Niên luận Cảm hứng yêu nước trong bài Bên kia sông đuống của Hoàng Cầm

Qua bài thơ “bên kia sông đuống” mỗi người đọc việt nam đều thêm yêu quê hương,thêm gắn bó với mảnh đất mà cha ông đã xây dựng , bồi đắp bao đời.Thêm tự hào về những giá trị văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc,thêm cảm mếm những người đã đi qua cuộc kháng chiến chống pháp trường kì đầy gian khổ, hi sinh và làm nên chiến thắng. và cũng đã ghi nhận dòng tình cảm mãnh liệt chân thành trong sáng mà Hoàng Cầm dành cho quê hương mình. Bài thơ viết về vùng Kinh Bắc nhưng sức lan toả dư ba của nó lan rộng động tới tình yêu quê hương của tất cả con người Việt Nam

doc13 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2837 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Niên luận Cảm hứng yêu nước trong bài Bên kia sông đuống của Hoàng Cầm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 2 Những biểu hiện yêu nước trong bài “bên kia sông đuống” của Hoàng Cầm 1. Tinh thần yêu nước thông qua truyền thống dân tộc : Tinh thần yêu nước là giá trị cơ bản trong hệ giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam ta. Và theo Giáo sư Trần Văn Giàu :“tình cảm và tư tưởng yêu nước là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, của dân tộc Việt Nam" và “chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Ở đây, bản chất Việt Nam biểu độ đầy đủ và tập trung nhất, hơn bất cứ chỗ nào khác. Yêu nước trở thành một triết lý xã hội và nhân sinh của người Việt Nam.” Yêu nước là tình cảm và tư tưởng phổ biến, vốn có ở tất cả các dân tộc trên thế giới chứ không riêng gì của dân tộc Việt Nam. Song, tư tưởng ấy được hình thành sớm hay muộn, đậm hay nhạt, nội dung cụ thể, hình thức và mức độ biểu hiện cũng như chiều hướng phát triển của nó lại tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử đặc thù của từng dân tộc. Đối với dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước không chỉ là một tình cảm tự nhiên, mà nó còn là sản phẩm của lịch sử được vung đắp từ chính lịch sử đau thương mà hào hùng của dân tộc Việt Nam. Lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc Việt Nam là lịch sử tranh giành lại và bảo vệ nền độc lập từ tay kẻ thù xâm lược (thời gian chống giặc ngoại xâm cộng lại lên tới trên 12 thế kỷ!) Chính vì vậy mà tinh thần yêu nước đã ngấm sâu vào tình cảm, vào tư tưởng của mỗi người dân Việt Nam qua tất cả các thời đại, làm nên một sức mạnh kỳ diệu, giúp cho dân tộc ta đánh thắng hết kẻ thù này đến kẻ thù khác cho dù chúng có hùng mạnh đến đâu. Với “bên kia sông đuống” của Hoàng Cầm như một trang sử ghi lai truyền thống của dân tộc ta. Những dòng hoài niệm về quê hương thân yêu Hoàng Cầm đã đưa người đọc về miền quê Kinh Bắc có bề dày lịch sử: có mộ Kinh Dương Vương, nơi Hai Bà Trưng dấy binh khởi nghĩa, Lý Thường Kiệt đuổi quân Tống trên sông Cầu. Còn là miền đất cổ kính có bề dày văn hoá qua các triều đại Lý, Trần, Lê. Là đất học mà câu đồng dao đã khắc ghi: Một bồ ông cống Một đống ông nghè Một bè tiến sĩ Một bị trạng nguyên Một thuyền bảng nhãn. Kinh Bắc còn gắn với những hội hè đình đám vào mùa xuân. Theo tương truyền, truyện Tấm Cám được truyền miệng từ vùng đất này đã ghi lại cảnh vui tươi của ngày lễ hội mùa xuân. Hội hè mang đến niềm háo hức, vui tươi bởi mùa màng tốt tươi, bởi trai thanh gái lịch được gặp gỡ, giao duyên, hẹn hò với nhau qua điệu hò dân ca của liền anh, liền chị. Người con gái quan họ đã không là một đêm hội rồi tan, một canh rồi lặn, mà nó đọng lại trong triệu triệu hồn người. Phải chăng đó là hạt cát được cấy vào lòng con trai đáy biển để rồi trở thành viên ngọc trai lấp lánh bảy sắc cầu vòng. Những làn điệu dân ca Ngồi tựa mạn thuyền, Đến hẹn lại lên, Bèo dạt mây trôi đã làm say lòng người. Lễ hội là các trò vui chơi hết sức phong phú như đánh đu, thổi cơm, đấu vật... Phần lớn các trò chơi đều xuất phát từ ước vọng thiêng liêng của người lao động: cầu mưa, cầu phồn thực, sức khoẻ. Có những lễ hội đã đi vào câu ca: Mồng Bảy hội Khán Mồng Tám hội Dâu Mồng Chín đâu đâu cũng nhớ về hội Gióng. Bản thân là một người con của đất nước Việt Nam,là một hạt mầm được sinh ra từ miền quê kinh bắc. Hoàng Cầm đã kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước của thế hệ đi trước,bằng chứng là ông tham gia đánh giặc trong cuộc kháng chiến chống pháp của dân tộc. Hơn thế thông qua bài thơ “bên kia sông đuống” ông đã cho chúng ta thấy lòng yêu nước sâu sắc. Mở ra tác phẩm là một tiếng gọi cất lên từ sâu thẳm trái tim đau đớn của nhà thơ, đồng thời cũng là một lời an ủi : Em ơi buồn làm chi Anh đưa em về sông Đuống Ngày xưa cát trắng phẳng lì “Em” ở đây là một nhân vật phiếm chỉ . Tuy nhiên, có phần chắc chắn đó là một cô gái cùng quê bên kia sông Đuống với nhà thơ. Trong thơ Hoàng Cầm ta thường gặp một nhân vật em như vậy, bởi đó là cái cớ để nhà thơ bộc lộ xúc cảm của mình một cách chân thành nhất . Và lời an ủi đưa em về sông Đuống thực chất chỉ diến ra trong hoài niệm của nhà thơ . Trong niềm hoài niệm đó, hình ảnh trung tâm là con sông quê hương với bờ cát trắng phẳng lì chảy từ quá khứ xa xôi về hiện tại , hiện lên trong tâm trí nhà thơ như một dòng sáng lấp lánh và trù phú hai bên bờ những mầu xanh bạt ngàn của những bãi mía , nương dâu : Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì Từ những dòng thơ đầu Anh đưa em về sông Đuống, hình ảnh sông Đuống nổi bật lên trong không gian tâm tưởng. Con sông quê hương với bờ cát trắng phẳng lì từ quá khứ xa xưa chảy về hiện tại là một dòng sông trữ tình, lấp lánh lung linh, sống động, êm đềm, thơ mộng. Nhìn xa có dáng nghiêng nghiêng. Dáng nằm nghiêng nghiêng của dòng sông Đuống là một phát hiện, một sáng tạo độc đáo của Hoàng Cầm. Cảm xúc mãnh liệt cùng trí tưởng tượng phong phú đã giúp nhà thơ sáng tạo ra một hình ảnh thơ độc đáo đầy ấn tượng, làm xáo trộn cả không gian và thời gian, ám ảnh hoài tâm trí người đọc. Từ bên này, nhà thơ đau đáo hướng cặp mắt về bên kia sông Đuống . Đoạn thơ kết thúc bằng một hình ảnh diến tả nỗi đau “Sao xót xa như rụng bàn tay”. .Hoàng Cầm đã mượn nỗi đau của thể xác để diễn tả, thể hiện một cách một cách cụ thể nỗi đau về tinh thần . Những người coi quê hương là máu thịt của mình mới có tình cảm mãnh liệt đến như vậy . Có thể nói, tâm trạng ở đây đã đạt đến độ điển hình. Cảm hứng chủ đạo trong đoạn thơ là nỗi đau, sự nuối tiếc, xót xa , căm giận trước cảnh tượng quê hương thanh bình, đông vui, tươi đẹp bị giặc chiếm đóng . Từ cảm xúc về nỗi đau đó, quê hương Kinh Bắc dần dần hiện lên trong kí ức nhà thơ. 2. Tinh thần yêu nước thông qua nỗi nhớ quê hương: Nhà thơ ngược dòng thời gian về với ký ức để sống lại ngày xưa với bên kia sông Đuống một thuở bình yên. Vậy là một thế giới Kinh Bắc dường như hiện ra sắc nét trong hoài niệm của ông. Thế giới ấy có truyền thống văn hoá lâu đời mang vẻ đẹp cổ kính được thể hiện đậm nét trước hết ở nền nghệ thuật dân gian với tranh làng Hồ đậm sắc màu dân tộc. Cảm xúc ở đây có vẻ phức tạp hơn, nó được thể hiện trên một trục thời gian quá khứ và hiện tại, tình yêu hoà trộn với nỗi đau soi chiếu vào nhau. Mỗi khổ thơ  được mở đầu bằng hình ảnh gợi cuộc sống thanh bình tươi đẹp, dòng cảm xúc cuồn cuộn chảy nhưng kết thúc đột ngột bằng một câu hỏi nghẹn ngào tiếc thương ngơ ngẩn. Vùng quê Kinh Bắc, trong hoài niệm, được gợi lên bởi hương lúa nếp thơm nồng - biểu tượng của cuộc sống ấm no , và tranh Đông Hồ - biểu tượng của đời sống tinh thần lành mạnh. Sự am hiểu cái đẹp và tinh tuý của hồn văn hoá dân gian đã giúp Hoàng Cầm chỉ bằng một vài nét mà đã lột tả được cái độc đáo đặc sắc của dòng tranh làng Hồ. Bên kia sông Đuống Quê hương ta lúa nếp thơm nồng Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp Quê hương ta từ ngày khủng khiếp Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn Những bức tranh dân gian với đề tài bình dị, thân thuộc không thể thiếu được vào dịp tết đến xuân về. Tranh lợn gà, đánh đu, hứng dừa, đám cưới chuột, tranh Bà Trưng cưỡi voi ra trận, Phù Đổng thiên vương… Những bức tranh ấy sáng bừng trên giấy điệp- trên nền giấy dó láng một lớp điệp mỏng làm nền, được chắt luyện từ vỏ sò tạo nên nhiều màu sắc lóng lánh, tươi vui, rực rỡ. Tất cả làm sáng bừng lên một hồn quê, tình quê. Đó là bức quốc hoạ của dân tộc, là ước mơ về cuộc sống hạnh phúc thanh bình không chỉ của người dân Kinh Bắc mà còn là của dân tộc. Ba câu thơ, ba tính từ Hoàng Cầm mở  căng giác quan đón nhận quê hương: thơm nồng (khứu giác), tươi trong (thị giác), sáng bừng (cảm giác) hình ảnh sáng bừng trở thành điểm sáng lung linh nhất nó đưa màu tranh Kinh bắc hoà nhập thành" màu dân tộc". Hoàng Cầm đã thể hiện được cái thần thái, cái linh hồn của dòng tranh và cũng là vẻ đẹp độc đáo của quê hương. Vẻ đẹp quê hương bừng sáng lên rồi bị ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Nhà thơ miêu tả thật xúc động những cảnh tan tác chia lìa của quê hương khi quân giặc tới : ngùn ngụt lửa hung tàn, ruộng khô, nhà cháy, con người chia li, cả loài vật cũng thành ra tan tác : Ruộng ta khô Nhà ta cháy Chó ngộ một đàn Lưỡi dài lê sắc máu Tất cả đã mất đi từ cái ngày khủng khiếp ấy, thay vào đó là ngọn lửa hung tàn, là những chiếc giày đinh đang nghiền nát đất mẹ yêu thương. “Bây giờ tan tác về đâu?” Câu hỏi tưởng chừng như hụt hẫng nhưng đó chính là lời buộc tội đanh thép và cũng là là sự bộc lộ thái độ căm giận bọn giặc ngoại xâm của nhà thơ. Mẹ con đàn lợn âm dương Chia lìa đôi ngả Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã Bây giờ tan tác về đâu Ở đây cái ảo và cái thực hoà nhập vào nhau khó lòng tách bạch riêng biệt. Mượn hình ảnh trong tranh để diễn tả cánh tượng thật ngoài đời, thi sỹ đã lay động được tình cảm của những con người gắn bó máu thịt với truyền thống văn hoá nghìn đời vùng Kinh Bắc.  Bốn câu thơ như được viết ra trong trạng thái mơ tỉnh lẫn lộn. Bức tranh Đông Hồ hiện cùng bức tranh đời. Cái độc đáo của câu thơ là ở chỗ thi sỹ vừa tái hiện nỗi đau quê hương bị tàn phá vừa nói được nỗi đau nền văn hoá dân tộc bị dày xéo chà đạp. Đoạn thơ khép lại trong một tâm trạng đầy hoang mang đầy cảm xúc thơ tới chót đỉnh của sự tê tái. Thuận Thành, Kinh Bắc có núi sông mĩ lệ, chùa chiền thắng cảnh với bao lễ hội tưng bừng mang theo bao huyền thoại, sự tích thần kỳ, với những gác chuông, những tháp, những tượng Phật cổ kính bao đời nay. Chùa Phật Tích, núi Thiên Thai, chùa Dâu, chùa Bút Tháp, tượng Phật Quan Âm nghìn mắt nghìn tay. Trong chiến tranh, đưa con ly hương nhớ tiếc, xót xa quê hương: Ai về bên kia sông Đuống Cho ta gửi tấm the đen Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên Những hội hè đình đám Trên núi Thiên Thai Trong chùa Bút Tháp Giữa huyện Lang Tài Gửi về may áo cho ai Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu Những con người mang một phần linh hồn của quê hương xứ sở ấy giờ đây trở nên bơ vơ, tan tác. Cũng không còn nữa những hội hè đông vui, nhôn nhịp. Chỉ còn tiếng chuông chùa văng vẳng từ thuở bình yên xa xưa vọng về càng làm tăng thêm sự hoang vắng của quê hương như tiếng thở than nuối tiếc một thời yên ấm. Những đền chùa cổ kính, những hội hè đình đám thể hiện khát vọng một cuộc sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân. Vậy mà giấc mộng bình yên mấy trăm năm ấy giờ đây tan vỡ. Trong lòng người dân Việt Nam càng dậy lên một nỗi căm hờn, vì bọn giặc mà cảnh sống thanh bình đã tan biến, bao nhiêu giá trị văn hoá, truyền thống dân tộc bị xé tan bởi bom đạn chiến tranh. Thay vào đó là những chuỗi ngày gian nan sống trong rừng để hoạt động cách mạng.  Đậm nét trong nỗi nhớ về Kinh Bắc, xứ sở của ngàn năm văn vật là con người ở vùng quê này. Chỉ mấy câu thơ thôi mà Hoàng Cầm gợi được cái hồn cốt của con người nơi đây. Vẻ đẹp của con người Kinh Bắc vừa thực, thân quen vừa như tự xa xưa. Những môi cắn chỉ, làm nên cái duyên mặn mà, nồng nàn, gợi cảm trên đôi môi của thiếu nữ đang độ xuân thì. Hình ảnh cụ già phơ phơ tóc trắng mang một vẻ đẹp như những ông tiên, ông bụt đi ra từ những câu chuyện cổ tích. Mà ở đó chứa đựng bao ước mơ khát vọng đời đời của người lao động. Những em sột soạt quần nâu gợi tả niềm vui, niềm háo hức của trẻ thơ được mặc những bộ quần áo mới còn nguyên cái màu hồ của người thợ nhuộm để đến với hội hè đình đám. Những nàng môi cắn chỉ quết trầu Những cụ già phơ phơ tóc trắng Những em sột soạt quần nâu Bây giờ đi đâu về đâu Vùng quê Kinh Bắc còn được gợi lên bằng cảnh lao động nhộn nhịp, buôn bán đông vui, sầm uất . Trong tâm trí nhà thơ, hình ảnh những cô gái Kinh Bắc dăng tơ dệt lụa, buôn bán tảo tần hiện lên với những nét xinh tươi, dịu dàng, duyên dáng và biết bao tình tứ . Ai về bên kia sông Đuống Có nhớ từng khuôn mặt búp sen Những cô hàng xén răng đen Cười như mùa thu tỏa nắng Chợ Hồ chợ Sủi người đua chen Bãi Tràm Chỉ người dăng tơ nghẽn lối Những nàng dệt sợi Đi bán lụa màu Những người thợ nhuộm Đồng Tỉnh, Huê Cầu Bây giờ đi đâu…về đâu… Đó còn là những người dân làng Hồ với những người dăng tơ, những nàng dệt sợi…gắn liền với sinh hoạt nhộn nhịp, họp chợ đông vui, lễ hội tưng bừng. Hiện lên lung linh trong nỗi nhớ ấy là cô gái Kinh Bắc đẹp như mộng như mơ nhưng cũng rất chân thực, rất duyên dáng, rất tình tứ. Những cô gái làng quan họ thường chít khăn mỏ quạ, tạo cho khuôn mặt hình búp sen. Khuôn mặt của cô hàng xén răng đen gợi vẻ tươi hồng, thơm mát như búp sen mới nở ban mai còn động sương tinh khiết. Ẩn hiện trong khuôn mặt kín đáo, duyên dáng ấy là hàm răng đen khi nở nụ cười thì tưởng đâu như mùa thu toả nắng, vừa thực vừa hư. Chỉ cảm qua thơ đã thấy nao lòng. Đó là một cách nhìn, cách cảm rất riêng của Hoàng Cầm càng làm lung linh thêm vẻ đẹp thế giới Kinh Bắc. Đó là những con người tình tứ duyên dáng trong giao duyên, hay lam hay làm, một nắng hai sương trong lao động. Quê hương Kinh Bắc có nghề trồng dâu nuôi tằm và dệt vải. Bà ỷ Lan tài ba là cô gái vùng đất nổi tiếng dệt vải quay tơ này. Những chiếc áo tứ thân, tao thắt lưng bền màu đẹp sắc màu đã để lại nỗi tương tư về người Kinh Bắc, xứ Kinh Bắc. Nhưng giờ đây cũng tan tác chia lìa , không biết đi đâu ,về đâu.Càng nhớ tác giả càng đau vì cảnh vật ngày xưa giờ chỉ còn là nổi nhớ mà thôi. Bên kia sông Đuống Ta có đàn con thơ Ngày tranh nhau một bát cháo ngô Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn Lấy mẹt quây tròn Tưởng làm tổ ấm Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm Ú ớ cơn mê Thon thót giật mình Bóng giặc dày vò những nét môi xinh Trong niềm tiếc thương không nguôi những người, những cảnh vật của quê hương, Hoàng Cầm đã dành tình cảm sau nặng nhất cho người mẹ già và em nhỏ . Người mẹ già nua, còm cõi vốn đã vất vả trong thời bình lại càng khốn khổ hơn khi quân giặc tới . Kinh Bắc vốn là đất lành giờ đây bỗng hóa thành đất dữ . Chẳng những con người không sống được yên ổn mà cả những cánh cò cũng táo tác, hốt hoảng không chốn nương thân. Có con cò trắng bay vùn vụt Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu Mẹ ta lòng đói dạ sầu Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ Hình ảnh cánh cò lồng vào hình ảnh người mẹ, nhưng không phải là cánh cò bay lả bay la của thời bình nữa mà là cánh cò hốt hoảng chạy trốn đạn bom, soi bóng trên lưng người mẹ run rẩy, bước thấp bước cao trên đường trơn mưa lạnh .  Lòng căm giận đã bùng lên đến đỉnh điểm của sự dữ dội lời thơ thét lên phẫn nộ : Đã có đất này chép tội Chúng ta không biết nguôi hờn. Những câu thơ xót đau tê tái đã trở thành lực nén cho tiếng sét trả hận cho đoạn thơ tiếp nối. Đó là hình ảnh quê hương quật khởi. Giọng thơ từ nhớ tiếc xót thương chuyển sang phẫn uất căm thù. Nhân vật trữ tình không còn là nhân vật hoài niệm mà là nhân vật hành động. 3. Tinh thần yêu nước thông qua niềm tin chiến thắng Từ tình yêu quê hương và lòng căm thù giặc sâu sắc Hoàng Cầm đã thể hiện được ý chí chiến đấu giải phóng quê hương. Lời thơ vang lên thật hào hùng với những hình ảnh mạnh mẽ, quyết liệt của cuộc chiến tranh toàn dân. Cảnh đón bộ đội về làng rất cảm động. Cuộc hội ngộ tình quân dân cũng là sự hồi sinh và niềm vui hạnh phúc: Bộ đội bên sông đã trở về Con bắt đầu xuất kích Trại giặc bắt đầu run trong sương Dao loé giữa chợ Gậy lùa cuối thôn Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn Ăn không ngon Ngủ không yên Đứng không vững Chúng mày phát điên Quay cuồng như xéo trên đống lửa Mà cánh đồng ta còn chan chứa Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân Gió đưa tiếng hát về gần Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa. Ý chí chiến đấu phát triển mạnh mẽ nhất và ước mơ ngày mai không còn bóng giặc,một mùa xuân thanh bình lại trở về với những hội hè tưng bừng như ngày xưa một vùng kinh bắc bên kia sông đuống Niềm hy vọng đã sáng rực lên đối với Hoàng cầm nói riêng và với nhân dân Việt Nam nói chung.Bằng sự đan xen của những hình ảnh Kinh Bắc trong quá khứ và hiện tại, bài thơ đã tái hiện một vùng quê Kinh Bắc với những gì đẹp nhất. Đó cũng là những hình ảnh tiêu biểu cho mọi làng quê Việt Nam. Một khung cảnh mùa xuân tràn trề niềm vui và ánh sáng lại trở về với vùng quê Kinh Bắc . Bài thơ không chỉ thể hiện tình yêu quê hương tha thiết của Hoàng Cầm mà còn gợi trong lòng tất cả người đọc tình yêu quê hương đất nước mình.Bài thơ kết lại bằng những câu thơ thật ý nghĩa: Bao giờ về bên kia sông Đuống Anh lại tìm em Em mặc yếm thắm Em thắt lụa hồng Em đi trảy hội non sông Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh. Hình ảnh “em” đã trở lại trong không khí tưng bừng của ngày hội . Đó cũng là ước mơ của Hoàng Cầm về cuộc sống thanh bình trở lại quê hương mình.  Hoàng Cầm viết bài thơ “Bên kia sông Đuống” vào năm 1948, lúc bấy giờ quê hương đất nước ta còn đầy bóng giặc, chân trời thắng lợi còn xa vời. Phải gần 7 năm sau, ta mới có chiến thắng Điện Biên Phủ. Thế mà thi sĩ đã nói đến ngày hội non sông.Với tấm lòng yêu nước sâu sắc ông đã cho người đọc thấy được niềm tin vào đất nước,niềm tin vào chiến thắng của quân và dân ta. Đó là giấc mơ chan chứa niềm hy vọng. Một hình ảnh tương lại của kinh Bắc thật lộng lẫy chan chứa yêu thương và đặc biệt là sự thay đổi từ cảnh sắc đến “muôn lòng” con người sự hồi sinh tươi trẻ.Một kết thúc có hậu mê đắm nụ cười thiếu nữ đã nâng cánh lãng mạn của bài thơ và gieo vào lòng người đọc niềm vui,hy vọng và cũng như ước muốn trong lòng của tác giả. KẾT LUẬN Bài thơ rõ ràng mang những cảm xúc có tính xã hội và thời sự, nghĩa là nó thực sự là thơ công dân, thơ phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc, nhưng điều then chốt ở đây là cảm xúc xã hội lại trùng lên cảm xúc cá nhân, những buồn vui, yêu ghét của cộng đồng lúc này cũng chính là tâm trạng riêng tư của người viết, chính sự hòa hợp ấy đã làm nên một sự cộng hưởng trong cảm xúc và người làm thơ có thể tung hoành ngòi bút để rồi bật lên những lời không còn phân biệt được đâu là chung đâu là riêng, tất cả đều rất tự nhiên. Rốt cuộc, sức mạnh to lớn của bài thơ này vẫn nằm trong nguyên lý muôn đời của thơ ca tức là dòng cảm xúc mạnh mẽ, dào dạt vô cùng, thứ cảm xúc dường như đã được tích tụ từ rất lâu trong lòng người, bất chợt được một bàn tay của ngoại cảnh bật tung cánh cửa, khiến nó tuôn ra ào ạt, đủ sức cuốn phăng đi mọi con đê khuôn sáo, mọi toan tính chừng mực và tỉnh táo, để làm tràn ra trên mặt giấy những chữ, những dòng mà sau này chính nhà thơ có lần thú nhận là ông đã viết chúng ra như trong một cơn mê sảng, như thể có ai đó đọc vào tai cho mà ghi lại vậy! Và thi sĩ Hoàng Cầm của chúng ta, một nhà thơ vốn đã nổi danh đa tình, đa cảm, lại sành sỏi trong công việc thao túng chữ nghĩa, trong cái đêm Việt Bắc se lạnh, đang nằm nhớ thương gia đình và quê hương đến cháy lòng, lại được nghe những người du kích từ quê nhà vừa bị giặc chiếm chạy lên chiến khu kể lại nguồn cơn thảm cảnh thì việc chỉ ngay trong một đêm ông có thể hạ bút làm xong bài thơ tràng thiên ngót một trăm năm mươi câu này là điều không có gì khó hiểu. Công việc sáng tạo nghệ thuật vẫn thường như vậy, có khi cả tháng cả năm không vạch nổi một chữ, nhưng có khi mạch cảm xúc bất chợt tuôn ra như thác vỡ bờ, ấy là những khoảnh khắc hạnh phúc tuyệt vời của người viết. Có thể nói, với Bên kia sông Đuống, Hoàng Cầm đã đưa vào bài thơ cả một thế giới Kinh Bắc với con người, cảnh vật và đời sống văn hoá một cách vừa sống động, chân thực vừa lung linh, huyền diệu. Thế giới Kinh Bắc đã làm nên vẻ đẹp thẩm mỹ của bài thơ Bên kia sông Đuống. Nếu thơ ca là tiếng vọng của lòng người vào năm tháng, để thương để nhớ cho đời thì “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm đã vượt qua thử thách thời gian để đến với mỗi chúng ta hôm nay. Bài thơ mang hai đặc điểm nổi bật xoắn xuýt hoà quyện đó là dòng cảm xúc nuối tiếc xót thương căm giận và yêu thương quê hương gia diết xuyên suốt bài thơ. Bài thơ thể hiện đậm đà bản sắc dân gian và rất dân tộc, trên một nền nhạc buồn hồn quê hương dân tộc phảng phất trên mỗi dòng thơ. Qua bài thơ “bên kia sông đuống” mỗi người đọc việt nam đều thêm yêu quê hương,thêm gắn bó với mảnh đất mà cha ông đã xây dựng , bồi đắp bao đời.Thêm tự hào về những giá trị văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc,thêm cảm mếm những người đã đi qua cuộc kháng chiến chống pháp trường kì đầy gian khổ, hi sinh và làm nên chiến thắng. và cũng đã ghi nhận dòng tình cảm mãnh liệt chân thành trong sáng mà Hoàng Cầm dành cho quê hương mình. Bài thơ viết về vùng Kinh Bắc nhưng sức lan toả dư ba của nó lan rộng động tới tình yêu quê hương của tất cả con người Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChương 2.doc
  • docBÊN KIA SÔNG ĐUỐNG.doc
  • docbìa.doc
  • rarDe 1.rar
  • dochoang cam.doc
  • dochuong dan nien luan.doc
  • docMODAU.doc
  • docMỤC LỤC.doc
  • docnien luan.doc
  • docTagorei.doc
  • doctai lieu nien luan.doc
  • docvan hoc nga.doc
Tài liệu liên quan