Tổng kết 5 năm điều trị chấn thương thanh - khí quản

KẾT LUẬN Về đặc điểm lâm sàng Bệnh nhân Nam là chiếm ưu thế. Nguyên nhân chủ yếu do tai nạn giao thông. Tổn thương thanh quản là hay gặp nhất. Về bệnh cảnh lâm sàng cận lâm sàng Lâm sàng: Khàn tiếng, khó thở, tràn khí là 3 triệu chứng hay gặp nhất. Cận lâm sàng: - Nội soi thanh khí quản ống mềm có giá trị đáng tin cậy, dễ thực hiện, chi phí không cao. - CTscan đánh giá tốt thương khung sụn thanh khí quản, đây là xét nghiệm tin cậy và cần thiết trong chỉ định phẫu thuật hay điều trị nội khoa. Về điều trị Điều trị cấp cứu Mở khí quản hay đặt nội khí quản cấp cứu thường được thực hiện với bệnh nhân khó thở thanh quản độ II trở lên. Đây là chấn thương đường thở nên việc thông đường khí đạo và chống sốc là việc cần phải tiến hành tức thì ngay lúc vào cấp cứu. Điều trị chuyên khoa So sánh kết quả ban đầu giữa 2 phương pháp: - Tỉ lệ rút ống thở của phẫu thuật hở là 68,5%. - Tỉ lệ rút ống thở của phương pháp nong qua nội soi là 96,3% . Chỉnh hình chấn thương thanh khí quản bằng phương pháp nong qua nội soi là một phương pháp khả thi để chỉ định cho đa số chấn thương thanh khí quản đến sớm.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 33 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng kết 5 năm điều trị chấn thương thanh - khí quản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 352 TỔNG KẾT 5 NĂM ĐIỀU TRỊ CHẤN THƯƠNG THANH-KHÍ QUẢN Trần Phan Chung Thuỷ* TÓM TẮT Cùng với sự gia tăng của tai nạn giao thông, chấn thương thanh khí quản cũng ngày càng tăng, đòi hỏi có phương pháp điều trị đúng đắn và kịp thời để tránh sẹo hẹp về sau. Mục tiêu: So sánh kết quả điều trị chấn thương thanh khí quản bằng phẫu thuật mở và bằng phương pháp nong qua nội soi tại khoa tai mũi họng bệnh viện Chợ Rẫy từ 1/2005 đến 9/2009. Đối tượng: Qua khảo sát 54 trường hợp chấn thương thanh-khí quản điều trị bằng phương pháp phẫu thuật hở và 54 trường hợp điều trị bằng phương pháp nong qua nội soi tại khoa Tai Mũi Họng từ 5/2007 đến 8/2009. Thiết kế nghiên cứu: Hai giai đoạn: Thực nghiệm lâm sàng hồi cứu mô tả trong thời gian từ 1/2005 đến 4/2007 và Thực nghiệm lâm sàng tiến cứu mô tả trong thời gian từ 5/2007 đến 9/2009. Kết quả: Trong cả 2 nhóm nghiên cứu chúng tôi nhận thấy: Bệnh nhân nam là chiếm ưu thế. Nguyên nhân chủ yếu do tai nạn giao thông. Tổn thương thanh quản là hay gặp nhất. So sánh kết quả ban đầu giữa 2 phương pháp: Tỉ lệ rút ống thở của phẫu thuật hở là 68,5% và tỉ lệ này của phương pháp nong qua nội soi là 96,3%. Kết luận: Chỉnh hình chấn thương thanh khí quản bằng phương pháp nong qua nội một phương pháp khả thi để chỉ định cho đa số chấn thương thanh khí quản đến sớm. SUMMARY OVERVIEW 5 YEAR MANAGEMENT OF LARYNGOTRACHEAL TRAUMA Tran Phan Chung Thuy * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 352 - 357 The ratio of the laryngotracheal trauma is increasing along with the increase of traffic accidents. This disease needs proper treatment to avoid laryngotracheal stenosis. Objective: Compare the results of treatment laryngotracheal trauma by open surgery and baloon laryngotracheal plasty method. Patients: 54 laryngo-tracheal trauma cases have been treated by open surgery and 54 laryngo-tracheal trauma cases have been treated by endoscopic surgery at ENT department of Cho Ray Hospital from 1/2005 to 9/2009. Design: retrospective study from 1/2005 to 4/2007 and prospective study from 5/2007 to 9/2009. Results: Most of them are male, at labour age. The trauma usually result from accident de circulation. Hoarseness, dyspnea, subcutaneus emphysema are mostly seen. X-ray, endoscopy, and especially CTscan help to diagnose the trauma location exactly. Success percentage of open surgery was 68.5% and success percentage of baloon laryngotracheal plasty method was 96.3%. Conclusion: The baloon laryngotracheal plasty method is good indication for majority of early laryngotracheal trauma. Key words: laryngtracheal trauma, balloon laryngoplasty, open surgery. ĐẶT VẤN ĐỀ Ở nước ta, cùng với sự gia tăng của tai nạn giao thông, thì chấn thương thanh khí quản cũng ngày càng tăng, đòi hỏi cần có một qui trình đúng để xử trí sự giải quyết đồng bộ thống nhất từ các tuyến cơ sở và trung ương cũng như * Khoa Tai Mũi họng, BV. Chợ Rẫy, Tác giả liên lạc: BS CKII Trần Phan Chung Thủy, ĐT: 0979917777; Email: chungthuytranphan@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 353 giữa các chuyên khoa có liên quan. Bệnh viện Chợ Rẫy là tuyến cuối nên đã nhận được nhiều bệnh nhân đa thương trong đó rất nhiều chấn thương thanh khí quản. Chỉnh hình chấn thương thanh khí quản bằng phương pháp nong qua nội soi được thực hiện tại khoa tai mũi họng bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 5/2007. Để đóng góp nhỏ cho việc nghiên cứu tình hình chấn thương thanh-khí quản ở nước ta và rút ra một số kinh nghiệm chúng tôi khảo sát tình hình chấn thương thanh khí quản tại khoa tai mũi họng bệnh viện Chợ rẫy từ 1/2005 đến 9/2009. Mục tiêu nghiên cứu So sánh phương pháp điều trị chấn thương thanh-khí quản tại khoa tai mũi họng bệnh viện Chợ Rẫy trong khoảng thời gian 1/2005 đến 9/2009. Rút ra một số kinh nghiệm trong điều trị chấn thương thanh khí quản ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tiêu chuẩn lựa chọn Bao gồm tất cả những bệnh nhân được chẩn đoán chấn thương thanh-khí quản vào bệnh viện Chợ Rẫy và được phẫu thuật chỉnh hình chấn thương thanh-khí quản từ 1/2005 đến 9/2009. Phương pháp nghiên cứu Chúng tôi thực hiện phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, gồm 2 giai đoạn: Giai đoạn hồi cứu Thu thập hồ sơ tại phòng lưu trữ hồ sơ của khoa TMH bệnh viện Chợ Rẫy từ 1/ 2005 đến 4/2007. Giai đọan tiến cứu Là những bệnh nhân vào khoa từ 5/2007 đến 9/2009. Tất cả các bệnh nhân vào viện được thu thập các thông tin: Tiếp nhận bệnh nhân, cấp cứu khai thác hoàn cảnh, nguyên nhân xảy ra chấn thương, thăm khám chẩn đoán hoàn tất bệnh án và điều trị, đánh giá tình trạng bệnh nhân khi ra viện. Thu thập và xử lý số liệu Thu thập số liệu tất cả bệnh nhân vào viện như tiêu chuẩn chọn lựa. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Dịch tễ học lâm sàng chấn thương thanh- khí quản Sự phân bố theo lứa tuổi và giới Tuổi < 20 21-30 31-40 41-50 51-60 Tổng số Nữ 0 2 0 1 0 3(5,6%) Nam 6 18 16 9 1 51(94,4%) Phẫu thuật hở Tỷ lệ % 11,1 37,0 29,6 18,5 1,8 54(100%) Nữ 0 0 0 2 0 2 (3,7%) Nam 8 19 11 10 4 52 (96,3%) Phẫu thuật nội soi Tỷ lệ % 14,8 35,5 20,3 22,2 7,4 54(100%) Theo kết quả trên, trong cả 2 nhóm nghiên cứu: Trong nghiên cứu thứ nhất với phẫu thuật hở chấn thương thanh khí quản gặp chủ yếu là nam (91,7%), nữ (8,3%)(9). Trong nghiên cứu thứ hai với chỉnh hình thanh khí quản bằng phương pháp nong qua nội soi nam (96,3%), nữ rất ít (3,7%). Lứa tuổi thường gặp nhất là thanh niên từ 21 đến 40 tuổi, lứa tuổi xử dụng phương tiện giao thông cá nhân nhiều. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả của tác giả Lê Thanh Thái và Phạm Khánh Hoà trong nghiên cứu tình hình chấn thương thanh khí quản tại bệnh viện tai mũi họng trung ương trong thời gian từ năm 1988 đến 1989(4). Nguyên nhân gây chấn thương Nguyên nhân Tai nạn giao thông Tai nạn lao động, Tai nạn sinh hoạt Tổng số Phẫu thuật hở 45 (83,3%) 5 (9,2%) 4 (7,4%) 54 (100%) Phẫu thuật nội soi 46 (85,2 %) 3 (5,6 %) 5 (9,2%) 54 (100%) Nguyên nhân gây chấn thương nhiều nhất là tai nạn giao thông, thường là chấn thương phức tạp, cả thanh quản, khí quản, có khi kết hợp những chấn thương cơ quan khác. Làm cho tình trạng bệnh nặng thêm và điều trị thêm phức tạp. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 354 Phân loại chấn thương Nhóm chấn thương Chấn thương kín Chấn thương hở Tổng số Phẫu thuật hở 43 (79,6%) 11(20,3%) 54 (100%) Phẫu thuật nội soi 37(68,5%) 17(31,5%) 54 (100%) Kết quả cho thấy nhóm chấn thương hở ít hơn so với chấn thương kín(5). Kết quả này khác với kết quả của các tác giả nước ngoài nhưng lại khác với tác giả Lê Thanh Thái. Kết quả của chúng tôi cho thấy chấn thương thanh quản kín chủ yếu thấy trong nhóm nguyên nhân tai nạn giao thông và sinh hoạt. Các nhóm nguyên nhân bị đâm và một số trong nhóm nguyên nhân tai nạn giao thông và sinh hoạt có văng mảnh gây vết thương chủ yếu là chấn thương hở(8). Lâm sàng Trong hai nhóm nghiên cứu của chúng tôi vì các chấn thương thanh khí quản có tổn thương khung sụn, hẹp đường thở, cần phẫu thuật, theo phân loại của Schaefer là loại 2, 3 và 4, nên 3 triệu chứng chính như khàn tiếng, khó thở, tràn khí gần như đều thấy trong mọi trường hợp. Triệu chứng Khàn tiếng Khó thở > độ II Tràn khí dưới da Phẫu thuật hở 50(92,5%) 48(88,8%) 54(100%) Phẫu thuật nội soi 46(85,1%) 32(59,2%) 54(100%) Ngoài 3 triệu chứng chính như trên thì chấn thương hở còn kèm theo chảy máu, thở phì phò qua vết thương. Chấn thương kín thì thường có sưng đau vùng cổ. Gộp chung cả 2 nhóm chấn thương kín, chấn thương hở và so với nghiên cứu của tác giả Lê Thanh Thái: Rối loạn tiếng nói 53,2%, khó thở là 68,1%, tràn khí dưới da là 40,4%. Các tỉ lệ của chúng tôi đều cao hơn, do có nhiều chấn thương nặng, đa thương. Cận lâm sàng Tất cả các trường hợp đều được chụp Xquang phổi thẳng, cổ thẳng, cổ nghiêng. Xquang thường: Hình ảnh bệnh lý chúng tôi gặp không nhiều và không đa dạng, tuy vậy vẫn cho thấy giá trị kinh điển phát hiện tràn khí dưới da, có trường hợp phát hiện vỡ sụn giáp, sụn nhẫn có di lệch(7). CTscan chúng tôi thực hiện ở tất cả các trường hợp. Đây là hình ảnh có giá trị chẩn đoán chấn thương thanh khí quản rất cao. Phát hiện các tổn thương vỡ sụn nhẫn, sụn giáp, sụn khí quản, cả những tổn thương hẹp, phù nề, xẹp lún sụn tràn khí dưới da. Những tổn thương chấn thương thanh-khí quản phát hiện trên CTscan được tóm tắt trong bảng sau: Tràn khí dưới da Vỡ sụn thanh quản Vỡ sụn Khí quản Tổn thương niêm mạc Phẫu thuật hở 54 (100%) 45 (83,3%) 7 (12,9%) 54 (100%) Phẫu thuật nội soi 54 (100%) 41 (75,9%) 9 (16,6%) 54 (100%) Với nhóm nghiên cứu thứ hai (5/2007 - 9/2009), Chúng tôi phân tích kỹ hơn trên nội soi và CTscan để xác định sụn bị tổn thương. Nội soi ống mềm sớm nhất có thể để đánh giá niêm mạc và lòng thanh khí quản. Đây là một thủ thuật nhẹ nhàng nhưng có giá trị lớn đánh giá tổn thương. Thủ thuật này có thể thực hiện ngay sau giai đoạn cấp cứu, khi bệnh nhân được đảm bảo đường thở. Khi kết quả CTscan chưa đủ bằng chứng chỉ định mổ. Bảng sau đây ghi nhận đánh giá tổn thương qua nội soi của nhóm 2 (5/2007 - 9/2009): Hạn chế cử động trật khớp SP Rách niêm mạc, phù nề, tụ máu Lộ sụn Hẹp T- KQ, bị đẩy lệch Hẹp lòng thanh quản trước sau Bít hoàn toàn 15 (27,7%) 54 (100%) 10 (18,5%) 25 (46,3%) 6 (11,1%) 23 (42,6%) Trong chấn thương kín các vị trí tổn thương hay gặp nhất là tổn thương trong lòng thanh quản. Những trường hợp nặng, vị trí hay gặp nhất là sụn nhẫn, sụn khí quản, sau là sụn giáp. Kết quả này phù hợp với cơ chế gây tổn thương. Chúng tôi gặp nhiều các trường hợp phối hợp tổn thương cả thanh và khí quản. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 355 Đánh giá điều trị Giai đoạn cấp cứu Số ca giai đoạn cấp cứu Không mở khí quản Mở khí quản, Đặt nội khí quản Tổng số Phẫu thuật hở 13 ( 24,1%) 41 (75,9 %) 54 (100%) Phẫu thuật nội soi 18 ( 33,3%) 36 ( 66,6%) 54 (100%) Điều trị giai đoạn cấp cứu chấn thương thanh khí quản bao gồm: bảo đảm đường thở thông và hồi sức. Giai đoạn này được thực hiện khá tốt ở tuyến tỉnh. Mở khí quản hoặc đặt nội khí quản và hồi sức. Tuy nhiên một số trường hợp bệnh nhân được mở vào sụn nhẫn, chúng tôi phải mở lại khí quản thấp hơn, những trường hợp này có nguy cơ sẹo hẹp do mở khí quản nếu để lâu. Giai đoạn chuyên khoa CTscan vàNội soi được thực hiện trong vòng 6 đến 72 giờ Và phẫu thuật ngay sau khi xác định tổn thương. Theo chúng tôi, trong chấn thương hở thì triệu chứng thường rầm rộ nên thường được đưa đến bệnh viện sớm và sử trí kịp thời, còn chấn thương kín và nhất là có đa chấn thương kèm theo như chấn thương sọ não, ngực thì có thể bị bỏ sót hoặc chậm trễ. Nhóm điều trị bằng phẫu thuật mở Mở sụn nhẫn, sụn giáp, sụn khí quản đường giữa. Với tổn thương không phức tạp, không dập nát nhiều thì phẫu thuật tái tạo có đặt ngón tay găng. Với tổn thương sụn nhẫn, sụn giáp, sụn khí quản phức tạp, phẫu thuật hở chỉnh hình thanh khí quản với ống T hay ống Abounker được lựa chọn Điều trị CK Nong bằng bóng NKQ Đặt bóng nong NKQ Đặt ngón tay găng Đặt ống T hay Aboulker Tổng số Phẫu thuật hở 0 (0%) 0 (0%) 27 (50%) 27(50%) 54(100%) Phẫu thuật nội soi 17 (31,4%) 35 (64,8%) 1 (1,8%) 1 (1,8%) 54(100%) Nhóm điều trị bằng phương pháp nong qua nội soi Nội soi thanh quản treo dưới gây mê nội khí quản hay gây tê có tiền mê. - Nong thanh khí quản chấn thương bằng bong bóng nội khí quản số 5. - Sau nong tùy chấn thương vỡ sụn vững hay không vững mà không đặt hay có đặt vật nong và giữ khẩu độ. - Kỹ thuật này được sử dụng cho cả tổn thương sụn giáp, sụn nhẫn hay sụn khí quản. Biến chứng gặp trong quá trình điều trị Biến chứng trong quá trình điều trị chúng tôi gặp không nhiều, chủ yếu là nhiễm trùng tại chỗ nhẹ. Kháng sinh (thường là họ Cephalosporin thế hệ III hay Quinolone trong những trường hợp chấn thương nhiều có nguy cơ nhiễm trùng bệnh viện. Kháng viêm corticoid được dùng cho tất cả các trường hợp trừ bệnh nhân có viêm loét bao tử. Chống trào ngược cũng được chúng tôi chú ý. Đánh giá điều trị Kết quả Tiếng bình thường Khàn tiếng Mang ống nong Tổng số Phẫu thuật hở 15 (27,7%) 22 (40,7%) 17(31,5%) 54 (100%) Phẫu thuật nội soi 27 (50,0%) 24 (44,4%) 2 (3,7%) 54 (100%) So sánh kết quả quan trọng nhất là rút được ống thở giữa 2 phương pháp phẫu thuật hở và phương pháp nong qua nội soi chúng tôi thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê: Tỉ lệ này ở phương pháp mổ hở khá cao 17 ca (31,5%), còn ở phương pháp nong qua nội soi chúng tôi có tỉ lệ là 2 ca (3,7%). So sánh 2 phương pháp điều trị chấn thương thanh khí quản trong vòng 5 năm tại khoa tai mũi họng bệnh viện Chợ Rẫy, chúng tôi có những nhận xét sau đây Nhờ ống nội soi quang học thanh-khí quản mà phẫu thuật viên không cần bổ khung sụn thanh-khí quản ra mà vẫn có thể quan sát toàn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 356 bộ niêm mạc bên trong. Trái lại với phương pháp mổ hở phải rạch da, bóc tách bộc lộ khung sụn thanh-khí quản và cắt mở cả sụn và niêm mạc. Sau nong, chúng tôi soi kiểm tra ngay được niêm mạc tổn thương, đo chiều dài, đánh giá sự bong tróc hay rách nhiều niêm mạc và đánh giá khung sụn có vững hay không(5). Với chỉnh hình thanh-khí quản bằng phương pháp nong qua nội soi thì không cần rạch da, sẽ không để lại sẹo trên cổ, đây cũng là mối quan tâm của nhiều bệnh nhân nhất là bệnh nhân trẻ tuổi. Đồng thời cũng không có nguy cơ làm tổn thương thần kinh hồi qui và mạch máu xung quanh thanh-khí quản là những biến chứng nguy hiểm trong phẫu thuật vùng cổ, nhất là phẫu thuật trên vùng mô bị chấn thương sưng phù nề, tràn khí. Thời gian can thiệp nhìn chung ngắn hơn vì khi phải mở cổ và thanh-khí quản ra là phẫu thuật lớn, đòi hỏi thời gian lâu và phẫu thuật viên có nhiều kinh nghiệm về phẫu thuật vùng cổ. Do không cắt rạch mô nên lượng máu mất là không nhiều, trừ những trường hợp chấn thương hở hay có tổn thương phối hợp với các cơ quan khác(1). Tất cả các trường hợp phẫu thuật mở vào khung sụn thanh-khí quản để chỉnh hình thanh-khí quản do chấn thương đều phải đặt ống nong và giữ khẩu độ ngắn ngày (như ngón tay găng) hay dài ngày (như ống Aboulker hay ống T)(2)., nhưng đối với chỉnh hình thanh-khí quản bằng phương pháp nong qua nội soi thì có những trường hợp không cần đặt ống nong và giữ khẩu độ nếu thấy sau nong lòng thanh-khí quản thông thoáng trở lại và vững, niêm mạc trong lòng thanh-khí quản không rách, không bong tróc nhiều. Tuy nhiên phương pháp này cũng có những hạn chế cần chỉ định đúng Đối với những trường hợp chấn thương thanh-khí quản có mất chất nhiều, cần tái tạo bằng ghép mô thì cần tiến hành phẫu thuật mổ hở, hay những trường hợp đứt lìa sụn thanh-khí quản thì nội soi quang học chỉ có tác dụng trợ giúp, soi kiểm tra bên trong lòng thanh-khí quản có bị sụp lún hay không để đưa bong bóng nội khí quản vào nong ra đồng thời đặt lưu ống nong và giữ khẩu độ sau mổ(3) Trường hợp bệnh nhân chỉ được mở khí quản cấp cứu, chấn thương thanh-khí quản bị bỏ quên hay do phải xử lý các chấn thương nặng ảnh hưởng tới tính mạng trước như chấn thương sọ não, lồng ngực, xương khớp Khi bệnh nhân đến thì chấn thương thanh-khí quản đã sang giai đoạn xơ hóa, thì việc nong chỉnh hình thanh-khí quản qua nội soi sẽ gặp nhiều khó khăn, có khi không nong được. Những trường hợp này chúng tôi chuyển sang mổ hở tái tạo đặt ống T hay ống Aboulker. Ưu điểm và hạn chế của chỉnh hình thanh- khí quản bằng phương pháp nong qua nội soi và phẫu thuật hở được tóm tắt ở bảng sau: Đặc điểm Phẫu thuật hở Phẫu thuật nội soi Đường mổ rạch da Có Không Thời gian mổ Dài Ngắn Máu mất Nhiều Ít Sưng đau sau mổ Nhiều Ít Nguy cơ tổn thương TK quặt ngược Có Không Nguy cơ tổn thương mạch máu quanh T-KQ Có Không Rạch khung sụn Có Không Rạch niêm mạc Có Không Đặt ống nong và giữ khẩu độ Có Không hoặc có Thời gian nằm viện Dài Ngắn KẾT LUẬN Về đặc điểm lâm sàng Bệnh nhân Nam là chiếm ưu thế. Nguyên nhân chủ yếu do tai nạn giao thông. Tổn thương thanh quản là hay gặp nhất. Về bệnh cảnh lâm sàng cận lâm sàng Lâm sàng: Khàn tiếng, khó thở, tràn khí là 3 triệu chứng hay gặp nhất. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 357 Cận lâm sàng: - Nội soi thanh khí quản ống mềm có giá trị đáng tin cậy, dễ thực hiện, chi phí không cao. - CTscan đánh giá tốt thương khung sụn thanh khí quản, đây là xét nghiệm tin cậy và cần thiết trong chỉ định phẫu thuật hay điều trị nội khoa. Về điều trị Điều trị cấp cứu Mở khí quản hay đặt nội khí quản cấp cứu thường được thực hiện với bệnh nhân khó thở thanh quản độ II trở lên. Đây là chấn thương đường thở nên việc thông đường khí đạo và chống sốc là việc cần phải tiến hành tức thì ngay lúc vào cấp cứu. Điều trị chuyên khoa So sánh kết quả ban đầu giữa 2 phương pháp: - Tỉ lệ rút ống thở của phẫu thuật hở là 68,5%. - Tỉ lệ rút ống thở của phương pháp nong qua nội soi là 96,3% . Chỉnh hình chấn thương thanh khí quản bằng phương pháp nong qua nội soi là một phương pháp khả thi để chỉ định cho đa số chấn thương thanh khí quản đến sớm. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bailey, B.J (1998). Head and Neck Surgery-Otolaryngology. Laryngeal Trauma, J.B. Lippincott; Philadelphia. Ch 68 vol. 1. 2. Ganzel TM, Mumford LA (1989). Diagnosis and management of acute laryngeal trauma. Am Surg ;55:303-306. 3. Kennedy KS, Harley EH (1988). Diagnosis and treatment of acute laryngeal trauma. Ear Nose Throat J ;67:584,587,590-2 passim. 4. Lê Thanh Thái (1989): Nghiên cứu tình hình chấn thương thanh khí quản tại bệnh viện Tai Mũi Họng trung ương trong thời gian từ năm 1988 đến 1989 5. Nguyễn văn Đức (1990). Thanh khí quản- Bài giảng giải phẫu tai mũi họng, giáo trình sau đại học. Trường đại học y dược thành phó Hồ Chí Minh, 1990, trang 27 6. Schaefer, S.D (1990). The acute surgical treatment of the fractured larynx. Operative Techniques in Otolaryngology- Head and Neck Surgery.;1(1):64-70 7. Schaefer, S.D (1991). Use of CT scanning in the management of the acutely injured larynx. Oto Clinics of North America.:24(1); 31-36 8. Stevens, R., Driscoll, B, and Quinn, F.B (1997). Laryngeal Trauma, UTMB Dept. of Otolaryngology Grand Rounds Archive, May 21, 9. Trần Phan Chung Thủy (2007), “Nghiên cứu tình hình chấn thương thanh khí quản tại khoa TMH BV Chợ Rẫy từ 1/2005 đến 10/2006”, Hội nghị khoa học kỹ thuật trường đại học y dược thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftong_ket_5_nam_dieu_tri_chan_thuong_thanh_khi_quan.pdf
Tài liệu liên quan