Thực trạng và định hướng phát triển du lịch bền vững tại thành phố Hồ Chí Minh

Kết luận Hiện nay, trong xu thế giao lưu và hội nhập, Việt Nam trở thành điểm đến của bè bạn năm châu. Điều này đã thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam về nhiều mặt, trong đó có sự phát triển của ngành du lịch. Du lịch được xem là ngành “công nghiệp không khói”, không chỉ mang lại nguồn lợi về kinh tế cho đất nước mà còn góp phần đưa hình ảnh Việt Nam đến với bè bạn năm châu, rút ngắn khoảng cách không gian và thời gian giữa Việt Nam với thế giới. Với những tiềm năng phát triển du lịch, Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều cơ hội phát triển ngành du lịch với việc đa dạng các loại hình du lịch, trong đó du lịch nghỉ dưỡng, du lịch MICE, du lịch sinh thái và du lịch văn hóa sẽ là những loại hình du lịch chính đầy triển vọng trong tương lai. Để ngành du lịch Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế và trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Thành phố Hồ Chí Minh phải xây dựng những chiến lược phát triển toàn diện cho ngành du lịch, trong đó cần chú ý phân tích thế mạnh, nắm bắt cơ hội, khắc phục điểm yếu, hạn chế nguy cơ, từng bước đưa ngành du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn hướng tới phát triển bền vững.

pdf19 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 241 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng và định hướng phát triển du lịch bền vững tại thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yên tại các khu, điểm du lịch Một trong những mục tiêu mà phát triển bền vững hướng tới là bảo vệ môi trường. Việc phát triển quá nhanh các hoạt động du lịch mà không chú trọng đến công tác đánh giá và quản lý tác động đến môi trường tại các khu vực phát triển du lịch sẽ là nguyên nhân chính gây ra những hậu quả nghiêm trọng về môi trường và kết quả là sự phát triển du lịch thiếu bền vững. Để hạn chế những tác động tiêu cực và quản lý nguồn tài nguyên - môi trường một cách có hiệu quả cần lưu ý đến vấn đề giảm thiểu các chất thải, mức độ kiểm soát các hoạt động du lịch, mức độ đầu tư bảo tồn và duy trì tính đa dạng sinh học, vấn đề sức chứa tại các điểm du lịch. Mức độ đóng góp từ thu nhập du lịch cho công tác bảo tồn, phát triển tài nguyên và bảo vệ môi trường Việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên phục vụ du lịch không chỉ mang lại nguồn thu cho ngành du lịch mà còn đóng góp cho cộng đồng địa phương, cơ quan chủ quản các nguồn tài nguyên du lịch. Nguồn thu này sẽ đóng góp vào mục đích tôn tạo, bảo tồn và nâng cấp các nguồn tài nguyên đó. Mức độ đóng góp của ngành du lịch cho công tác bảo tồn được thể hiện qua tỷ lệ giữa phần đóng góp và tổng nguồn thu. Tỷ lệ này càng lớn thì mức độ đóng góp càng cao và đảm bảo cho việc khai thác các nguồn tài nguyên phục vụ phát triển du lịch theo hướng bền vững. Vì vậy đây là tiêu chí không thể thiếu trong việc đánh giá sự phát triển du lịch bền vững về mặt tài nguyên - môi trường. * Các tiêu chí về xã hội: Trong phát triển du lịch bền vững đòi hỏi ngành du lịch phải có những đóng góp cụ thể cho quá trình phát triển của toàn xã hội: Tạo công ăn việc làm cho người lao động, tham gia xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, chia sẻ lợi ích từ các hoạt động du lịch, đảm bảo sự công bằng trong phát triển, góp phần hỗ trợ các ngành kinh tế khác cùng phát triển.v.v. Các tiêu chí về xã hội chủ yếu là: Mức độ phát triển hệ thống các doanh nghiệp du lịch vừa và nhỏ Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường, đòi hỏi các doanh nghiệp du lịch phải có sự thích nghi cao đối với những thay đổi bởi nhiều yếu tố khách qua và chủ quan. Để hạn chế được những rủi ro trong qua trình hoạt động thì cần phải phát triển hệ thống các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này sẽ tạo công ăn việc làm cho một bộ phận không nhỏ người dân lao động ở địa phương, cải thiện chất lượng cuộc sống, nâng cao dân trí, thu hút các nguồn lực phát triển du lịch, phù hợp với tính chất xã hội hóa cao của du lịch, đảm bảo sự phát triển du lịch bền vững về mặt kinh tế, xã hội. Tác động đến xã hội từ chính các hoạt động du lịch Du lịch là một ngành mang tính xã hội hóa cao, vì vậy các hoạt động phát triển du lịch không tránh khỏi những tác động mạnh mẽ lên nhiều mặt của đời sống xã hội trong đó bao gồm cả 2 mặt là tích cực và tiêu cực. Để đảm bảo cho sự phát triển du NGUYỄN HỒNG SƠN - LÊ NGỌC GIAO TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 129 lịch bền vững, vấn đề đặt ra ở đây là cần phát huy hơn nữa những mặt tích cực và kiểm soát, hạn chế những tiêu cực từ hoạt động này. Mức độ hài lòng và hợp tác của cộng đồng địa phương đối với các hoạt động du lịch Để đảm bảo phát triển du lịch bền vững cần có sự ủng hộ, hợp tác của cộng đồng địa phương – chủ nhân của các nguồn tài nguyên. Họ chính là người bảo vệ những tài nguyên và môi trường du lịch. Mức độ hài lòng của cộng đồng dân cư địa phương đối với các hoạt động du lịch sẽ phản ánh mức độ bền vững của du lịch trong quá trình phát triển. 2. Điều kiện và tiềm năng phát triển du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh 2.1. Một số thông tin cơ bản về Thành phố Hồ Chí Minh - Diện tích: 2.095,5 km². - Dân số: 8.993 nghìn người (TCTK 1/4/2019). - Các quận, huyện: + Quận: Quận 1, Quận 2, Quận 3, Quận 4, Quận 5, Quận 6, Quận 7, Quận 8, Quận 9, Quận 10, Quận 11, Quận 12, Tân Bình, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Thủ Đức, Gò Vấp, Bình Tân, Tân Phú. + Huyện: Nhà Bè, Cần Giờ, Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh. - Dân tộc: Việt (Kinh), Hoa, Khmer, Chăm. 2.2. Điều kiện tự nhiên Lãnh thổ Thành phố Hồ Chí Minh có tọa độ địa lý 10º22'13" – 11º22'17" vĩ độ Bắc và 106º01'25" – 107º01'10" kinh độ Đông. Phía bắc giáp Tây Ninh, Bình Dương, phía đông giáp Đồng Nai, phía nam giáp biển Đông và Tiền Giang, phía tây giáp Long An. - Thổ nhưỡng: đất của thành phố chủ yếu là phù sa cũ và phù sa mới tạo lập nên. - Sông ngòi: trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có hàng trăm sông ngòi, kênh rạch nhưng sông lớn không nhiều, lớn nhất là sông Sài Gòn với độ dài đoạn chảy qua Thành phố khoảng 106 km; hệ thống đường sông từ Thành phố lên miền Đông và xuống các tỉnh miền Tây, sang Campuchia đều thuận lợi; Thành phố có 15km bờ biển. - Khí hậu: chia làm hai mùa rõ rệt; mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa bình quân trong một năm là 1.979mm; mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau; nhiệt độ trung bình năm 27,55ºC, không có mùa đông. * Tiềm năng phát triển du lịch: Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm du lịch lớn nhất nước, thu hút khoảng 60% lượng khách quốc tế đến Việt Nam hàng năm. Sở dĩ như vậy vì ngoài cơ sở hạ tầng khá tốt, giao thông tương đối thuận tiện, thành phố là một nơi có tài nguyên du lịch phong phú. Nơi đây là một vùng đất gắn liền với lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc kể từ khi thực dân Pháp đặt chân lên Việt Nam. Thành phố cũng là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước (1911). Gắn liền với sự kiện đó, cảng Nhà Rồng và Bảo tàng Hồ Chí Minh là một di tích quan trọng, thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Các di tích cách mạng khác như địa đạo Củ Chi, hệ thống các bảo tàng, nhà hát, nhà văn hoá, các công trình kiến trúc thời Pháp là những điểm du lịch hấp dẫn. Gần đây Thành phố đã đầu tư nhiều khu du lịch như Thanh Đa, Bình Qưới, nhiều khu vui chơi giải trí như Đầm Sen, Thảo Cầm Viên, Kỳ Hoà, công viên Nước, Suối Tiên... đã thu hút và hấp dẫn du khách. Hiện nay, Thành phố đang tiến hành tôn SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020) 130 tạo các di tích lịch sử, các công trình kiến trúc cổ, đầu tư cho hệ thống bảo tàng, khôi phục nền văn hoá truyền thống kết hợp với tổ chức các lễ hội, khôi phục văn hoá miệt vườn, làng hoa để phát triển một cách vững chắc ngành du lịch của Thành phố. Với hơn 300 năm hình thành và phát triển, Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều công trình kiến trúc cổ như Nhà Rồng, đền Quốc Tổ, dinh Xã Tây, Nhà hát lớn, Bưu điện, hệ thống các ngôi chùa cổ (chùa Giác Lâm, chùa Bà Thiên Hậu, chùa Tổ Đình Giác Viên...), hệ thống các nhà thờ cổ (Đức Bà, Huyện Sỹ, Thông Tây Hội, Thủ Đức...). Nhìn chung, một trong những đặc trưng văn hoá của 300 năm lịch sử đất Sài Gòn - Gia Định, nơi hội tụ nhiều dòng chảy văn hoá, là “cơ cấu kiến trúc” Việt - Hoa - châu Âu. Một nền văn hoá kết hợp hài hoà giữa truyền thống dân tộc của người Việt với những nét đặc sắc của văn hoá phương Bắc và phương Tây. 2.4. Giao thông Thành phố Hồ Chí Minh là đầu mối giao thông của cả miền Nam bao gồm đường sắt, đường bộ, đường thủy và đường không. Từ Thành phố đi Hà Nội có quốc lộ 1A, Đường sắt Thống nhất và quốc lộ 13 xuyên Đông Dương. Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất chỉ cách trung tâm Thành phố 7 km, là sân bay có lượng hành khách lớn nhất nước với hơn chục đường bay nội địa và quốc tế. Có các đường bay nội địa từ Thành phố tới Buôn Ma Thuột, Đà Lạt, Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Nha Trang, Phú Quốc, Pleiku, Quy Nhơn, Rạch Giá, Vinh. Thành phố Hồ Chí Minh cách Hà Nội 1.730 km, cách Tây Ninh 99km, Biên Hòa (Đồng Nai) 30km, Mỹ Tho 70km, Vũng Tàu 129km, Cần Thơ 168km, Đà Lạt 308km, Buôn Ma Thuột 375km. Theo Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, hiện nay Thành phố có 144 di sản thiên nhiên, di sản văn hóa, các khu, điểm du lịch và loại hình du lịch. Thành phố có nhiều ưu thế để phát triển du lịch, dịch vụ, là một trong những trung tâm trung chuyển, đầu mối tiếp nhận khách quốc tế và nội địa quan trọng của cả nước, với đường bay thẳng đến nhiều quốc gia trên thế giới, hàng năm đón nhận trên 20 triệu lượt hành khách. Bên cạnh đó, Thành phố Hồ Chí Minh còn là nơi tập trung nhiều các cơ sở lưu trú, ăn uống, cơ sở dịch vụ mua sắm, cơ sở tổ chức hội nghị du lịch cao cấp hàng đầu của Việt Nam, hiện các cơ sở này đang giải quyết việc làm cho khoảng 81.000 người dân Thành phố và các tỉnh, thành khác. Ngoài ra, Thành phố còn là nơi có lực lượng lao động trực tiếp, có trình độ đào tạo và kinh nghiệm trong ngành du lịch lớn nhất nước. Một số di sản thiên nhiên, di sản văn hóa, các khu, điểm du lịch tiêu biểu có thể kể đến như Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, Khu di tích lịch sử địa đạo Củ Chi, Công viên Văn hóa Đầm Sen, Khu du lịch Văn hóa Suối Tiên, Làng Du lịch Bình Quới, Khu du lịch Vàm Sát, Bảo tàng thành phố, Dinh Thống Nhất, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh, Chợ Bến Thành, Bưu điện thành phố, Nhà thờ Đức Bà... (Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, 2016). 3. Những thành tựu và những tồn tại của ngành du lịch Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập 3.1. Điểm qua một số thành tựu đã đạt được của Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây Với những điều kiện như đã phân tích ở trên, thời gian qua, ngành du lịch Thành phố Hồ Chí Minh luôn giữ vị trí, vai trò NGUYỄN HỒNG SƠN - LÊ NGỌC GIAO TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 131 quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố và cả nước. Trong năm 2013, với hơn 18 triệu lượt khách du lịch quốc tế và trong nước đến Thành phố Hồ Chí Minh, ngành du lịch thành phố đã tạo ra doanh thu khoảng 71.000 tỷ đồng (tương đương 3,5 tỷ USD), chiếm 11,6% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ trên địa bàn đồng thời chiếm 45% doanh thu du lịch của cả nước. Tỷ trọng đóng góp của du lịch vào GDP của Thành phố năm 2013 đạt 11%. Năm 2014, tổng lượng khách quốc tế và trong nước đến Thành phố đạt 22 triệu lượt, mang lại tổng doanh thu du lịch (lữ hành, khách sạn, nhà hàng) hơn 86.000 tỷ đồng. Riêng 7 tháng đầu năm 2015, chỉ tính lượt khách quốc tế đến Thành phố đạt gần 2,5 triệu lượt khách (tăng 4% so với cùng kỳ), góp phần mang về tổng doanh thu du lịch 53.317 tỷ đồng. Theo Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, trong năm 2015, Thành phố đã đón hơn 19,3 triệu lượt khách du lịch trong nước và 4,6 triệu lượt khách du lịch quốc tế, chiếm khoảng 57% lượt khách quốc tế đến Việt Nam. Doanh thu từ du lịch của Thành phố trong năm 2015 đạt 94.600 tỷ đồng, tương đương 4,2 tỷ USD, chiếm 9,88% GDP của Thành phố và 30,2% doanh thu du lịch của cả nước (Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, 2016). Sau đây là số liệu thống kê của các chỉ tiêu chủ yếu, quan trọng trong ngành du lịch Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 - 2015. Bảng 1. Thống kê số lượng khách du lịch quốc tế đến Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 – 2015 Năm 2011 2012 2013 2014 2015 Lượng khách 3.500.000 3.800.000 4.109.000 4.400.000 4.600.000 % tăng trưởng 12,90% 8,50% 8,1% 7,08% 4,60% Bảng 2. Thống kê số lượng khách quốc tế đến Thành phố Hồ Chí Minh so với cả nước giai đoạn 2011 – 2015 Năm 2011 2012 2013 2014 2015 TP.HCM 3.500.000 (58,3 %) 3.800.000 (55,8%) 4.109.000 (54,7%) 4.400.000 (56,4%) 4.600.000 (58,2%) Việt Nam 6.000.000 6.800.000 7.500.000 7.800.000 7.900.000 Bảng 3. Thống kê số lượng khách nội địa đến Thành phố Hồ Chí Minh so với cả nước giai đoạn 2011-2015 Năm 2011 2012 2013 2014 2015 TP.HCM 10.020.000 (33,4%) 12.500.000 (38,4%) 15.600.000 (44,5%) 17.600.000 (45,7%) 19.300.000 (33,8%) Việt Nam 30.000.000 32.500.000 35.000.000 38.500.000 57.000.000 SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020) 132 Bảng 4. Thống kê số lượng khách quốc tế đến Thành phố Hồ Chí Minh theo phương tiện di chuyển giai đoạn 2011 – 2015 Năm 2011 2012 2013 2014 2015 Phương tiện Hàng không 2.800.000 3.040.000 3.259.000 3.500.000 3.700.000 Đường khác (đường bộ, đường thủy) 700.000 760.000 850.000 900.000 900.000 Tổng 3.500.000 3.800.000 4.109.000 4.400.000 4.600.000 Bảng 5. Thống kê doanh thu du lịch Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 – 2015 Đơn vị tính: tỷ đồng Năm 2011 2012 2013 2014 2015 Doanh thu 56.842 71.279 83.191 85.000 94.600 Tốc độ tăng trưởng 26,55% 25,30% 17% 2,17% 11,30% Nguồn: Sở Du lịch TP.HCM - Số liệu thống kê Quý I/2017 Trong năm 2016, mặc dù nền kinh tế đang trên đà phục hồi với nhiều khởi sắc nhưng thách thức đối với ngành du lịch thế giới nói chung cũng như Việt Nam nói riêng vẫn còn rất lớn. Bên cạnh các bất ổn ở châu Âu, biến động chính trị của nhiều quốc gia trên thế giới, các sự cố trong nước cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình du lịch của đất nước như thiên tai lũ lụt ở miền Trung, sự cố môi trường Formosa. Tuy nhiên, vượt lên những khó khăn đó, với sự đồng lòng của toàn thể các doanh nghiệp du lịch, Thành phố vẫn nổi lên là điểm sáng trong ngành du lịch của cả nước. Năm 2016, Thành phố Hồ Chí Minh đón 5.199.570 lượt khách du lịch quốc tế (tăng 13,05% so với năm 2015); 28,1 triệu khách du lịch nội địa (tăng 22,95% so với năm 2015); doanh thu du lịch đạt 103.000 tỷ đồng (tăng 9% so với năm 2015). Cũng trong năm 2016, trên bản đồ du lịch thế giới, Thành phố Hồ Chí Minh xếp hạng Á quân (thứ 2) trong “Những điểm đến có giá hấp dẫn nhất 2016” (Theo Leonly Planet), xếp hạng 18 trong “Các thành phố phát triển du lịch nhanh nhất trên thế giới giai đoạn 2009 – 2016” (Theo điều tra khảo sát của Mastercard), “nằm trong top 23 điểm đến tốt nhất trên thế giới và ẩm thực đường phố” (Theo CNN), “xếp hạng 3 trong danh sách thành phố có khách sạn 5 sao giá rẻ (rẻ hơn 55% so với giá trung bình trên thế giới” ( 2017). Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, trong năm 2017 tổng lượng khách quốc tế đến Thành phố đạt 6,4 triệu lượt, tăng 22,88% và đạt 110% kế hoạch (6 triệu lượt khách). Tổng lượng khách du lịch nội địa đến Thành phố năm 2017 đạt 25 triệu lượt, tăng 14,6% và NGUYỄN HỒNG SƠN - LÊ NGỌC GIAO TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 133 đạt 100% kế hoạch. Tổng doanh thu ngành du lịch (lữ hành, khách sạn nhà hàng) đạt 116.000 tỷ đồng, tăng 12,6% và đạt 100% kế hoạch năm (116.000 tỷ đồng). Thành phố thực hiện tốt các giải pháp tích cực để xây dựng ngành du lịch là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tiếp tục khẳng định vị thế là một trong những trung tâm du lịch hàng đầu của cả nước (www.hcmcpv.org.vn, 2018). Hoạt động du lịch đã góp phần định hình và phát triển nhiều ngành sản xuất, kinh doanh trên địa bàn. Thành phố đóng góp bình quân từ 55% - 60% lượng khách quốc tế đến Việt Nam và chiếm khoảng 40% doanh thu du lịch cả nước. Theo nhận định của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), Việt Nam hiện nằm trong top 5 điểm đến hàng đầu khu vực ASEAN, top 100 điểm đến hấp dẫn của du lịch thế giới và Thành phố Hồ Chí Minh là lựa chọn ưu tiên hàng đầu. Trong danh sách 10 doanh nghiệp lữ hành hàng đầu của Việt Nam thì Thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm đến 7 doanh nghiệp (www.hcmcpv.org.vn, 2018). Theo Trung tâm xúc tiến du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2018, Thành phố đã đón 36,5 triệu lượt du khách, trong đó khách quốc tế đạt 7,5 triệu lượt (tăng 17,18% so với năm 2017). Lượng khách du lịch quốc tế đến Thành phố gia tăng đáng kể trong những năm gần đây, góp phần nâng cao vị thế du lịch của Thành phố trong khu vực Đông Nam Á và thế giới. Đồng thời, ngành du lịch Thành phố ngày càng đóng vai trò quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương. Chín tháng năm 2019, du lịch Thành phố Hồ Chí Minh đạt nhiều kết quả ấn tượng. Lượng khách quốc tế đến thành phố đạt trên 6,2 triệu lượt, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm 2018. Doanh thu từ du lịch của thành phố tăng 4% so cùng kỳ năm 2018 (https://bnews.vn, 2019). Để phát triển du lịch bền vững, Thành phố Hồ Chí Minh đã tăng cường mối liên kết với các địa phương trong cả nước về đầu tư phát triển cơ sở vật chất du lịch và sản phẩm du lịch, mối liên kết với các công ty du lịch quốc tế về khai thác thị trường khách du lịch, quảng bá xúc tiến du lịch. Thành phố cũng đã thu hút nhiều doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư phát triển cơ sở lưu trú du lịch cao cấp, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Các doanh nghiệp du lịch đã từng bước xây dựng thương hiệu vững mạnh, xây dựng chuỗi giá trị ngành. Trong các năm qua, ngành du lịch Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã nỗ lực và sáng tạo tổ chức có định kỳ một số sự kiện du lịch mang tầm vóc quốc gia và quốc tế, dần khẳng định thương hiệu riêng, độc đáo của mình. Để tổ chức, triển khai các sự kiện du lịch một cách hiệu quả, ngành du lịch Thành phố luôn đề cao và nâng cao tính chuyên nghiệp bằng cách tìm hiểu nhu cầu của người tiêu dùng du lịch trong và ngoài nước, từ đó xác định được những hoạt động, sự kiện cần được xây dựng và đầu tư chiều sâu, như những sự kiện du lịch lớn: Đường hoa Nguyễn Huệ, Hội chợ du lịch quốc tế ITE - HCMC, Ngày hội du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, Lễ hội Trái cây Nam Bộ, Lễ hội Áo dài, Lễ hội Nghinh Ông Cần Giờ, Liên hoan ẩm thực đất phương Nam, Liên hoan món ngon các nước.v.v. Với cách làm trên, các sự kiện này đã phần lớn đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp và người tiêu dùng du lịch, vì vậy đã mang lại hiệu quả rõ rệt cho doanh nghiệp khi tham gia, dần tạo dựng được thương hiệu độc đáo của mình và SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020) 134 ngày càng được doanh nghiệp quan tâm và hưởng ứng (www.hcmcpv.org.vn, 2018). Thành phố Hồ Chí Minh đã và đang trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà tổ chức du lịch hội nghị, không chỉ tạo sự phát triển mang tính riêng biệt mà còn quan tâm đến việc phối hợp liên kết và hỗ trợ các địa phương khác, một mặt hợp tác đôi bên cùng có lợi, hỗ trợ địa phương phát triển, mặt khác cũng chính là củng cố vai trò đầu tàu và trung tâm du lịch của Thành phố. Du lịch hội nghị, du lịch mua sắm, du lịch đường sông đang là những thế mạnh chính được tập trung khai thác để thúc đẩy đà tăng trưởng cho du lịch Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh có đủ các điều kiện để trở thành một điểm đến về du lịch sự kiện - MICE. Ngành du lịch Thành phố cũng đã và đang chú trọng vào loại hình du lịch MICE (Meeting: M-hội họp; Incentive: I-Khen thưởng, Convention: C- Hội nghị, hội thảo và Exhibition: E-Triển lãm) để thu hút du khách, tăng lợi nhuận cho ngành công nghiệp không khói này. Về phía các doanh nghiệp du lịch, bằng việc nắm bắt đúng thị hiếu của du khách, tham khảo cách làm du lịch của nhiều nước, các doanh nghiệp du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh hiện đang có nhiều sản phẩm dịch vụ đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của du khách. Để có được kết quả tăng trưởng du lịch tích cực, nhất là bối cảnh mà hầu hết các địa phương đều có dấu hiệu suy giảm lượng khách, ngoài việc đầu tư mạnh về cơ sở hạ tầng, phát triển sản phẩm và những chính sách phù hợp của chính quyền thành phố... có thể khẳng định chính sự năng động của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn đã đóng vai trò quan trọng tạo nên thành công của du lịch Thành phố (https://bnews.vn, 2019). 3.2. Những mặt còn tồn tại của ngành du lịch Việt Nam nói chung và của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng trong bối cảnh hội nhập Bên cạnh những thành công đã đạt được, ngành du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng vẫn còn bộc lộ những mặt hạn chế sau đây: * Đối với toàn ngành du lịch Việt Nam nói chung: Mặc dù đã trải qua gần ba thập kỷ đẩy mạnh công cuộc đổi mới nhưng nền kinh tế Việt Nam nói chung (và ngành du lịch Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng) vẫn còn chưa thoát hoàn toàn khỏi sự ràng buộc của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, thủ tục hành chính nặng nề và kém năng động. Số lượng doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực du lịch còn tương đối nhiều, hệ thống khách sạn, nhà nghỉ, khu du lịch quốc doanh vẫn còn chiếm ưu thế. Bên cạnh một số doanh nghiệp điển hình tiên tiến, nhìn tổng quan ngành du lịch Việt Nam và các doanh nghiệp du lịch vẫn còn mang dáng dấp của mô hình kinh tế tập trung, bao cấp với sở hữu nhà nước và cơ chế bộ chủ quản vẫn đang được duy trì. Cơ chế chính sách là một trong những nút thắt của ngành du lịch hiện nay. Là một ngành dịch vụ mũi nhọn, rất quan trọng đối với nền kinh tế khi năm 2016 tạo ra doanh thu chiếm hơn 6% GDP, giải quyết việc làm cho gần 2 triệu lao động nhưng hiện tại ngành du lịch vẫn chỉ có cơ quan chuyên trách là Tổng cục Du lịch và Bộ chủ quản ngoài chức năng quản lý du lịch còn có các chức năng quản lý văn hóa và thể thao. Từ đó cho thấy mặc dù đã xác định được tầm quan trọng của ngành du lịch nhưng Nhà nước vẫn chưa NGUYỄN HỒNG SƠN - LÊ NGỌC GIAO TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 135 thực sự đặt ngành du lịch tương xứng với tầm vóc của ngành ( 2017). Công tác quản lý ngành vẫn còn nhiều bất cập, thiếu các quy hoạch phát triển du lịch liên vùng, do đó nguồn lực phát triển tuy đa dạng nhưng vẫn trong tình trạng “trăm hoa đua nở” giữa các địa phương. Công tác quy hoạch ngành, liên ngành chưa thật khoa học và chưa bám sát thực tiễn nên nhiều khu du lịch, bãi biển, danh thắng bị xuống cấp, bị xâm hại bởi các lĩnh vực công nghiệp, khai khoáng, xi măng, sửa chữa tàu biển.v.v. Mặt khác, do tầm nhìn tư duy còn bị giới hạn bởi cơ chế nên đến nay Việt Nam vẫn chưa có các khu du lịch đẳng cấp thế giới mặc dù có nhiều tiềm năng phát triển du lịch (Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, 2018). Năng lực của doanh nghiệp du lịch Việt Nam rất hạn chế, thiếu kinh nghiệm về trình độ quản trị. Nguồn nhân lực (nhìn chung) có chất lượng chưa cao và đến nay vẫn chưa đào tạo được một đội ngũ nhân viên du lịch (hướng dẫn viên du lịch, tiếp viên, lái xe...) có đủ nghiệp vụ, có văn hóa, biết ngoại ngữ đủ để đáp ứng những yêu cầu của thị trường đang ngày càng phát triển nhanh. Thủ tục hành chính rườm rà, công tác thông tin truyền thông còn hạn chế... đang cản trở quá trình hội nhập của Việt Nam. Theo Báo cáo xếp hạng về năng lực cạnh tranh của các quốc gia ngành du lịch toàn cầu, Việt Nam xếp vị trí thứ 67 trên tổng 136 quốc gia trong danh sách, xếp sau một số quốc gia trong khu vực như Singapore, Malaysia, Indonesia và Thái Lan. Trong khu vực châu Á, một số quốc gia và vùng lãnh thổ có thứ hạng cao như Nhật Bản (thứ 4), Hong Kong (thứ 11), Singapore (thứ 13), Trung Quốc (thứ 15), Hàn Quốc (thứ 19), Malaysia (thứ 26), Đài Loan - Trung Quốc (thứ 30), Thái Lan (thứ 34) và Indonesia (thứ 42) (https://dulich.dantri.com.vn, 2018). Cơ sở hạ tầng đã được quan tâm đầu tư nâng cấp, tuy nhiên vẫn còn phát triển chậm, thiếu đồng bộ, thiếu tính kết nối liên vùng, liên quốc gia. Sự quá tải của hệ thống đường bộ, cảng hàng không; sự lạc hậu, xuống cấp của ngành đường sắt là hạn chế dễ nhận thấy trong chiến lược phát triển du lịch cả nước. Cùng với sự quá tải của kết cấu hạ tầng là tình trạng ô nhiễm môi trường (ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm nguồn nước...) ngày càng nghiêm trọng, tác động xấu đến sự phát triển của du lịch trong tương lai. Công tác quảng bá du lịch của Việt Nam còn giản đơn và chưa đi vào chiều sâu, đồng thời thiếu tính chuyên nghiệp, từ đó hình ảnh của Việt Nam đến với bạn bè quốc tế còn khá khiêm tốn. Các hình thức quảng bá du lịch của ngành du lịch hiện nay đơn giản chỉ là đăng ký hội chợ, kêu gọi các doanh nghiệp đăng ký rồi sau đó cử đoàn tham gia trưng bày tại hội chợ. Cách làm này đang cho thấy không còn mấy hiệu quả, chưa tạo ra khả năng thu hút du khách đến với Việt Nam như mong đợi. * Đối với ngành du lịch Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng: Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh dù có nhiều thành tựu, nhưng vẫn đang lộ rõ nhiều khiếm khuyết khi thiếu tính liên kết, quy hoạch chưa đồng bộ, thiếu sự ưu tiên và thiếu một “nhạc trưởng” chỉ đạo ngành nên chưa có lực để thúc đẩy phát triển đúng tầm, cụ thể: Thiếu liên kết: ngành du lịch Thành phố Hồ Chí Minh có các điểm yếu đang gặp phải như chưa có quy hoạch để phát triển người làm công tác quản lý ngành SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020) 136 chuyên nghiệp, đối tác thực hiện quy hoạch cũng chỉ bị ràng buộc một cách lỏng lẻo nên công tác quy hoạch phát triển toàn ngành còn chậm. Ngoài ra, dù được xem là có ưu thế lớn về du lịch của khu vực nhưng việc kết nối với các tỉnh, thành bạn chưa sâu sắc, còn mang tính hình thức cho nên hiệu quả phát triển du lịch liên kết vùng chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng. Khi nhu cầu của khách du lịch trở nên đa dạng hơn thì những yếu tố này đang trở thành lực cản, nhất là khi đối tượng khách quốc tế gia tăng (Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, 2018). Các ấn phẩm quảng bá du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh còn thiếu và yếu về nội dung cũng như hình thức, cách trình bày đơn giản, đơn điệu do đó chưa hấp dẫn và hiệu quả quảng bá thấp. Sản phẩm du lịch đặc trưng của địa phương đang thiếu hoặc chưa thể hiện sự nổi bật. Nguyên nhân của những hạn chế trên là do đơn vị tư vấn lập quy hoạch còn chưa nhận thức đúng vai trò của quy hoạch cũng như thiếu chuyên gia thực hiện công tác lập quy hoạch. Nội dung quan hệ hợp tác du lịch với các tỉnh, thành khác còn chung chung, chưa cụ thể, thiếu gắn kết với nhu cầu thực của doanh nghiệp và thị trường. Công tác chỉ đạo xây dựng các ấn phẩm quảng bá du lịch đặc trưng của Thành phố còn chưa rõ ràng. Các đơn vị liên quan đến du lịch vẫn thiếu sự phối hợp với các sở ngành khác để phát triển ngành du lịch. So với các địa phương khác trong nước và với các nước trong khu vực, tốc độ phát triển du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh rất đáng khích lệ, nhưng do chưa dành nhiều ưu tiên đúng mức cho lĩnh vực này nên mặc dù tài nguyên thiên nhiên để phát triển du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh rất phong phú thì ngành du lịch vẫn chưa khai thác được hết các tiềm năng sẵn có. Cơ sở hạ tầng thiếu quy hoạch và nâng cấp tổng thể; hệ thống cấp thoát nước cũ kỹ dễ gây ngập lụt khi có mưa lớn; đường sá hẹp, hệ thống giao thông công cộng còn thiếu và yếu kém về năng lực vận tải; tình trạng lấn chiếm vỉa hè, lòng đường và ý thức tham gia giao thông của người dân chưa cao; môi trường ngày càng bị ô nhiễm (hệ thống xử lý rác và chất thải sinh hoạt, công nghiệp, y tế chưa thật tốt) đang ảnh hưởng rất nhiều đến các hoạt động du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh. Nhìn thẳng vào thực tế thì ngành du lịch Thành phố Hồ Chí Minh đang thiếu một một sự chỉ đạo thống nhất, nhất quán từ cấp quản lý cao nhất, từ đó nảy sinh tình trạng các đơn vị du lịch chưa kết hợp chặt chẽ với nhau, mạnh ai người đó làm nên chưa thể thúc đẩy ngành này phát triển đúng với các thế mạnh tiềm năng. Thành phố Hồ Chí Minh còn thiếu chính sách giảm thuế sử dụng đất hợp lý để thu hút đầu tư vào hạ tầng du lịch tại các địa danh ven đô. Quản lý và quy hoạch dân cư chưa tốt, các dịch vụ dân sinh quá tải, hàng rong và bán hàng vỉa hè khó kiểm soát. Nạn chèo kéo khách du lịch trong nước và nước ngoài tại một số địa điểm đã làm cho hình ảnh ngành du lịch của Thành phố trở nên xấu xí. Tại nhiều tụ điểm du lịch quan trọng cũng chưa có nhiều địa điểm phát wifi miễn phí cho du khách, góp phần hỗ trợ du khách nhanh nhất tìm kiếm các thông tin cần thiết. Cảnh báo nguy cơ gian lận thương mại và trốn thuế trong kinh doanh du lịch ở Thành phố Hồ Chí Minh: tình trạng thanh toán trực tuyến xuyên biên giới trái phép NGUYỄN HỒNG SƠN - LÊ NGỌC GIAO TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 137 đang diễn ra tại nhiều địa phương có đông khách du lịch nước ngoài như Quảng Ninh, Nha Trang, Đà Nẵng.v.v. Cụ thể, một số chủ cửa hàng tại Việt Nam đã lén lút chấp nhận sử dụng các ứng dụng thanh toán trực tuyến chưa được chấp nhận tại Việt Nam như Wechat áp dụng với các khách du lịch nước ngoài, đặc biệt là khách Trung Quốc. Điều này đồng nghĩa với nguy cơ thất thoát thuế từ ngành du lịch. Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có nhiều du khách nước ngoài (trong đó có du khách Trung Quốc) nên cần phải có các biện pháp phòng ngừa, tránh nguy cơ nói trên. 4. Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển du lịch bền vững tại Thành phố Hồ Chí Minh 4.1. Nhóm giải pháp phát triển du lịch về kinh tế * Hoàn thiện cơ chế chính sách, nâng cao năng lực quản lý nhà nước, tăng cường phối hợp liên ngành trong lĩnh vực du lịch Để đảm bảo du lịch Thành phố Hồ Chí Minh phát triển bền vững, trong thời gian tới lãnh đạo và các ban ngành có liên quan cần nghiên cứu xây dựng một số chính sách cơ bản như sau: Chính sách đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cần có chính sách đầu tư hỗ trợ hợp lý, xây dựng kết cấu hạ tầng dẫn đến các khu du lịch trọng điểm. Có chính sách ưu đãi, thu hút vốn đầu tư phát triển du lịch nhất là các dự án đầu tư xây dựng các khu du lịch, khu du lịch sinh thái tổng hợp, các khu vui chơi giải trí. Khuyến khích đầu tư của tư nhân trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài. Chính sách về tài chính Cần có quỹ phát triển du lịch, ưu tiên hoặc miễn giảm không thu thuế trong khoảng thời gian nhất định với các hình thức đầu tư cho phát triển sản phẩm du lịch mới, sản phẩm du lịch đặc thù, bảo vệ môi trường du lịch. Kiểm tra, điều chỉnh các loại phí, lệ phí các hình thức vé liên quan đến du lịch trong phạm vi của thành phố để khuyến khích đầu tư và phát triển du lịch. Đồng thời từ đó tạo ra sự thống nhất giá cả trong kinh doanh du lịch, tạo sự yên tâm cho cả doanh nghiệp và du khách du lịch. Chính sách xã hội hóa hoạt động du lịch Nhằm động viên mọi nguồn lực của xã hội để xây dựng và phát triển du lịch và nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước các cấp trong quản lý hoạt động du lịch. Đặc biệt là tạo ra cơ chế để người dân địa phương tích cực tham gia vào hoạt động du lịch, hiểu biết sâu sắc ý nghĩa và giá trị của du lịch, biết trân trọng các giá trị truyền thống, nét đẹp của thuần phong mỹ tục, góp phần giữ gìn trật tự an ninh, vệ sinh môi trường tự nhiên tại các điểm du lịch, từ đó cả ngành du lịch, du khách và dân cư địa phương đều được hưởng thụ thành quả do du lịch mang lại. Chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế Đây là một chính sách quan trọng, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa. Cần tăng cường quảng bá, hợp tác song phương trong lĩnh vực du lịch với các tỉnh, thành phố của nước ngoài. Tạo điều kiện học tập kinh nghiệm, đồng thời mở ra một hướng đi mới cho hoạt động du lịch của Thành phố. Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, mang tính liên ngành và xã hội hóa cao. Đòi hỏi các cấp, ban ngành cần có những chủ trương và chính sách phát triển phù hợp, bắt kịp với xu thế đổi mới của thị trường nhằm đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Đồng thời phải giải quyết được các vấn đề liên quan đến du lịch, nhất là trong SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020) 138 đầu tư phát triển sản phẩm du lịch, tuyên truyền quảng bá du lịch cũng như bảo vệ tôn tạo môi trường tự nhiên và xã hội. Để đảm bảo du lịch không chỉ phát triển mà còn phát triển một cách bền vững. * Quản lý, tổ chức thực hiện quy hoạch du lịch Công tác quy hoạch là một trong những yếu tố quan trọng đầu tiên đảm bảo cho việc phát triển du lịch. Không thể đầu tư xây dựng bất cứ khu du lịch nào nếu thiếu quy hoạch. Thành phố Hồ Chí Minh cần quản lý chặt chẽ các dự án đầu tư phát triển du lịch và chỉ cho phép đầu tư khi đã có quy hoạch được các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Trong quá trình quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết, lập các dự án khả thi đầu tư phát triển du lịch cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa các chuyên gia quy hoạch với các chuyên gia ở những lĩnh vực liên quan khác, với chính quyền và cộng đồng địa phương. Việc quy hoạch không đồng bộ rất dễ xảy ra tình trạng chồng lấn, xen kẽ giữa du lịch và các ngành công nghiệp, khai thác... dẫn đến mất dần tài nguyên du lịch. Mặt khác, các thành phần kinh tế nhỏ, lẻ tự đầu tư thường phát phá vỡ cảnh quan môi trường, mất dần bản sắc văn hóa. Do đó, cần: - Đánh giá một cách đầy đủ tiềm năng phát triển du lịch của Thành phố, xác định lại hệ thống chỉ tiêu phát triển du lịch phù hợp để có những định hướng đầu phát triển sản phẩm du lịch sát với yêu cầu thực tế. - Quy hoạch sản phẩm du lịch phải tạo điểm nhấn, chú trọng xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù. Mỗi địa phương cần lấy ưu thế du lịch của địa phương mình làm trọng tâm và tìm ra những nét riêng có từ nguồn tài nguyên thiên nhiên, di tích, lễ hội để chủ động tạo sự khác biệt. Trong quy hoạch phát triển sản phẩm cần quan tâm tới yếu tố bảo vệ môi trường và sự tham gia của cộng đồng. - Quy hoạch phát triển du lịch phải tính tới mối liên hệ vùng với các tỉnh thành lân cận: Thành phố Hồ Chí Minh trong mối liên hệ với Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai, Bình Thuận.v.v. - Quy hoạch hệ thống cơ sở lưu trú, nhà hàng, các điểm dừng chân, các nhà hàng, các khu vui chơi giải trí về số lượng đảm bảo về sức chứa, còn về chất lượng phải đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch quốc tế và nội địa. Việc xây dựng, trùng tu, nâng cấp, bảo tồn các di tích, di sản cần có dự tính hướng đến là thu hút khách du lịch. * Đa dạng hóa sản phẩm du lịch, chú trọng phát triển sản phẩm du lịch đặc thù Thành phố Hồ Chí Minh cần phát triển các sản phẩm du lịch dựa trên cơ sở khai thác giá trị tài nguyên. Do đó cần có những giải pháp cụ thể nhằm đa dạng hóa sản phẩm du lịch mang nét đặc thù riêng của tỉnh để tăng tính hấp dẫn và nâng cao năng lực cạnh tranh. Để du lịch của tỉnh ngày càng phát triển cần tập trung xây dựng các sản phẩm du lịch sau: - Du lịch văn hóa lịch sử. - Du lịch tìm hiểu văn hóa đời sống người dân Việt Nam. - Du lịch sinh thái trọng điểm. - Du lịch vui chơi giải trí. - Du lịch làng nghề. - Du lịch MICE. - Quy hoạch và xây dựng khu phố ẩm thực, làng ẩm thực tại một số tuyến đường quan trọng của đô thị hoặc tại các làng văn hóa, làng nghề truyền thống nơi thường xuyên có khách du lịch đến thăm. Sản phẩm được dùng trong “Phố ẩm thực” có thể sử dụng các nguyên liệu, thực phẩm, NGUYỄN HỒNG SƠN - LÊ NGỌC GIAO TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 139 các món ăn mang bản sắc của địa phương như: bánh tráng, thịt bò tơ, gà thả vườn, dế, bọ cạp là các sản phẩm được nuôi trồng tại địa phương. * Tăng cường đầu tư phát triển du lịch Không riêng gì du lịch, mà đối với bất kỳ ngành kinh tế nào muốn có được hiệu quả cao thì đầu tư phải thỏa đáng. Mức đầu tư càng cao, càng ổn định, thì tính bền vững càng được đảm bảo. Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có tiềm năng lớn về du lịch. Do đó, cần đầu tư cả chiều rộng và chiều sâu cho du lịch. Cụ thể: Cần có chính sách hợp lý cho việc đầu tư cơ sở hạ tầng, các công trình hệ thống cung cấp nước sạch, xử lý nước thải, hệ thống bưu chính viễn thông, điện chiếu sáng, bãi đỗ xe, các tuyến giao thông công cộng. Đặc biệt là hệ thống đường giao kết nối các điểm du lịch cần được ưu tiên. Chính sách ưu đãi đặc biệt để thu hút đầu tư trong nước và ngoài nước: đơn giản hóa các thủ tục hành chính, hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình đầu tư. Áp dụng chính sách “bình ổn giá” cho du lịch. Trong đó “bình ổn giá” là chương trình hỗ trợ khách hàng và cạnh tranh lành mạnh giữa các công ty du lịch, là phương án tạo niềm tin và sự an tâm cho khách. Như vậy, ngành du lịch sẽ duy trì được lượng khách ổn định dù thị trường tài chính có biến động. * Đẩy mạnh quảng bá xúc tiến du lịch và mở rộng thị trường Tăng cường quảng bá sản phẩm du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh bằng các chính sách quảng cáo, khuyến mãi. Giới thiệu các điểm du lịch trọng điểm của Thành phố bằng các brochure với các ngôn ngữ Việt, Anh, Pháp, Nhật, Hoa để cung cấp thông tin cho du khách trên nhiều bến, trạm vận tải hành khách như trạm xe buýt, sân bay, bến xe.v.v. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, internet đưa thông tin hình ảnh các khu du lịch lên mạng, tham gia quảng cáo trên một số báo, tạp chí. Gởi thông tin các điểm du lịch cho các công ty tổ chức du lịch. Lắp đặt một số bảng panô giới thiệu du lịch Thành phố Hồ Chí Minh tại các trục giao lộ lớn đi qua nhiều địa phương. Tăng cường quảng cáo vào các dịp Lễ, Tết... kèm theo các chính sách khuyến mãi, giảm giá “tour” cho khách nội địa đi theo đoàn từ 50 người trở lên hay hay tặng quà lưu niệm cho du khách.v.v. Tích cực xây dựng kế hoạch tổ chức roadshow và tham gia các Hội chợ du lịch quốc tế. Ngoài việc giới thiệu ẩm thực Nam bộ với những món ăn dân dã đồng quê hay những trò chơi dân gian quen thuộc, chương trình cần dành một khoảng thời gian để du khách nước ngoài có dịp tiếp cận với văn hoá ẩm thực Việt. Chẳng hạn, tổ chức cho đội ngũ nhân viên mời từng du khách nước ngoài thưởng thức những món ăn truyền thống Việt Nam; tổ chức cho du khách tham gia học và nấu món ăn Việt Nam, làm các món bánh Việt Nam (và được sử dụng sản phẩm tại chỗ hay mang về tuỳ thích); tổ chức các cuộc thi nấu món ăn Việt Nam dành cho du khách nước ngoài.v.v. Những sáng tạo trong hình thức tổ chức hoạt động này sẽ vừa tôn vinh các giá trị văn hóa ẩm thực Việt nói chung và vùng đất phương Nam nói riêng, nhằm xoá đi ấn tượng không tốt về thực phẩm Việt Nam, vừa là cách thu hút khách quốc tế đến với Việt Nam. 4.2. Nhóm giải pháp xã hội để phát triển du lịch Xã hội hóa phát triển du lịch Du lịch được xác định là ngành kinh tế SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020) 140 mũi nhọn. Vì vậy, phát triển du lịch là một chiến lược quan trọng không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, không phải ở đâu vai trò của du lịch cũng được đánh giá đầy đủ đúng đắn và tạo điều kiện tốt nhất để phát triển. Do đó trong thời gian tới cần phải xã hội hóa du lịch một cách toàn diện và đúng đắn, tạo nên sự chuyển biến trong nhận thức về ngành du lịch trong các cấp, các ngành. Động viên mọi thành phần kinh tế và cộng đồng đồng dân cư tham gia phát triển du lịch. Đẩy mạnh giáo dục, hướng dẫn du lịch cộng đồng gắn với bảo tồn bản sắc văn hóa riêng Tại các điểm tham quan du lịch, các khu du lịch, các điểm dừng chân, các làng nghề. Cần phải tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn cụ thể cho người dân ở đây cách đón tiếp, phục vụ sao cho chuyến du lịch của du khách hoàn hảo, nhận thức cao về phát triển du lịch bền vững sẽ đảm bảo sức hấp dẫn riêng biệt của từng làng quê. Cần bảo tồn và phát huy tính độc đáo riêng của từng làng quê về các mặt như di tích lịch sử, văn hóa, làng nghề truyền thống, các di tích gắn với các vị anh hùng dân tộc.v.v. Khuyến khích các làng nghề sản xuất các vật phẩm lưu niệm, mỹ nghệ thể hiện bản sắc riêng của địa phương. Đồng thời nâng cao mức sống cho người dân để họ có khả năng duy trì các ngành nghề truyền thống. Tăng cường tổ chức các sự kiện du lịch lồng ghép với các hoạt động văn hóa, nhằm kích cầu du lịch, mang dấu ấn thương hiệu điểm đến Thành phố Hồ Chí Minh, chú trọng chiều sâu trong công tác tổ chức các sự kiện du lịch với các hoạt động thiết thực, mang tính xã hội hóa cao, đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp, du khách và người dân địa phương. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Con người là một trong nhân tố quan trọng cấu thành một sản phẩm du lịch hoàn hảo. Vì vậy, công tác sắp xếp nhân sự để đảm bảo công tác phục vụ khách hàng được chu đáo luôn là vấn đề cần quan tâm hàng đầu trong quá trình phát triển du lịch của Thành phố Hồ Chí Minh. Cụ thể cần phải có một kế hoạch để bổ sung lực lượng và nâng cao chất lượng lao động của Thành phố. Nên thống kê sơ bộ số lượng nhân viên hoạt động trong ngành du lịch và tiến hành phân loại trình độ nghiệp vụ của họ để có kế hoạch đào tạo. Có chính sách đãi ngộ rõ ràng để thu hút người có năng lực, các lao động trình độ tay nghề kỹ thuật cao kể cả người ở địa phương khác và người nước ngoài. Kết hợp với các trường đào tạo du lịch, các trung tâm nghề để tiến hành đào tạo nâng cao tay nghề của các nhân viên hiện đang làm việc tại các khu du lịch. Đồng thời tích cực học tập kinh nghiệm, năng lực hoạt động du lịch với các địa phương bạn. Tích cực trao đổi, rút kinh nghiệm sau những đợt phục vụ du khách, đặc biệt là khách quốc tế đến từ những thị trường mới. Khuyến khích người lao động tự đào tạo và bồi dưỡng kiến thức cũng như nghiệp vụ chuyên môn, phù hợp với nhu cầu hiện tại. Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý, các doanh nghiệp. Đây là một trong những giải pháp để nâng cao chất lượng nguồn lao động một cách hiệu quả. Đội ngũ quản lý có chuyên môn nghiệp vụ cao thì đội ngũ nhân viên mới được chỉ đạo tốt. Bên cạnh đó, người dân địa phương cũng là một nguồn cung lao động lớn và đầy tiềm năng nếu được đào tạo và khai thác có hiệu quả. Đối tượng này sẽ đem lại lợi ích lớn trong việc chia sẻ lợi ích du lịch cho cộng đồng dân cư địa phương. Ngoài việc đào tạo mới NGUYỄN HỒNG SƠN - LÊ NGỌC GIAO TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 141 thì việc đào tạo lại nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ lao động hiện tại cũng cần được quan tâm. Đội ngũ cán bộ quản lý và giám sát du lịch phải được đào tạo chuyên sâu và có bài bản cả về trình độ chuyên môn cũng như khả năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ, tin học và có sự hiểu biết về pháp luật. 4.3. Nhóm giải pháp về tài nguyên và môi trường Phổ biến rộng rãi Luật Bảo vệ môi trường, Luật Du lịch Nhằm xây dựng chương trình phong cách nếp sống người dân thành phố văn minh, lịch sự, tuyên truyền về hành vi ứng xử trong du lịch. Xây dựng những chương trình, những đoạn phim ngắn, lồng ghép vào các tiết mục quảng cáo trên Đài Truyền hình để nâng cao nhận thức và giữ gìn bảo vệ các điểm di tích văn hóa lịch sử. Nâng cao nhận thức cho cộng đồng dân cư về phát triển du lịch bền vững Cần nâng cao nhận thức của cư dân và du khách trong việc giữ gìn và bảo tồn tài nguyên – môi trường du lịch. Khuyến khích hỗ trợ vật chất đối với việc nâng cao nhận thức về phát triển du lịch bền vững, khuyến khích du khách đóng góp kinh phí trong quá trình tham quan, nghiên cứu các giá trị văn hóa nhằm phục vụ cho công tác bảo vệ, tôn tạo và phát triển các giá trị văn hóa, lịch sử. Kêu gọi sự hỗ trợ từ các doanh nghiệp, doanh nhân hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn quận, huyện để thực hiện các chương trình ngắn hạn nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng địa phương về phát triển du lịch bền vững. Bảo tồn tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch Đáp ứng các nhu cầu về kinh tế, xã hội, môi trường, thẩm mỹ nhưng vẫn duy trì được bản sắc cũng như văn hóa dân tộc, đảm bảo được sự đa dạng sinh học, các hệ sinh thái cơ bản với các giải pháp như: Thực hiện chiến lược bảo tồn, tôn tạo các tài nguyên di tích lịch sử, văn hóa. Hỗ trợ xây dựng hệ thống quản lý tài nguyên du lịch, quản lý môi trường, xử lý chất thải một cách có hiệu quả. Khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường như đầu tư xây dựng hồ sinh học, nâng cấp hệ thống thoát nước; san lấp/nạo vét kênh rạch; xây dựng hệ thống xử lý rác và nước thải công nghiệp; lắp đặt hệ thống phân loại và xử lý rác sinh hoạt; chuyển một số xí nghiệp, cơ sở sản xuất ra xa các điểm du lịch; xử phạt thật nghiêm những tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường.v.v. Khuyến khích, hỗ trợ các loại hình du lịch tự nhiên thân thiện với môi trường như: du lịch sinh thái; du lịch văn hóa – lịch sử; du lịch kết hợp bảo tồn, nghiên cứu khoa học; du lịch làng quê. Khuyến khích các dự án đầu tư phát triển du lịch có những cam kết cụ thể về bảo vệ môi trường, tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch, những dự án sử dụng các công nghệ tiên tiến trong xử lý chất thải, sử dụng năng lượng sạch, tiết kiệm năng lượng, nhiên liệu.v.v. Tổ chức hoạt động thu gom chất thải rắn từ hoạt động du lịch. Thực hiện đảm bảo vệ sinh môi trường ở các khu, điểm tham quan du lịch. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành Quy chế và quy định bảo vệ môi trường tại các điểm du lịch. Lồng ghép nhiệm vụ bảo vệ môi trường vào các hoạt động của du lịch. Các điểm du lịch cần tăng cường hơn nữa các biện pháp bảo vệ an toàn và sức khỏe cho du khách trong các dịch vụ vui chơi. Thành lập mô hình các đội nhóm để hướng dẫn du khách có ý thức hơn trong SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020) 142 việc bảo tồn và giữ gìn tài nguyên môi trường, đặc biệt là tại các khu di tích vào những mùa cao điểm. Quản lý chặt chẽ vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm Đây là vấn đề mà ngành du lịch cần quan tâm hàng đầu. Vì nếu để xảy ra ngộ độc thực phẩm cho thực khách, không những uy tín của nhà hàng bị ảnh hưởng mà uy tín của ngành du lịch cũng bị ảnh hưởng. Vì vậy, Thành phố Hồ Chí Minh cần khuyến cáo và quản lý chặt chẽ việc sử dụng nguồn thực phẩm an toàn, cũng như quy trình xử lý rau củ quả, thực phẩm tươi sống an toàn trước khi chế biến ở các nhà hàng, quán ăn; đồng thời xử lý nghiêm những cơ sở chế biến thực phẩm không an toàn. Ngoài ra, lãnh đạo ngành du lịch Thành phố cũng cần lưu ý các công ty du lịch trong việc ký kết hợp đồng với nhà hàng trong các “tour” trọn gói. Vì một số công ty không quan tâm đến chất lượng bữa ăn của khách mà vì lợi nhuận nên ký hợp đồng với những nhà hàng kém chất lượng, để lại ấn tượng không tốt về ẩm thực Việt Nam cho khách, nhất là khách nước ngoài. Họ quên rằng khách du lịch là những nhà tiếp thị hiệu quả nhất. Cần quan tâm đến cả những vấn đề nhỏ Đó là các vấn đề như nhà vệ sinh công cộng chưa được sạch sẽ ở các điểm tham quan, tệ nạn ăn xin chèo kéo, ách tắc giao thông.v.v. Thực hiện quản lý du lịch theo tiêu chuẩn ISO 9001: 2000 Thiết lập cơ chế kiểm tra, giám sát thường xuyên, độc lập, khách quan trong nội bộ, khắc phục tình trạng khép kín, thiếu công khai dễ phát sinh tiêu cực trong giải quyết thủ tục hành chính với người dân và doanh nghiệp, cơ chế chính sách cần thiết trong lĩnh lực đất đai, thuế, visa để hỗ trợ phát triển du lịch. Tăng cường hợp tác với các tổ chức, cơ quan khoa học trong và ngoài nước Tranh thủ hỗ trợ kỹ thuật, kinh nghiệm tiếp cận với những thành tựu mới, tiên tiến về khoa học công nghệ du lịch. 5. Kết luận Hiện nay, trong xu thế giao lưu và hội nhập, Việt Nam trở thành điểm đến của bè bạn năm châu. Điều này đã thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam về nhiều mặt, trong đó có sự phát triển của ngành du lịch. Du lịch được xem là ngành “công nghiệp không khói”, không chỉ mang lại nguồn lợi về kinh tế cho đất nước mà còn góp phần đưa hình ảnh Việt Nam đến với bè bạn năm châu, rút ngắn khoảng cách không gian và thời gian giữa Việt Nam với thế giới. Với những tiềm năng phát triển du lịch, Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều cơ hội phát triển ngành du lịch với việc đa dạng các loại hình du lịch, trong đó du lịch nghỉ dưỡng, du lịch MICE, du lịch sinh thái và du lịch văn hóa sẽ là những loại hình du lịch chính đầy triển vọng trong tương lai. Để ngành du lịch Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế và trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Thành phố Hồ Chí Minh phải xây dựng những chiến lược phát triển toàn diện cho ngành du lịch, trong đó cần chú ý phân tích thế mạnh, nắm bắt cơ hội, khắc phục điểm yếu, hạn chế nguy cơ, từng bước đưa ngành du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn hướng tới phát triển bền vững. NGUYỄN HỒNG SƠN - LÊ NGỌC GIAO TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 143 TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo Nhân dân điện tử ngày 15/1/2017. Để du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Website: tro-thanh-nganh-kinh-te-mui-nhon.html. Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh: Phát triển sản phẩm du lịch. Website: https://bnews.vn/du-lich-thanh-pho-ho-chi-minh-phat-trien-san-pham-da-dang-tang- trai-nghiem/136600.html. Năm 2016, doanh thu du lịch Thành phố Hồ Chí Minh tăng 9%. Website: Luật Du lịch Việt Nam 2005 và 2017. Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh (2016). Thông tin: Tiềm năng du lịch. Sở Du lịch thành phố Hồ Chí Minh (2018). Báo cáo tình hình hoạt động ngành du lịch thành phố năm 2018 và phương hướng, nhiệm vụ hoạt động năm 2019. Thành phố Hồ Chí Minh hướng đến mục tiêu trở thành Thành phố du lịch thông minh. Website: www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/tphcm-huong-den-muc-tieu-tro-thanh-tp-du- lich-thong-minh-1491842607, 17/2/2018. Thành phố Hồ Chí Minh đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Website: www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/tphcm-dua-du-lich-tro-thanh-nganh-kinh-te-mui-nhon- 1491832416, 13/4/2017. Trung tâm Xúc tiến du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, Bản tin tháng 1/2019. Việt Nam xếp thứ 67 trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh du lịch toàn cầu. Website: https://dulich.dantri.com.vn/du-lich/viet-nam-xep-thu-67-trong-bang-xep-hang-nang- luc-canh-tranh-du-lich-toan-cau-20170426064003959.htm, 26/4/2017 Ngày nhận bài: 09/12/2019 Biên tập xong: 15/6/2020 Duyệt đăng: 20/6/2020

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthuc_trang_va_dinh_huong_phat_trien_du_lich_ben_vung_tai_tha.pdf