Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Châu Phi trong thời gian qua

• Mua đứt, bán đoạn dựa trên hợp đồng mua bán dài hạn với nước ngoài: Bên đặt gia công bán đứt nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia công và sau một thời gian sản xuất, chế tạo sẽ mua lại thành phẩm. Trong trường hợp này, quyền sở hữu về nguyên liệu chuyển từ bên đặt gia công sang bên nhận gia công. Vì vậy, khi nhập trở lại các bộ phận giá trị thực tế tăng thêm đều phải chịu thuế quan. • Kết hợp: Theo đó, bên nhận gia công chỉ giao những nguyên vật liêu chính, còn bên nhận gia công cung cấp những nguyên phụ liệu. Ưu điểm của gia công xuất khẩu: - Đây là hình thức rất thích hợp với các doanh nghiệp Việt Nam vì các doanh nghiệp có vốn đầu tư hạn chế, chưa am hiểu về luật lệ và thị trường thế giới, chưa có thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp nổi tiếng, qua gia công xuất khẩu vẫn có thể thâm nhập được ở mức độ nhất định vào thị trường thế giới.

doc79 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 899 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Châu Phi trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n hơn nhiều so với kim ngạch buôn bán trực tiếp. Trong khi đó, buôn bán qua trung gian lợi nhuận thu về lại thấp do phải chia sẻ với nước trung gian để được vào thị trường này. Hiện nay Việt Nam chỉ có thể sử dụng phương thức mở L/C với những quốc gia có hệ thống ngân hàng tương đối hiện đại, khả năng tài chính dồi dào hoặc có cơ quan thương vụ với Việt Nam. Tuy nhiên, ngay cả khi thực hiện phương thức này thì cũng rất phức tạp, nhiều thủ tục rắc rối. Chính vì những vướng mắc trong khoản thanh toán mà nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn e ngại chưa gia nhập vào thị trường các nước Châu Phi; hiện nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 48/54 quốc gia Châu Phi nhưng gạo của Việt Nam lại mới chỉ có mặt ở thị trường 26 nước. Đánh giá kết quả xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Châu Phi: 3.1. Những kết quả đạt được: Trong những năm qua, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Châu Phi đã ngày càng được củng cố và phát triển. Trên cơ sở đó, hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng của Việt Nam sang Châu Phi cũng được quan tâm và đẩy mạnh. Hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam thời gian qua đã đạt được những kết quả khả quan và mở ra triển vọng, tiền đề cho các doanh nghiệp trong nước mạnh dạn thâm nhập vào thị trường gạo của châu lục với hơn 850 triệu dân này. Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Châu Phi tăng trưởng qua các năm. Từ năm 2000 là 83,343 triệu USD, đến năm 2005 đã là 398,7 triệu USD. Việc tăng kim ngạch này cũng có tác động lớn của việc nguồn cung gạo trên thế giới gặp khó khăn làm giá gạo trên thị trường tăng vọt. Động thái này còn có thể tiếp diễn trong thời gian tới. Đây là cơ hội rất tốt để gạo Việt Nam thâm nhập sâu vào các thị trườngtại Châu Phi. Hiện nay, Châu Phi là thị trường xuất khẩu gạo lớn thứ hai của Việt Nam sau Châu Á với sản lượng trung bình hàng năm là khoảng trên dưới 1 triệu tấn. Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam ngày càng được đa dạng và mở rộng. Trước đây, năm 1991 Việt Nam mới chỉ có quan hệ buôn bán gạo với 3 nước là Libi, Ai Cập, Angieri. Đến này thì Việt Nam đã có quan hệ xuất khẩu gạo với gần 30 nước khác nhau thuộc Châu Phi Châu Phi. Nổi lên là Nam Phi, Tãnania, Ai Cập, Nigieria, Angola, Angieri là những thị trường lớn đối với mặt hàng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Đến tháng 2/2008, xuất khẩu gạo tăng mạnh sang các thị trường châu Phi như Angola, Kenya, Tanzania, Bờ Biển Ngà Trong đó, xuất khẩu tới Angôla đạt 44 nghìn tấn với trị giá trên 20 triệu USD, tăng gần 200 lần về lượng và tăng 138 lần về trị giá so với tháng 1/2007. Tiếp đến là Kenya cũng đạt trên 26 nghìn tấn với trị giá 10,4 triệu USD, tăng 4,76 lần về lượng và tăng 5,13 lần về trị giá so với tháng 1/07; tăng 105 lần về lượng và tăng 93,65 lần về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái. Các chủng loại gạo xuất khẩu sang thị trường này ngày càng đa dạng. Trước đây, những nước Châu Phi chủ yếu nhập khẩu gạo 25% tấm, loại gạo có phẩm chất trung bình, giá rẻ, thích hợp cho những người dân nghèo, thu nhập thấp. Bên cạnh đó còn có các loại gạo 100% tấm, 15% tấm, 10% tấm, 5% tấm. Hiện nay, với sự phục hồi của một số nền kinh tế ở Châu Phi, nhu cầu đối với loại gạo 5 % tấm có phẩm chất tốt, chất lượng cao và giá trị cao đã bắt đầu tăng. Đặc biệt tiêu thụ gạo loại này chủ yếu là các nước châu Phi như Angôla (44 nghìn tấn), Kenya (21,2 nghìn tấn), Tanzania (12,8 nghìn tấn). Năm 2005, có tới 50% gạo Việt Nam xuất sang thị trường Châu Phi là loại 5% tấm, 20% là các loại gạo 15%, 15% là loại 25% tấm., còn lại 15% là các loại gạo thơm và gạo nếp. Khi thâm nhập vào thị trường các quốc gia Châu Phi, phương thức xuất khẩu của gạo Việt Nam chủ yếu là qua các trung gian. Phương thức này đã giúp các doanh nghiệp Việt Nam tránh được những rủi ro trong thời gian đầu thâm nhập thị trường vốn không ổn định và khả năng thanh toán tương đối thấp này. Tuy nhiên, mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp vẫn được quan tâm. Đối với một số quốc gia Châu phi khá phát triển như Nam Phi, Ai Cập và các quốc gia Việt Nam đã có thương vụ, có hệ thống ngân hàng tương đối phát triển và có khả năng tài chính dồi dào thì các doanh nghiệp Việt Nam thường áp dụng phương thức mở L/C. Các biện pháp xúc tiến thương mại ngày càng được chú trọng nhằm đẩy mạnh và quảng bá rộng rãi hơn nữa sản phẩm gạo của Việt Nam. Nhà nước và các cơ quan hữu quan như Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã chú trọng đến công tác này, tổ chức và tham gia các hội chợ, triển lãm ở Châu Phi, chính sách hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp thực hiện khảo sát, điều tra thị trường Châu Phi. Bên cạnh đó các chuyến thăm cấp cao giưa chính phủ Việt Nam và Chính phủ các nước Châu Phi cũng đi đến việc ký kết những hiệp định thương mại giữa hai bên với mục đích thắt chặt hơn nữa mối quan hệ hợp tác kinh tế và tạo điều kiện cho hoạt động thương mại nói chung và xuất khẩu nói riêng mà trong đó gạo là mặt hàng chiến lược. Những tồn tại và nguyên nhân 3.2.1. Những tồn tại Thứ nhất, quan hệ thương mại phát triển chậm hơn quan hệ chính trị, ngoai giao. Mặc dù đã thiết lạp quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước Châu Phi nhưng tốc độ phát triển quan hệ thương mại chưa tương xứng với tiềm năng và mong muốn của Việt Nam và các nước Châu Phi. Mặc dù, trong thời gian qua, Chính phủ đã luôn xác định Châu Phi là thị trường mới và rất nhiều tiềm năng cho hoạt động xuất khẩu gạo cũng như các loại mặt hàng khác của Việt Nam, nhưng đến nay, sau gần 20 năm, gạo của Việt Nam mới chỉ có mặt trên hơn 26 thị trường tại Châu Phi, và ở một số nước, gạo của Việt Nam còn khá mới lạ. Thị trường Châu Phi còn mới và xa lạ với khá nhiều doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Việt Nam vẫn chỉ đứng hai sau Thái Lan trong việc chiếm lĩnh thị trường gạo Châu Phi. Thứ hai, gạo xuất khẩu sang Châu Phi vẫn còn thiếu vắng các loại gạo có chất lượng và giá trị thương phẩm cao như các loại gạo thơm, gạo dẻo. Thứ ba, quy mô xuất khẩu gạo còn khá nhỏ. Các doạnh nghiệp xuất khẩu gạo nói chung và xuất khẩu sang thị trường Châu Phi nói riêng còn xuất khẩu với quy mô chưa lớn. Chính vì vậy chưa tạo được thế và lực tại thị trường này. Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Châu Phi chiếm khoảng 60% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang thị trường này. Nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Châu Phi chỉ chiếm có hơn 2% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước trong năm 2007. Thứ tư, hiệu quả xuất khẩu thấp. Do chi phí vận tải lớn lại khó kết hợp vận chuyển hai chiều nên giá thành xuất khẩu cao, mà đối với gạo là hàng nông sản, giá thấp, vì vậy, lợi nhuận thu được không cao. Thứ tư, xuất khẩu gạo còn gặp nhiều rủi ro. Ở đây muốn nói đến sự tác động của nhiều những yếu tố khác nhau như điều kiện thanh toán, môi trường xã hội, sự bất ổn định về chính trị ở một số quốc gia Châu Phi. Thứ năm, thương hiệu gạo Việt Nam vẫn chưa mạnh, chưa được biết đến nhiều như gạo Thái Lan nên sức cạnh tranh cũng vì thế mà yếu hơn. Thứ sáu, về phía Việt Nam chưa có những chính sách, biện pháp khuyến khích, hỗ trợ hấp dẫn đối với các doanh nghiệp sẽ mở rộng hoạt động kinh doanh, xuất khẩu ở Châu Phi. 3.2.2. Nguyên nhân những tồn tại trong xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Châu Phi a. Nguyên nhân khách quan Do khoảng cách về địa lý giữa Việt Nam và Châu Phi quá xa, không thực sự thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam. Điều đó dẫn đến tăng chi phí giao dịch, dịch vụ, tăng chi phí vận chuyển, mà gạo lại là hàng hóa có giá thấp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp Việt Nam còn bị cạnh tranh gay gắt bởi các đối thủ khác trong đó có Thái Lan, vì vậy, các doanh nghiệp để có thể đạt mục tiêu lợi nhuận cao thường không thực sự chú trọng thị trường Châu Phi. Cả Châu Phi và Việt Nam hầu hết đều là những nước đang phát triển, cơ sở hạ tầng và môi trường pháp lý còn thấp kém nên việc đảm bảo các điều kiện hợp đồng còn nhiều khó khăn và bất cập (thời hạn giao hàng, các thủ tục hải quan, giải quyết vi phạm). Ngày càng có nhiều các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Thái Lan,Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này. Điều này một mặt làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường, mặt khác buộc doanh nghiệp Việt Nam phải lựa chọn phương pháp và cách thức kinh doanh tai thị trường này để không gặp những rủi ro trong hoạt động xuất khẩu. b. Nguyên nhân chủ quan - Nguyên nhân thuộc về phía Việt Nam Về nhận thức, Đảng và nhà nước đã có chủ trương phát triển mạnh mẽ hợp tác thương mại với Châu Phi, khai thác tối đa các mặt hàng lợi thế của Viêt Nam. Nhưng trên thực tế, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam chưa thực sự hồ hởi với chủ trương của Chính phủ, bởi lẽ họ chưa am hiểu thị trường này, ngoài ra còn xa xôi về địa lý, yếu kém về cơ sở hạ tầng phục vụ kinh doanh, xuất khẩu, nhiều bất ổn vể kinh tế, chính trị. Thông tin về thị trường còn rất thiếu và chưa cập nhật. Các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam hiểu biết về thị trường này rất hạn chế. Nhiều nước Châu Phi chỉ được biết đến như một thị trường kinh doanh nhiều rủi ro. Hai bên chưa hiểu rõ về môi trường chính sách và luật lệ của nhau, cách thức và tập quán kinh doanh của nhau. Mặc dù, các cơ quan xúc tiến thương mại đã nỗ lực cung cấp thông tin nhưng những thông tin này chưa cập nhật thường xuyên và chỉ mang tính tham khảo, chưa chỉ tiết và đảm bảo. Cổng thương mại điện tử Việt Nam – Châu Phi cũng đã được đưa vào hoạt động nhưng khả năng cập nhật còn rất hạn chế. Chưa có hiệp hội doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo với thị trường Châu Phi nên thông tin thị trường còn thiếu, hoạt động xuất khẩu gạo cũng vì thế mà chưa thực sự tạo được thế mạnh lấn át trên thị trường này. Hệ thống các đại sứ quán và thương vụ để hỗ trợ doanh nghiệp của Việt Nam tại Châu Phi còn mỏng. Thêm vào đó, cả hai bên Việt Nam và Châu Phi còn chưa chú trọng đúng mức đối với việc xây dựng khung pháp lý cho hoạt động thương mại. Nên hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam cũng còn vị hạn chế chưa phát triển đúng với tiềm năng và chủ yếu là xuất khẩu qua trung gian là chính. Việt Nam chưa chú trọng xây dựng kho ngoại quan hoặc trung tâm thương mại ở các nước Châu Phi, chưa phát triển các trung tâm giới thiệu sản phẩm gạo của Việt Nam, do vậy làm giảm hiệu quả khai thác thị trường. Các doanh nghiệp chưa tích cực và kiên nhẫn tìm hiểu thông tin về thị trường Châu Phi, chưa phối hợp với các cơ quan thương vụ và đại sứ quán để nắm bắt được các thông tin một cách kịp thời và chính xác. Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo chưa mạnh dạn mở các kho ngoại quan, triển lãm, hội chợ riêng về sản phẩm xuất khẩu của mình để quảng bá hình ảnh gạo Việt Nam. Đa số các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam là vừa và nhỏ nên thiếu nguồn lực về tại chính để nghiên cứu sâu và thâm nhập thị trường Châu Phi một cách hiệu quả. Nền sản xuất nông nghiệp của Việt Nam tuy rằng có những bước tiến về sản lượng và xuất khẩu nhưng vẫn ở trong tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, nên sản lượng không tập trung, không thuận lợi cho việc thu gom xuất khẩu với những hợp đồng có quy mô khối lượng lớn. Ngoài ra, việc mở rộng diện tích để tăng sản lượng gạo của Việt nNam cũng rất hạn chế. Hạ tầng phục vụ sản xuất, lưu thông xuất khẩu gạo (chợ, kho chứa, bến bãi, cảng chuyên dụng) còn yếu kém, trong khi chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bến cảng của Việt Nam lại cao hơn so với các nước khác. Hon thế nữa, là một nước đang phát triển, Việt Nam cũng phải hết sức quan tâm đến vấn đề an ninh lương thực, đảm bảo cho đất nước ổn định, nên trong những giai đoạn nhất định, việc xuất khẩu gạo chỉ được giới hạn ở một mức phù hợp với điều kiện đất nước, đặc biệt với thị trường Châu Phi nơi có nhu cầu rất lớn về mặt hàng này. Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo sang Châu Phi chủ yếu qua hình thức trung gian nên thương hiệu của gạo Việt Nam không được biết đến rộng rãi. Vấn đề xây dựng thương hiệu là một vấn đề hết sức quan trọng tạo ra sức mạnh cạnh tranh cho hạt gạo Việt Nam ,nhất là trong thời kỳ hội nhập. Nguyên nhân thuộc về phía các nước Châu Phi Sự bất ổn về chính trị - xã hội ở một số nước Châu Phi. Do hậu quả của chiến tranh lạnh, xung đột nội bộ, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, tranh giành quyền lực bùng nổ ở nhiều quốc gia Châu Phi. Đây chính là lực cản đối với nỗ lực bình ổn tình hình kinh tế , chính trị của các nước Châu Phi, là điểm khiến các doanh nghiệp e ngại, giảm niềm tin đối với thị trường Châu Phi. Nhu cầu của thị trường Châu Phi đối với gạo là lớn nhưng không ổn định. Có những năm nhu cầu này rất lớn , không thể đáp ứng nổi, nhưng có những năm lại rất ít.Vì thế mà hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang đây cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc dự đoán nhu cầu của thị thị trường, Thủ tục hành chính ở một số nước Châu Phi còn rườm rà, phức tạp.Quá trình giải quyết các thủ tục giấy tờ quan liêu làm cho việc kinh doanh với các nước Châu Phi rất mất thời gian. Như thủ tục mở L/C cho xuất khẩu gạo cũng rất mất thời gian, làm nhiều doanh nghiệp nản chí. Để ký được một hợp đồng xuất khẩu trực tiếp gạo phải mất thời gian giao dịch thường là rất lâu. Bản thân chính phủ các nước Châu Phi cũng chưa quan tâm đúng mức đến việc cải thiện các vấn đề về chính sách nhằm cải thiện môi trường kinh doanh thương mại, luật pháp để góp phần mở rộng quan hệ giao thương với Việt Nam. Các doanh nghiệp của một số nước Châu Phi còn yếu về tại chính nên hoạt động nhập khẩu gạo thường yêu cẩu thanh toán theo phương thức trả chậm, ngay điều này cũng đã làm những doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam rút chân lại. Đó là những vấn để chính được đặt ra để chinh phủ và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam nỗ lực hơn nữa trong việc tìm kiếm những giải pháp nân cao sức cạnh tranh của mặt hàng gạo nhằm duy trì, mở rộng và tham gia ngày càng sâu và hiệu quả vào thị trường 54 nước Châu Phi (trong đó đã có quan hệ thương mại với 48/54 nước).Tuy nhiên những tồn tại trên chỉ mang tính nhất thời, không ảnh hưởng lớn và ngày càng có xu hướng ngày càng giảm khi Việt Nam đã là thành viên của WTO. Gần đây, trong Hội nghị các tham tán Việt Nam ở nước ngoài được tổ chức vào ngày 23, 24/1/2007 tại Hà Nội, những giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam ra thế giới trong những năm tới, trong đó Châu Phi được nhắc đến với tư cách một thị trường còn mới mẻ, cũng đã gợi mở phần nào cho doanh nghiệp những cách thức tiếp cận cũng như những phương cách hành động thích ứng đối với thị trường tiềm năng này, và gạo Việt Nam cũng phần nào tìm thấy hướng đi của riêng mình. CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG CHÂU PHI Phương hướng xuất khẩu gạo sang thị trường Châu Phi thời gian tới Trong thời gian tới, hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Châu Phi cần có những định hướng cho phù hợp với tiềm năng của cả 2 bên. Đối với Châu Phi, đây là thị trường mới, đầy triển vọng cho mặt hàng gạo của Việt Nam , với nhu cầu gạo rất lớn, do thường xuyên lâm vào tình trạng thiếu lương thực, yêu cầu không quá khắt khe về phẩm chất, lại không có quá nhiều rào cản. Đối với Việt Nam, là một nước có lợi thế về hàng nông sản mà gạo là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong chiến lược phát triển của quốc gia. Bên cạnh đó Việt Nam và một số nước Châu Phi đã có một nền tảng quan hệ ngoại giao hữu nghị truyền thống lâu năm, mối quan hệ đó đã vượt lên trên quan hệ lợi ích đơn thuần. Đó chính là cơ sở rất tôt cho việc đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường này. Lựa chọn thị trường Trong thời gian tới, Việt Nam vẫn tiếp tục coi thị trường Châu Phi là một trong những thị trường mục tiêu trong xuất khẩu gạo. Trong thời gian tới nhu cầu nhập khẩu gạo của thị trường Châu Phi được dự đoán là vào khoảng 9,6 triệu tấn? để bù đắp thiếu hụt sản lượng trong nước. Nhưng trong năm 2008 Việt Nam dự kiến chỉ xuất khẩu gạo khoảng 4,5 triệu tấn để đảm bảo an ninh lương thực. Trong đó thị trường các nước nhập khẩu nhiều ở Châu Phi là Ai Cập, Angola, Nam Phi, Angieri, Bờ Biển Ngà, Tanzania cần được chú trọng. Về khu vực thì nên tập trung vào những thị trường có nhu cầu lớn về gạo như Tây Phi (cơ cấu hàng nhập khẩu, gạo chiếm gần như tuyệt đối), tiếp đến là khu vực Đông và Nam Phi, Bắc Phi với nhu cầu nhập khẩu gạo cho tái xuất là chủ yếu. Việc lựa chọn thị trường sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam tham gia sâu hơn vào thị trường châu lục này thông qua các quốc gia hay khu vực cửa ngõ, trung chuyển hàng hóa quan trọng. Tăng cường xuất khẩu trên cơ sở hiểu biết tốt về thị trường Châu Phi Trong thời gian tới, mục tiêu phải đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, khuyến khích xuất khẩu gạo thông qua các cơ quan xúc tiến thương mại , phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, hiệp hội lương thực Việt Nam, hỗ trợ và giúp các doanh nghiệp xuất khẩu gạo thâm nhập sâu vào thị trường các nước Châu Phi. Theo đó các thông tin về chính sách, luật pháp, môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội, cạnh tranh trong lĩnh vực xuất khẩu gạo ở các nước Châu Phi phải được cung cấp đầy đủ để hạn chế, giảm thiểu những rủi ro, thua thiệt không đáng có. Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng cần tích cực tiếp cận thông tin thị trường từ phía Hiệp hội, các cơ quan tham tán, xúc tiến thương mại của Việt Nam về thị trường Châu Phi. Đa dạng hóa hình thức và phương thức thâm nhập thị trường châu Phi Trong thời gian tới, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam cần phải đa dạng hóa các hình thức xuất khẩu sang thị trường Châu Phi, từng bước chuyển hoạt động xuất khẩu dưới hình thức trung gian sang hình thức xuất khẩu trực tiếp sang thị trường Châu Phi. Hình thức gián tiếp phù hợp với thời gian đầu tham gia vào thị trường Châu Phi, tránh những rủi ro trong thanh toán hợp đồng do tình trạng kinh tế chính trị bất ổn định. Hình thức xuất khẩu trực tiếp giúp cho doanh nghiệp thu được lợi nhuận trực tiếp cao hơn, tạo được mối quan hệ bạn hàng thường xuyên hơn, tuy nhiên lại chịu rủi ro lớn hơn Vì vậy, cần đa dạng hóa các hình thức thâm nhập thị trường gạo những nước này. Tăng cường hoạt động hợp tác nhằm giải quyết vấn đề tài chính cho các nước tham gia Chương trình hợp tác này đã được thực hiện dưới hình thức 3 bên: Việt Nam – FAO – một nước Châu Phi. Điển hình là hợp tác với Senegal trong lĩnh vực nông nghiệp, trong đó có lĩnh vực thâm canh cây lúa, các kỹ thuật trồng và chăm sóc các giống lúa mới. Từ đó, Việt Nam đã nâng cao được uy tín đối với thị trường thế giới nói chung và thị trường các nước Châu Phi nói riêng về sản phẩm gạo xuất khẩu, góp phần đẩy lùi nạn đói và suy dinh dưỡng. Bởi những lợi ích mà dự án hợp tác này mang lại mà trong thời gian tới Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh việc nhân rộng mô hình hợp tác này. Ngoài những lợi ích đem lại về thị trường, những dự án này còn giúp cho Việt Nam và các nước Châu Phi giải quyết được vấn đề tài chính thông qua sự hỗ trợ của FAO. Đa dạng hóa các chủng loại gạo xuất khẩu vào Châu Phi với chất lượng ngày càng cao, tăng cường sức cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường này. Hướng hoạt động này cần phải nhắm đến nhà sản xuất trong nước. Cần mở rộng và nâng cao kỹ thuật canh tác, nâng cao năng suất lúa với chất lượng tốt và chủng loại phong phú, phù hợp với nhu cầu của thị trường trong những thời điểm khác nhau. Giải quyết vấn đề chi phí trong lưu thông xuất khẩu, vấn để thương hiệu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam so với gạo của Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc. Giải pháp tăng cường xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường Châu Phi Nhóm giải pháp từ phía Chính phủ 2.1.1. Tăng cường và nâng cao hiệu quả chính sách ngoại giao kinh tế để thâm nhập sâu hơn vào thị trường Châu Phi dưới nhiều hình thức Châu Phi và Việt Nam đã có quan hệ truyền thống tốt đẹp chủ yếu mang sắc thái chính trị đối ngoại. Nhưng các quan hệ này mới chỉ dừng lại ở việc đặt quanhệ ngoại giao thân thiện chứ chưa đạt đến tầm hợp tác phát triển lâu dài gắn với các mục tiêu kinh tế. Chính khía cạnh rất quan trọng này nhưng chưa được phát huy có hiệu quả đã làm hạn chế phát triển các quan hệ kinh tế , thương mại giữa Việt Nam và các nước Châu Phi. Chính sách ngoại giao kinh tế giữa Việt Nam và Châu Phi cần phải đảm bảo một số các nội dung sau: Khai thác có hiệu quả các quan hệ ngoại giao hiện có giữa Việt Nam và Châu Phi trên cơ sở những cam kết đã được các bên thống nhất và tiếp tục phát triển các quan hệ ngoại giao mới, mở rộng hơn quy mô và phạm vi để thúc đẩy nhanh chóng các quan hệ kinh tế - thương mại trong điều kiện mới. Quy định và phát huy chức năng phát triển các quan hệ kinh tế thương mại với nước sở tại, đặc biệt là quan hệ của các cơ quan ngoại giao của Việt Nam với các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, tài chính, thương mại, đầu tư, và các loại hình doanh nghiệp ở nước đối tác đầu tư để thu thâp thông tin, tìm kiếm đối tác đầu tư và thương mại, phát triển các giao dịch kinh doanh. Trao quyền mở rộng các quan hệ kinh tế cho các cơ quan ngoại giao và bổ sung thêm nguồn nhân lực đêt thực hiện những công việc này, tìm kiếm đối tác, đại diện ký kết được các hợp đồng, thực hiện và triển khai được các dự án đầu tư, cụ thể là trong lĩnh vực nông nghiệp. Có biện pháp hỗ trợ hợp lý theo đúng các quy định của WTO cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong nước phát triển các quan hệ buôn bán với các doanh nghiệp Châu Phi và thâm nhập sâu vào thị trường. Khuyến khích phát triển quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và các nước Châu Phi trên nguyên tắc cùng có lợi, khai thác có hiệu quả các quan hệ về lợi ích và chi phí, trên cơ sở học tập kinh nghiêm của các doanh nghiệp các nước khác đã thành công trên thị trường Châu Phi như các doanh nghiệp Trung Quốc, Thái LanCác hình thức viện trợ hàng hóa như lương thực, thực phẩm, các hình thức trao đổi chuyên gia nên được khai thác để tăng cường quan hệ giữa các bên. 2.1.2. Tạo điều kiện pháp lý thuận lợi, ổn định và vững chắc cho các doanh nghiệp Việt Nam và Châu Phi thực hiện các giao dịch xuất khẩu trên nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng cùng có lợi Để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện có hiệu quả hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng sang các đối tác Châu Phi, trước hết cần có các quy định pháp lý thuận lợi, rõ ràng, nhất quán, ổn định và cập nhật để tạo hành lang hợp pháp cho hoạt động kinh doanh. Ở đây muốn đề cập đến sự tương thích giữa các quy định pháp luật sẽ được xây dựng và ban hành ở Việt Nam với các quy định pháp luật và thông lệ quốc tế, đặc biệt là phù hợp với các cam kết trong WTO (Việt Nam và hầu hết các quốc gia Châu Phi đều đã trở thành thành viên của WTO). Các quy định pháp lý này là chỗ dựa đề các doanh nghiệp bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình khi tiến hành xuất khẩu sang thị trường nước ngoài. Các điều kiện pháp lý cần được thực hiện bao gồm: Chính phủ cần khẩn trương xây dựng Chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế - thương mại với Châu Phi đến năm 2020. Chiến lược này sẽ chủ yếu tập trung vào các vấn đề nguyên tắc và mục tiêu phát triển quan hệ kinh tế - thương mại với Châu Phi, các biện pháp chính sách cụ thể, các phương tiện , công cụ , và lộ trình thực hiện. Chiến lược này cũng cần xác định rõ thị trường trọng điểm, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Châu Phi , mà gạo là mặt hàng chủ lực truyền thống. Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động đàm phán, ký kết các hiệp định song phương và đa phương về thương mại mà Việt Nam và các nước Châu Phi chưa tham gia ký kết. Các hiệp định này cần được nghiên cứu, xây dựng, đàm phán, ký kết và triển khai thực hiện sao cho các nước Châu Phi chấp nhận mở cửa và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam. Cần quán triệt các nguyên tắc cơ bản trong thương mại quốc tế khi tiến hanh đàm phán , ký kết các hiệp định này như nguyên tắc tối huệ quốc, nguyên tắc đãi ngộ quốc gia Bổ sung và hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý và phát triển các giao dịch xuất khẩu, đầu tư, cung cấp ODA và viện trợ lương thực (gạo) dưới nhiều hình thức cho các nước Châu Phi: nhưu viện trợ xóa đói giảm nghèotừ đó cũng là một cách để người dân châu Phi biết đến gạo Việt Nam và uy tín của Việt Nam cũng được củng cố, Đơn giản hóa thủ tục hành chính trong các giao dich xuất khẩu với các nước Châu Phi, giảm tối thiểu các chi phí giao dịch để tiết kiệm thời gian đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng sang Châu Phi. Hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng hoạt động xuất khẩu gạo sang thị trường Châu Phi: + Hỗ trợ vể tài chính: Về thuế: thực hiện việc giảm thuế hoặc hoàn thuế phù hợp với cam kết khi gia nhập WTO của Việt Nam trong một thời gian nhất định đối với các doanh nghiệp xuất khẩu sang Châu Phi để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này tiếp cận thuận lợi hơn với thị trường có khoảng cách khá xa về địa lý như Châu Phi. Áp dụng mức thuế thu nhập doanh nghiệp thấp đối với những doanh nghiệp xuất khẩu đang trong giai đoạn đầu khai thác thị trường châu Phi, để khuyến khích xuất khẩu Hỗ trợ các điều kiện kinh doanh: Đối với những doanh nghiệp lần đầu tiên tham gia thị trường Châu Phi, sự trợ giúp có thể là các khoản chi phí vé máy bay, tiền sinh hoạt , chi phí thuê gian hàng trong hội chợ, triển lãmĐặc biệt, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ như các doanh nghiệp xuất khẩu gạo thì sự hỗ trợ này là rất quan trọng để doanh nghiệp có đủ khả năng tham gia xuất khẩu gạo với các đối tác Châu Phi vốn có rủi ro trong thanh toán rất cao. Các chính sách hỗ trợ của chính phủ đối với hoạt đông xuất khẩu gạochủ yếu là: đảm bảo hiệu quả lâu dài, thủ tục xuất khẩu đơn giản, không gây chậm trễ, phiền hà đối với doanh nghiệp. nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến thương mại như tổ chức đoàn đi khảo sát thị trường Châu Phi, hỗ trợ 100% kinh phí trong chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia thay vì mức hỗ trợ 50% như hiện nay nhằm giúp doanh nghiệp có kinh phí tham gia hội chợ, quảng bá cho sản phẩm gạo Việt Nam. Để tạo điều kiện thuận lợi cho phương thức thanh toán khi giao dịch hàng hóa nói chung và gạo nói riêng với Châu Phi, Chính phủ cần khuyến khích các doanh nghiệp thúc đẩy mô hình hợp tác thương mại đa chiều, tránh tình trạng lệ thuộc vào các công ty trung gian như xuất khẩu gạo hiện nay của Việt Nam. + Hỗ trợ về thông tin: Đầu tư lớn vào việc xây dựng hệ thốnh thônh tin, phát huy vai trò của các trung tâm thông tin của các cơ quan, trung tâm thông tin như trung tâm thông tin Bộ thương mại, thông tin từ diễn đàn Châu Phi, mạng thông tin của các doanh nghiệp, thông tin từ các cơ quan quản lí nhà nước khác, thông tin từ các đại sứ quán các nước Châu Phi tại Việt Nam và của đại sứ quán Việt Nam tại các nước Châu PhiXây dựng cơ sở dữ liệu thông tin về thị trường gạo Châu Phi một cách có hệ thống , cập nhật và phù hợp để doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam có thể tham gia vào thị trường này một cách thuận lợi, giảm thiểu rủi ro,bởi nhu cầu gạo của thị trường Châu Phi thường không ổn định do tác động của các yếu tố điều kiện tự nhiên cho sản xuất nông nghiệp,mùa vụ, các yếu tố chính trị xã hội bất ổn. + Hỗ trợ về đào tạo: đào tạo đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm làm việc với các đối tác Châu Phi, bồi dưỡng về ngoại ngữ cho đội ngũ các cán bộ làm việc với đối tác Châu Phi; phát triển đội ngũ các chuyên gia chuyên sâu về thị trường Châu Phi. Hình thành một đội ngũ chuyên gia am hiểu về lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản ở từng thị trường Châu Phi. 2.1.3. Mở rộng khai thác và sử dụng có hiệu quả các thị trường trung chuyển xuất khẩu gạo nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Châu Phi. Đối với thị trường Châu Phi, hiện nay doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam thực hiện hoạt động kinh doanh chủ yếu dưới 2 hình thức là : xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu qua trung gian. Tuy nhiên đa số các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng tiếp cận và xâm nhập thị trường thế giới còn hạn chế, các nước Châu Phi thường yêu cầu phương thức trả chậm nên có rất nhiều rủi ro, nên ít nhất là trong vài năm tới việc xuất khẩu trực tiếp gạo đến nhiều hơn các nước Châu Phi của Việt Nam mới có thể phổ biến; còn hiện nay, gạo Việt Nam vẫn phải xuất khẩu qua trung gian. Chính vì vậy mà vai trò của thị trường trung gian trung chuyển hàng hóa là vô cùng quan trọng trong chiến lược phát triển thị trường gạo Việt Nam ở châu lục này. Đây là các trung gian phân phối sản phẩm gạo của Việt Nam tới những thị trường khác ở Châu Phi. Đối với sản phẩm gạo thì cần tập trung vào thị trường Nam Phi, Ai Cập, Angola. Đây đều là những thị trường lớn ở Châu Phi, và là đầu mối trung chuyển chủ yếu ở đây. Từ Nam Phi, gạo Việt Nam có thể vào thị trường các nước thuộc khu vực Đông và Nam Phi, từ Ai Cập vào khu vực Bắc Phi, từ Angola có thể vào khu vực Trung Phi. Về lâu dài khi có đủ tiềm lực về tài chính và sức cạnh tranh, doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần phải hướng tới xây dựng các kênh phân phối trực tiếp tại các nước Châu Phi hoặc tại một số thị trường trọng điểm với tư cách là đầu mối, cầu nối với các nước Châu Phi, nhằm khẳng định thương hiệu của gạo Việt Nam tại thị trường Châu Phi. 2.1.4. Áp dụng rộng rãi hình thức “hàng đổi hàng” trong xuất khẩu gạo sang Châu Phi Hình thức buôn bán này là một trong những hình thức buôn bán ngoại thương nhưng chưa được sử dụng phổ biến. Đối với thị trường Châu Phi, như đã phân tích ở trên, đây là thị trường còn không ít khó khăn đối với doanh nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu gạo sang. Một trong những khó khăn đó là khả năng thanh toán yếu, do tài chính eo hẹp. Hơn nữa, do sự bất ổn định của khu vực về chính trị, về mâu thuẫn và chiến tranh sắc tộc, nội chiếnnên trong một chừng mực nhất định, nếu buôn bán mà không được thanh toán nhanh và chắc chắn thì khả năng rủi ro rất cao. Để có thể khắc phục được khó khăn trên thì ngoài việc xuất khẩu trực tiếp gạo sang những nước có cơ quan đại diện, có quan hệ truyền thống, thuận lợi và ổn định kinh doanh trong nhiều năm như Nam Phi, Ai Cập, Angieri, có thể áp dụng phương thức xuất khẩu gián tiếp mà ta đang sử dụng phổ biến hiện nay, hay có thể áp dụng rộng rãi hình thức hàng đổi hàng. Chẳng hạn như Tanzania là đất nước có nhiều nguyên liệu gỗ, hạt điều,trong khi đó ngành công nghiệp chế biến gỗ và hạt điều của họ lại chưa phát triển, nhưng đây lại là đất nước có nhiều bất ổn về chính trị. Do đó, Việt Nam có thể xuất khẩu gạo sang thị trường này và đổi lấy gỗ hay hạt điều nguyên liệu cho ngành chế biến, sản xuất trong nước. Hình thức “hàng đổi hàng”, là giải pháp có tính khả thi, hiệu quả cao và dễ áp dụng, đồng thời góp phần khắc phục được những hạn chế chủ yếu trong khẩu thanh toán giữa hai bên. 2.1.5. Nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại vào thị trường Châu Phi Một là, nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại tại các thị trường trọng điểm tại Châu Phi Mặc dù hiện nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 48/54 quốc gia Châu Phi nhưng hoạt động xuất khẩu gạo mới tiến hành ở hơn 26 nước. Việt Nam mới chỉ có 7 cơ quan đại diện thường trú ngoại giao (Ai Cập, Angieri, Libi, Angola, Nam Phi, Tanzania, Marốc), 4 cơ quan thường vụ (Ai Cậo, Angieri, Nam Phi, Marốc). Cần phải sớm thành lạpp thêm các cơ quan đại diện ngoại giao, các thương vụ tại một số nước Châu Phi mà hiện nay Việt Nam chưa có trụ sở, mà lại có quan hệ xuất khẩu gạo. Các cơ quan thương cụ cần phải sớm mở là: Nigieria, Senegal, Tanzania, Ghana, Liberia, Bờ Biển Ngà, Angola, Libi, đây được coi là những cửa ngõ, đầu mối trong quan hệ giữa các tiểu lục địa ,để gạo Việt Nam có thể vào sâu Châu Phi. Tại mỗi thị trường trọng điểm, có tiềm năng lớn hơn các thị trường khác cần xây dựng một số trung tâm giới thiệu sản phẩm gạo của Việt Nam để truyền bá sản phẩm, cung cấp thông tin về thị trường và doanh nghiệp, tìm kiếm và giao dịch với khách hàng. Ở những nước có trình độ kinh tế tương đối phát triển, hệ thống ngân hàng, tài chính tương đối lành mạnh, Chính phủ cần thương lượng để mở L/C cho các doanh nghiệp, hạn chế những khó khăn về khoảng cách xa xôi trong thanh toán và vận chuyển, dẫn đến giá thành và chi phí cao cho các doanh nghiệp. Hỗ trợ các doanh nghiệp, hiệp hội xuất khẩu gạo trong việc thăm dò và khảo sát thị trường, mở triển lãm, quảng bá cho gạo Việt Nam. Mức hỗ trợ này nên cao hơn so với các thị trường khác do tính chất của thị trường Châu Phi và tính cấp thiết của việc thâm nhập thị trường này của gạo xuất khẩu Việt Nam. Hai là, quan tâm đến việc nâng cao vai trò và năng lực xúc tiến thương mại của các hiệp hội. Trong lĩnh vực xuất khẩu gạo thì nước ta có Hiệp hội lương thực Việt Nam. Đây là cầu nối giữa doanh nghiệp với Nhà nước và giữa các hiệp hội với nhau. Vì thế Nhà nước cần sớm ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của các Hiệp hội và quan tâm hỗ trợ cho Hiệp hôi thực hiện tốt chức năng của mình. Các biện pháp đẩy mạnh xúc tiến thương mại của Hiệp hội đối với hoạt động xuất khẩu gạo sẽ được trình bày ở phần sau. 2.1.6. Mở rộng việc áp dụng hình thức đầu tư để phát triển hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang Châu Phi. Đây được coi là một trong những giải pháp mới và rất có triển vọng trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Ngoài các hình thức xuất khẩu gạo vẫn thường dùng từ trước tới nay là XK trực tiếp và XK qua trung gian, đầu tư trực tiếp là một hình thức mới xuất hiện và được một số ít doanh nghiệp Việt Nam thực hiện trong vài năm gần đây. Thị trường Châu Phi đang nổi lên như một khu vực đang thiếu trầm trọng -vốn đầu tư, trình độ khoa học – công nghệ nhìn chung còn lạc hậu, nguồn nhân lực ở trình độ thấp. Đặ biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, những quốc gia Châu Phi thường xuyên lâm vào tình trạng mất mùa, thiếu lương thực, năng lực sản xuất trong nước không đáp ứng nổi nhu cầu ngày một tăng. Tuy nhiên tiềm năng của ngành nông nghiệp Châu Phi là khá lớn. Với những kinh nghiệm truyền thống, tiềm năng và thế mạnh của mình trong sản xuất nông nghiệp, các doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện mạnh mẽ việc đầu tư vào sản xuất nông nghiệp vào Châu Phi để tranh thủ tiềm năng và cơ hội ở các nước Châu Phi mang lại. Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát tình hình sản xuất nông nghiệp ở nhiều nước Châu Phi, một số chuyên gia nông nghiệp Việt Nam khẳng định rằng Việt Nam hoàn toàn có thể đầu tư kỹ thuật, chuyên viên và nông dân tiên tiến sang Châu Phi để giúp các nước Châu Phi cải thiện nhanh chóng tình trạng thiếu lương thực triền miên. Trên cơ sở đó, Việt Nam co thể xuất khẩu gạo từ Châu Phi. Giáo sư Võ Tòng Xuân đã nghiên cứu và khảo sát về khả năng sản xuất lương thực tại Sierra Leone (Tây Phi), và nhận ra điều kiện sản xuất nông nghiệp của nước này khá giống với vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam, nhưng nước này lại đang thiếu lương thực trầm trọng do những hạn chế trong trình độ sản xuất. Phó tổng thống nước Sierra Leon, khi nghe trình bày nghiên cứu của giáo sư Võ Tòng Xuân trình bày kết quả nghiên cứu về tiềm năng sản xuất lương thực của nước này đã thốt lên rằng: “Tôi bất ngờ là đât nước Sierra Leone của chúng tôi lại có những khả năng tiềm ẩn đó. Nếu Việt Nam giúp đất nước tôi thử nghiệm tổ chức áp dụng kỹ thuật sản xuất lương thực theo kỹ thuật của đồng bằng Cửu Long thì không những nông dân Sierra Leone sẽ được no ấm, nước Sierra Leone được an toàn lương thực mà Việt Nam còn có thể cùng Sierra Leone xuất khẩu gạo trực tiếp từ cảng Freetown của Sierra Leone đến các nước Tây Phi” (theo báo Thanh Niên ngày 17/6/2006). Từ những lợi ích của hoạt động này mà Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông nghiệp, Bộ khoa học và công nghệ cần có chương trình nghiên cứu để hỗ trợ thúc đẩy việc đầu tư vào nông nghiệp ở một số nước Châu Phi nhằm góp phần xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an ninh lương thực cho các nước này và từ đó, Việt Nam có thể xuất khẩu gạo từ chính các nước Châu Phi, đồng thời nâng cao ảnh hưởng của Việt Nam trên thị trường Châu Phi. 2.1.7. Bên trong nước Chính phủ cần định hướng, quy hoạch các vùng sản xuất lúa riêng, cung cấp những giống mới chất lượng tốt, năng suất cao, truyền đạt kinh nghiệm sản xuấtTheo đó, gạo Việt Nam xuất khẩu sẽ tạo được vùng nguyên liệu đủ lớn để có thể chủ động về sản lượng xuất khẩu và đặc biệt chất lượng gạo đồng đều và thuần chủng. Đây vốn là điểm khiến Việt Nam chưa thể cạnh tranh được với Thái Lan trong lĩnh vực xuất khẩu gạo. Nếu khắc phục được vấn đề này sức cạnh tranh của gạo Việt Nam sẽ được nâng cao và có được uy tín trên thị trường nước ngoài. Nhóm các biện pháp từ phía Hiệp hội Hiệp hội đại diện cho các mặt hàng lương thực như gạo, ngôVới vai trò là cầu nối giữa doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này với Nhà nước và giữa các doanh nghiệp với nhau, Hiệp hội lương thực sẽ phản ánh chính xác nhanh chóng hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh lương thực, cụ thể ở đây là doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam, tới các cơ quan quản lý nhà nước trong việc hoạch định và thực thi các chính sách phù hợp. Vai trò của hiệp hội trong vấn đề giải quyết kiện cáo, điều tiết thu hoạch gạo, đưa ra các tiêu chuẩn về gạo để bảo vệ cho quyền lợi cho hội viên là rất quan trọng. Hiệp hội xác định phương hướng, kế hoạch sản xuất gạo, tiêu thụ sản phẩm, thay mặt hội viên trong các vụ tranh tụng, phổ biến khoa học, kỹ thuật canh tác, cung cấp thông tin thị trường, hỗ trợ xúc tiến thương mại cho các hội viên. - Một trong những việc quan trọng mà Hiệp hội phải làm để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước là xúc tiến thương mại. Đển đây mạnh hoạt động xuất khẩu sang thị trường Châu Phi, Hiệp hội lương thực Việt Nam cần nâng cao hiệu quả của hoạt động xúc tiến thương mại bằng các biện pháp sau: Thứ nhất, Hiệp hội phải xây dựng được website chủ, đại diện cho các thành viên của mình quảng cáo về mặt hàng gạo kinh doanh, cũng như khả năng sản xuất kinh doanh, thu hút các đối tác trong và ngoài nước. Trang website chủ của Hiệp hội còn có tác dụng rất lớn trong việc lôi kéo sự tập trung chú ý và truy cập của các đối tác Châu Phi với mặt hàng gạo xuất khẩu của Việt Nam, qua đó họ sẽ đến với các thành viên của Hiệp hội nhanh hơn. Thứ hai, Hiệp hội nên thiết lập ít nhất một văn phòng đại diện tại một thị trường trọng điểm để thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại đối với gạo xuất khẩu, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các cơ quan đại diện ngoại giao, thương vụ trong việc thực hiện các hoạt động nghiên cứu thị trường, tìm kiếm và tư vấn sản phẩm có thể được gợi ý để trao đổi trong xuất khẩu gạo với hình thức “hàng đổi hàng” cho các thành viên xuất khẩu gạo của hiệp hội. - Hiệp hội cần tập trung cung cấp thông tin về thị trường gạo Châu Phi, nghiên cứu lập chi nhánh đại diện ở một số nước châu Phi trọng điểm trong xuất khẩu gạo của Việt Nam như Nam Phi, Ai Cập để nắm bắt và xử lý các vấn đề nảy sinh từ thị trường các nước Châu Phi khác nhập khẩu gạo của Việt Nam thông qua những nước này. - Ngoài ra, Hiệp hội cần vận động và khuyến khích thành lập quỹ phòng chống rủi ro đối với ngành hoặc từng khu vực thị trường , nhất là đối với sản phẩm ngành hàng quan trọng, khối lượng xuất khẩu lớn, mang nặng tính thời vụ, chịu sự chi phối nhiều của thị trường thế giới như gạo. Nhóm giải pháp từ phía doanh nghiệp 2.3.1. Đẩy mạnh xuất khẩu gạo đối với các thị trường trọng điểm Những thị trường trọng điểm được coi là “cửa ngõ” vào Châu Phi, là đầu mối của các quan hệ thương mại của Châu Phi với các trung tâm thương mại lớn trên thế giới, được xác định là các thị trường: Ai Cập, Nam Phi, Angieri, Ghana, Nigieria, Tanzania, Angola, Bờ Biển Ngà, Marốc. Trong đó, các thị trường trọng điểm của gạo xuất khẩu là : Nam Phi, Angieri, Tanzania, Nigieria, Angola, Bờ Biển Ngà. Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam cần coi những thị trường này là điểm tựa để các doanh nghiệp có thể phát triển sang các thị trường khác ở Châu Phi. Tuy vậy, để thành công trong hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp cần kiên trì hơn trong việc làm ăn với thị trường Châu Phi. Cần linh hoạt trong việc tìm kiếm những thị trường còn bỏ ngỏ mà các doanh nghiệp Âu-Mỹ, Thái Lan và Trung Quốc còn chưa quan tâm đến. 2.3.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam trên thị trường Châu Phi Hầu hết những doanh nghiệp đã tiến hành xuất khẩu và làm ăn với các đối tác Châu Phi đều cho rằng kiên trì là yếu tố đầu tiên quyết định thành công trên thị trường này. Do vậy, chỉ những doanh nghiệp xác định làm ăn và có kế hoạch xuất khẩu lâu dài mới nên thâm nhập thị trường Châu Phi. Xác định đối thủ cạnh tranh trực tiếp Đối thủ cạnh tranh trực tiếp trong lĩnh vực xuất khẩu gạo vào thị trường Châu Phi cũng như thị trường các nước khác trên thế giới.Thái Lan là quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới với sản lượng lớn, chất lượng cao, đồng đều. Bên cạnh đó Chính phủ Thái Lan cũng có những chính sách thúc đẩy hơn nữa sản xuất gạo để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của các khách hàng, đồng thời củng cố địa vị dẫn đầu trong thị trường gạo thế giới nói chung và Châu Phi nói riêng. Xác định các đoạn thị trường mục tiêu Việc xác định đúng đoạn thị trường mục tiêu, phù hợp với khả năng và điều kiện sản xuất của Việt Nam là yếu tố quan trọng để tạo được bước đệm,nền tảng vững chắc khi bắt đầu thâm nhập bất cứ thị trường nào, không chỉ thị trường gạo ở Châu Phi. Đoạn thị trường đầu tiên mà các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam hướng đến là những người tiêu dùng có thu nhập thấp, nhu cầu nhiều nhưng lại không đòi hỏi quá khắt khe về phẩm chất. Khi đã tạo dựng được cơ sở thì bản thân doanh nghiệp cũng như khách hàng sẽ tiến lên đoạn thị trường cao hơn, với yêu cầu cao hơn, khắt khe hơn. Phân tích và lựa chọn chiến lược Các doanh nghiệp cần phải xác định thị trường Châu Phi là thị trường tiềm năng hơn là thị trường trước mắt. Nhất là đối với mặt hàng gạo, luôn là mặt hàng có nhu cầu nhập khẩu lớn nhất ở các nước Châu Phi này. Vì vậy, các doanh nghiệp muốn khai thác có hiệu quả thị trường này thì cần phải có chiến lược kinh doanh phù hợp, tránh tình trạng kinh doanh chụp giật, tự phát, ngắn hạn. Đối với những nước có hệ thống ngân hàng tương đối phát triển, Việt Nam đã có cơ quan thương vụ / ngoại giao thì có thể thực hiện chiến lược xuất khẩu trực tiếp, lựa chọn đối tác mở L/C. Còn đối với những nước nhỏ, bất ổn về kinh tế và chính trị, khả năng thanh toán kém thì nên dùng chiến lược xuất khẩu qua trung gian, hoặc “hàng đổi hàng”. Lựa chọn phương thức kinh doanh thích ứng với điều kiện của tứng nước Châu Phi Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam cần phải tiến hành xây dựng những kênh riêng để đưa gạo Việt Nam vào Châu Phi. Các doanh nghiệp có thể lựa chọn phương thức xuất khẩu gạo vào Châu Phi qua một tổ chức, nước trung gian để tránh tình trạng thiếu vốn hoặc giá trị hàng hóa không đủ đáp ứng chi phí vận chuyển, tiếp thị, quảng cáo. Với những nước mà Việt Nam đã mở cơ quan ngoại giao, thương vụ như Nam Phi, Ai Cập, Angola, Angieri, và những nước có hệ thống ngân hàng tương đối phát triển như Marốc, Tuynidy, các doanh nghiệp Việt Nam có thể tìm cách xuất khẩu gạo trực tiếp. Tuy nhiên để có thể đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp sang Châu Phi, các doanh nghiệp cần phải đáp ứng được 2 điều: giao hàng và thanh toán. Để tránh tình trạng các nước Châu Phi nhập khẩu với số lượng nhỏ và thanh toán chậm, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của ta phải xây dựng các kho dự trữ, tích cực làm thủ tục mở L/C, hoặc dựa trên các đối tác tin cậy để thanh toán. Đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực nông nghiệp của Châu Phi: Căn cứ vào thực tế các nước châu Phi luôn lâm vào tình trạng thiếu lương thực trầm trọng, nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển, việc các doanh nghiệp Việt nam tiến hàng đầu tư vào nông nghiệp các nước này sẽ một mặt giải quyết được vấn đề an ninh lương thực cho họ, vừa làm tăng uy tín của doanh nghiệp trong quá trình làm ăn buôn bán ở đây. Ngoài ra việc đầu tư trực tiếp vào nông nghiệp Châu Phi như vậy cũng sẽ mở ra cơ hôi cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo ngay từ các nước Châu Phi, góp phần khắc phục khó khăn về khoảng cách địa lý, tiết kiệm được chi phí vận chuyển, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Xây dựng hệ thống kho ngoại quan Kho ngoại quan là giải pháp nhằm khắc phục khoảng cách địa lý và rủi ro trong thanh toán khi doanh nghiệp xuất khẩu gạo sang Châu Phi. Kho hàng ngoại quan cho phép đáp ứng những lô hàng nhỏ, từ đó giảm thiểu chi phí vận chuyển. Đồng thời, nó tạo điều kiện cho việc thanh toán trực tiếp bằng L/C, đả bảo an toàn kinh doanh cho doanh nghiệp. Đây cũng là phương thức phù hợp với tập quán làm ăn, kinh doanh của Châu Phi là “nhìn thấy hàng mới ngã giá và trả tiền, mua đến đâu tiêu thụ đến đấy”. Các doanh nghiệp cần dự báo và nắm bắt được nhu cầu và khả năng cung ứng trên thị trường để có quyết định lượng gạo lưu kho ngoại quan. Đồng thời chủ động phát triển mạng lưới phân phối ,tiêu thụ gạo tại địa phương lân cận. Thực hiện phương thức “hàng đổi hàng”. Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo có thể kết hợp với các doanh nghiệp nhập khẩu các hàng hóa từ Châu Phi (thường là sản phẩm thô cho công nghiệp chế biến) tạo thành cặp đôi “hàng đổi hàng”. Doanh nghiêp sẽ xuất khẩu gạo sang một nước Châu Phi và đổi lấy một mặt hàng khác (gỗ, điều, bông) cho doanh nghiệp có nhu cầu nhập khẩu sản phẩm đó. Như vậy sẽ khắc phục được những điểm hạn chế trong thanh toán ở các nước Châu Phi. Đa dạng hóa hình thức xúc tiến thương mại thích ứng với thị trường Châu Phi Một điểm đặc biệt là các đối tác Châu Phi rất khó tiếp cận nếu chỉ thông qua các hội chợ triển lãm. Điều mà rất nhiều nhà doanh nghiệp Châu Phi cọi trọng đó là việc gặp gỡ trực tiếp đối tác. Vì vậy, một hình thức xúc tiến thương mại với thị trường Châu Phi mà các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam cần quan tâm là tổ chức các đoàn xúc tiến thương mại quy mô nhỏ với khoảng 5-6 doanh nghiệp để tiếp cận trực tiếp với các đối tác Châu Phi hơn là hội thảo hay diễn đàn quy mô lớn. Tăng cường liên kết các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Hiệp hội là một hình thức liên kết giữa các doanh nghiệp cùng tiến hành hoạt đôngj xuất khẩu gạo sang thị trường Châu Phi, nhằm hỗ trợ lẫn nhau, chia sẻ kinh nghiệm, tạo thế lực mạnh hơn trong xuất khẩu hàng hóa. Đa dạng hóa chủng loại gạo xuất khẩu đi đôi với tăng cường các hoạt động marketing và xây dựng thương hiệu Trong thời gian tới, nhu cầu của người tiêu dùng gạo của châu Phi sẽ ngay một khắt khe và đa dạng, phong phú hơn. Vì thế cần nghiên cứu và phát triển các chủng loại, giống lúa mới có chất lượng, đa dạng hóa các chủng loại gạo xuất khẩu để phục vụ cho thị trường trong tương lai. Xây dựng thương hiệu phù hợp cho gạo Việt Nam Công việc này đòi hỏi phải kiên trì xây dựng thương hiệu, tạo niềm tin với các khách hàng và đối tác. Chủ động đăng kí bản quyền thương hiệu với các cơ quan chức năng sở tại cũng là vấn đền hết sức quan trọng. Các hoạt động quảng bá khác như mở các trung tâm thương mại, các cửa hàng giới thiệu sản phẩm với quy mô phù hợp nhằm giới thiệu gạo Việt Nam đến với thị trường. Các doanh nghiệp cũng cần phải thực hiện hiệu quả hơn công tác khảo sát trực tiếp các thị trường gạo của Châu Phi. Các doanh nghiệp cũng cần thường xuyên phối hợp với cơ quan xúc tiến thương mại, để tham gia một số hội chợ triển lãm Đổi mới cải tiến công nghệ Để tiếp tục hạ giá thành gạo và nâng cao chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp phải thực hiện tốt các công tác tiêu chuẩn hóa, kiểm tra chất lượng, đóng gói và dán nhãn hàng gạo Việt Nam. Tuy nhiên trong dài hạn thì biện pháp đổi mới cải tiến công nghệ sản xuất sẽ đóng góp tích cực cho việc giảm thiểu chi phí cho doanh nghiệp. Phát triển nguồn nhân lực Nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong làm ăn với nước ngoài thì yếu tố con người mang tính then chốt. trong quá trình tiếp nhận và thâm nhập thị trường Châu Phi, các doanh nghiệp xuất khẩu cần chú ý đạo tạo và hoàn thiện các kỹ năng về ngoại thương, đàm phán, nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học, nghiệp vụ Marketing, thu thập và xử lý thông tin, hiểu biết sâu về mặt hàng gạo. Tăng cường , phát huy mối quan hệ với kiều bào ở các nước Châu Phi Tuy không đông đảo như Việt kiều ở các châu lục khac như châu Âu, châu Mỹ nhưng kiều bào ở Châu Phi vẫn là lực lượng khá quan trọng giúp các doanh nghiệp trong việc tìm hiểu thị trường, tìm kiếm đối tácCác doanh nghiệp cần phải biết tận dụng và phát huy cũng như duy trì các mối quan hệ với kiều bào ở Châu Phi để thâm nhập sâu vào thị trường Châu Phi. Nhìn chung triển vọng phát triển thị trường ở Châu Phi là rất sáng sủa khi các chính sách thương mại của Việt Nam đối với thị trường này được sửa đổi và điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. Châu Phi hiện đang là một thị trường tiềm năng của xuất khẩu gạo- một lợi thế của nước ta, mà thị trường Châu Phi không khắt khe như thị trường các khu vực khác. Phát triển thị trường Châu Phi trong thời gian tới sẽ góp phần thực hiện mục tiêu hội nhập kinh tế của Việt Nam , tạo điều kiện để Việt Nam giữ vứng vị trí là một quốc gia xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. KẾT LUẬN Châu Phi – lục địa đen như một người khổng lồ đang thức tỉnh sau mấy chục năm dài bất ổn, làn sóng khủng hoảng trong châu lục đang có phần lắng dịu. Xu hướng liên kết, hợp tác, hòa bình đối thoại, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội ngày càng tăng, trở thành xu thế chung trong quan hệ kinh tế quốc tế và Châu Phi không nằm ngoài xu thế đó. Châu Phi là thị trường với 54 quốc gia, dân số trên 850 triệu người nhưng vấn đề lương thực luôn luôn là vấn đề cấp thiết vì tình trạng thiếu lương thực ở đây rất trầm trọng. Chính vì thế nhu cầu nhập khẩu gạo của Châu Phi là rất lớn. So với các thị trường khác, thị trường Châu Phi khá dễ tính, không đòi hỏi quá khắt khe về chất lượng và mẫu mã. Điều này rất phù hợp với khả năng sản xuất và xuất khẩu gạo của nước ta. Với nền tảng là quan hệ thương mại Việt Nam – châu Phi, hoạt động xuất khẩu gạo cũng đang được quan tâm để khai thác được hết những thê mạnh của Việt Nam và tiềm năng của thị trường Châu Phi. Nhằm nâng cao tính thực tiễn của vấn đề nghiên cứu, góp phần đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường tiềm năng này, tôi chủ yếu tập trung vào quan hệ xuất nhập khẩu gạo của Việt Nam - Châu Phi trong thời gian qua. Trên cơ sở đó đánh giá những kết quả và tồn tại, từ đó đưa ra một số định hướng và giải pháp tăng cường xuất khẩu gạo của Việt Nam sang châu lục này trong tương lai.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7353.doc
Tài liệu liên quan