This paper presents some study results on morphological change in the coastal
region of Mekong River under the influences of sea level rise. In order to set up the models,
measured data were collected, systematically and homogeneously processed to create open
boundary conditions (time-serial data) for the model. Open sea boundary conditions of the model
were created by NESTING method. The model (Delft3D model) was set up with 4 layers in Sigma
coordinate. The results of model were validated, showing a fairly good agreement with measured
data (water elevation, currents, and suspended sediment concentration) at some places in the study
area. Results of some scenarios of simulation (dry and flood season) show the sea level rise due to
climate change could make a reduction in the seaward sediment transport and increase its settling
around estuaries. As a result, sea level rise causes an increase in the accreted rate of sandbars in
southern estuary of Mekong river coastal area. The influences of sea level rise on Mekong river
coastal bed topography are prevailing in the region of about 7 - 10 km seawards. Further 10 km
from the coast, influences of sea level rise on coastal morphology are not significant.
11 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 635 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu 6502_23971_1_pb_4304_2079681_20190311_121959, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
139
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 15, Số 2; 2015: 139-149
DOI: 10.15625/1859-3097/15/2/6502
MÔ PHỎNG ẢNH HƯỞNG CỦA MỰC NƯỚC BIỂN DÂNG ĐẾN BIẾN
ĐỘNG ĐỊA HÌNH ĐÁY VÙNG VEN BỜ CỬA SÔNG MÊ KÔNG
Vũ Duy Vĩnh*, Trần Đình Lân, Trần Anh Tú, Nguyễn Thị Kim Anh
Viện Tài nguyên và Môi trường biển-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
*E-mail: vinhvd@imer.ac.vn
Ngày nhận bài: 22-12-2014
TÓM TẮT: Bài báo trình bày các kết quả nghiên cứu dự báo biến động địa hình ở vùng ven bờ
châu thổ sông Mê Kông dưới ảnh hưởng của nước biển dâng. Để thiết lập mô hình tính, các chuỗi
số liệu quan trắc đã được thu thập, xử lý hệ thống và đồng bộ cho các điều kiện biên (sông, biển)
của mô hình dạng chuỗi số liệu (time serial data). Các biên mở phía biển của mô hình được tạo ra
bằng phương pháp lưới lồng (NESTING) từ mô hình có miền tính rộng hơn ở phía ngoài. Mô hình
Delft3D với 4 lớp độ sâu theo hệ tọa độ Sigma đã được thiết lập và kiểm chứng cho thấy có sự phù
hợp với số liệu đo đạc. Kết quả dự báo trong mùa cạn và mùa lũ đã cho thấy sự dâng cao mực nước
biển do biến đổi khí hậu làm hạn chế sự phát tán của dòng trầm tích về phía biển và tập trung di
chuyển quanh các cửa sông. Qua đó làm tăng tốc độ bồi tại các bãi bồi khu vực phía ngoài các cửa
sông phía nam của vùng ven bờ châu thổ sông Mê Kông. Những ảnh hưởng do dâng cao mực nước
biển đến địa hình đáy ven bờ châu thổ sông Mê Kông phổ biến diễn ra trong phạm vi khoảng 7 -
10 km từ cửa sông ra phía ngoài. Ở phía ngoài 10 km từ bờ ra, ảnh hưởng do dâng cao mực nước
đến địa hình đáy hầu như không đáng kể.
Từ khóa: Biến động địa hình, Mê Kông, mô hình, mực nước biển dâng, Delft3D.
MỞ ĐẦU
Biến đổi khí hậu (BĐKH) là hiện tượng trái
đất nóng dần lên do hiệu ứng nhà kính làm cho
nhiệt độ ở các đại dương tăng dần lên, làm tan
băng ở các vùng cực, dẫn tới khí hậu của Trái
đất biến đổi, thay đổi tần suất và thời gian xuất
hiện của các hiện tượng thời tiết cực đoan và
dâng cao mực nước biển. Ở Việt Nam, theo
nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Khí tượng
Thủy văn và Môi trường, trong vòng 25 năm
(từ 1982 đến 2007) mực nước biển trung bình
18 năm (1990 - 2007) cao hơn mực nước biển
trung bình 18 năm (1982 - 1999) là 34,4 mm.
Tính trung bình mỗi năm gia tăng khoảng
5 mm [1].
Vùng ven bờ châu thổ sông Mê Kông
(CTSMK) được xác định là một trong những
nơi chịu tác động nặng nề do nước biển dâng.
Nơi đây cũng có chế độ động lực phức tạp với
sự tác động và ảnh hưởng của các yếu tố như
sóng, dòng chảy, thủy triều và nguồn nước từ
sông đổ ra biển. Dưới ảnh hưởng của các điều
kiện đó nên đường bờ, địa hình đáy biển ở khu
vực này luôn có sự biến động mạnh theo không
gian và thời gian. Điều này không chỉ gây ra
những khó khăn đối với các hoạt động giao
thông thủy trong khu vực mà còn đe dọa đến sự
phát triển bền vững của các khu dân cư ven
biển trong vùng. Chính vì vậy, các vấn đề liên
quan đến động lực và vận chuyển trầm tích ở
khu vực này đã được các nhà khoa học trong và
ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Có nhiều
cách tiếp cận khác nhau như tiếp cận theo
hướng địa chất, địa vật lý dựa trên các số liệu
phân tích thành phần trầm tích, đặc điểm trầm
tích trong các cột khoan từ đó đưa ra các nhận
Vũ Duy Vĩnh, Trần Đình Lân,
140
định về tốc độ lắng đọng, xu hướng bồi xói ở
khu vực này [2-4]. Một cách tiếp cận khác dựa
trên việc phân tích các số liệu đo trầm tích bề
mặt kết hợp với mô hình thủy động lực (TĐL)
để đánh giá phân bố trầm tích lơ lửng (TTLL)
và xu hướng di chuyển của dòng trầm tích vùng
ven bờ CTSMK [5-8]. Trong nghiên cứu gần
đây [9, 10] đã có cách tiếp cận tổng hợp khi
thiết lập một hệ thống mô hình TĐL gồm dòng
chảy - sóng - vận chuyển trầm tích để mô
phỏng biến động địa hình đáy biển ven bờ
CTSMK. Dựa trên các kịch bản dự báo về nước
biển dâng của Bộ Tài nguyên và Môi trường,
bài viết này sẽ trình bày một số kết quả mô
phỏng ảnh hưởng do nước biển dâng đến biến
động địa hình đáy ở vùng ven bờ CTSMK.
TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Khu vực nghiên cứu nằm trong khoảng tọa
độ 7,5 - 10,5 độ vĩ bắc và 103,2 - 107,9 độ kinh
đông thuộc, vùng biển ven bờ CTSMK. Đây là
khu vực nằm trong vùng ảnh hưởng của chế độ
khí hậu có tính chất nhiệt đới gió mùa với sự
tương phản sâu sắc giữa hai mùa gió: Mùa gió
động bắc từ tháng 11 năm trước đến tháng 3
năm sau và gió mùa tây nam từ tháng 4 đến
tháng 9. Hàng năm hệ thống sông Mê Kông đưa
ra biển khoảng 470 tỷ m3 nước và 160 triệu tấn
trầm tích [11]. Tuy nhiên, lượng nước và trầm
tích chủ yếu tập trung trong các tháng mùa lũ.
Các kết quả nghiên cứu trước kia cho thấy
trầm tích của sông Mê Kông phần lớn là hạt
mịn. Trong mùa cạn, kích thước hạt ngưng keo
là 30 - 40 µm và thành phần hạt sét chiếm 20 -
40% thể tích [12]. Ngược lại vào mùa lũ, kích
thước hạt ngưng keo biến đổi khoảng rộng hơn
với giá trị 50 - 200 µm và thành phần hạt sét
chiếm khoáng 20 - 30% thể tích [13].
Địa hình đáy ở vùng ven bờ, cửa sông Mê
Kông tương đối bằng phẳng. Độ dốc đáy biển
khá nhỏ và độ sâu lớn nhất khoảng 40 - 70 m.
Điều kiện động lực khu vực này chịu ảnh
hưởng mạnh của các khối nước sông, chế độ
thủy triều mang tính chất bán nhật triều với
biên độ khá lớn [14] và điều kiện sóng biến đổi
mạnh theo mùa gió [15].
Tài liệu
Số liệu độ sâu và đường bờ của khu vực
cửa sông ven bờ CTSMK được số hóa từ các
bản đồ địa hình UTM hệ tọa độ địa lý VN 2000
tỷ lệ 1:50.000 và 1:25.000. Độ sâu của khu vực
phía ngoài sử dụng cơ sở dữ liệu GEBCO -1/8
có độ phân dải 0,5 phút được xử lý từ ảnh vệ
tinh kết hợp với các số liệu đo sâu [16, 17].
Các chuỗi số liệu gió, sóng quan trắc nhiều
năm ở trạm hải văn Côn Đảo và Vũng Tàu được
xử lý làm đầu vào cho mô hình tính. Đây là số
liệu đo đạc với tần suất 6h/lần trong năm 2012.
Ngoài ra, số liệu sóng được tham khảo thêm từ
kết quả tính sóng khí hậu năm 2012 [18].
Số liệu mực nước dùng cho việc hiệu chỉnh
mô hình là các kết quả số liệu đo đạc mực nước
(1 h/lần) tại Vũng Tàu trong năm 2012. Ngoài
ra, chuỗi số liệu mực nước còn được xử lý làm
đầu vào cho các biên mở phía biển của mô hình
của 8 sóng triều chính là M2, S2, K2, N2, O1,
K1, P1,Q1. Các hằng số điều hòa thủy triều ở
phía ngoài xa bờ được thu thập từ cơ sở dữ liệu
FES2004 của LEGOS và CLS [19, 20].
Các số liệu đo đạc về dòng chảy, trầm tích
của đề tài “Tương tác giữa các quá trình động
lực Biển Đông và nước sông Mê Kông” trong
mùa lũ và mùa cạn 2013 - 2014 cũng đã được
thu thập, xử lý để phục vụ thiết lập hiệu chỉnh
và kiểm chứng mô hình. Cơ sở dữ liệu WOA13
[21] với độ phân giải 0,25 độ cho khu vực Biển
Đông cũng được khai thác để sử dụng cho mô
hình tính ở phía ngoài.
Tài liệu về mực nước dâng ở khu vực này
dựa theo các kịch bản nghiên cứu về BĐKH và
nước biển dâng cho Việt Nam 2011 do Bộ Tài
nguyên và Môi trường công bố.
Phương pháp
Trong nghiên cứu này, các phương pháp đã
được sử dụng là: GIS để số hóa và xử lý số liệu
địa hình từ các bản đồ địa hình; tính toán thống
kê để xử lý các số liệu lưu lượng nước sông,
hàm lượng TTLL của các biên mở phía sông
cho mô hình TĐL trầm tích ở khu vực nghiên
cứu; lưới lồng (phương pháp NESTING trong
Delf3D) được sử dụng trong nghiên cứu này để
nhằm tạo ra các điều kiện biên mở phía biển
của mô hình (vùng trong, lưới chi tiết).
Các điều kiện TĐL - sóng - vận chuyển
trầm tích và biến động địa hình được mô hình
hóa bằng module TĐL (Delft3d-Flow) của hệ
Mô phỏng ảnh hưởng của mực nước biển
141
thống mô hình Delft3d của Hà Lan. Đây là hệ
thống mô hình có thể mô phỏng tốt điều kiện
TĐL - sóng, vận chuyển trầm tích, biến động
địa hình ở vùng cửa sông ven bờ [22].
Sử dụng hệ tọa độ cong trực giao cho khu
vực cửa sông ven bờ CTSMK, vùng tính bao
gồm các vùng nước của các cửa: Soài Rạp,
Tiểu, Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên, Cung
Hầu, Định An và Trần Đề. Miền tính trải rộng từ
Vũng Tàu đến phía tây của Cà Mau được chia
thành 424 × 295 điểm tính, kích thước các ô lưới
biến đổi từ 43,9 m đến 11.488,9 m (hình 1).
Theo độ sâu, cột nước được chia làm 4 lớp theo
hệ tọa độ . Lưới độ sâu được thiết lập trên cơ
sở lưới tính và bản đồ địa hình của khu vực. Mô
hình được thiết lập và tính đến cả các quá trình
khuyếch tán nhiệt -muối, vận chuyển trầm tích
và ảnh hưởng của sóng.
Mô hình TĐL được thiết lập và chạy cho
các mùa đặc trưng: 3 tháng mùa lũ (tháng 9, 10,
11 năm 2012); 3 tháng mùa cạn (tháng 3, 4, 5
năm 2012). Bước thời gian chạy của mô hình là
0,2 phút.
Điều kiện ban đầu của các kịch bản hiện
trạng là các kết quả tính toán trong file restart
sau tháng đầu tiên của mỗi mùa (tháng 3 của
mùa cạn và tháng 9 của mùa lũ). Số liệu để
cung cấp cho các biên mở phía biển (nhiệt độ,
độ muối, mực nước) lấy từ kết quả tính toán từ
mô hình phía ngoài (lưới thô) bằng phương
pháp NESTHD. Đây là các số liệu dạng time
serial với tần suất 1 h/lần.
7,53°N
103,19°E 107,98°E
11,13°N
103,19°E
7,53°N
107,98°E
11,13°N
Hình 1. Lưới tính của mô hình (lưới chi tiết ở
phía trong và lưới tính thô ở phía ngoài)
Đối với các biên trong sông: Sử dụng chuỗi
số liệu lưu lượng nước đo tại trạm thủy văn
Cần Thơ và Mỹ Thuận với tần suất 1 h/lần
(trong tháng 4, 5 và 9, 12 năm 2012) cho điều
kiện biên sông của mô hình. Số liệu độ muối và
nhiệt độ cho điều kiện biên là các đặc trưng
trung bình tháng. Số liệu gió đưa vào mô hình
tính cho kịch bản hiện trạng là các số liệu quan
trắc tại Côn Đảo trong các tháng 3, 5 và tháng
9, 12 năm 2012 với tần suất 6 h/lần.
Mô hình sóng trong nghiên cứu này được
thiết lập chạy đồng thời (online coupling) với
mô hình TĐL và mô hình vận chuyển TTLL.
Tại mỗi thời điểm tính toán (bước thời gian),
mô hình sóng sẽ sử dụng lưới tính, trường gió,
các kết quả tính độ sâu, mực nước, dòng chảy
của mô hình TĐL. Điều kiện biên mở của mô
hình sóng sử dụng kết quả tính sóng của
WAVE CLIMATE cho vùng Biển Đông và
tham khảo thêm số liệu sóng quan trắc tại Côn
Đảo trong năm 2012 [18]. Kiểu ma sát đáy
trong mô hình sóng ở nghiên cứu này được lựa
chọn là phổ JONSWAP với hệ số có giá trị
0,067. Mô hình B&J được lựa chọn để tính ảnh
hưởng của nước nông nơi diễn ra quá trình
sóng đổ [23].
Các tham số tính toán khác của mô hình:
Tham số nhám đáy (bottom roughness)
trong nghiên cứu này lựa chọn sử dụng các hệ
số Manning (n) biến đổi theo không gian với
giá trị 0,018 - 0,023 m-1/3s [24, 25].
Các giá trị liên quan đến điều kiện rối có
thể được xác định do người dùng như là một
hằng số, hoặc tham số biến đổi theo không gian
hoặc tính toán với cách tiếp cận HLES
(Horizontal Large Eddy Simulation) đã được
tích hợp trong hệ thống mô hình Delft3d theo
lý thuyết của Uittenbogaard [26] và Van
Vossen [27].
Vận tốc lắng đọng của TTLL được chọn dao
động trong khoảng từ 0,05 - 0,12 mm/s. Tiêu
chuẩn ứng suất cho quá trình xói của trầm tích
được lựa chọn là 0,25 N/m2 [28]. Tiêu chuẩn ứng
suất cho quá trình bồi lắng của trầm tích được lựa
chọn là 0,1 N/m2 [28]. Tốc độ xói trong tự nhiên
ban đầu được giả thiết là 10-3 kg/m2.s.
Hiệu chỉnh, kiểm chứng kết quả tính của
mô hình: Các kết quả tính toán của mô hình đã
được kiểm chứng thông qua việc so sánh với số
liệu quan trắc. So sánh kết quả tính toán mực
nước từ mô hình với mực nước quan trắc tại
Vũ Duy Vĩnh, Trần Đình Lân,
142
các trạm Vũng Tàu, Bình Đại, An Thuận, Hòa
Bình cho thấy khá phù hợp kể cả về pha và
biên độ (hình 2a, b). Sai số bình phương trung
bình giữa tính toán và đo đạc mực nước ở các
trạm này dao động trong khoảng 0,15 - 0,25 m.
Các giá trị quan trắc dòng chảy được phân tích
thành các thành phần kinh hướng (u) và vĩ
hướng (v) trước khi đem so sánh với các kết
quả tính toán từ mô hình. Sau lần hiệu chỉnh
cuối cùng, kết quả so sánh cho thấy có sự phù
hợp tương đối giữa số liệu đo đạc và tính toán
dòng chảy ở khu vực này (hình 2c). So sánh
hàm lượng TTLL quan trắc và tính toán ở một
số vị trí phía ngoài cửa sông Mê Kông cũng
cho thấy sự phù hợp (hình 2d).
Hình 2. Kiểm chứng kết quả tính của mô hình và quan trắc
a, b- mực nước tại Bến Trại (cửa Cổ Chiên) tháng 4 và tháng 9-2012; c- dòng chảy
tầng giữa phía ngoài cửa Cung Hầu (04-08/4/2014); d- hàm lượng TTLL
phía ngoài cửa Hàm Luông (14-20/9/2013)
Các kịch bản tính: Mô hình tính được thiết
lập và chạy với 6 kịch bản tính khác nhau.
Trong đó có 2 kịch bản tham khảo (hiện trạng)
và 4 kịch bản dự báo: mực nước dâng 25 cm và
50 cm (kịch bản phát thải trung bình - B2)
trong mùa lũ và mùa cạn.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Đặc điểm biến động địa hình đáy biển ven
bờ châu thổ sông Mê Kông
Biến động địa hình đáy biển vùng ven bờ
CTSMK phụ thuộc vào các điều kiện TĐL và
nguồn cung trầm tích từ hệ thống sông đưa ra.
Các kết quả tính toán mô phỏng cho thấy biến
động địa hình đáy biển ở khu vực nghiên cứu
có sự khác biệt lớn giữa mùa lũ và mùa cạn.
Vào mùa cạn: Địa hình đáy ở khu vực biến
động rất nhỏ với giá trị bồi/xói dao động phổ
biến trong khoảng -1,0 - 4 cm/tháng. Một số
khu vực có xu hướng bồi là vùng sát phía ngoài
các cửa Trần Đề, Định An, Cung Hầu, Cổ
Chiên, Hàm Luông và Cửa Đại. Tuy nhiên,
ngay phía ngoài khu vực bồi ở các cửa này lại
xuất hiện các điểm xói với tốc độ khoảng từ 0 -
1 cm/tháng (hình 3a). Xu hướng bồi xói xen kẽ
cũng xuất hiện ở phía trong các cửa sông nhưng
các điểm xói nhiều hơn vị trí có giá trị bồi.
a b
d c
Mô phỏng ảnh hưởng của mực nước biển
143
Hình 3. Biến động địa hình đáy (mm) vùng ven bờ châu thổ sông Mê Kông sau 1 tháng
(a- hiện tại - mùa cạn, b- hiện tại mùa lũ; c- mực nước tăng 25 cm- mùa cạn, d- mực nước tăng
25 cm mùa lũ; e- mực nước tăng 50 cm - mùa cạn; f- mực nước tăng 50 cm mùa lũ)
b a
c d
f e
Vũ Duy Vĩnh, Trần Đình Lân,
144
Vào mùa lũ: Do nguồn cung cấp trầm tích
từ lục địa lớn nên xu hướng bồi tụ đáy chiếm
ưu thế so với xói. Xu hướng bồi xuất hiện ở tất
cả các cửa, đặc biệt là khu vực phía ngoài cửa
Trần Đề - Định An tốc độ bồi có thể lên tới 4 -
6 cm trong khoảng 2 tháng (hình 3b). Do chế
độ triều ở khu vực này mang tính chất bán nhật
triều không đều nên dòng bồi tích từ sông đưa
ra hầu hết không được đưa ra xa bờ mà chủ yếu
tập trung và lắng đọng quanh các cửa sông.
Phía ngoài các cửa sông, TTLL lắng đọng và
tạo thành dải bồi tụ chạy dọc ven bờ có độ rộng
khoảng 5 - 10 km, tốc độ bồi tụ ở dải này
khoảng 0,5 - 2 cm/2 tháng.
Mặc dù xu thế bồi tụ là phổ biến trong mùa
lũ (hình 4c, d) nhưng vào mùa cạn xu thế xói ở
các lòng sông và dải ven biển chiếm ưu thế so
với quá trình bồi lắng. Dòng trầm tích do quá
trình xói này di chuyển về phía tây nam dưới
ảnh hưởng kết hợp của hệ dòng chảy ven bờ do
gió mùa đông bắc. Theo Xue và nnk [9], sự bồi
tụ trong mùa lũ ở khu vực này chỉ là quá trình
lắng đọng tạm thời và quá trình xói (tái lơ lửng
của trầm tích) trong mùa cạn và các mùa chuyển
tiếp có vai trò quan trọng trong việc vận chuyển
trầm tích ra xa bờ và các vùng xung quanh.
Một đặc điểm nổi bật trong biến động địa
hình đáy vùng cửa sông ven bờ CTSMK là sự
hình thành nên các bãi bồi nhỏ ở trong lòng các
sông và vùng phía ngoài cửa. Quá trình này xuất
hiện rõ rệt hơn vào mùa lũ (hình 4c, d) nhưng lại
bị quá trình xói, bào mòn và vận chuyển ra phía
cửa, di chuyển về phía tây nam các cửa sông
trong mùa cạn (hình 4a, b). Kết quả này phù hợp
với nghiên cứu liên quan [8, 9].
So với vùng ven bờ châu thổ sông Hồng và
vùng cửa sông Bạch Đằng [29-31], trầm tích từ
lục địa ở vùng ven bờ CTSMK được giữ lại ở
phía trong và ngay tại các cửa sông, sát ven bờ
nhiều hơn, sự vận chuyển ra xa bờ hạn chế hơn.
Điều này có thể được lý giải do địa hình ở khu
vực này khá thấp nên sự xâm nhập của nước
biển có điều kiện phát triển vào sâu trong lục
địa (nước biển có thể tiến sâu vào lục địa
khoảng 50 - 95 km [32]). Điều kiện thủy triều
mang tính chất bán nhật không đều cũng là một
yếu tố hạn chế đưa trầm tích ra xa bờ, tăng
mạnh tốc độ bồi lắng ở vùng cửa sông ven bờ
(Wang và nnk, 1999) ở khu vực này [33].
Tác động do mực nước biển dâng đến địa
hình đáy
Biến động địa hình đáy biển vùng ven bờ
CTSMK phụ thuộc vào các điều kiện TĐL và
nguồn cung trầm tích từ hệ thống sông đưa ra.
Với giả thiết các điều kiện khác không thay đổi,
chỉ có thay đổi về điều kiện dâng cao mực nước
(dâng cao thêm 25 cm và dâng cao thêm
50 cm), các kết quả tính toán mô phỏng cho
thấy BĐKH do dâng cao mực nước có tác động
nhất định đến đặc điểm biến động địa hình đáy
ở khu vực nghiên cứu.
Vào mùa cạn, biến động địa hình đáy ven
bờ CTSMK theo không gian khi có sự dâng cao
mực nước biển vẫn thể hiện các đặc trưng
giống như điều kiện hiện tại. Tuy nhiên, sự
dâng cao mực nước biển làm giảm nhẹ phạm vi
xói đáy ở một số khu vực (hình 3c, e).
Trong mùa lũ, biến động địa hình đáy ven
bờ CTSMK theo không gian khi có sự dâng cao
mực nước biển vẫn thể hiện các đặc trưng
giống như điều kiện hiện tại. Những thay đổi
gây ra do dâng cao mực nước biển đến địa hình
đáy theo không gian là khá nhỏ (hình 3d, f).
Như vậy, sự dâng cao mực nước biển
không gây ra những tác động lớn đến địa hình
đáy ven bờ châu thổ sông Mê Kông. Tuy nhiên
dâng cao mực nước làm giảm nhẹ tốc độ xói ở
một số vùng ven bờ phía ngoài cửa Cổ Chiên,
Cung Hầu và Trần Đề.
Khảo sát biến động địa hình đáy quá một số
mặt cắt phía ngoài các cửa sông cho thấy ảnh
hưởng của sự dâng cao mực nước khác nhau ở
mỗi khu vực:
Tại khu vực phía ngoài cửa Trần Đề, ảnh
hưởng do dâng cao mực nước không tác động
đáng kể đến biến động địa hình đáy mặt cắt này
trong mùa cạn (hình 4a). Tuy nhiên, trong mùa
lũ, dâng cao mực nước là yếu tố làm tăng tốc
độ bồi tại bãi bồi ở cửa sông. Điều này có thể
được giải thích là do dòng trầm tích từ lục địa
bị hạn chế di chuyển ra phía ngoài biển khi
mực nước dâng cao nên đã tập trung và lắng
đọng ngay tại các cửa và làm tăng tốc độ bồi
lắng ở những cửa này (hình 4b).
Mô phỏng ảnh hưởng của mực nước biển
145
Hình 4. Biến động địa hình (cm) ven bờ CTSMK qua một số mặt cắt sau 1 tháng
(trục đứng: biến động địa hình (cm), trục ngang: khoảng cách (km) từ cửa sông ra phía ngoài
biển; nét liền- hiện tại, nét đứt- mực nước tăng 25 cm, nét đứt chấm- mực nước tăng 50 cm)
Cửa Trần Đề (mc1)-mùa lũ
c
b
d
f e
g h
i j
Cửa Trần Đề (mc1)-mùa cạn
Cửa Cung Hầu (mc2)-mùa cạn Cửa Cung Hầu (mc2)-mùa lũ
Cửa Hàm Luông (mc3)-mùa cạn Cửa Hàm Luông (mc3)-mùa lũ
Cửa Đại (mc4)-mùa cạn Cửa Đại (mc4)-mùa lũ
Cửa Tiểu (mc5)-mùa cạn Cửa Tiểu (mc5)-mùa lũ
a
Vũ Duy Vĩnh, Trần Đình Lân,
146
Tại mặt cắt phía ngoài cửa Cung Hầu, tác
động do dâng cao mực nước biển đến biến
động địa hình đáy cũng rất nhỏ trong mùa cạn
(hình 4c). Ngược lại, vào mùa lũ, dưới ảnh
hưởng do mực nước biển dâng, tốc độ bồi tại
bãi bồi ở mặt cắt phía ngoài cửa cung hầu cũng
tăng nhẹ (hình 4d).
Ảnh hưởng do dâng cao mực nước biển ở
mặt cắt khu vực phía ngoài cửa Hàm Luông thể
hiện xu thế giống nhau cả trong mùa lũ và mùa
cạn: đều làm tăng nhẹ tốc độ bồi hoặc giảm nhẹ
tốc độ xói khi mực nước dâng 0,25 m và 0,5 m
(hình 4e, f).
Tại mặt cắt phía ngoài Cửa Đại, sự dâng
cao mực nước cũng làm tăng nhẹ tốc độ bồi cả
ở trong mùa cạn và mùa lũ lũ (hình 4g, h). Tại
mặt cắt phía ngoài khu vực Cửa Tiểu, sự dâng
cao mực nước làm giảm nhẹ tốc độ bồi tụ ở đây
cả trong mùa lũ và khô (hình 4i, j).
Các kết quả nghiên cứu liên quan cho thấy
tác động của sự dâng cao mực nước đến địa
hình đáy vùng cửa sông ven biển rất khác nhau
và phụ thuộc vào các điều kiện địa hình, động
lực và điều kiện vận chuyển trầm tích của mỗi
khu vực [34]. Trong kết quả nghiên cứu về ảnh
hưởng của sự dâng cao mực nước ở vùng biển
Wadden (Hà Lan) cho thấy rằng sự tích lũy
trầm tích và biến động địa hình đáy hầu như
không thay đổi dưới ảnh hưởng do dâng cao
mực nước biển ở vùng này [35]. Theo Dronkers
(1998), sự dâng cao mực nước biển gây ra sự
tích lũy trầm tích ở các bãi triều thấp để phục
hồi trạng thái cân bằng động bị thay đổi do
dâng cao mực nước. Sự tích lũy trầm tích này
sẽ làm hạn chế di chuyển trầm tích ra xa các
nguồn phát tán [36]. Với cách tiếp cận bán thực
nghiệm, Van Goor và nnk (2003) đã khảo sát
tác động do sự dâng cao mực nước biển đến
vùng biển Wadden và Ameland - Eierland, kết
quả cho thấy địa hình ở khu vực cửa và đáy vẫn
duy trì tốc độ bồi lần lượt là trên 10 mm/năm
và 15 mm/năm [37]. Tuy nhiên, một nghiên
cứu khác dựa trên kết quả tính của mô hình lại
cho thấy sự dâng cao mực nước biển có thể gây
xói ở các bãi bồi phía ngoài cửa và gây bồi ở
các bãi bồi phía trong các cửa sông [38]. Sự
khác biệt trong các kết quả nghiên cứu đánh giá
tác động do nước biển dâng đến địa hình đáy
khu vực cửa sông ven biển thể hiện tính chất,
các yếu tốc tác động mang tính địa phương
cũng như các cách tiếp cận nghiên cứu khác
nhau [38].
Ở vùng ven bờ CTSMK, ảnh hưởng do
dâng cao mực nước biển đến biến động địa
hình tại một số mặt cắt phía ngoài các cửa sông
chính có sự thay đổi rõ rệt từ phía nam lên phía
bắc. Dâng cao mực nước biển làm tăng tốc độ
bồi ở các cửa sông phía nam, cường độ giảm
dần từ cửa Trần Đề đến Cửa Đại, sau đó thay
đổi sang trạng thái làm giảm tốc độ bồi ở mặt
cắt phía ngoài Cửa Tiểu. Điều này có thể giải
thích là do sự tương tác lục địa - biển. Ở các
cửa sông phía nam, dòng trầm tích ra ngoài lớn
hơn, khi mực nước biển dâng cao, dòng trầm
tích này không thể di chuyển xa hơn về phía
biển nên bị lắng đọng, tích tụ tại ngay các cửa
sông làm tăng tốc độ bồi tụ các khu vực đó.
Trong khi ở các cửa sông phía bắc, lưu lượng
nước đưa ra nhỏ hơn nên khi mực nước dâng
cao, dòng trầm tích bị đẩy sâu vào phía trong
gây ra sự thiếu hụt trầm tích trên các mặt cắt
đó, kết quả là giảm tốc độ bồi.
KẾT LUẬN
Địa hình đáy ở khu vực cửa sông ven bờ
CTSMK biến động rõ rệt theo mùa. Vào mùa
cạn, xu hướng xói xuất hiện ở các đoạn phía
sâu trong các cửa sông, xen kẽ với số ít đoạn
bồi. Ngược lại vào mùa lũ xu thế bồi tụ đáy
xuất hiện ở hầu hết vùng cửa sông và ven bờ
khu vực nghiên cứu.
Nguồn trầm tích dồi dào đưa ra từ các sông
trong mùa lũ được lắng đọng tại các cửa sông,
vùng ven bờ tạo thành các bãi bồi với tốc độ
bồi tụ khá lớn khoảng 0,1 - 0,5 cm/tháng ở
vùng nước từ bờ ra phía ngoài khoảng 10 km.
Trong khi đó vào mùa cạn, nguồn trầm tích từ
sông đưa ra (chủ yếu do xói) đưa ra phía cửa
hình thành lên các bãi bồi nhỏ ở các cửa sông.
Một nguồn trầm tích khác do quá trình xói ở
dải ven bờ phía ngoài được vận chuyển về phía
tây nam của ven bờ châu thổ.
Sự dâng cao mực nước biển do biển đổi khí
hậu làm hạn chế sự phát tán của dòng trầm tích
về phía biển mà chỉ tập trung di chuyển quanh
các cửa sông. Kết quả là làm tăng tốc độ bồi tại
các bãi bồi khu vực phía ngoài các cửa sông
phía nam của vùng ven bờ CTSMK. Trong khi
Mô phỏng ảnh hưởng của mực nước biển
147
đó, ở các cửa sông phía bắc, do lưu lượng nước
đưa ra nhỏ hơn, ảnh hưởng của dòng triều vào
sâu hơn lên dòng trầm tích đưa ra giảm, kéo
theo sự giảm của tốc độ bồi tụ ở các khu
vực này.
Những ảnh hưởng do dâng cao mực nước
biển đến địa hình đáy ven bờ CTSMK phổ biến
diễn ra trong phạm vi từ khoảng 7 - 10 km từ
cửa sông ra phía ngoài. Ở phía ngoài 10 km từ
bờ ra, ảnh hưởng do dâng cao mực nước biển
đến địa hình đáy hầu như không đáng kể.
Kết quả nghiên cứu trong bài báo này mới
chỉ xét đến những ảnh hưởng do nước biển
dâng đến địa hình đáy biển ven bờ cửa sông Mê
Kông trong mùa lũ và mùa cạn. Những ảnh
hưởng do nước biển dâng kết hợp với các điều
kiện thời tiết cực đoan khác như bão, áp thấp
nhiệt đới, gió mùa mạnh cần được nghiên
cứu đánh giá ở các công trình tiếp theo.
Lời cảm ơn: Bài báo có sử dụng các tư liệu
của Nhiệm vụ Hợp tác quốc tế theo Nghị định
thư về Khoa học và Công nghệ giữa Việt Nam
và Hoa Kỳ giai đoạn 2013-2014: “Tương tác
giữa các quá trình động lực Biển Đông và nước
sông Mê Kông”, các tác giả xin chân thành cảm
ơn sự hỗ trợ quý báu đó. Các tác giả cũng chân
thành cảm ơn những nhận xét, góp ý hết sức
quí báu của các phản biện trong quá trình chỉnh
sửa hoàn thiện bài báo này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Viện Khoa học KTTV và Môi trường, 2010.
Tác động của BĐKH lên tài nguyên nước
và các giải pháp thích ứng đồng bằng sông
Cửu Long. Báo cáo Dự án Tác động của
BĐKH lên tài nguyên nước và các biện
pháp thích ứng.
2. Nguyen, Van Lap, Thi Kim Oanh Ta,
Masaaki Tateishi, 2000. Late Holocene
depositional environments and coastal
evolution of the Mekong River Delta,
Southern Vietnam. Journal of Asian Earth
Sciences, 18(4): 427-439.
3. Nguyễn Văn Lập, Tạ Thị Kim Oanh, 2012.
Đặc điểm trầm tích bãi triều và thay đổi
đường bờ biển khu vực ven biển tỉnh Cà
Mau, châu thổ sông Cửu Long. Tạp chí Các
Khoa học về Trái đất, 34(1): 1-9.
4. Ta, T. K. O., Nguyen, V. L., Tateishi, M.,
Kobayashi, I., Tanabe, S., and Saito, Y.,
2002. Holocene delta evolution and
sediment discharge of the Mekong River,
southern Vietnam. Quaternary Science
Reviews, 21(16): 1807-1819.
5. Vũ Thanh Ca, 2007. Mô hình dòng chảy
tổng hợp và bùn cát kết dinh vùng ven bờ.
Kỷ yếu Hội thảo Khoa học lần thứ 10. Viện
Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi
trường. Hà Nội. Tr. 40-47.
6. Phạm Sỹ Hoàn và Lê Đình Mầu, 2011. Tính
toán vận chuyển vật chất lơ lửng tại dải ven
biển cửa sông Mê Kông bằng mô hình toán.
Kỷ yếu hội nghị Khoa học và Công nghệ biển
toàn quốc lần thứ V, Hà Nội. Tr. 99-107.
7. Nguyễn Thọ Sáo, Nguyễn Minh Huấn, 2011.
Nghiên cứu bồi lấp cửa Ba Lai, Bến Tre.
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự
nhiên và Công nghệ, 27(1S): 211-217.
8. Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Hồng Lân,
Phùng Văn Phách, Dư Văn Toán, Bùi Việt
Dũng, DANIEL UNVERRICHT, 2011. Xu
hướng vận chuyển tích tụ trầm tích trên
phần châu thổ ngầm ven bờ biển đồng bằng
sông Mê Kông. Tạp chí Các Khoa học Trái
đất, 33(4): 607-615.
9. Xue, Z., He, R., Liu, J. P., and Warner, J.
C., 2012. Modeling transport and
deposition of the Mekong River sediment.
Continental Shelf Research, 37, 66-78.
10. Vũ Duy Vĩnh, Trần Đình Lân, Trần Anh Tú,
Nguyễn Thị Kim Anh, 2014. Mô phỏng đặc
điểm biến động địa hình vùng cửa sông ven
bờ sông Mê Kông. Tạp chí Khoa học và
Công nghệ biển, 14(3A): 31-42.
11. Milliman, J. D., and Syvitski, J. P., 1992.
Geomorphic/tectonic control of sediment
discharge to the ocean: the importance of
small mountainous rivers. The Journal of
Geology, 525-544.
12. Wolanski, E., Nhan, N. H., and Spagnol,
S., 1998. Sediment dynamics during low
flow conditions in the Mekong River
estuary, Vietnam. Journal of Coastal
Research, 472-482.
13. Wolanski, E., Huan, N. N., Nhan, N. H.,
and Thuy, N. N., 1996. Fine-sediment
Vũ Duy Vĩnh, Trần Đình Lân,
148
dynamics in the Mekong River estuary,
Vietnam. Estuarine, Coastal and Shelf
Science, 43(5): 565-582.
14. Nguyễn Ngọc Thụy, 1982. Thủy triều đồng
bằng sông Cửu Long và vùng biển kế cận.
Báo cáo tại Hội thảo Quốc tế về xâm nhập
mặn ở ĐBSCL, 22-27/10/1982 tại Thành
phố Hồ Chí Minh.
15. Le Dinh Mau and Nguyen Van Tuan, 2014.
Estimation of wave characteristics in east
Vietnam Sea usingwam model. Vietnam
Journal of Marine Science and Technology,
14(3): 212-218.
16. Becker, J. J., Sandwell, D. T., Smith, W. H.
F., Braud, J., Binder, B., Depner, J., ... and
Weatherall, P., 2009. Global bathymetry
and elevation data at 30 arc seconds
resolution: SRTM30_PLUS. Marine
Geodesy, 32(4): 355-371.
17. Meirion T Jones, Pauline Weatherall,
Raymond N Cramer, 2009. User Guide to
the centenary edition of GEBCO Digital
Atlas and its data sets. Natural Environment
Research Council.
18. BMT Argoss, 2011. Overview of the service
and validation of the database. Reference:
RP_A870, www.waveclimate.com.
19. Lefevre, F., Lyard, F. H., Le Provost, C.,
and Schrama, E. J., 2002. FES99: a global
tide finite element solution assimilating tide
gauge and altimetric information. Journal
of Atmospheric and Oceanic Technology,
19(9): 1345-1356.
20. Lyard, F., Lefevre, F., Letellier, T., and
Francis, O., 2006. Modelling the global
ocean tides: modern insights from FES2004.
Ocean Dynamics, 56(5-6): 394-415.
21. Boyer, T., (ed.), Alexey, M., 2013.
Technical Ed.: World Ocean Atlas 2013
Product Documentation. Ocean Climate
Laboratory, NODC/NESDIS/NOAA. Silver
Spring, MD 20910-3282.
22. Hydraulics, D., 2014. Delft3D-Flow user’s
manual: simulation of multi-dimensional
hydrodynamic flows and transport
phenomena, including sediments. Technical
report.
23. Battjes, J. A., and Janssen, J. P. F. M.,
1978. Energy loss and set-up due to
breaking of random waves. Coastal
Engineering Proceedings, 1(16).
24. Arcement Jr, G. J., and Schneider, V. R.,
1989. Guide for selecting manning’s
roughness coefficients for natural channels
and flood plains United States Geological
Survey Water-supply Paper 2339. pubs.
usgs. gov/wsp/2339/report. pdf.
25. Simons, D. B., and Şentürk, F., 1992.
Sediment transport technology: water and
sediment dynamics. Water Resources
Publication.
26. Uittenbogaard, R. E., 1998. Model for eddy
diffusivity and viscosity related to sub-grid
velocity and bed topography. Note, WL|
Delft Hydraulics.
27. Van Vossen, B., 2000. Horizontal large
eddy simulations; evaluation of
computations with DELFT3D-FLOW.
Report MEAH-197. Delft University of
Technology.
28. Rijn, L. V., 1993. Principles of Sediment
Transport in Rivers. Estuaries and Coastal
Seas, Aqua Publications, The Netherlands.
29. Vũ Duy Vĩnh, Trần Đức Thạnh, 2012. Áp
dụng mô hình toán nghiên cứu vùng đục
nước cực đại khu vực cửa sông Bạch Đằng.
Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển,
12(1): 1-12.
30. Vũ Duy Vĩnh, Đinh Văn Ưu, 2013. Ảnh
hưởng của một số yếu tố khí tượng hải văn
đến đặc điểm vận chuyển trầm tích lơ lửng
vùng cửa sông Bạch Đằng. Tạp chí Khoa
học và Công nghệ biển, 13(3): 216-226.
31. Vũ Duy Vĩnh, Bùi Văn Vượng, 2013. Ảnh
hưởng của một số yếu tố khí tượng hải văn
đến biến động địa hình đáy vùng ven bờ
châu thổ Sông Hồng. Kỷ yếu Hội thảo Hội
nghị khoa học địa chất biển toàn quốc lần
thứ 2. Nxb. Khoa học tự nhiên và Công
nghệ. Tr. 285-294.
32. Viện Khoa học KTTV và Môi trường, 2010.
Tác động của BĐKH lên tài nguyên nước
và các giải pháp thích ứng đồng bằng sông
Cửu Long. Báo cáo Dự án Tác động của
Mô phỏng ảnh hưởng của mực nước biển
149
BĐKH lên tài nguyên nước và các biện
pháp thích ứng.
33. Wang, Z. B., Jeuken, C., and De Vriend, H.
J., 1999. Tidal asymmetry and residual
sediment transport in estuaries: a literature
study and application to the Western
Scheldt. Deltares (WL).
34. Friedrichs, C. T., Aubrey, D. G., and Speer,
P. E., 1990. Impacts of relative sea-level
rise on evolution of shallow estuaries. In
Residual currents and long-term transport
(pp. 105-122). Springer New York.
35. Louters, T., Gerritsen, F., 1995. The Riddle
of sands; Technical report, National
Institute for Coastal and Marine
Management, Rijkswaterstaat, The Hague,
ISBN90-369-0084-0.
36. Dronkers, J., 1998. Morphodynamics of the
Dutch delta. Physics of Estuaries and
Coastal Seas, 297-304.
37. Van Goor, M. A., Zitman, T. J., Wang, Z.
B., and Stive, M. J. F., 2003. Impact of sea-
level rise on the morphological equilibrium
state of tidal inlets. Marine Geology,
202(3): 211-227.
38. Dissanayake, D. M. P. K., Ranasinghe, R.
W. M. R. J. B., and Roelvink, J. A., 2012.
The morphological response of large tidal
inlet/basin systems to relative sea level rise.
Climatic change, 113(2): 253-276.
SIMULATION OF THE IMPACT OF SEA LEVEL RISE ON
MORPHOLOGICAL CHANGE IN THE COASTAL
REGION OF MEKONG RIVER
Vu Duy Vinh, Tran Dinh Lan, Tran Anh Tu, Nguyen Thi Kim Anh
Institute of Marine Environment and Resources-VAST
ABSTRACT: This paper presents some study results on morphological change in the coastal
region of Mekong River under the influences of sea level rise. In order to set up the models,
measured data were collected, systematically and homogeneously processed to create open
boundary conditions (time-serial data) for the model. Open sea boundary conditions of the model
were created by NESTING method. The model (Delft3D model) was set up with 4 layers in Sigma
coordinate. The results of model were validated, showing a fairly good agreement with measured
data (water elevation, currents, and suspended sediment concentration) at some places in the study
area. Results of some scenarios of simulation (dry and flood season) show the sea level rise due to
climate change could make a reduction in the seaward sediment transport and increase its settling
around estuaries. As a result, sea level rise causes an increase in the accreted rate of sandbars in
southern estuary of Mekong river coastal area. The influences of sea level rise on Mekong river
coastal bed topography are prevailing in the region of about 7 - 10 km seawards. Further 10 km
from the coast, influences of sea level rise on coastal morphology are not significant.
Keywords: Morphological change, Mekong river, model, sediment transport, sea level rise,
Delft3D.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6502_23971_1_pb_4304_2079681.pdf