9. Những điểm nổi bật về khuyến cáo dự phòng
biến cố tim mạch năm 2019 của ACC/AHA [9]
+ Cách quan trọng nhất để dự phòng bệnh lý xơ
vữa mạch máu, rung nhĩ, suy tim là thay đổi lối sống
theo hướng lành mạnh.
+ Người lớn từ 40 tới 75 tuổi nên được đánh
giá về nguy cơ bệnh lý tim mạch trong 10 năm
(ASCVD) để quyết định về các liệu pháp dùng
thuốc như aspirin, thuốc huyết áp, statin.
+ Huyết áp: nên điều trị tăng huyết áp và duy
trì cho đa số người bệnh huyết áp < 130/80mmHg.
+ Hoạt động thể lực: nên từ 150 phút/tuần hoặc
phải từ 75 phút/tuần.
+ Aspirin không còn là “thần dược” cho người
trung niên và cao tuổi nữa ACC đã hạ mức bằng
chứng của aspirin từ IA xuống IIb-A.
+ Kiểm soát tiểu đường bằng metformin (lựa
chọn số 1), nhóm ức chế SGLT2 hoặc đồng vận
GLP-1 (lựa chọn số 2).
+ Chế độ ăn nhiều rau, quả, ngũ cốc nguyên hạt.
+ Bỏ thuốc lá! Không nói nhiều vì thuốc lá là
nguy cơ số 1 mắc bệnh động mạch vành.
+ Liệu pháp statin là điều trị đầu tay để dự phòng
bệnh lý tim mạch ở bệnh nhân có LDL từ 190mg/
dl, bệnh nhân đái tháo đường, bệnh nhân từ 40 tới
75 tuổi.
Bình luận: ACC 2019 cho thấy chỉ định rộng rãi
hơn của Statin và thu hẹp chỉ định của Aspirin trong
dự phòng tiên phát các bệnh lý Tim mạch
10. JACC Highlights và Eugene Braunwald
Keynote Lecture
Một điểm đặc biệt nữa của Hội nghị năm nay
đó là phiên quan trọng Tổng hợp lại những bài
báo hay và đặc biệt nhất của tờ JACC trong năm
2019 và công bố 2 ấn phẩm mới JACC sẽ được ấn
hành trong năm 2019 đó là tờ JACC case reports
và JACC CardioOncology phản ánh xu hướng mới
trong trình bày các ca bệnh hay, hiếm gặp trong Tim
mạch cũng như các bệnh lý Tim mạch liên quan
trong bệnh cảnh Ung thư. Đây hứa hẹn là các hướng
nghiên cứu mới và phát triển của chuyên ngành
Tim mạch trong Tương lai.
Như thông lệ, bài giảng Keynote Lecture do trực
tiếp GS. Eugene Braunwald giới thiệu trong năm
nay do BS Paul.M. Ricker của ĐH Harvard tổng
hợp lại quá trình phát triển của CRP.hs như một
marker trong các bệnh lý Tim mạch, cũng như vinh
danh cá nhân Eugene Braunwald trong quá trình
nghiên cứu này cho đến ngày nay dựa trên những
phát triển đó mà liệu pháp "chống viêm hệ thống"-
anti-Cytokine có thể trong tương lai 5-10 năm tới sẽ
là hướng đi mới tiên phong phát triển trong chuyên
ngành Tim mạch.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu ACC Highlights 2019: Những điểm mới qua Hội nghị ACC 2019, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIÊU ĐIỂM
6 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
ACC Highlights 2019:
Những điểm mới qua Hội nghị ACC 2019
Phạm Mạnh Hùng*, Nguyễn Ngọc Quang*, Phan Đình Phong*
Phạm Nhật Minh*, Nguyễn Bá Ninh**
Bộ môn Tim mạch, Trường Đại học Y Hà Nội*
Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai**
Hội nghị thường niên của Trường môn Tim
mạch học Hoa Kỳ 2019 (ACC - 2019) đã diễn ra từ
ngày 17 đến ngày 19 tháng 03 năm 2019 tại thành
phố New Orleans, tiểu bang Lousiana, Hoa Kỳ.
Như thường lệ, cùng với Hội nghị Tim mạch châu
Âu (ESC) đây là 1 trong 2 Hội nghị chuyên ngành
Tim mạch lớn nhất trên toàn thế giới với tổng số
363 phiên báo cáo, 1520 báo cáo viên báo cáo 3125
bài báo cáo khoa học chuyên ngành Tim mạch với
nhiều hình thức khác nhau. Khuyến cáo mới nhất
của AHA/ACC về dự phòng Tim mạch cũng đã
được công bố trong hội nghị lần này. Hội nghị năm
nay cũng đã thu hút trên 16000 bác sỹ, chuyên gia
y tế từ Hoa Kỳ và Quốc tế. Bài viết này tổng hợp
những nghiên cứu nổi bật được đưa ra trong Hội
nghị năm nay, cũng như những định hướng với
chuyên ngành Tim mạch trong tương lai.
1. Nghiên cứu COACT: Đối với bệnh nhân sau
cấp cứu ngừng tuần hoàn ngoại viện thành công mà
không có NMCT ST chênh lên cho thấy chụp ĐMV
cấp cứu không tốt hơn so với chụp ĐMV trì hoãn [1].
Nghiên cứu COACT là một nghiên cứu ngẫu
nhiên đa trung tâm trên 552 bệnh nhân sau cấp
cứu ngưng tuần hoàn nhưng nhưng không có dấu
hiệu của NMCT ST chênh lên được chia thành 2
nhóm:1 nhóm được chụp ĐMV ngay lập tức và 1
nhóm chụp ĐMV trì hoãn sau khi đã hồi phục chức
năng thần kinh. Tiêu chí chính là tỉ lệ cứu sống sau 90
ngày. Sau 90 ngày, có 176/273 bệnh nhân ( 64.5%)
của nhóm chụp ĐMV ngay lập tức và 178/265
bệnh nhân (67.2%) của nhóm chụp ĐMV trì hoãn
còn sống (OR: 0.89, với 95% khoảng tin tưởng
[CI], 0.62 to 1.27; P=0.51 không có ý nghĩa thống
kê ).Thời gian từ lúc ngừng tim tới lúc được chụp
ĐMV là 2.3 giờ ở nhóm chụp ĐMV ngay lập tức và
121 giờ ở nhóm chụp ĐMV trì hoãn.Tiêu chí phụ là
được cứu sống với hồi phục chức năng thần kinh tốt
hoặc tần tật mức độ nhẹ ở 2 nhóm không khác biệt
có ý nghĩa thống kê: ở nhóm chụp ĐMV ngay lập
tức là 171/272 (62.9%) và ở nhóm chụp ĐMV trì
hoãn là 170/264 (64.4%) (với 0R là 0.94 [CI], 0.66
to 1.31).Vậy xét trên cả hai tiêu chí là khả năng cứu
sống sau 90 ngày và phục hồi chức năng thần kinh
thì chụp ĐMV ngay lập tức với bệnh nhân sau cấp
cứu ngừng tuần hoàn không có NMCT ST chênh
lên thì chụp ĐMV ngay lập tức không tốt hơn chụp
ĐMV trì hoãn.
2. Các nghiên cứu mới về thay van chủ qua da
trên bệnh nhân nguy cơ phẫu thuật thấp
2.1. Nghiên cứu PARTNER 3: Đối với bệnh
nhân hẹp van động mạch chủ khít có nguy cơ phẫu thuật
thấp thì thay van động mạch chủ qua đường ống thông
(TAVR) làm giảm thấp nguy cơ chết, tai biến mạch não
hoặc tái nhập viện trong 1 năm so với phẫu thuật [2].
Với những bệnh nhân hẹp chủ khít có nguy cơ
phẫu thuật cao hoặc trung bình, thì TAVR có giá trị
TIÊU ĐIỂM
7TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
tương tự phẫu thuật, còn đối với bệnh nhân nguy cơ
phẫu thuật thấp thì chưa có nghiên cứu. PARTNER
3 là một nghiên cứu ngẫu nghiên đa trung tâm trên
1000 bệnh nhân hẹp chủ khít ở 71 trung tâm có
nguy cơ phẫu thuật thấp với thang điểm STS trung
bình là 1.9%. Bệnh nhân được phân ngẫu nhiên
thành 2 nhóm: một nhóm là TAVR và một nhóm
phẫu thuật. Tiêu chí chính là cộng dồn tử vong,
tai biến mạch não và tái nhập viện trong vòng 1
năm. Kết quả cho thấy TAVR làm giảm có ý nghĩa
các biến cố chính so với phẫu thuật 8.5% ở nhóm
TAVR và 15.1% ở nhóm phẫu thuật (;95% khoảng
tin tưởng [CI], −10.8 to −2.5; P<0.001 cho không
dưới; với HR, 0.54; 95% CI, 0.37 to 0.79; P=0.001
cho vượt trội). TAVR cũng làm giảm nguy cơ tử
vong trong 30 ngày so với phẫu thuật, giảm số ngày
nằm viện và giảm biến cố đột quỵ trong 30 ngày so
với phẫu thuật. Cũng không có sự khác biệt về biến
chứng mạch máu lớn, cấy máy tạo nhịp mới hay hở
van ĐMC vừa tới nặng. Tóm lại PARTNER 3 chứng
minh sự vượt trội của thay van động mạch chủ qua
đường ống thông (TAVR) so với phẫu thuật trên
bệnh nhân hẹp chủ khít nguy cơ thấp.
2.1. Nghiên cứu EVOLUT LOW RISK TRIAL:
Chứng minh thay van động mạch chủ qua da với van
tự nở (TAVR) không kém phẫu thuật thay van động
mạch chủ mở (SAVR) trên bệnh nhân hẹp chủ khít
nguy cơ phẫu thuật thấp [3].
Gía trị của TAVR đã được chứng mình vượt
trội và không kém SAVR ở những bệnh nhân hẹp
chủ khít nguy cơ phẫu thuật cao và nguy cơ trung
bình nhưng trên bệnh nhân nguy cơ thấp chưa có
bằng chứng.Nghiên cứu đăng trên tờ NEJM ngày
16/3/2019 trên 1403 bệnh nhân hẹp van động
mạch chủ nguy cơ phẫu thuật thấp. Biến cố chính
là tử vong do mọi nguyên nhân trong 12h tháng
hoặc đột quỵ có di chứng trong vòng 24 tháng.Biên
cố chính xảy ra ở 2.7% bệnh nhân TAVR và 4.6%
bệnh nhân SAVR ( P=0.065) không có ý nghĩa khác
nhau giữa hai nhóm. Nhưng SAVR tăng nguy cơ
biến chứng đột quỵ có di chứng trong 12 tháng so
với TAVR (2.3% so với 0.7% với p=0.023) và tăng
nguy cơ suy tim nhập viện so với TAVR (6.4% so
với 3.1% với p=0.006). Ngoài ra TAVR còn giảm
thời gian nằm viện và thời gian làm can thiệp so với
SAVR. Trong 30 ngày, bệnh nhân chịu TAVR so
với SAVR giảm thấp biến cố đột quỵ (0.5% so với
1.7%), biến chứng chảy máu (2.4% so với 7.5%) và
suy thận cấp (0.9% với 2,8%), rung nhĩ (7.7% với
35.4%), nhưng TAVR làm tăng nguy cơ bị hở van
ĐMC vừa tới nhiều (3.5% với 0.5%) và tăng tỉ lệ
đặt máy tạo nhịp vĩnh viễn (17.4% so với 6.1%) so
với SAVR.
Bình luận: Với các kết quả đầy lạc quan của 2
nghiên cứu nói trên, đặc biệt là PARTNER-3, trong
5- 10 năm tới có lẽ thay van ĐMC qua da sẽ trở
thành điều trị nền tảng thay thế cho phẫu thuật ở
các bệnh nhân có chỉ định.
3. Nghiên cứu WRAP-IT: Đối với những bệnh
nhân được cấy các thiết bị điện trong buồng tim
(cardiac implantable electronic devices CEIDs), phủ
thuốc kháng sinh toàn bộ hệ thống CEIDs làm giảm
nguy cơ nhiễm khuẩn và tử vong, tàn tật so với bệnh
nhân cấy CEIDs không phủ thuốc kháng sinh [4].
WRAP-IT là một nghiên cứu RCT trên 6983
bệnh nhân cấy CEIDs được chia ngẫu nhiên thành
2 nhóm, một nhóm được phủ thuốc kháng sinh hệ
thống CEIDs, một nhóm không phủ thuốc kháng
sinh hệ thống CEIDs. Tiêu chí chính là nhiễm trùng
hệ thống CEIDs hoặc tử vong trong vòng 12 tháng
sau cấy CEIDs, tiêu chí phụ là tính an toàn và biến
chứng của thuốc kháng sinh phủ CEIDs. Kết quả
cho thấy ở nhóm cấy CEIDs được phủ thuốc kháng
sinh làm giảm 60% nguy cơ nhiễm khuẩn và tử vong
so với nhóm cấy CEIDs không phủ thuốc kháng
sinh.(0.7% với 1.2% với khoảng tin tưởng 95% [CI],
0.36 to 0.98; P=0.04) và không làm tăng các nguy
cơ biến chứng ở nhóm cấy CEIDs phủ thuốc kháng
TIÊU ĐIỂM
8 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
sinh với 6.0% ở nhóm phủ thuốc và 6.9% nhóm
không phủ thuốc (với HR :0.87; 95% CI, 0.72 to
1.06; P<0.001cho không dưới).
4. Nghiên cứu AUGUSTUS: Ở bệnh nhân
rung nhĩ có hội chứng vành cấp hoặc được can thiệp
ĐMV được điều trị với một thuốc kháng P2Y12 và một
thuốc chống đông đường uống thế hệ mới ở nghiên cứu
này là Apixaban không có Aspirin làm giảm chảy máu
và nhập viện nhưng không làm tăng các biến cố thiếu
máu so với dùng thuốc kháng vitamin K, aspirin hoặc
kết hợp cả hai [5].
Đây là nghiên cứu RCT trên 4614 bệnh nhân
trên 33 quốc gia, được chia thành 4 nhóm ngẫu
nhiên, nhóm 1: dùng apixaban + kháng P2Y12 +
giả dược, nhóm 2 dùng kháng vitamin K và kháng
P2Y12 và giả dược, nhóm 3 dùng apixaban + aspirin
+ kháng P2Y12, nhóm 4 dùng kháng vitamin K
+ Aspirin + kháng p2y12. Thởi gian nghiên cứu 6
tháng, tiêu chí chính là chảy máu lớn hoặc chảy
máu không lớn có ý nghĩa lâm sàng, tiêu chí phụ
là chết hoặc nhập viện và một biến cố thiếu máu
cộng dồn.biến cố chảy máu giảm đáng kể ở bệnh
nhân dùng Apixaban so với bệnh nhân dùng thuốc
kháng vitamin K (10.5% so với 14.7% HR, 0.69;
95% [CI], 0.58 to 0.81; P<0.001 ), và tăng đáng kể
ở bệnh nhân dùng aspirin so với bệnh nhân dùng
giả dược (16.1% so với 9.0% với HR, 1.89; 95% CI,
1.59 to 2.24; P<0.001).Ở nhóm bệnh nhân dùng
Apixanban giảm thấp tỉ lệ tử vong và nhập viện
so với nhóm bệnh nhân dùng kháng vitamin K
(23.5% vs. 27.4%; HR, 0.83; 95% CI, 0.74 to 0.93;
P=0.002). Tóm lại điều trị tối ưu với bệnh nhân
rung nhĩ bị hội chứng vành cấp gần đây hoặc được
can thiệp ĐMV qua da là apixaban và một kháng
P2Y12 làm giảm đáng kể nguy cơ chảy máu nhưng
không làm tăng các biến cố tử vong và chảy máu so
với thuốc kháng vitamin K, aspirin hoặc cả 2.
Bình luận: Với các kết quả công bố trong
AUGUSTUS có lẽ trong thời gian tới liệu pháp
kháng đông chuẩn cho bệnh nhân HCVC có kèm
rung nhĩ sẽ là 1 NOAC + 1 P2Y12.
5. Các nghiên cứu về kháng tiểu cầu kép trên
bệnh nhân sau can thiệp đặt Stent ĐMV
5.1. Nghiên cứu STOPDAPT-2: Ở bệnh nhân
can thiệp ĐMV qua da được đặt stent phủ thuốc, sử
dụng Clopidogrel đơn thuần sau 01 tháng dùng kháng
tiểu cầu kép (DAPT) vượt trội liệu pháp chuẩn kháng
ngưng tập tiểu cầu kép trong 12 tháng về lợi ích lâm
sàng thực sự và giảm các biến cố chảy máu.
Nghiên cứu thực hiện trên 3045 bệnh nhân sau
đặt stent phủ thuốc ĐMV (Stent sử dụng trong
nghiên cứu là CoCr - EES) là nghiên cứu ngẫu
nhiên, song song, có đối chứng, bệnh nhân được
chia làm 2 nhóm, 1 nhóm được uống thuốc kháng
ngưng tập tiểu cầu kép 1 tháng sau đó duy trì đơn
trị liệu với Clopidogrel trong 5 năm, 1 nhóm dùng
thuốc kháng ngưng tập tiểu cầu kép trong 12 tháng
sau đó duy trì đơn trị liệu với aspirin trong 5 năm,
thời gian theo dõi là 12 tháng.
Tiêu chí chính là gọi bao gồm: tử vong, NMCT,
huyết khối trong stent, đột quỵ, chảy máu có ý nghĩa
sau 01 năm là 2.4 % ở nhóm dùng 1 tháng DAPT, so
với 3.7% ở nhóm dùng 12 tháng DAPT với p =0.04
có ý nghĩa thống kê.
Tiêu chí phụ gồm có tử vong, NMCT, huyết
khối trong stent, hoặc đột quỵ trong 1 năm: là 2%
ở nhóm dùng 1 tháng DAPT so với 2.5% ở nhóm
dùng 12 tháng DAPT (với p = 0.005 cho không
dưới). Biến cố chảy máu theo tháng điểm TIMI
bao gồm chảy máu lớn và nhỏ 0.4% ở nhóm dùng
1 tháng DAPT so với 1.5% ở nhóm dùng 12 tháng
DAPT (với p = 0.004 vượt trội). Chảy máu theo
tháng điểm BARC từ mức độ 3 tới 5 là 0.5% ở nhóm
dùng 1 tháng DAPT so với 1.8% ở nhóm dùng 12
tháng DAPT.
Tóm lại bệnh nhân sau can thiệp ĐMV, thì
liệu pháp dùng 1 tháng DAPT sau đó duy trì bằng
Clopirdogrel đơn thuần so với liệu pháp chuẩn
TIÊU ĐIỂM
9TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
dùng 12 tháng DAPT, có lợi ích lâm sàng thực sự
với bệnh nhân hơn. Dùng 1 tháng DAPT giảm rõ
rệt các biến cố chảy máu nhưng không làm tăng các
biến cố tử vong, NMCT hay huyết khối trong stent,
đột quỵ thiếu máu não.
5.2. Nghiên cứu SMART – CHOICE: So sánh
đơn liệu pháp kháng P2Y12 và liệu pháp chuẩn DAPT
(liệu pháp kháng ngưng tập tiểu cầu kép) trong 12
tháng ở bệnh nhân đặt stent ĐMV phủ thuốc [6].
Nghiên cứu được thực hiện trên 2993 bệnh
nhân sau đặt stent phủ thuốc ĐMV (Stent được
sử dụng trong nghiên cứu là CoCr-EES, PtCr-EES
hoặc BP-SES), chia ngẫu nhiên làm 2 nhóm: 1
nhóm sau 03 tháng dùng DAPT sau đó duy trì
kháng P2Y12 trong 9 tháng còn lại, một nhóm dùng
toàn bộ DAPT trong 12 tháng, thời gian theo dõi là
12 tháng.
Tiêu chí chính là biến cố tim mạch chính
MACCE (tử vong do mọi nguyên nhân, nhồi máu
cơ tim hoặc đột quỵ) trong 12 tháng ở 2 nhóm lần
lượt là 2.9% và 2.5% với p =0.007 với tiêu chí không
dưới. Tử vong do mọi nguyên nhân là 1.4% và 1.2%,
p=0.61. NMCT là 0.8% và 1.2% với p=0.28.
Tiêu chí phụ gồm huyết khối trong stent là 0.2%
và 0.1% với p =0.65 không có ý nghĩa thống kê.
Chảy máu theo phân loại của BARC từ 2-5 là 2% và
3.4% với p=0.002 có ý nghĩa thống kê.
Tóm lại với bệnh nhân sau đặt stent phủ thuốc
động mạch vành, sau 3 tháng duy trì DAPT sau đó
duy trì kháng P2Y12 đơn thuần so với dùng DAPT
12 tháng không làm tăng các biến cố tim mạch
chính, nhưng lại làm giảm có ý nghĩa các biến cố
chảy máu.
Bình luận: Cùng với 2 nghiên cứu STOP-DAPT
2 và SMART-CHOICE, dùng kháng tiểu cầu kép
có thể hiệu quả hơn và rút ngắn thời gian trên một
số đối tượng bệnh nhân cụ thể.
6. Nghiên cứu REDUCE-IT: Hiệu quả của
Icosapent –Ethyl làm giảm các biến cố tim mạch [6].
Tiêu chí lựa chọn bệnh nhân: Tuổi từ 45 với các
bệnh lý mạch máu có trước đó hoặc tuổi từ 50 bị đái
tháo đường với từ 1 yếu tố nguy cơ tim mạch truyền
thống trở lên. Hoặc mức triglyceride từ 135mg/dl
và dưới 500 mg/dl. Hoặc mức LDL-C> 40 mg/dl
và dưới 100 mg/dl mặc dù đã duy trì liệu pháp
statin (± ezetimide) từ 4 tuần trở lên.
Nghiên cứu được thực hiện trên 19212 bệnh
nhân là một nghiên cứu mù đôi, đa trung tâm, ngẫu
nhiên có đối chứng (RCT) với tiêu chí chính là biến
cố tim mạch gây tử vong, NMCT không tử vong,
đột quỵ không tử vong, can thiệp ĐMV, nhập viện
do đau ngực không ổn đinh. Tiêu chí phụ là tử vong
do tim mạch, NMCT không tử vong và đột quỵ
không tử vong. Icosapent–Ethyl được dùng 2g/
ngày. Thời gian theo dõi trung bình là 4.9 năm.
Kết quả: biến cố chính là 23% ở nhóm bệnh
nhân dùng Icosapent - Ethyl so với 28.3% ở nhóm
bệnh nhân dùng giả dược, khác biệt rất có ý nghĩa
thống kê với p< 0.00001, số bệnh nhân cần điều trị
để giảm được 1 biến cố chính là 21 (NNT = 21).
Tiêu chí phụ xảy ra 16.2% ở nhóm dùng Icosapent
–Ethyl so với 20% ở nhóm dùng giả dược với p =
0.000006, Vậy ở nhóm bệnh nhân phù hợp
Icosapent – Ethyl làm giảm đáng kể các biến cố tim
mạch và tử vong.
Bình luận: Cùng với một vài nghiên cứu khác
(Chẳng hạn CLEAR-WISDOM), REDUCE-IT cho
thấy xu thế trong nghiên cứu một số thuốc mới - bổ
sung cho Statin trong dự phòng các biến cố Tim mạch.
7. Nghiên cứu DECLARE TIMI - 58: Ở bệnh
nhân đái tháo đường type 2 có các yếu tố nguy cơ tim
mạch được điều trị với Dapagliflozin không chỉ chứng
minh Dapagliflozin an toàn với tim mạch mà còn làm
giảm biến cố tử vong do tim mạch, nhập viện do suy tim
ở những bệnh nhân suy tim [7].
Nghiên cứu thực hiện trên 17160 bệnh nhân đái
tháo đường type 2. Với mục tiêu đánh giá hiệu và
an toàn của Dapagliflozin trên bệnh nhân tim mạch
TIÊU ĐIỂM
10 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
so với giả dược. Biến cố chính gồm có: tử vong do
mọi nguyên nhân, tử vong do tim mạch, nhập viện
do suy tim, suy tim sung huyết. Dapagliflozin không
chỉ chứng minh an toàn trên tim mạch khi biến cố
chính xảy ra ở nhóm dùng Dapagliflozin là 8.8% và
nhóm dùng giả dược là 9.4% (với HR =0.93, 0.93;
95% CI, 0.84 to 1.03; P=0.17). Mà dapagliflozin
còn chứng mình giảm biến cố tử vong do tim mạch
và nhập viện do suy tim (4.9% vs. 5.8%; HR, 0.83;
95% CI, 0.73 to 0.95; P=0.005). Về tổng thể thì
Dapagliflozin không làm giảm tử vong do mọi
nguyên nhân, tử vong do tim mạch, và làm tăng
nguy cơ nhiễm khuẩn sinh dục tiết niệu (0.9% với
0.1%) tăng dapagliflozin làm tăng nguy cơ nhiễm
toan ceton (0.3% với 0,1%).
8. Một số điểm mới nổi bật khác được công bố:
+ Nghiên cứu Ticargrelor reversal: Nghiên cứu pha
1 trên 64 người khỏe mạnh tìm ra kháng thể đơn
dòng PB2452 trung hòa Ticargrelor [8].
+ Nghiên cứu Hot-PE: Ở bệnh nhân nhồi máu
phổi nguy cơ thấp có thể xuất viện an toàn và hiệu
quả với thuốc uống Rivaroxaban.
+ Nghiên cứu: SAFARI - STEMI: Chứng minh
ở bệnh nhân NMCT ST chênh lên thì can thiệp
đường động mạch quay không vượt trội so vơi can
thiệp đường động mạch đùi về các biến cố tim mạch
chính và chảy máu.
+ Nghiên cứu GALASSY: Chứng mình liệu pháp
đơn trị liệu với Ticargrelor sau 1 tháng với DAPT
không dưới liệu pháp DAPT trong 1 năm về các
biến cố tử vong do mọi nguyên nhân, huyết khối
trong stent, NMCT và đột quỵ không tử vong.
+ The apple heart study: Sử dụng Iphone từ 5s
trờ lên và 1 chiếc Apple watch có thể phát hiện
được rung nhĩ, tuy tỉ lệ phát hiện rung nhĩ chưa cao
(0.52% người từ 22 tuổi trở lên) nhưng nhờ cải thiện
kỹ thuật trong tương lai thì chúng ta có thể tin tưởng
đây sẽ là một cách rất hiệu quả trong dự phòng và
theo dõi. Nghiên cứu cũng cho thấy triển vọng của
trí tuệ nhân tạo trong chăm sóc và dự phòng bệnh
tật trong tương lai.
+ Nghiên cứu sổ bộ về bệnh lý phình tách ĐMC:
hơn 9000 bệnh nhân được tuyển và theo dõi vào
nghiên cứu (International Registry of Acute Aortic
Dissection) IRAD ở trên 55 trung tâm và 13 quôc
gian khác nhau từ năm 1996 tới năm 2019.Đánh
giá chính của nghiên cứu là về chẩn đoán, điều trị,
tử vong trong viện và trong 5 năm. Kết quả chỉ ra
THA, hút thuốc lá và xơ vữa động mạch là những
yếu tố nguy cơ chính của bệnh lý phình tách động
mạch chủ. Chụp CT vẫn là phương tiện chẩn đoán
phổ biến và hiệu quả nhất với bệnh lý này. Quản lý
phẫu thuật đối với tách type A tăng từ 85% bệnh
nhân lên 88,6% bệnh nhân. Đối với tách type A,
tử vong trong viện giảm đáng kể từ 26.2% xuống
16.3% theo thời gian, nhưng tử vong sau 5 năm tăng
từ 81.9% lên 88.5%. Đối với tách type B, can thiệp
nội mạc ĐMC tăng từ 19.5% lên 31.2%, và phẫu
thuật giảm từ 15% xuống 6.1%. Tử vong trong viện
với type B giảm từ 10.2% xuống 7.4% và tử vong
sau 5 năm tăng từ 74% lên 83.7%. Số liệu đã chứng
minh những tiến bộ trong điều trị bệnh lý động
mạch chủ theo thời gian.
9. Những điểm nổi bật về khuyến cáo dự phòng
biến cố tim mạch năm 2019 của ACC/AHA [9]
+ Cách quan trọng nhất để dự phòng bệnh lý xơ
vữa mạch máu, rung nhĩ, suy tim là thay đổi lối sống
theo hướng lành mạnh.
+ Người lớn từ 40 tới 75 tuổi nên được đánh
giá về nguy cơ bệnh lý tim mạch trong 10 năm
(ASCVD) để quyết định về các liệu pháp dùng
thuốc như aspirin, thuốc huyết áp, statin.
+ Huyết áp: nên điều trị tăng huyết áp và duy
trì cho đa số người bệnh huyết áp < 130/80mmHg.
+ Hoạt động thể lực: nên từ 150 phút/tuần hoặc
phải từ 75 phút/tuần.
+ Aspirin không còn là “thần dược” cho người
trung niên và cao tuổi nữa ACC đã hạ mức bằng
TIÊU ĐIỂM
11TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
chứng của aspirin từ IA xuống IIb-A.
+ Kiểm soát tiểu đường bằng metformin (lựa
chọn số 1), nhóm ức chế SGLT2 hoặc đồng vận
GLP-1 (lựa chọn số 2).
+ Chế độ ăn nhiều rau, quả, ngũ cốc nguyên hạt.
+ Bỏ thuốc lá! Không nói nhiều vì thuốc lá là
nguy cơ số 1 mắc bệnh động mạch vành.
+ Liệu pháp statin là điều trị đầu tay để dự phòng
bệnh lý tim mạch ở bệnh nhân có LDL từ 190mg/
dl, bệnh nhân đái tháo đường, bệnh nhân từ 40 tới
75 tuổi.
Bình luận: ACC 2019 cho thấy chỉ định rộng rãi
hơn của Statin và thu hẹp chỉ định của Aspirin trong
dự phòng tiên phát các bệnh lý Tim mạch
10. JACC Highlights và Eugene Braunwald
Keynote Lecture
Một điểm đặc biệt nữa của Hội nghị năm nay
đó là phiên quan trọng Tổng hợp lại những bài
báo hay và đặc biệt nhất của tờ JACC trong năm
2019 và công bố 2 ấn phẩm mới JACC sẽ được ấn
hành trong năm 2019 đó là tờ JACC case reports
và JACC CardioOncology phản ánh xu hướng mới
trong trình bày các ca bệnh hay, hiếm gặp trong Tim
mạch cũng như các bệnh lý Tim mạch liên quan
trong bệnh cảnh Ung thư. Đây hứa hẹn là các hướng
nghiên cứu mới và phát triển của chuyên ngành
Tim mạch trong Tương lai.
Như thông lệ, bài giảng Keynote Lecture do trực
tiếp GS. Eugene Braunwald giới thiệu trong năm
nay do BS Paul.M. Ricker của ĐH Harvard tổng
hợp lại quá trình phát triển của CRP.hs như một
marker trong các bệnh lý Tim mạch, cũng như vinh
danh cá nhân Eugene Braunwald trong quá trình
nghiên cứu này cho đến ngày nay dựa trên những
phát triển đó mà liệu pháp "chống viêm hệ thống"-
anti-Cytokine có thể trong tương lai 5-10 năm tới sẽ
là hướng đi mới tiên phong phát triển trong chuyên
ngành Tim mạch.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lemkes, J.S., et al., Coronary Angiography after Cardiac Arrest without ST-Segment Elevation. N Engl J
Med, 2019. 380(15): p. 1397-1407.
2. Mack, M.J., et al., Transcatheter Aortic-Valve Replacement with a Balloon-Expandable Valve in Low-Risk
Patients. N Engl J Med, 2019.
3. Popma, J.J., et al., Transcatheter Aortic-Valve Replacement with a Self-Expanding Valve in Low-Risk Patients.
N Engl J Med, 2019.
4. Tarakji, K.G., et al., Antibacterial Envelope to Prevent Cardiac Implantable Device Infection. N Engl J Med, 2019.
5. Lopes, R.D., et al., Antithrombotic Therapy after Acute Coronary Syndrome or PCI in Atrial Fibrillation. N
Engl J Med, 2019. 380(16): p. 1509-1524.
6. Bhatt, D.L., et al., Cardiovascular Risk Reduction with Icosapent Ethyl for Hypertriglyceridemia. N Engl J
Med, 2019. 380(1): p. 11-22.
7. Furtado, R.H.M., et al., Dapagliflozin and Cardiovascular Outcomes in Patients with Type 2 Diabetes and
Prior Myocardial Infarction: A Sub-analysis From DECLARE TIMI-58 Trial. Circulation, 2019.
8. Bhatt, D.L., et al., Antibody-Based Ticagrelor Reversal Agent in Healthy Volunteers. N Engl J Med, 2019.
9. Bittner, V.A., The New 2019 ACC/AHA Guideline on the Primary Prevention of Cardiovascular Disease.
Circulation, 2019.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
acc_highlights_2019_nhung_diem_moi_qua_hoi_nghi_acc_2019.pdf