Tiểu luận Thực trạng và phương pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh trong các doanh nghiệp

Hiệu quả kinh doanh là một vấn đề đa dạng và phức tạp, trong thời gian và khả năng cho phép. Bài viết này của em đã hoàn thành các nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Trình bày khái quát nội dung của vấn đề hiệu quả kinh doanh như các quan niệm về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, phương pháp dùng để phân tích hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là cơ sở và lý luận cho việc đánh giá và phân tích hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp. Qua việc phân tích đó em đã tổng hợp được các nguyên nhân ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp và nêu ra các kiến nghị và giải pháp nhằm duy trì và nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong những năm tiếp theo. Tuy còn nhiều vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện, song các giải pháp đưa ra trong bài viết này nhằm mục đích duy trì và nâng cao hiệu quả kinh doanh ở các doanh nghiệp là phù hợp với điều kiện cụ thể và khả năng của các doanh nghiệp.

doc29 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 583 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng và phương pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh trong các doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệm sự nhạy bén với thị trường... Với nhận thức đó em chọn đề tài "Thực trạng và phương pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh trong các doanh nghiệp" cho bài tiểu luận của mình . Trong quá trình hoàn thành bài viết này, do thời gian có hạn nên bài tiểu luận của em không tránh khỏi sai sót, em rất mong được sự góp ý của các thầy các cô và các bạn để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Phần nội dung I- hiệu quả kinh doanh và vai trò của nó đối với các doanh nghiệp 1- Các quan điểm về hiệu quả kinh doanh bản chất của hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp. a) Các quan điểm về hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp nhằm thu được kết quả cao nhất với một chi phí thấp nhất. Hiệu quả kinh doanh không chỉ là thước đo trình độ tổ chức quản lý kinh doanh mà hiệu quả kinh doanh là vấn đề sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh doanh. Tuỳ theo từng lĩnh vực nghiên cứu mà người ta đưa ra các quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh doanh. Dưới đây là một số quan điểm về hiệu quả kinh doanh: Nhà kinh tế học người Anh, Adam Smith, cho rằng: "Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, doanh thu tiêu thụ hàng hoá" (Kinh tế thương mại dịch vụ- Nhà xuất bản Thống kê 1998). Theo quan điểm này của Adam Smith đã đồng nhất hiệu quả với chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh. Hạn chế của quan điểm này là kết quả sản xuất kinh doanh có thể tăng lên do chi phí sản xuất tăng hay do mở rộng sử dụng các nguồn lực sản xuất. Nếu với cùng một kết quả sản xuất kinh doanh có hai mức chi phí khác nhau thì theo quan điểm này cũng có hiệu quả. Quan điểm này chỉ đúng khi kết quả sản xuất kinh doanh tăng với tốc độ nhanh hơn tốc độ tăng của chi phí đầu vào của sản xuất. Quan điểm thứ hai cho rằng: "Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỉ lệ giữa phần tăng thêm của phần kết quả và phần tăng thêm của chi phí", (Kinh tế thương mại dịch vụ - Nhà xuất bản Thống kê 1998). Quan điểm này đã xác định hiệu quả trên cơ sở so sánh tương đối giữa kết quả đạt được với phần chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Nhưng xét trên quan niệm của triết học Mác-Lênin thì sự vật hiện tượng đều có quan hệ ràng buộc có tác động qua lại lẫn nhau chứ không tồn tại một các riêng lẻ. Hơn nữa sản xuất kinh doanh là một quá trình tăng thêm có sự liên hệ mật thiết với các yếu tố có sẵn. Chúng trực tiếp hoặc gián tiếp tác động làm kết quả sản xuất kinh doanh thay đổi. Hạn chế của quan điểm này là nó chỉ xem xét hiệu quả trên cơ sở so sánh phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí, và nó không xem xét đến phần chi phí và phần kết quả ban đầu. Do đó theo quan điểm này chỉ đánh giá được hiệu quả của phần kết quả sản xuất kinh doanh mà không đánh giá được toàn bộ hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quan điểm thứ ba cho rằng: "Hiệu quả kinh doanh được đo bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó", (Kinh tế thương mại dịch vụ- Nhà xuất bản Thống kê 1998). Quan niệm này có ưu điểm là phản ánh được mối quan hệ bản chất của hiệu quả kinh tế. Nó gắn được kết quả với toàn bộ chi phí, coi hiệu quả là sự phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố sản xuất kin doanh. Tuy nhiên quan điểm này chưa phản ánh được tương quan về lượng và chất giữa kết quả và chi phí. Để phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực chúng ta phải cố định một trong hai yếu tố hoặc kết quả đầu ra hoặc chi phí bỏ ra, nhưng trên thực tế thì các yếu tố này không ở trạnh thái tĩnh mà luôn biến đổi và vận động. Quan điểm thứ tư cho rằng: "Hiệu quả kinh doanh là mức độ thoả mãn yêu cầu quy luật cơ bản của chủ nghĩa xã hội, cho rằng quỹ tiêu dùng với tư cách là chỉ tiêu đại diện cho mức sống của mọi người trong doanh nghiệp", (Kinh tế thương mại dịch vụ-Nhà xuất bản Thống kê 1998). Quan điểm này có ưu điểm là bám sát mục tiêu tinh thần của nhân dân. Nhưng khó khăn ở đây là phương tiện đó nói chung và mức sống nói riêng là rất đa dạng và phong phú, nhiều hình nhiều vẻ phản ánh trong các chỉ tiêu mức độ thoả mãn nhu cầu hay mức độ nâng cao đời sống nhân dân. Quan điểm thứ năm cho rằng: "Hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu kinh tế-xã hội tổng hợp để lựa chọn các phương án hoặc các quyết định trong quá trình hoạt động thực tiễn ở mọi lĩnh vực kinh doanh và tại mọi thời điểm. Bất kỳ các quyết định cần đạt được phương án tốt nhất trong điều kiện cho phép, giải pháp thực hiện có tính cân nhắc, tính toán chính xác phù hợp với sự tất yếu của quy luật khách quan trong từng điều kiện cụ thể", (GS Đỗ Hoàng Toàn-Những vấn đề cơ bản của quản trị doanh nghiệp-Nhà Xuất Bản Thống kê,1994). Theo quan điểm này hiệu quả ở đây hiểu trên một số nội dung sau: + Hiệu quả là kết quả hoạt động thực tiễn của con người + Biểu hiện của kết quả hoạt động này là các phương án quyết định. + Kết quả tốt nhất trong điều kiện cụ thể Để làm sáng tỏ bản chất và đi đến một khái niệm hiệu quả kinh doanh hoàn chỉnh chúng ta phải xuất phát tư luận điểm của triết học Mác - Lênin và những luận điểm của lý thuyết hệ thống. Hiệu quả kinh doanh, chủ yếu được thẩm định bởi thị trường, là tiêu chuẩn xác định phương hướng hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy hiệu quả kinh doanh phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (bao gồm nhân lực, tài lực và vật lực) vào hoạt động sản xuất kinh doanh để có được kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Từ khái niệm nàycó thể đưa ra công thức chung để đánh giá hiệu quả kinh doanh là: E = K (1) C hay E = C (2) K * E : Hiệu quả kinh doanh * C : Chi phí yếu tố đầu vào * K : Kết quả nhận được Kết quả đầu ra có thể đo bằng các chỉ tiêu như: giá trị tổng sản lượng, doanh thu thuần, lợi nhuận thuần, lợi tức gộp... Còn yếu tố đầu vào bao gồm: lao động đối tượng lao động, vốn chủ sở hữu và vốn vay. Công thức (1) phản ánh sức sản xuất (mức sinh lời) của các yếu tố đầu vào được tính cho tổng số và riêng cho giá trị gia tăng. Công thức này cho biết cứ một đơn vị đầu vào được sử dụng thì cho ra bao nhiêu kết quả đầu ra. Công thức (2) được tính nghịch đảo của công thức (1) phản ánh suất hao phí các chỉ tiêu đầu vào, nghĩa là để có một đơn vị kết quả đầu ra thì cần có bao nhiêu đơn vị yếu tố đầu vào. b) Bản chất đặc điểm và và cách phân loại hiệu quả kinh doanh. - Bản chất của hiệu quả kinh doanh. Từ khái niệm về hiệu quả nêu ở trên đã khẳng định bản chất của hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh phản ánh được tình hình sử dụng các nguần lực của doanh nghiệp để đạt mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận. - Đặc điểm của phạm trù hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phức tạp và khó đánh giá. Sở dĩ như vậy vì ở khái niệm này cho ta thấy hiệu quả sản suất kinh doanh được xác định bởi mối tương quan giữa hai đại lượng là kết quả đầu ra và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó mà hai đại lượng này đều khó xác định. Về kết quả, chúng ta ít xác định được chính xác kết quả mà doanh nghiệp thu được. Ví dụ như kết quả thu được của hoạt động kinh doanh chịu ảnh hưởng của thước đo giá trị đồng tiền- với những thay đổi trên thị trường của nó. Về chi phí cũng vậy việc xác định đại lượng này không dễ dàng. Vì chi phí cũng chịu ảnh hưởng của đồng tiền hơn thế nữa có thể một chi phí bỏ ra nhưng nó liên quan đến nhiều quá trình trong hoạt động kinh doanh thì việc bổ xung chi phí cho từng đối tượng chỉ là tương đối, và có khi không phải chỉ là chi phí trực tiếp mang lại kết quả cho doanh nghiệp mà còn rất nhiều chi phí gián tiếp như: giáo dục, cải tạo môi trường, sức khoẻ... có tác động không nhỏ đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, các chi phí đó rất khó tính toán trong quá trình xem xét hiệu quả kinh tế. - Phân loại của hiệu quả kinh doanh. Trong công tác quản lý, phạm trù hiệu quả kinh doanh được biểu hiện dước các dạng khác nhau. Mỗi dạng có những đặc trưng và ý nghĩa cụ thể hiệu quả theo hướng nào đó. Việc phân chia hiệu quả kinh doanh theo các tiêu thức khác nhau có tác dụng thiết thực cho công tác quản lý kinh doanh. Nó là cơ sở để xác định các chỉ tiêu và định mức hiệu quả kinh doanh để từ đó có biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. + Hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân. Hiệu quả tài chính còn gọi là hiệu quả sản xuất kinh doanh hay hiệu quả doanh nghiệp là hiệu quả xem xét trong phạm vi doanh nghiệp. Hiệu quả tài chính phản ánh mối quan hệ lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp nhận được và chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được lợi ích kinh tế đó. Hiệu quả tài chính là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Biểu hiện chung của hiệu quả doanh nghiệp là lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp đạt được. Tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả này là lợi nhuận cao nhất và ổn định. Hiệu quả kinh tế quốc dân hay còn gọi là hiệu kinh tế xã hội tổng hợp xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Hiệu quả kinh tế quốc dân mà doanh nghiệp mang lại cho nền kinh tế quốc dân là sự đóng góp của doanh nghiệp vào phát triển xã hội, tích luỹ ngoại tệ, tăng thu ngân sách, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người lao động... Hiệu quả tài chính là mối quan tâm của các doanh nghiệp hoặc các nhà đầu tư. Hiệu quả kinh tế quốc dân mối quan tâm của toàn xã hội mà đại diện là nhà nước Hiệu quả tài chính được xem xét theo quan điểm doanh nghiệp, hiệu quả kinh tế quốc dân xem xét theo quan điểm toàn xã hội. Quan hệ giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân là mối quan hệ giữa lợi ích bộ phận với lợi ích tổng thể, giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và toàn xã hội. Đó là quan hệ thống nhất có mâu thuẫn. Trong quản lý kinh doanh không những cần tính hiệu quả tài chính doanh nghiệp mà còn phải tính đến hiệu quả kinh tế xã hội của doanh nghiệp đem lại cho nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả kinh tế quốc dân chỉ đạt được trên cơ sở hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp phải quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội đó chính là tiền đề cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Để doanh nghiệp quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội nhà nước phải có chính sách đảm bảo kết hợp hài hoà lợi ích xã hội với lợi ích doanh nghiệp và lợi ích cá nhân. + Hiệu quả chi phí bộ phận và chi phí tổng thể. Hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng gắn với môi trường và thị trường kinh doanh của nó. Doanh nghiệp nào cũng căn cứ vào thị trường để giải quyết các vấn đề then chốt: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Mỗi doanh nghiệp đều tiến hành sản xuất kinh doanh của mình trong điều kiện cụ thể về tài nguyên trình độ trang thiết bị kỹ thuật, trình độ tổ chức quản lý lao động quản lý kinh doanh. Họ đưa ra thị trường sản phẩm với chi phí cá biệt nhất định và người nào cũng muốn tiêu thụ hàng hoá của mình với giá cao nhất. Tuy vậy khi đưa hàng hoá của mình ra thị trường, họ chỉ có thể bán sản phẩm của mình theo giá thị trường nếu chất lượng sản phẩm của họ là tương đương. Bởi vì thị trường chỉ chấp nhận mức hao phí xã hội cần thiết trung bình để sản xuất ra một đơn vị hàng hoá. Quy luật giá trị đặt tất cả các doanh nghiệp với một mức chi phí khác nhau trên cùng một mặt bằng trao đổi, thông qua mức giá cả thị trường. Suy cho cùng chi phí bỏ ra là chi phí xã hội, nhưng tại mỗi doanh nghiệp chúng ta cần đánh giá hiệu quả kinh doanh, thì hao phí lao động xã hội thể hiện dưới dạng cụ thể: - Giá thành sản xuất. - Chi phí sản xuất. Bản thân mỗi loại chi phí lại được phân chia chi tiết hơn. Đánh giá hiệu quả kinh doanh không thể không đánh giá tổng hợp các chi phí trên đây, và cần thiết đánh giá hiệu quả của từng loại chi phí. + Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối là hai hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa kết quả và chi phí. Trong đó hiệu quả tuyệt đối được đo bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí. Hiệu quả tương đối được đo bằng tỷ số giữa kết quả và chi phí. Trong công tác quản lý kinh doanh việc xác định hiệu quả nhằm mục tiêu cơ bản: + Để thể hiện và đánh giá trình độ sử dụng các nguồn lực trong hoạt động kinh doanh + Phân tích luận chứng kinh tế của các phương án khác nhau trong việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể đó để lựa chọn phương án tối ưu nhất. Người ta xác định hiệu quả tuyệt đối khi phải bỏ chi phí ra để thực hiện một phương án quyết định nào đó. Để biết rõ chi phí bỏ ra sẽ thu được bao nhiêu lợi ích cụ thể và mục tiêu cụ thể là gì, từ đó quyết định bỏ tiền ra thực hiện phương án hay quyết định kinh doanh phương án đó không. Vì vậy, trong công tác quản lý kinh doanh, bất cứ việc gì đòi hỏi chi phí, dù một phương án lớn hay một phương án nhỏ đều cần phải tính hiệu quả tuyệt đối. + Hiệu quả trước mắt và lâu dài. Căn cứ vào lợi ích nhận được trong các khoảng thời gian dài hay ngắn mà người ta đưa ra xem xét đánh giá hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài. Lợi ích trong hiệu quả trước mắt là hiệu quả xem xét trong thời gian ngắn. Hiệu quả lâu dài là hiệu quả dược xem xét đánh giá trong một khoảng thời gian dài. doanh nghiệp cần phải xem xét thực hiện các hoạt động kinh doanh sao cho nó mang lại lợi ích trước mắt cũng như lâu dài cho doanh nghiệp. Phải kết hợp hài hoà lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, không được chỉ vì lợi ích trước mắt mà làm thiệt hại đến lợi ích lâu dài của doanh nghiệp. 2. Vai trò của nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với các doanh nghiệp. a) Hiệu quả kinh doanh là mục đích của quản trị kinh doanh. Mục tiêu bao trùm và lâu dài của mọi doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận , tối ưu hoá lợi nhuận trên cơ sở nguồn lực sẵn có. Để đạt được mục tiêu này doanh nghiệp sử dụng nhiều phương pháp khác nhau. Trong đó hiệu quả kinh doanh là một trong những mục đích mà nhà quản lý kinh tế kinh doanh muốn vươn tới và đạt tới. Việc xem xét, đánh giá tính toán hiệu quả kinh doanh không chỉ cho biết sử dụng các nguồn lực vào các hoạt động kinh doanh ở mức độ nào mà còn cho phép nhà quản trị phân tích tìm ra các nhân tố để đưa ra các biện pháp quản trị kinh doanh thích hợp trên cả hai phương diện: tăng kết quả và giảm chi phí sản xuất kinh doanh, nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Bản chất của hiệu quả kinh doanh chỉ rõ trình độ sử dụng nguồn lực vào kinh doanh: trình độ sử dụng nguồn lực kinh doanh càng cao, các doanh nghiệp càng có khả năng tạo ra kết quả cao trong cùng một nguồn lực đầu vào hoặc tốc độ tăng của kết quả lớn hơn so với tốc độ tăng của việc sử dụng nguồn lực đầu vào. Do đó, trên phương diện lý luận và thực tiễn phạm trù hiệu quả kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng trong việc so sánh đánh giá phân tích kinh tế nhằm tìm ra một giải pháp tối ưu nhất đưa ra phương pháp đúng đắn nhất để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Như vậy, hiệu quả kinh doanh không những là mục tiêu mục đích của các nà kinh tế, kinh doanh mà còn là một phạm trù để phân tích đánh giá trình độ dụng các yếu tố đầu vào nói trên. b) Sự cần thiết phải nâng cao hiệu kinh doanh. Kinh doanh cái gì? Kinh doanh như thế nào? Kinh doanh cho ai? chi phí bao nhiêu? Câu hỏi này sẽ không thành vấn đề nếu nguồn lực đầu vào của sản xuất kinh doanh là không hạn chế; người ta sẽ không cần nghĩ tới vấn đề sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn đầu vào... nếu nguồn lực là vô tận. Nhưng nguồn lực kinh doanh là hữu hạn. Trong khi đó phạm trù nhu cầu con người là phạm trù vô hạn: không có giới hạn của sự phát triển các nhu cầu - hàng hoá dịch vụ cung cấp cho con người càng nhiều, càng phong phú, càng có chất lượng càng cao càng tốt. Do vậy, của cải càng khan hiếm lại càng khan hiếm hơn theo cả nghĩa tuyệt đối và nghĩa tương đối của nó. Khan hiếm nguồn lực đòi hỏi bắt buộc con người phải nghĩ đến việc lựa chọn kinh tế, khan hiếm càng tăng nên dẫn tới vấn đề lựa chọn tối ưu ngày càng đặt ra nghiêm túc và ngay gắt. Thực ra khan hiếm mới chỉ là điều kiện cần để lựa chọn kinh tế, nó bắt buộc lựa chọn con người phải lựa chọn kinh tế. Chúng ta biết rằng lúc đầu dân cư còn ít mà của cải trên trái đất còn phong phú, chưa bị cạn kiệt vì khai thác và sử dụng: lúc đó con người chỉ chú ý phát triển theo chiều rộng. Điều kiện đủ cho việc lựa chọn kinh tế là cùng với sự phát triển nhân loại thì càng ngày người ta càng tìm ra nhiều phương pháp sản xuất kinh doanh. Vì vậy, cho phép cùng một nguồn lực đầu vào nhất định người ta làm nhiều công việc khác nhau. Điều này cho phép các doanh nghiệp có khả năng lựa chọn kinh tế: lựa chọn kinh tế tối ưu. Sự lựa chọn này sẽ mang lại cho doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh cao nhất, thu được nhiều lợi ích nhất. Giai đoạn phát triển theo chiều rộng nhường chỗ cho phát triển theo chiều sâu: sự phát triển theo chiều sâu nhờ vào nâng cao của hiệu quả kinh doanh. Như vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh là nâng cao khả năng sử dụng các nguồn lực có sẵn của doanh nghiệp để đạt được sự lựa chọn tối ưu. Trong điều kiện khan hiếm nguồn lực thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện sống còn đặt ra đối với doanh nghiệp trong quá trình tiến hành các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, sự lựa chọn kinh tế của các doanh nghiệp trong cơ chế kinh tế khác nhau là không giống nhau: Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, việc lựa chọn kinh tế thường không đặt ra cho mọi cấp xí nghiệp mọi quyết định kinh tế sản xuất cái gì?sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? đều được giải quyết ở trung tâm duy nhất. Các đơn vị kinh doanh cơ sở tiến hành các hoạt động của mình theo sự chỉ đạo từ một trung tâm vì vậy mục tiêu cao nhất của các đơn vị này là hoàn thành kế hoạch nhà nước giao. Do hạn chế nhất định của cơ chế kế hoạch hoá tập trung cho nên không những các đơn vị kinh tế cơ sở ít quan tâm đến hiệu quả kinh tế của mình mà trong nhiều trường hợp các đơn vị kinh tế hoàn thành kế hoạch bằng mọi giá. Hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, môi trường cạnh tranh gay gắt, nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện tồn tại của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường việc giải quyết vấn đề: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? được dựa trên cơ sở quan hệ - cung cầu, giá cả thị trường, cạnh tranh và hợp tác... Các doanh nghiệp phải tự đặt ra các quyết định kinh doanh của mình, tự hạch toán lỗ lãi, lãi nhiều hưởng nhiều lãi ít hưởng ít, không có lãi sẽ đi đến phá sản doanh nghiệp. Do đó mục tiêu lợi nhuận trở thành một trong những mục tiêu quan trọng nhất, mang tính sống còn của doanh nghiệp. Mặt khác trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Môi trường cạnh tranh càng gay gắt, trong cuộc cạnh tranh đó có những doanh nghiệp vẫn đứng vững và phát triển, bên cạnh đó không ít doanh nghiệp bị thua lỗ, giải thể, phá sản. Để đứng vững trên thị trường các doanh nghiệp luôn phải chú ý tìm mọi cách giảm chi phí sản xuất kinh doanh, nâng cao uy tín... của doanh nghiệp trên thị trường nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Các doanh nghiệp thu được lợi nhuận càng cao càng tốt. Như vậy, để đạt được hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp và trở thành vấn đề sống còn để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển. 2. Các nhân tố ảnh hưởng việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp a) Nhóm nhân tố chủ quan. - Lực lượng lao động. Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, lực lượng lao động tác động trực tiếp lên hiệu quả kinh doanh theo các hướng sau: - Trình độ lao động: Nếu lực lượng lao động của doanh nghiệp có trình độ tương ứng sẽ góp phần quan trọng vận hành có hiệu quả yếu tố vật chất trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. - Cơ cấu lao động: nếu doanh nghiệp có cơ cấu lao động hợp lý phù hợp trước hết nó góp phần vào sử dụng có hiệu quả bản thân các yếu tố lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh, mặt khác nó góp phần tạo lập và thường xuyên điều chỉnh mối quan hệ tỷ lệ hợp lý, thích hợp giữa các yếu tố trong quá trình kinh doanh. - ý thức, tinh thần, trách nhiệm, kỷ luật của người lao động. Đây là yếu tố cơ bản quan trọng để phát huy nguồn lao động trong kinh doanh. Vì vậy chúng ta chỉ có thể đạt được hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp chừng nào chúng ta tạo được đội ngũ lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất cao. - Trình độ phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật và ứng dụng của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nhân tố này tác động vào hiệu quả kinh doanh theo các hướng sau: - Sự phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật tạo ra cơ hội để nắm bắt thông tin trong quá trình hoạch định kinh doanh cũng như trong quá trình điều chỉnh, định hướng lại hoặc chuyển hướng kinh doanh. - Kỹ thuật và công nghệ sẽ tác động đến việc tiết kiệm chi phí vật chất trong quá trình kinh doanh làm cho chúng ta sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm chi phí vật chất trong quá trình kinh doanh. - Cơ sở vật chất và ứng dụng của tiến bộ khoa học kỹ thuật: Cơ sở vật chất và ứng dụng của tiến bộ khoa học kỹ thuật sẽ tạo ra đa ngành nghề kinh doanh. - Hệ thống trao đổi và sử lý thông tin của doanh nghiệp . Thông tin ngày nay được coi là đối tượng lao động của các nhà kinh doanh, và nền kinh tế thị trường là kinh tế thông tin hàng hoá. Để kinh doanh thành công trong điều kiện cạnh tranh trong nước và quốc tế ngày càng phát triển, các doanh nghiệp cần có thông tin chính xác về thị trường, người mua , người bán, đối thủ cạnh tranh, tình hình cung-cầu hàng hoá, giá cả... Không những thế, doanh nghiệp rất cần hiểu biết thành công và thất bại của các doanh nghiệp trong nước và quốc tế, các chính sách kinh tế của nhà nước và các nước khác có liên quan đến thị trường của doanh nghiệp. Thông tin chính xác kịp thời là cơ sở vững chắc cho doanh nghiệp xác định phương hướng kinh doanh, xây dựng chiến luợc kinh doanh dài hạn cũng như hoạch định các chương trình kinh doanh ngắn hạn. Nếu doanh nghiệp không quan tâm đến thông tin, không thường xuyên lắm bắt thông tin kịp thời thì doanh nghiệp dễ đi đến thất bại. Trong kinh doanh nếu biết mình biết người, lắm được thông tin về đối thủ cạnh tranh... thì doanh nghiệp mới có những biện pháp thích hợp để dành thắng lợi trong kinh doanh và thu lợi nhuận cao bảo đảm cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Một nhiệm vụ quan trọng của các nhà quản trị doanh nghiệp hiện nay là làm sao tổ chức được hệ thống thông tin của doanh nghiệp một cách hợp lý đáp ứng kịp thời nhu cầu thông tin. - Nhân tố tổ chức quản lý doanh nghiệp. Trong kinh doanh nhân tố quản trị kinh doanh có vai trò vô cùng quan trọng: Quản trị doanh nghiệp có vai trò định hướng cho doanh nghiệp một hướng đi đúng trong hoạt động kinh doanh, xác định chiến lược kinh doanh, phát triển doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp là cơ sở để đạt hiệu quả hoặc thất bại phi hiệu quả của doanh nghiệp trong kinh tế thị trường. Mọi nhân tố phân tích ở trên đều có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh thông qua hoạt động của bộ máy quản trị doanh nghiệp và đội ngũ các cán bộ quản trị. Nhà quản trị doanh nghiệp đặc biệt các lãnh đạo doanh nghiệp bằng phẩm chất và tài năng của mình có vai trò quan trọng bậc nhất và có ý nghĩa duy trì thành đạt cho một tổ chức kinh doanh. Trong các nhiệm vụ phải hoàn thành người cán bộ doanh nghiệp phải chú ý hai nhiệm vụ chủ yếu là: - Xây dựng tập thể thành một hệ thống đoàn kết, năng động với chất lượng cao. - Dìu dắt tập thể dưới quyền hoàn thành mục đích và mục tiêu một cách vững chắc ổn định. ở bất kì doanh nghiệp nào hiệu quả kinh doanh đều phụ thuộc lớn vào cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị, nhận thức hiểu biết, trình độ đội ngũ các nhà quản trị, khả năng xác định mục tiêu và phương hướng kinh doanh của những nhà lãnh đạo doanh nghiệp. - Nhân tố toán kinh tế. Hiệu quả kinh doanh được xác định bởi tương quan giữa hai đại lượng kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Cả hai đại lượng này phức tạp, khó tính toán và đánh giá một cách chính xác. Cùng với sự phát triển của khoa học quản trị kinh doanh càng ngày người ta càng tìm ra các phương pháp đánh giá và xác định hai đại lượng này gần với giá trị thực của nó hơn. Trong cả hai đại lượng này xem xét trên phương diện giá trị và giá trị sử dụng tiêu thức lợi nhuận làm kết quả thì kết quả và chi phí đều có mối quan hệ biện chứng với nhau. Có thể biểu diễn mối quan hệ đó như sau: Lợi nhuận = Doanh thu - Chi phí Sự khó khăn trước hết biểu hiện ở hai quan niệm về hai yếu tố này, và cần chú ý rằng cái gì là lợi nhuận sẽ không là chi phí và ngược lại, cái gì coi là chi phí sẽ không là lợi nhuận. Có rất nhiều dẫn chứng chứng tỏ sự không thống nhất trong quan điểm này. Ví dụ như trước đây chúng ta quan niệm rằng thuế nằm trong phạm trù lợi nhuận là một phần lợi nhuận. Ngày nay quan niệm này đã dần thay đổi: nhiều loại thuế coi là yếu tố cấu thành chi phí chứ không là lợi nhuận. Vậy ảnh hưởng tính toán kinh tế đến hiệu quả hiệu quả kinh doanh chính là nằm ở sự phức tạp trong quan niệm về hai yếu tố này. Mặt khác việc áp dụng toán kinh tế trong doanh nghiệp đối với việc xây dựng mô hình hoá các quá trình kinh doanh là cần thiết, nó là phần quan trọng giúp cho doanh nghiệp giảm được chi phí và không lãng phí nguồn lực làm tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. b) Nhóm nhân tố khách quan. Bất cứ doanh nghiệp nào trong lĩnh vực nào to hay nhỏ, suy cho cùng nó chỉ là một trong các phần tử cấu thành nền kinh tế quốc dân hay trên phương diện rộng hơn trong hoàn cảnh quốc tế hoá đang diễn ra mạnh mẽ thì doanh nghiệp có thể coi là bộ phận cấu thành nền kinh tế thế giới. Do đó, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất lớn từ môi trường bên ngoài. Đó là tổng hợp các nhân tố khách quan tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, và cụ thể là tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. ở đây chúng ta đi xem xét một số nhân tố chủ yếu sau: - Môi trường pháp lý. Môi trường pháp lý có ảnh hưởng lớn tới hiệu quả của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường pháp lý lành mạnh sẽ giúp cho doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh thuận lợi và ngược lại nếu môi trường pháp lý không ổn định sẽ gây cho doanh nghiệp nhiều khó khăn, trở ngại và những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình. Môi trường pháp lý gồm hệ thống các văn bản pháp luật do nhà nước đặt ra - thể hiện vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế và các thông lệ và luật lệ quốc tế - đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Môi trường pháp lý tạo ra hành lang pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động, mọi doanh nghiệp đều nằm trong hành lang đó nếu lệch ra ngoài là phạm luật và bị sử lý. Vì vậy, trong hoạt động kinh doanh của mình doanh nghiệp phải chấp hành mọi quy định của Nhà nước và nếu doanh nghiệp hoạt động liên quan đến thị trường nước ngoài thì doanh nghiệp không thể không nắm chắc và tuân thủ pháp luật nước đó và thông lệ quốc tế. - Môi trường kinh tế. Môi trường kinh tế là nhân tố tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường kinh tế bao gồm các yếu tố như tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng thu nhập quốc dân, lạm phát... Các yếu tố này luôn là các nhân tố tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường kinh tế trước hết phản ánh qua tốc độ tăng trưởng kinh tế về cơ cấu ngành cơ cấu vùng. Tình hình đó có thể tạo nên sự hấp dẫn của thị trường. Nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước cao và ổn định thì nó sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh ổn định cho doanh nghiệp hoạt động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của mình. Còn ngược lại tăng trưởng kinh tế của đất nước không ổn định và trì trệ kéo dài sẽ ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như thị trường của doanh nghiệp bị thu hẹp, nguồn lực sử dụng bị lãng phí do không hiệu quả... Mức tăng thu nhập quốc dân cũng ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mức tăng trưởng kinh tế của đất nước cao và ổn định tức là khả năng tiêu dùng thực tế của khách hàng doanh nghiệp ngày càng tăng làm cho thị trường của doanh nghiệp được mở rộng và vấn đề mở rộng sản xuất của doanh nghiệp được đặt ra. Ngược lại thu nhập quốc dân thấp sẽ làm cho khả năng tiêu dùng giảm thị trường của doanh nghiệp bị thu hẹp sản xuất trì trệ, hàng sản xuất ra không tiêu thụ được. Lạm phát cũng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến đời sống kinh tế của đất nước nói chung và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng. Tốc độ lạm phát của đất nước được kìm chế thấp và ổn định sẽ làm cho giá trị đồng tiền trong nước ổn định các doanh nghiệp sẽ yên tâm sản suất kinh doanh và đầu tư mở rộng sản xuất. Mặt khác giá trị của đồng tiền trong nước ổn định cũng là cơ sở quan trọng để đánh giá chính xác hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại nếu tốc độ lạm phát cao sẽ làm cho người ta mất lòng tin vào đồng nội tệ và người ta không dám đầu tư vào sản xuất và tìm các thoát li khỏi đồng nội tệ bằng cách mua ngoại tệ mạnh và mua những tài sản có giá trị khác. Các chính sách kinh tế xã hội của nhà nước cũng tác động lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trước hết các chính sách kinh tế của nhà nước thể hiện vai trò của Nhà Nước trong quản lý nền kinh tế quốc dân. Nếu chính sách kinh tế của nhà nước đưa ra là phù hợp với các điều kiện thực tế thì sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 4. Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. a) Các quan điểm cơ bản. Hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp nó liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau, và nó phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp. Do đó, khi xem xét hiệu quả kinh doanh cần quán triệt một số quan điểm sau: - Đảm bảo thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị và kinh doanh trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, trước hết thể hiện ở việc thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh hay đơn đặt hàng của nhà nước giao cho doanh nghiệp hay là các hợp đồng kinh tế nhà nước đã ký kết với doanh nghiệp, vì đó là nhu cầu và là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân, của nền kinh tế hàng hoá. Những nhiệm vụ kinh tế chính trị mà nhà nước giao cho doanh nghiệp trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá, đòi hỏi doanh nghiệp phải quyết định việc sản xuất và bán những hàng hoá thị trường cần, nền kinh tế cần, chứ không phải hàng hoá bản thân doanh nghiệp có. - Bảo đảm tính toàn diện và hệ thống trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này đòi hỏi nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát và đảm bảo yêu cầu nâng cao hiệu quả nền kinh tế xã hội, của ngành, của địa phương và cơ sở. Hơn nữa trong từng đơn vị cơ sở khi xem xét đánh giá hiệu quả kinh doanh phải coi trong tất cả các hoạt động, các lĩnh vực, các khâu của quá trình kinh doanh và phải xem xét đầy đủ các mối quan hệ, các tác động qua lại của các tổ chức, các lĩnh vực trong một hệ thống theo mục tiêu đã xác định. - Đảm bảo tính thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh . Quan điểm này đòi hỏi khi đánh giá và xác định mục tiêu biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh phải xuất phát từ đặc điểm, điều kiện kinh tế xã hội của ngành, của địa phương của doanh nghiệp trong từng thời kì. Chỉ có như vậy, chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh, phương án kinh doanh của doanh nghiệp mới có đủ cơ sở khoa học thực hiện, đảm bảo lòng tin của người lao động, hạn chế rủi ro, tổn thất. - Phải căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về hiện vật và giá trị để đánh giá hiệu quả kinh doanh. Quan điểm này đòi hỏi khi tính toán đánh giá hiệu quả một mặt phải căn cứ vào số lượng hàng hoá đã tiêu thụ và giá trị thu nhập của những hàng hoá đó theo giá cả thị trường, mặt khác phải tính toán đủ chi phí đã chi ra để sản xuất và tiêu thụ hàng hoá đó. Căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về hiện vật và giá trị đó là đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế thị trường. Ngoài ra còn đòi hỏi các nhà kinh doanh phải tính toán đúng đắn hợp lý lượng hàng hoá mua vào cho quá trình kinh doanh tiếp theo. Điều đó còn cho phép đánh giá đúng đắn khả năng thoả mãn nhu cầu của thị trường về hàng hoá và dịch vụ theo cả giá trị và hiện vật tức là cả giá trị sử dụng và giá trị hàng hoá mà thị trường cần. b) Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Dựa trên nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu bằng cách so sánh giữa kết quả kinh tế và chi phí kinh tế, chúng ta có thể lập được một bảng hệ thống chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể phân các chỉ tiêu thành hai nhóm chỉ tiêu đó là: nhóm các chỉ tiêu tổng hợp và nhóm các chỉ tiêu bộ phận. - Chuẩn hoá một số khái niệm dùng để phân tích. - Doanh nghiệp: là đơn vị kinh doanh cơ bản của nền kinh tế quốc dân, có nhiệm vụ sản xuất và kinh doanh hàng hoá và dịch vụ theo nhu cầu thị trường để thu lợi nhuận tối đa. - Một doanh nghiệp tiến hành kinh doanh có hiệu quả là một doanh nghiệp thoả mãn tối đa nhu cầu của thị trường về hàng hoá và dịch vụ trong giới hạn cho phép nguồn lực hiện có của các doanh nghiệp và thu được lợi nhuận cao nhất. Theo tính chất luân chuyển vốn người ta chia ra làm vốn cố định và vốn lưu động: - Vốn cố định: Là tổng giá trị tài sản bình quân trong kì, nó được tính bằng nguyên giá tài sản cố định sau khi đã trừ đi phần hao mòn tài sản cố định tích luỹ đến thời điểm lập báo cáo, vốn cố định có thể xác định bằng công thức sau: Vốn cố định bình quân trong kỳ = Giá trị còn lại TSCĐ Đ n + Giá trị còn lại TSCĐ Cn 2 - Vốn lưu động: là biểu hiện giá trị bằng tiền của toàn bộ tài sản lưu động, cũng như vốn cố định vốn lưu động được hiểu là vốn lưu động bình quân và được tính bằng công thức sau: Vốn lưu động bình quân trong kỳ = VLĐĐn + VLĐCn 2 - Vốn sản xuất bao gồm đất đai nhà xưởng, bí quyết nghề nghiệp, thiết bị vật tư hàng hoá v.v... bao gồm giá trị tài sản hữu hình và tài sản vô hình; tài sản lưu động và tiền mặt dùng cho sản xuất. - Chi phí biến đổi: là chi phí tăng giảm cùng với tình hình tăng giảm sản lượng. - Chi phí cố định là chi phí không thay đổi so với khối lượng công việc hoàn thành, không thay đổi khi sản lượng thay đổi. - Tổng chi phí sản xuất bao gồm tổng chi phí cố định cộng với tổng chi phí biến đổi. Chia tổng chi phí, chi phí biến đổi, chi phí cố định cho tổng sản lượng hiện vật hoặc dịch vụ ta được tổng chi phí bình quân, chi phí biến đổi bình quân, chi phí cố định bình quân. Tổng chi phí bình quân thường được gọi là giá thành sản xuất. - Lãi gộp: phần còn lại của tổng doanh thu trừ đi chi phí biến đổi. - Lợi nhuận trước thuế bằng lãi gộp trừ đi chi phí cố định. - Lợi nhuận sau thuế bằng lợi nhuận trước thuế trừ đi thuế thu nhập doanh nghiệp. Đây còn gọi là lợi nhuận thuần tuý hay lãi dòng. c) Phương pháp sử dụng trong quá trình phân tích. Để phân tích xu hướng và mức ảnh hưởng của từng nhân tố đến từng chỉ tiêu hiệu quả cần phân tích. Trong cuốn luận văn này em sử dụng phương pháp so sánh và loại trừ. - Phương pháp so sánh. Phương pháp này được sử dụng trong phân tích để xác định xu hướng, mức độ biến động của từng chỉ tiêu. Để sử dụng phương pháp này cần xác định các vấn đề cơ bản sau: - Khi nghiên cứu nhịp độ biến động của tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu, số gốc để so sánh là chỉ tiêu thời kì trước. - Khi nghiên cứu nhịp điệu thực hiện nhiệm vụ kinh doanh trong từng thời gian một năm thường so sánh với cùng kì năm trước. - Khi đánh giá mức độ biến động so với các chỉ tiêu đã dự kiến, trị số thực tế sẽ so sánh với mục tiêu. - Phương pháp loại trừ. Phương pháp loại trừ là phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh doanh bằng cách loại trừ ảnh hưởng của nhân tố khác. Để nghiên cứu ảnh hưởng của một nhân tố phải loại trừ ảnh hưởng của nhân tố khác. Muốn vậy có thể dựa trực tiếp vào mức biến động của từng nhân tố hoặc dựa vào phép thay thế lần lượt từng nhân tố. Cách thứ nhất là "số chênh lệch" cách thứ hai là thay thế liên hoàn. Phương pháp thay thế liên hoàn để xác định ảnh hưởng của các nhân tố qua thay thế lần lượt và liên tiếp các nhân tố để xác định chỉ số của các chỉ tiêu khi nhân tố đó thay đổi. Đặc điểm và điều kiện của phương pháp thay thế liên hoàn: - Sắp xếp các nhân tố ảnh hưởng và xác định ảnh hưởng của chúng đến chỉ tiêu phân tích phải theo thứ tự từ nhân tố số lượng đến nhân tố chất lượng. - Thay thế giá trị của từng nhân tố ảnh hưởng.Có bao nhiêu nhân tố thì thay thế bấy nhiêu lần. Giá trị của nhân tố đã thay thế giữ nguyên giá trị thời kì phân tích cho đến lần thay thế cuối cùng. - Tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố và so sánh với biến động tuyệt đối của chỉ tiêu (kì nghiên cứu so với kì gốc). Chúng ta có thể khái quát mô hình chung của phép thay thế liên hoàn như sau: Nếu có: f(x,y,z...) = xyz... thì f(x0,y0,z0...) = x0 y0 z0 ... Và: f(x) = f(x1,y0,z0) - f(x0,y0,z0) = x1y0z0 - x0y0z0 f(y) = f(x1,y1,z0) - f(x1,y0,z0) = x1y1z0 - x1y0z0 f(z) = f(x1,y1,z1) - f(x1,y1,z0) = x1y0z0 - x1y1z0 Như vậy điều kiện để áp dụng phương pháp này là: - Các nhân tố quan hệ với nhau dưới dạng tích. - Việc xắp xếp và xác định ảnh hưởng của các nhân tố cần tuân theo quy luật "lượng biến dẫn đến chất biến". II. thực trạng hoạt động hiệu quả kinh doanh tại các doanh nghiệp Như vậy trong những năm gần đây các doanh nghiệp đã có những đóng góp không nhỏ vào Ngân sách nhà nước, thể hiện ở số thuế các doanh nghiệp nộp vào ngân sách. Xét trên phương diện vĩ mô và cả phương diện hiệu quả kinh doanh thì việc nộp thuế đầy đủ, đúng hạn, đều là một tín hiệu tốt đối với Ngân sách nhà nước và cả với tình hình tài chính của doanh nghiệp. * Tình hình thực hiện doanh thu. Bước đầu để đánh giá một cách sơ bộ hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chúng ta cần có một cái nhìn tổng quát về tình hình thực hiện doanh thu, chi phí, lợi nhuận. Xét trên phương diện doanh thu, trong những năm qua các doanh nghiệp đã có những nỗ lực và biện pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh hợp lý nên doanh thu tăng tương đối đáng kể. Tình hình thực hiện doanh thu của các doanh nghiệp tương đối tốt. Nhưng cũng có thời gian doanh thu của các doanh nghiệp giảm mạnh, do các doanh nghiệp đã không chú trọng đến việc dự báo tình hình thị trường nên đã không có biện pháp đối phó với những biến động của môi trường kinh doanh. Tuy nhiên nhờ có những giải pháp thích hợp nên trong những năm gần đây doanh thu của các doanh nghiệp đã phục hồi và tăng trở lại. Có được kết quả này là sự cố gắng, nỗ lực hết mình của tập thể CBCNV trong các doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu chỉ xem xét riêng tình hình thực hiện doanh thu thì chưa thể đưa ra kết luận về tính hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Để có cái nhìn chính xác hơn chúng ta hãy xem xét doanh thu trong mối liên hệ với chi phí và lợi nhuận: Các doanh nghiệp luôn cố gắng phấn đấu giảm chi phí kinh doanh và với nhiều nỗ lực đáng khích lệ, hoạt động của các doanh nghiệp đã được phục hồi, lợi nhuận thuần tăng với tốc độ lớn hơn tốc độ tăng của chi phí kinh doanh nên có thể nhận định rằng các doanh nghiệp đã làm ăn có hiệu quả. Nhìn chung trong những năm gần đây năng lực kinh doanh của vốn tại các doanh nghiệp tăng tương đối đều. Đây chính là kết quả tất yếu của việc tổng doanh thu giảm trong năm này. Tuy nhiên chỉ tiêu này mới chỉ phản ánh được một phần hiệu quả tổng quát vì nó được tính trên cơ sở doanh thu thuần. Hoạt động kinh doanh luôn là hoạt động cơ bản và quan trọng nhất trong quá trình tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Chính vì vậy, cần thiết phải đi sâu xem xét, phân tích mảng hoạt động quan trọng này để có thể tìm lời lý giải thoả đáng cho câu hỏi tại sao các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả trong năm này, giai đoạn này và kém hiệu quả trong năm khác, giai đoạn khác. Nếu như trong phần đánh giá hiệu quả tổng quát, người ta gộp cả hai mảng hoạt động tài chính và bất thường vào hoạt động kinh doanh để xác định các chỉ tiêu tương đối thì trong phần đánh giá hiệu quả cụ thể hoạt động kinh doanh này việc xác định các chỉ tiêu chỉ gắn với mảng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Vốn hoạt động kinh doanh là phần còn lại của tổng tài sản sau khi đã trừ đi đầu tư tài chính ngắn hạn và dài hạn. Chỉ tiêu năng lực kinh doanh của vốn hoạt động kinh doanh giúp ta đánh giá được trình độ sử dụng và lợi dụng nguồn vốn này của Các doanh nghiệp vào hoạt động kinh doanh của mình. Nhìn chung, năng lực kinh doanh của vốn hoạt động kinh doanh trong giai đoạn 2000-2002 tăng tương đối đều, duy chỉ có năm 2001 là giảm mạnh. Tuy nhiên, nếu nhìn vào bảng khả năng sinh lời của vốn hoạt động kinh doanh. Ta thấy nguyên nhân thực sự của việc năng lực kinh doanh của vốn hoạt động kinh doanh giảm năm 2001 không phải do việc sử dụng vốn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp kém hiệu quả vì khả năng sinh lời của vốn hoạt động trong năm này lại biến động tăng. Nếu các doanh nghiệp đã quản lý tốt được các hạng mục chi phí thì tổng chi phí kinh doanh giảm mạnh sẽ hạn chế được ảnh hưởng của việc tổng doanh thu và doanh thu thuần giảm rất mạnh nên lợi nhuận thuần hoạt động kinh doanh và kết quả là lợi nhuận thuần hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp giảm không đáng kể. Ta thấy chi phí là một nhân tố quan trọng, nhiều khi có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có số vòng quay vốn lưu động lớn nhất. Đây chính là lý giải cho sự tăng mạnh của doanh thu thuần của các doanh nghiệp trong năm. Tăng được số vòng quay vốn lưu động cũng đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp đã giảm bớt được sự chiếm dụng vốn của khách hàng (quản lý tốt các khoản phải thu) hoặc tổ chức công tác tiêu thụ có hiệu quả hơn, vốn không bị ứ đọng nhiều ở bộ phận hàng tồn kho. III. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ở các doanh nghiệp Qua xem xét đánh giá chung về tình hình hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp ta thấy hoạt động kinh doanh tương đối có hiệu quả. Song vẫn còn một số hạn chế làm ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Sau đây em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm duy trì và nâng cao hiệu quả kinh doanh ở các doanh nghiệp. Để tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay, các doanh nghiệp cần phải thường xuyên chú ý tới việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình bằng cách không ngừng nâng cao năng lực của các doanh nghiệp về mọi mặt. Muốn làm được điều này các doanh nghiệp cần có những biện pháp sau: 1. Các biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận của Các doanh nghiệp. Lợi nhuận của các doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của bộ phận sản phẩm thặng dư do kết quả của người lao động đem lại. Nó là nguồn vốn quan trọng để tái sản xuất mở rộng và nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên trong các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có lợi nhuận cao sẽ là điều kiện đảm bảo cho các doanh nghiệp tồn tại và đứng vững trên thị trường. Để nâng cao lợi nhuận của các doanh nghiệp chung ta có những biện pháp cụ thể sau: - Biện pháp tăng doanh thu. - Mở rộng thị trường: Tăng cường công tác tiếp cận thị trường, khai thác công việc. Ban giám đốc và các phòng ban cùng công nhân viên phát huy tinh thần năng động, tự chủ tận dụng mọi cơ hội thời cơ để khai thác công việc kể từ công việc nhỏ đến các công trình lớn. - Mở rộng các hoạt động dịch vụ tư vấn như kiểm định chất lượng sản phẩm. - Quan tâm hơn nữa mở rộng thị trường. - Tăng cường công tác khuyếch trương quảng cáo, giới thiệu khả năng và năng lực của các doanh nghiệp với khách hàng. - Tăng cường công tác nâng cao chất lượng sản phẩm. - Các giải pháp giảm chi phí. Giảm chi phí là một trong những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh và tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường. Giảm chi phí làm cho doanh nghiệp có thể giảm giá thành mà lợi nhuận trong trong hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn tăng nên. Các biện pháp giảm chi phí: - Lập kế hoạch và bố trí lao động ở các đơn vị sản suất trực tiếp sao cho sát với yêu cầu công việc để tăng năng suất lao động và tiến độ chung trong quá trình sản xuất. - Thực hiện nghiêm quy chế lao động nội quy lao động trong Các doanh nghiệp. - Tăng cường, khuyến khích áp dụng các giải pháp kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh rút ngắn thời gian hoàn thành công công việc. - Tổ chức thu thập thông tin và phân tích thông tin nhanh chóng kịp thời, tìm kiếm được các nguồn thông tin rẻ chính xác, phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. - Thường xuyên tìm hiểu các doanh nghiệp hoạt động trong cùng lĩnh vực với mình, để nắm được tình hình và khả năng của các các doanh nghiệp này từ đó rút ra kinh nghiệm và có kịp thời đưa ra các giải pháp thích hợp nâng cao năng lực và khả năng cạnh của các doanh nghiệp trên thị trường. - Tinh giản bộ máy quản lý hành chính, cải tiến nó phù hợp vời hoạt động của các doanh nghiệp, cắt giảm các khoản chi tiêu không cần thiết, áp dụng tiến bộ khoa học trong quản lý hành chính bảo đảm thông tin thông suốt chính xác. 2. Biện pháp tổ chức quản lý. Để làm được điều này , các doanh nghiệp phải tăng cường quản lý từng yếu tố của quá trình kinh doanh: * Quản lý vốn cố định. - Nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định. - Xây dựng và chấp hành tốt các nội quy, quy chế bảo dưỡng, sửa chữa tài sản cố định. Xây dựng chế độ thưởng phạt, nâng cao trách nhiệm vật chất trong sử dụng tài sản cố định. - Thường xuyên quan tâm đến việc bảo toàn và phát triển vốn cố định về mặt hiện vật không để mất mát, hư hỏng tài sản cố định trước khấu hao hàng năm. * Quản lý vốn lưu động. Vốn lưu động có vai trò quan trọng trong quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động phụ thuộc vào việc sử dụng tiết kiệm và tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Do đó các doanh nghiệp cần phải có các biện pháp quản lý vốn lưu động sau: - Xách định lượng vốn lưu động cần thiết cho từng thời kỳ sản xuất kinh doanh nhằm có biện pháp huy động các nguồn vốn bổ sung. - Xây dựng tốt mối quan hệ với khách hàng nhằm củng cố uy tín của Các doanh nghiệp, tổ chức tốt quá trình thanh toán giảm các khoản nợ đến hạn chưa đòi được, tránh tình trạng nợ dây dưa, không có khả năng thanh toán. 3. Quản lý chiến lược marketing. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường các doanh nghiệp không còn cách lựa chọn nào khác là phải nâng cao nhận thức lý luận và thực hành marketing vào kinh doanh. Marketing phản ánh một chức năng cơ bản của kinh doanh giống như chức năng sản suất, chức năng tài chính, chức năng quản lý nhân lực... Những chức năng này đều là những bộ phận tất yếu về mặt tổ chức của một các doanh nghiệp. Nhiệm vụ của bộ phận của marketing là tạo ra khách hàng cho doanh nghiệp giống như bộ phận sản xuất tạo ra sản phẩm cho doanh nghiệp. Hiện nay trong các doanh nghiệp hầu như chưa có bộ phận marketing riêng. Công việc marketing ở đây được thực hiện theo kinh nghiệm là chính. Việc lập kế hoạch kinh doanh cho sản xuất kinh doanh chưa được thực hiện một cách chính thức. Các doanh nghiệp nên thực hiện các biện pháp marketing sau: + Lập các bản báo cáo giới thiệu khả năng và năng lực của các doanh nghiệp cho các khách hàng. + Tăng cường khả năng và năng lực của các doanh nghiệp bằng cách thường xuyên đào tạo nâng cao trình độ kinh nghiệm của cán bộ công nhân viên trong các doanh nghiệp để từ đó nâng cao chất lượng của sản phẩm sản phẩm của các doanh nghiệp thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. + Duy trì và nâng cao uy tín của các doanh nghiệp thông qua chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp với phương châm là để cho khách hàng đánh giá chất lượng hiệu quả sản phẩm dịch vụ mà các doanh nghiệp cung cấp mà từ đó duy trì mối quan hệ làm ăn thường xuyên với các doanh nghiệp và giới thiệu các khách hàng mới cho các doanh nghiệp. Các biện pháp marketing trên nếu các doanh nghiệp thực hiện tốt sẽ đạt được các kết quả nhất định. Kết luận Hiệu quả kinh doanh là một vấn đề đa dạng và phức tạp, trong thời gian và khả năng cho phép. Bài viết này của em đã hoàn thành các nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Trình bày khái quát nội dung của vấn đề hiệu quả kinh doanh như các quan niệm về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, phương pháp dùng để phân tích hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp... Đây là cơ sở và lý luận cho việc đánh giá và phân tích hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp. Qua việc phân tích đó em đã tổng hợp được các nguyên nhân ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp và nêu ra các kiến nghị và giải pháp nhằm duy trì và nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong những năm tiếp theo. Tuy còn nhiều vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện, song các giải pháp đưa ra trong bài viết này nhằm mục đích duy trì và nâng cao hiệu quả kinh doanh ở các doanh nghiệp là phù hợp với điều kiện cụ thể và khả năng của các doanh nghiệp. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình khoa học quản lý - Đỗ Hoàng Toàn NXB- Khoa học kỹ thuật -1999. 2. Giáo trình quản lý kinh tế - Đỗ Hoàng Toàn, Mai Văn Bưu, Đoàn Thu Hà NXB- Khoa học kỹ thuật- 1999. 3. Kinh tế thương mại và dịch vụ- Đặng Đình Đào NXB Thống kê-1998. 4. Giáo trình hiệu quả và quản lý dự án nhà nước - Mai Văn Bưu NXB- Khoa học kỹ thuật- 1998. 5. Phân tích hoạt động kinh doanh- Phạm thị Gái NXB Giáo dục -1997. 6. Xác định hiệu quả nền sản xuất xã hội, doanh nghiệp và đầu tư - Nguyễn Trần Quế NXB- Khoa học kỹ thuật- 1995. Mục lục Lời mở đầu 1 Phần nội dung 2 I. Hiệu quả kinh doanh và vai trò của nó đối với các doanh nghiệp 2 1. Các quan điểm về hiệu quả kinh doanh bản chất của hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp 2 2. Vai trò của nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với các doanh nghiệp 8 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp 11 4. Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp 16 II. Thực trạng hoạt động hiệu quả kinh doanh tại các doanh nghiệp 20 III. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ở các doanh nghiệp 22 1. Các biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận của các doanh nghiệp 22 2. Biện pháp tổ chức quản lý 24 3. Quản lý chiến lược marketing 25 Kết luận 26 Tài liệu tham khảo 27

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV383.doc
Tài liệu liên quan