quy mô trung bình một doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ” (IPSA, 2010). Các tiêu chí này thường được sử dụng để đo lường sự phát triển của các ngành công nghiệp thông thường nhưng với công nghiệp hỗ trợ, các tiêu chí đó chưa phản ánh chính xác quy mô phát triển thông qua mức cung cấp sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho các nhà sản xuất chính. Tiêu chí “tỷ lệ nội địa hóa” được tính bằng tỷ lệ % giá trị sản xuất có nguồn gốc trong nước (nội địa và FDI) so với giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, “tỷ lệ nội địa hóa” lại bao gồm giá trị của những khâu gia công và sản phẩm trung gian tự làm của nhà sản xuất Số 243 tháng 9/2017 82 chính, không được tính là sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, nên chưa phản ánh chính xác quy mô phát triển công nghiệp hỗ trợ. Theo Mori (2005), sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ thể hiện bằng tiêu chí “tỷ lệ mua sắm hàng hóa trung gian trong nước” được đo bằng tỷ lệ % giá trị sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cung cấp cho nhà sản xuất chính từ các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước so với tổng giá trị sản phẩm công nghiệp hỗ trợ kể cả phần nhập khẩu. Vì vậy, nó phản ánh rõ ràng, chính xác nhất mức độ, quy mô phát triển công nghiệp hỗ trợ. 2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển công nghiệp hỗ trợ “Trình độ công nghệ” là nhân tố quan trọng nhất cho sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ vì các nhà sản sản xuất chính thường là các doanh nghiệp lớn có thương hiệu hoặc doanh nghiệp đa quốc gia nên yêu cầu chất lượng và trình độ chính xác cao để lắp ráp sản phẩm cuối cùng. “Dung lượng thị trường và khả năng tiêu thụ” phải đảm bảo quy mô tối thiểu mới mang lại hiệu quả cho nhà sản xuất công nghiệp hỗ trợ theo quy luật hiệu quả kinh tế theo quy mô (Mori, 2005; Phạm Hồng Chương, 2011). “Chất lượng lao động” cao chứ không phải máy móc mới là điều thiết yếu để bảo đảm chất lượng sản phẩm và chi phí sản xuất thấp có tính cạnh tranh cho công nghiệp hỗ trợ (Mori, 2005). Bảo đảm tài chính ảnh hưởng quan trọng đến công nghiệp hỗ trợ vì nó đòi hỏi nhiều máy móc thiết bị hơn công nghiệp lắp ráp (Thuy, 2007; Võ Thanh Thư & Nguyễn Ðông Phong, 2014). Tuy nhiên, “khả năng vay vốn ngân hàng” mới là bằng chứng cho sự bảo đảm nguồn vốn kinh doanh vì doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ thường là vừa và nhỏ, luôn thiếu vốn tự có. “Quan hệ liên kết với đối tác” trong đó có trao đổi thông tin và liên kết sản xuất giữa công nghiệp hỗ trợ nội địa với nhà sản xuất chính FDI phải rất chặt chẽ vì sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thường được sản xuất theo thiết kế của nhà sản xuất chính, có tính chuyên biệt cao, không thể tiêu thụ trên thị trường mở (Ohno, 2007; Luu Tien Dung & Nguyen Minh Quan, 2014). “Chất lượng sản phẩm” tốt cùng với giá cả hợp lý và giao hàng đúng hẹn quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp hỗ trợ (Ohno, 2007; Hình 1: Mô hình nghiên cứu sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ 6 2.2.1. Mô hình nghiên cứu Mô hình nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ dựa vào khung lý thuyết của Mori (2005), Ohno (2007) và các tác giả khác. So ới nghiên cứu định lượng của Phan Vă Hùng (2014) và Luu Tien Dung & Nguyen Minh Quan (2014), sự khác biệt l việc sử dụng biến phụ thuộc “tỷ lệ mua sắm hàng hóa trung gian trong nước” (MSTN) từ đề xuất của Mori (2005) và bổ sung thêm các biến độc lập: “Năng lực quản lý”(NLQL), “chất lượng hàng hóa đầu vào”(CLĐV) và “Nă g lực khách hàng chủ yếu là doanh nghiệp sản xuất chính”(NLKH ) (hình 1). Mô hình hồi quy được xác định như sau: MSTNi= β0+β1TĐCNi+β2CLSPi+β3QHĐT+β4DLTTi+β5CLLĐi+β6CLĐVi+β7NLQLi+β8VVNHi +β9NLKH+εi. Với i là doanh nghiệp thứ i và εi là phần dư của mô hình. Hình 1: Mô hình nghiên cứu sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ Sự phát triển của Công nghiệp hỗ trợ Tỷ lệ mua sắm hàng hóa trung gian trong nước (MSTN) Năng lực quản lý (NLQL) Chất lượng sản phẩm (CLSP) Trình độ công nghệ (TĐCN) Dung lượng thị trường và khả năng tiêu thụ sản phẩm Chất lượng vật tư đầu vào (CLĐV) Quan hệ liên kết với đối tác (QHĐT) Chất lượng lao động (CLLĐ) Năng lực của khách hàng là doanh nghiệp sản xuất chính (NLKH) Khả năng vay vốn ngân hàng (VVNH) Nguồn: Khái quát của tác giả Số 243 tháng 9/2017 83 Mori, 2005). “Năng lực quản lý” giúp công nghiệp hỗ trợ giành được uy tín và sự liên kết chặt chẽ với nhà sản xuất chính (IPSA, 2010; Ohno, 2007). “Năng lực của doanh nghiệp sản xuất chính” là sự bảo đảm thị trường tiêu thụ ổn định, chuyển giao công nghệ cho công nghiệp hỗ trợ phát triển bền vững (Mori, 2005). “Chất lượng vật tư đầu vào” được cung cấp từ các ngành sản xuất nguyên, vật liệu cơ bản sẽ bảo đảm chất lượng và giảm chi phí sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ (Hà Thị Hương Lan, 2014). 2.2. Mô hình nghiên cứu, các biến, đo lường và kỳ vọng 2.2.1. Mô hình nghiên cứu Mô hình nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ dựa vào khung lý thuyết của Mori (2005), Ohno (2007) và các tác giả khác. So với nghiên cứu định lượng của Phan Văn Hùng (2014) và Luu Tien Dung & Nguyen Minh Quan (2014), sự khác biệt là việc sử dụng biến phụ thuộc “tỷ lệ mua sắm hàng hóa trung gian trong nước” (MSTN) từ đề xuất của Mori (2005) và bổ sung thêm các biến độc lập: “Năng lực quản lý”(NLQL), “chất lượng hàng hóa đầu vào”(CLĐV) và “Năng lực khách hàng chủ yếu là doanh nghiệp sản xuất chính”(NLKH ) (hình 1). Mô hình hồi quy được xác định như sau: MSTN i = β0+β1TĐCNi+β2CLSPi+β3QHĐT+β4DL TT i +β5CLLĐi+β6CLĐVi+β7NLQLi+β8VVNHi +β9NLKH+εi. Với i là doanh nghiệp thứ i và ε i là phần dư của mô hình. 2.2.2. Đo lường các biến và kỳ vọng - Thang đo biến phụ thuộc “tỷ lệ mua sắm hàng hóa trung gian trong nước” là thang đo đơn hướng dựa trên cơ sở nghiên cứu của Mori (2005) có trong bảng hỏi với doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. - Thang đo các biến độc lập gồm 9 biến là thang đo đa hướng với 28 biến thành phần được đo bằng thang đo Likert 5 bậc với (1) rất thấp (5) rất cao; được thu thập qua bảng hỏi cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, dựa trên Phan Văn Hùng (2014) và Luu Tien Dung & Nguyen Minh Quan (2014) nhưng được tác giả sửa đổi, bổ sung các mục hỏi (items) cho phù hợp với đặc điểm công nghiệp hỗ trợ. Các biến độc lập đều có kỳ vọng hệ số β dương trong quan hệ với biến phụ thuộc. + “Trình độ công nghệ” (TĐCN) bao gồm 3 mục hỏi: Trình độ công nghệ (TĐCN1), mức độ phức tạp của công nghệ (TĐCN2), mức độ chính xác của công nghệ (TĐCN3); + “Chất lượng lao động” (CLLĐ) bao gồm 4 mục hỏi: Tay nghề lao động đáp ứng nhu cầu (CLLĐ1), lao động ổn định (CLLĐ2), tuyển dụng được cán bộ kỹ thuật (CLLĐ3), Tuyển dụng được cán bộ quản lý (CLLĐ4); + Khả năng vay vốn ngân hàng (VVNH) gồm 3 mục hỏi: Khả năng vay vốn ngân hàng (VVNH1), vay ngân hàng kịp thời, thủ tục nhanh gọn (VVNH2), vay ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh (VVNH3); + “Chất lượng hàng hóa đầu vào” (CLĐV) gồm 3 mục hỏi: Chất lượng hàng hóa đầu vào so với nhu cầu (CLĐV1), chất lượng hàng hóa đầu vào so với hàng ngoại nhập (CLĐV2), chất lượng hàng hóa đầu vào ổn định (CLĐV3); + “Năng lực quản lý”(NLQL) gồm 3 mục hỏi: Năng lực quản lý so với mức trung bình doanh nghiệp trong nước (NLQL1), năng lực quản lý so với mức trung bình doanh nghiệp FDI (NLQL2), năng lực quản lý nói chung (NLQL3); + “Chất lượng sản phẩm”(CLSP) gồm 3 mục hỏi: Chất lượng sản phẩm so với nhu cầu của khách hàng (CLSP1), chất lượng sản phẩm so với chất lượng sản phẩm ngoại nhập (CLSP2), chất lượng SP so với đối thủ cạnh tranh trong nước(CLSP3); + “Quan hệ liên kết với đối tác”(QHĐT) gồm 4 mục hỏi: Nắm được thông tin về khách hàng (QHĐT1), nắm được thông tin về nhà cung cấp (QHĐT2), có quan hệ liên kết với các doanh nghiệp sản xuất chính nội địa hoặc FDI (QHĐT3), Quan hệ hợp đồng đáng tin cậy (QHĐT4); + “Năng lực khách hàng chủ yếu là doanh nghiệp sản xuất chính” (NLKH) gồm 3 mục hỏi: Khả năng cạnh tranh của khách hàng chủ yếu (NLKH1), uy tín thương hiệu của khách hàng chủ yếu (NLKH2), tính ổn định của khách hàng chủ yếu (NLKH3); + “Dung lượng thị trường và khả năng tiêu thụ sản phẩm” (DLTT) gồm 2 mục hỏi: Dung lượng thị trường (DLTT1), khả năng tiêu thụ sản phẩm (DLT T2). 2.3. Phương pháp nghiên cứu 2.3.1. Chọn mẫu nghiên cứu Mẫu nghiên cứu được chọn thuận tiện với 312 doanh nghiệp trong đó có 70% là công nghiệp hỗ trợ, 30% sản xuất chính. Theo thành phần sở hữu doanh nghiệp có 11,1% nhà nước, 78,9% tư nhân Số 243 tháng 9/2017 84 và 10% FDI. Theo cơ cấu quy mô doanh nghiệp có 12,3% lớn, 35,8% vừa và 51,9% nhỏ. Theo ngành sản xuất của doanh nghiệp có 1,3% Ôtô, 11.5% xe máy, 11,6% xe đạp, 6,2% điện công nghiệp, 14,7% điện gia dụng, 10,5% điện tử, 15,3% cơ khí, 21,4% dệt may, 7,4% da giày. 2.3.2. Thu thập dữ liệu Nghiên cứu kết hợp phỏng vấn sâu một số cán bộ quản lý doanh nghiệp, quản lý nhà nước và chuyên gia trong nghiên cứu sơ bộ để kiểm tra và hoàn thiện mô hình nghiên cứu với khảo sát doanh nghiệp bằng bảng hỏi trong nghiên cứu chính thức tại thời điểm tháng 10-12 năm 2016. Dữ liệu thứ cấp từ các nghiên cứu trước và các bài báo cũng được sử dụng để làm rõ thực trạng công nghiệp hỗ trợ. 2.3.3. Xử lý và phân tích dữ liệu Các bảng hỏi được làm sạch, mã hóa và nhập liệu; sau đó dùng các phần mềm EXCEL, SPSS để phân tích và tổng hợp dữ liệu. Phương pháp thống kê mô tả với giá trị trung bình, tần suất được thực hiện nhằm phản ánh thực trạng công nghiệp hỗ trợ. Phương pháp đánh giá độ tin cậy Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố EFA, kiểm định hệ số tương quan và hồi quy tuyến tính đa biến được thực hiện nhằm kiểm định mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ. 3. Kết quả và thảo luận 3.1. Phân tích đánh giá thực trạng công nghiệp hỗ trợ 3.1.1. Quy mô phát triển của công nghiệp hỗ trợ ở thành phố Hồ Chí Minh còn hạn chế, chỉ mới ở giai đoạn đầu Ngành công nghiệp hỗ trợ của thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được một số kết quả trong phát triển với nhiều tập đoàn lớn của Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc đầu tư sản xuất linh kiện, phụ tùng (IPSA,2010). Đến năm 2013, tỷ lệ nội địa hóa của một số ngành ở mức cao là sản xuất xe máy, điện gia dụng, thùng bể chứa (cơ khí) 70-80%; mức trung bình là điện công nghiệp 32%; điện tử 20%; xe chở khách 20% và mức thấp là xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi 9%; thiết bị nghe nhìn chỉ 6% (Nguyễn Tuấn Tú, 2014). Tổng hợp chung, tỷ lệ linh kiện, phụ kiện sản xuất trong nước mới chỉ đạt 27,8%, thấp hơn nhiều so với Trung Quốc 50% và Thái Lan 60%. Ngành dệt-may vẫn phải nhập khẩu 99% bông, 60% sợi, 70% vải (IPSA, 2010). Kết quả khảo sát cho thấy “tỷ lệ giá trị mua sắm hàng hóa trung gian trong nước” của các nhà sản xuất chính và công nghiệp hỗ trợ đạt 57%; trong đó các nhà sản xuất chính đạt 57,94% và công nghiệp hỗ trợ đạt 51,47% (phải tính cả doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ vì đầu vào của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ cũng là sản phẩm công nghiệp hỗ trợ). Từ đó có thể ước lượng tỷ lệ nội hóa của công nghiệp nói chung là 57,97% x 51,47% = 29,82% (chưa tính giá trị của chi tiết, công đoạn do doanh nghiệp sản xuất chính tự làm). 3.1.2. Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ có tiến bộ nhất định nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu Trình độ công nghệ chỉ ở mức trung bình, tỷ lệ doanh nghiệp tự đánh giá cao không nhiều với: TĐCN1= 3,58 và 40,8%; TĐCN2 = 3,20 và 28,6 %; TĐCN3 = 3,05 và 30,4%. “Công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam thời gian qua rất yếu. Nó thể hiện rất rõ trong câu chuyện của Samsung. Đấy, họ bảo giờ các anh làm đi, tôi sẵn sàng nhập của các anh. Nhưng doanh nghiệp của mình có làm được đâu!” (Ý kiến một chuyên gia kinh tế trong Nguyên Thảo, 2014a) 3.1.3. Chất lượng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ còn nhiều hạn chế Chất lượng lao động của công nghiệp hỗ trợ chỉ ở mức trung bình, nhưng không ổn định, khó tuyển dụng cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật có kỹ năng tốt; tỷ lệ tự đánh giá cao còn hạn chế với: CLLĐ1 =3,20 và 38,7%; CLLĐ2 = 2,82 và 24,5%; CLLĐ3 = 2,90 và 14,2%; CLLĐ4 = 2,89 và 20,4%. “Với tình hình hiện nay, chi phí về nhân công của Việt Nam dần dần không rẻ, không còn là lợi thế nổi trội của ta nữa. Ngoài ra, dựa vào kinh nghiệm và quá trình vận hành trong suốt những năm qua, chúng tôi nhận thấy, kỹ năng thực tế của ngay cả kỹ sư tốt nghiệp trong các trường học kỹ thuật tại Việt Nam còn chưa đáp ứng được yêu cầu” (Ý kiến một giám đốc doanh nghiệp trong Trần Minh, 2014). 3.1.4. Tình hình vay vốn ngân hàng của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ còn nhiều khó khăn nhất là với doanh nghiệp vừa và nhỏ Khả năng vay vốn ngân hàng của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ở mức trung bình; tỷ lệ tự đánh giá cao không nhiều với: VVNH1=2,95 và 30,6%; VVNH2=3,07 và 32,6%; VVNH3= 3,55 và 36,8%. “Vay vốn ngân hàng vô cùng khó, có lúc chúng tôi đã phải vay lãi suất 16,5%/năm. Nhiều ngân hàng Số 243 tháng 9/2017 85 đã đến công ty trực tiếp làm việc, nhưng đều nói không đủ điều kiện để vay” (Ý kiến một giám đốc doanh nghiệp trong Trần Thủy, 2015). 3.1.5. Chất lượng vật tư đầu vào của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ còn thấp so với hàng ngoại nhập Chất lượng vật tư đầu vào của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ chỉ ở mức trung bình, nhưng thường không ổn định và kém hơn vật tư ngoại nhập. Tỷ lệ tự đánh giá tốt rất hạn chế với CLĐV1=3,20 và 32,6%; CLĐV2=3,00 và 22,4%; CLĐV3=2,98 và 20,4%. “Công nghiệp hỗ trợ liên quan đến sản xuất linh kiện phụ tùng đòi hỏi nguyên, vật liệu, nhất là vật liệu mới, đặc biệt thép chế tạo, chất dẻo hầu như chưa có, cho nên chúng ta phải nhập và đương nhiên khi nhập thì giá thành sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ này khó có thể cạnh tranh với những nhà sản xuất nước ngoài” (Ý kiến một cán bộ quản lý nhà nước trong Mạnh Đức, 2015). 3.1.6. Năng lực quản lý của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ có cải thiện dần nhưng còn hạn chế Năng lực quản lý của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ chỉ ở mức trung bình; nhưng còn kém so với doanh nghiệp FDI; tỷ lệ tự đánh giá cao không nhiều với: NLQL1= 3,44 và 32,6%; NLQL2 = 2,50 và 38,7%; NLQL3 = 3,08 và 32,6%. 3.1.7. Chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ có tiến bộ nhất định nhưng chưa đáp ứng yêu cầu Chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ được đánh giá cao so với yêu cầu của khách hàng và trên thị trường trong nước nhưng còn kém hơn so với sản phẩm ngoại nhập với CLSP1 = 4,00 và 73,5%; CLSP2 = 3,39 và 38,8%; CLSP3 = 3,87 và 59,2%. Khả năng cạnh tranh của các sản phầm công nghiệp hỗ trợ kém so với các sản phẩm nhập khẩu, không đáp ứng được yêu cầu chất lượng, chủng loại, mẫu mã và cả số lượng. Các công ty Nhật cho rằng các công ty Việt Nam không đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng sản phẩm công nghiệp hỗ trợ mà phía Nhật đề ra: vật liệu không tốt, độ chính xác không cao, chất lượng không đồng đều (Tạ Việt Dũng, 2014). 3.1.8. Quan hệ liên kết với đối tác là nhà cung cấp và khách hàng của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ chưa chặt chẽ, nhất là với doanh nghiệp FDI Quan hệ với các khách hàng và nhà cung cấp của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ chỉ ở mức trung bình; tỷ lệ tự đánh giá cao còn hạn chế; chỉ có 28,5% có mối quan hệ với doanh nghiệp FDI với: QHĐT1=3,18 và 34,7%; QHĐT2= 3,13 và 38,7%; QHĐT3= 2,78 và 28,5%; QHĐT4=3,11 và 34,7%. Đối với việc chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp Việt Nam, các doanh nghiệp FDI chủ yếu chuyển giao công nghệ gắn với máy móc là chính. Các công ty Nhật cho rằng các công ty Việt Nam không hiểu các yêu cầu của phía Nhật bản, thường tỏ ra thiếu kiên nhẫn trong việc xây dựng mối quan hệ lâu dài (Tạ Việt Dũng, 2014). 3.1.9. Năng lực sản xuất kinh doanh của khách hàng là doanh nghiệp sản xuất chính tương đối tốt Số đông doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đánh giá cao năng lực của khách hàng là doanh nghiệp sản xuất chính với: NLKH1 = 3,49 và 42,9%; NLKH2 = 3,67 và 55,1%; NLKH3 = 3,60 và 47,0%. 3.1.10. Dung lượng thị trường, khả năng tiêu thụ sản phẩm công nghiệp hỗ trợ còn hạn chế chưa đủ quy mô để mang lại hiệu quả kinh tế cho công nghiệp hỗ trợ Theo các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, dung lượng thị trường chưa đủ quy mô cho hiệu quả kinh tế. Tỷ lệ tự đánh giá có thuận lợi trong tiêu thụ sản phẩm không nhiều với: DLTT1=2,83 và 28,5%; DLTT2 = 3.37 và 34,7%. “Các doanh nghiệp sản xuất ô tô Nhật Bản có xu hướng dịch chuyển sang Thái Lan với nhiều lý do. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh lý do dung lượng thị trường Việt Nam thấp. Ví dụ như Thái Lan dung lượng thị trường ô tô là 1,6 triệu xe/năm trong khi đó Việt Nam dung lượng thị trường chỉ 200.000/năm” (Ý kiến một giám đốc doanh nghiệp trong Nguyên Thảo, 2014b). 3.2. Kết quả kiểm định những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển công nghiệp hỗ trợ 3.2.1. Phân tích độ tin cậy của các biến Kết quả phân tích 9 biến độc lập với 28 biến thành phần cho thấy biến “năng lực khách hàng chủ yếu là doanh nghiệp sản xuất chính” (NLKH) và biến “dung lượng thị trường và khả năng tiêu thụ” (DLTT) cùng với 5 biến thành phần bị loại vì có Cronbach Alpha < 0,6 là do biến dung lượng thị trường và khả năng tiêu thụ chỉ có 2 mục hỏi, thêm vào đó có nhiều trả lời cho các biến này chưa tốt, thiếu nhất quán. Còn lại 7 biến độc lập với 23 biến thành phần có Số 243 tháng 9/2017 86 Cronbach Alpha > 0,6 và có hệ số tương quan tổng biến > 0,3 nên có đủ độ tin cậy (Bảng 1). 3.2.2. Phân tích nhân tố Bảy biến độc lập với 23 biến thành phần được đưa vào phân tích nhân tố EFA theo tiêu chuẩn Eigenvalue lớn hơn 1. Kết quả đã có 7 nhân tố được tạo ra với hệ số tải cao nhất 0,820 đến thấp nhất 0,419. Tổng phương sai trích = 81,96% cho biết 7 nhân tố này giải thích được 81,96% biến thiên của dữ liệu. Hệ số KMO = 0.76 (> 0.5), các hệ số tải đều lớn hơn 0,4 cho thấy các biến nhân tố có độ giá trị đạt yêu cầu cho bước phân tích tiếp theo. 3.2.3. Kiểm định tương quan giữa các biến 12 Bảng 1: Cronbach Alpha của các biến và thang đo Mã biến Trung bình thước Phương sai thước Tương quan Cronbach Alpha đo nếu loại biến đo nếu loại biến biến tổng nếu loại biến TĐCN Trình độ công nghệ N = 218 Cronbach Alpha = 0,679 TĐCN1 11,12 5,343 0,712 0,610 TĐCN2 10,75 5,833 0,670 0,641 TĐCN3 10,27 6,204 0,575 0,653 CLLĐ Chất lượng lao động N = 218 Cronbach Alpha = 0,688 CLLĐ1 8,36 5,455 0,457 0,634 CLLĐ2 8,69 6,073 0,377 0,634 CLLĐ3 8,57 5,050 0,592 0,638 CLLĐ4 8,88 6,205 0,475 0,625 VVNH Vay vốn ngân hàng N=216 Cronbach Alpha = 0,649 VVNH1 6,61 3,044 0,440 0,636 VVNH2 6,56 5,140 0,366 0,648 VVNH3 6,06 4,540 0,397 0,603 CLĐV Chất lượng vật tư đầu vào N = 215 Cronbach Alpha = 0,737 CLĐV1 6,00 2,634 0,441 0,729 CLĐV2 6,19 1,768 0,565 0,674 CLĐV3 6,24 2,039 0,727 0,668 NLQL Năng lực quản lý N = 218 Cronbach Alpha = 0,690 NLQL1 5,43 2,697 0,680 0,611 NLQL2 6,41 2,248 0,616 0,641 NLQL3 5,95 3,164 0,388 0,669 CLSP Chất lượng sản phẩm N=214 Cronbach Alpha = 0,747 CLSP1 7,33 2,423 0,607 0,655 CLSP2 7,86 1,979 0,492 0,733 CLSP3 7,43 1,861 0,667 0,648 QHĐT Quan hệ liên kết với đối tác N=218 Cronbach Alpha = 0,729 QHĐT1 9,19 6,701 0,543 0,665 QHĐT2 9,27 6,614 0,484 0,689 QHĐT3 9,62 5,797 0,473 0,704 QHĐT4 9,20 5,961 0,607 0,615 Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu của tác giả Số 243 tháng 9/2017 87 Phân tích tương quan được thực hiện để kiểm tra liên hệ giữa những các biến thông qua hệ số tương quan Pearson. Kết quả cho thấy hệ số tương quan giữa biến “chất lượng vật tư đầu vào” với biến phụ thuộc không có ý nghĩa thống kê do chủng loại các vật tư đầu vào của doanh nghiệp rất nhiều nên việc đánh giá khó chính xác và sẽ loại bỏ, không đưa biến này vào mô hình hồi quy ở bước tiếp theo. Các cặp biến còn lại có 0 < r < 0,8 chứng tỏ không có hiện tượng đa cộng tuyến và quan hệ giữa các biến có chiều dương như kỳ vọng. Gía trị p-value ở trong khoảng <0,05,<0,01 chứng tỏ mối quan hệ giữa các biến đều có ý nghĩa thống kê và có thể sử dụng các biến để kiểm định hồi quy. 3.2.4. Kiểm định mô hình hồi quy Mô hình hồi quy điều chỉnh được kiểm định với biến phụ thuộc là “tỷ lệ mua sắm hàng hóa trung gian trong nước” (MSTN) và 6 biến độc lập bằng phương pháp Enter. Các biến được đưa vào cùng một lúc để chọn những biến có mức ý nghĩa <0.05. Kết quả phân tích hồi quy như ở (Bảng 2). Kết quả các biến độc lập trong mô hình đều có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa từ 0,05 đến 0,01. Hệ số R2 hiệu chỉnh bằng 0,865 cho thấy 6 biến giải thích 86,5% biến thiên tỷ lệ mua sắm hàng hóa trung gian trong nước. Các giá trị VIF < 2 nên không có đa cộng tuyến. Hệ số β của các biến đều dương phù hợp với kỳ vọng (Bảng 2). Mô hình hồi quy ước lượng tỷ lệ mua sắm hàng hóa trung gian trong nước phản ánh sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ với các biến độc lập theo hệ số β tiêu chuẩn hóa như sau: MSTN i = 26,772 + 0,579 TĐCN i + 0,463 CLSP i + 0,367 QHĐT i + 0,258 VVNH i + 0,227 NLQL i + 0,138 CLLĐ i + ε i Tầm quan trọng của các biến xếp theo thứ tự (1) Trình độ công nghệ (TĐCN); (2) Chất lượng sản phẩm (CLSP); (3) Quan hệ với đối tác (QHĐT); (4) Khả năng vay vốn ngân hàng (VVNH); (5) Năng lực quản lý (NLQL) và (6) Chất lượng lao động (CLLĐ) Kết quả ước lượng như trên là phù hợp với các nghiên cứu định lượng của Phan Văn Hùng (2014) và Luu Tien Dung &Nguyen Minh Quan (2014) và các nghiên cứu định tính của Mori, (2005); Ohno (2007); (IPSA,2010), qua đó cho phép giải thích lý do vì sao công nghiệp hỗ trợ ở nước ta chưa phát triển mạnh 4. Một số khuyến nghị chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ - Về nâng cao trình độ công nghệ của công nghiệp hỗ trợ, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ kinh phí để doanh nghiệp mua bản quyền công nghệ phục vụ sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ; thành lập các trung tâm phát triển chuyên sâu về công nghiệp hỗ trợ, giúp tư vấn kỹ thuật cần thiết cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ; có chính sách gắn ưu đãi cho các doanh nghiệp FDI với cam kết chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam. - Về kết nối công nghiệp hỗ trợ nội địa với FDI, Nhà nước cần có chính sách gắn ưu đãi cho FDI với cam kết tỷ lệ nội địa hóa hoặc tỷ lệ mua sắm hàng hóa trung gian trong nước. Các tổ chức khuyến 13 Bảng 2: Kết quả ước lượng các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ lệ mua sắm hàng hóa trung gian trong nước phản ánh quy mô phát triển công nghiệp hỗ trợ Mã biến Tên biến Hệ số β Hệ số β chuẩn hóa VIF (Hằng số) 26,772*** TĐCN Trình độ công nghệ 17,460** 0,579 1,009 CLSP Chất lượng sản phẩm 16,427 *** 0,463 1,001 QHĐT Quan hệ với đối tác 08,141** 0,367 1,193 VVNH Khả năng vốn ngân hàng 07,142** 0,258 1,241 NLQL Năng lực quản lý 12,521** 0,227 1,001 CLLĐ Chất lượng lao động 05,183** 0,138 1,001 Ghi chú: Biến phụ thuộc: Tỷ lệ % mua sắm hàng hóa trung gian trong nước, R2=0,832; R2hiệu chỉnh = 0,865; Mức ý nghĩa của mô hình = 0 ,000; các giá trị p-value *<0,1;**<0,05;***<0,01 Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu khảo sát của tác giả. Kết quả các biến độc lập trong mô hình đều có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa từ 0,05 đến 0,01. Hệ số R2 hiệu chỉnh bằng 0,865 cho thấy 6 biến giải thích 86,5% biến thiên tỷ lệ mua sắm hàng hóa trung gian trong nước. Các giá trị VIF < 2 nên không có đa cộng tuyến. Hệ số β của các biến đều dương phù hợp với kỳ vọng (bảng 2). Mô hình hồi quy ước lượng tỷ lệ mua sắm hàng hóa trung gian trong nước phản ánh sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ với các biến độc lập t eo hệ số β tiêu chuẩn hóa như sau: MSTNi=26,772 + 0,579 TĐCNi + 0,463 CLSPi + 0,367 QHĐTi + 0,258 VVNHi + 0,227 NLQLi + + 0,138 CLLĐi + εi Tầm quan trọng của các biến xếp theo thứ tự (1) Trình độ công nghệ (TĐCN); (2) Chất lượng sản phẩm (CLSP); (3) Quan hệ ới đối tác (QHĐT); (4) Khả năng vay vốn ngân hàng (VVNH); (5) Năng lực quản lý (NLQL) và (6) Chất lượng lao động (CLLĐ) Kết quả ước lượng như trên là phù hợp với các nghiên cứu định lượng của Phan Văn Hùng (2014) và Luu Tien Dung &Nguyen Minh Quan (2014) và các nghiên cứu định tính của Mori, (2005); Ohno (2007); (IPSA,2010), qua đó cho phép giải thích lý do vì sao công nghiệp hỗ trợ ở nước ta chưa phát triển mạnh 4. Một số khuyến nghị chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ - Về nâng cao trình độ công nghệ của công nghiệp hỗ trợ, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ kinh phí để doanh nghiệp mua bản quyền côngnghệ phục vụ sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ; thành lập các trung tâm phát triển chuyên sâu về công nghiệp hỗ trợ, giúp tư vấn kỹ thuật cần thiết cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ; có chính sách gắn ưu đãi cho các doanh nghiệp FDI với cam kết chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam. Số 243 tháng 9/2017 88 công và Hiệp hội ngành nghề cần vươn lên làm đầu mối liên kết cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ; thường xuyên tổ chức các hội chợ công nghệ, triển lãm, hội thảo về công nghiệp hỗ trợ. Xây dựng cơ sở dữ liệu và website về danh mục các doanh nghiệp và sản phẩm công nghiệp hỗ trợ để kết nối thông tin. - Về phát triển nguồn nhân lực, ngoài việc nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học, cao đẳng, trung học và dạy nghề, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp FDI đầu tư cho nguồn nhân lực; hợp tác với các đối tác nước ngoài trong một số chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hỗ trợ. - Về vốn kinh doanh, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ nguồn vốn ưu đãi dành cho công nghiệp hỗ trợ, giảm 50% lãi suất và đầu tư hình thành một số khu, cụm công nghiệp hỗ trợ ở một số lĩnh vực chủ yếu; hỗ trợ tài chính cho công nghiệp hỗ trợ từ quỹ khuyến công, quỹ phát triển khoa học - công nghệ. Tài liệu tham khảo Chính phủ Việt Nam (2015), Nghị định Số: 111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ, ban hành ngày 03 tháng 11 năm 2015. Hà Thị Hương Lan (2014), Công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam, LATS, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Hoàng Văn Châu (2010), Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam đến năm 2020, đề tài khoa học công nghệ cấp nhà nước, Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội. Ichikawa, Kyoshiro (2005), Building and Strengthening Supporting Industries in Vietnam: A Survey Report, Senior Investment Advisor JETRO, Hanoi. Luu Tien Dung & Nguyen Minh Quan (2014) ‘Analyzing factors affecting the development of supporting industries in Vietnam: Evidence from Dong Nai province’, Conference: 12th IFEAMA 2014, At National Economics University, Hanoi, Vietnam, Volume: 1. Mori, J. (2005), ‘Development of suporting industries for Vietnam’s industriallization increasing positive vertical externalities through collaborative training’, Master of Arts in Law and Diplomacy Thesis Submitted, The Fletcher School, Tufts University. Mạnh Đức (2015), Tạo động lực cho công nghiệp hỗ trợ phát triển, truy cập lần cuối ngày 2 tháng 9 năm 2016, từ < >. Nguyễn Văn Sáng (2015), ‘Phát triển công nghiệp phụ trợ ở thành phố Hồ Chí Minh’, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, 221, 44-52. Nguyen Thi Xuan Thuy (2006), ‘Supporting Industries: A Review of Concepts and Development’ in Buiding supporting industries in Vietnam vol 1, Ohno, K. (ed),The Vietnam Development Forum (VDF), Hanoi, Vietnam. Nguyễn Tuấn Tú (2014), Xác định ưu tiên cụm ngành công nghiệp hỗ trợ, truy cập lần cuối ngày 25 tháng 4 năm 2016 từ < den-nam-2015-tam-nhin-2025-xac-dinh-uu-tien-cum-nganh-cong-nghiep-ho-tro-2344035/>. Nguyên Thảo (2014a), Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Việt Nam nên chọn ngành nào?, truy cập lần cuối ngày 22 tháng 6 năm 2016, từ < trien-tphcm-den-nam-2015-tam-nhin-2025-xac-dinh-uu-tien-cum-nganh-cong-nghiep-ho-tro-2344035/>. Nguyên Thảo (2014b), ‘Công nghiệp ô tô: Vì sao doanh nghiệp FDI rút lui?’, Caféf, truy cập lần cuối ngày 23 tháng 3 năm 2016, từ < lui-2014121015552890013.chn>. Ohno, K. (2007), Building supporting industries in Vietnam (Vol. 1), Vietnam Development Forum, Tokyo. Porter, M.E. (1990), ‘The Competitive Advantage of Nations’, Harvard Business Review, 68(2), 73–93. Phạm Hồng Chương (2011), ‘Nghiên cứu chính sách công nghiệp hiện nay của Nhật Bản và một số đề xuất đối với phát triển công nghiệp Việt Nam’, Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. Số 243 tháng 9/2017 89 Phan Văn Hùng(2014), ‘Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành xây dựng dân dụng ở Việt Nam’, Luận án tiến sĩ, Trường đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội. Tạ Việt Dũng (2014), ‘Đánh giá về thực trạng và khả năng phát triển công nghiệp phụ trợ của doanh nghiệp nghiệp Việt Nam trong một số lĩnh vực hiện nay’, Hội đồng chính sách khoa học quốc gia, truy cập lần cuối ngày 25 tháng 4 năm 2015, từ < cua-doanh-nghiep-viet-nam-trong-mot-so-linh-vuc-hien-nay/>. Trần Minh (2014), ‘Hướng đi nào cho ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam?’, 4P Company, truy cập lần cuối ngày 23 tháng 8 năm 2015, từ < &e=newsdetail&c=11&n=40&p=>. Trần Thủy (2015), ‘Vào chuỗi toàn cầu: 20 năm 2 doanh nghiệp Việt đạt chuẩn’, Vietnamnet, truy cập lần cuối ngày 12 tháng 07năm 2016 từ < chuan.html>. Thuy, N.T.X. (2007), ‘Supporting industries: A review of concepts and development’, in Supporting industries in Vietnam, Ohno, K. (ed.), Vietnam Development Forum, Hanoi. Tuan, Nham Phong & Mai, Nguyen Thi Tuyet (2012), ‘A Firm Analysis Level of Supporting Industries in Hanoi City- Vietnam: Application of Resource-based View and Industrial Organization’, International Journal of Business and Management, 7(5) 53-72. Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách công nghiệp - IPSA (2010), Quy hoạch phát triển công nghiệp phụ trợ TP Hồ Chí Minh đến năm 2015,tầm nhìn đến năm 2025, Sở Công thương Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. Võ Thanh Thư & Nguyễn Ðông Phong (2014), ‘Phát triển công nghiệp phụ trợ của các ngành công nghiệp chủ lực Việt Nam’, Phát triển và hội nhập, 18(28), 15-19.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhung_nhan_to_anh_huong_den_su_phat_trien_cong_nghiep_ho_tro.pdf