Ảnh hưởng bột nghệ (curcuma longa L) trong khẩu phần lên khả năng sinh sản của gà mái nòi lai

So sánh tuổi đẻ trứng 5 và 50% của gà thí nghiệm ở nghiên cứu này với kết quả bổ sung BVC trong khẩu phần của gà mái hậu bị Nòi lai giai đoạn 16-26 tuần tuổi (Nguyễn Thị Kim Khang và ctv, 2020) cho thấy tuổi thành thục của gà mái hậu bị Nòi lai được rút ngắn hơn khi bổ sung BN (139-146 ngày và 152-162 ngày tuổi ở 5 và 50%) so với BVC (149-154 ngày và 157-181 ngày tuổi ở 5 và 50%). Bên cạnh đó, có sự cải thiện về tỷ lệ đẻ và năng suất trứng của gà thí nghiệm ở 0,05 và 0,1% BN so với ĐC. Mazur và Adlercreutz (1998) cho rằng thành phần flavonoid ở bột nghệ hoạt động như phytoestrogen có chức năng tương tự như estrogen, giúp cải thiện chức năng và hoạt động của tế bào gan, cải thiện màng vitellogenin (tiền chất protein lòng đỏ trứng), từ đó giúp gà thí nghiệm ở các NT có bổ sung đạt tuổi thành thục sớm hơn và năng suất trứng cao hơn. Bên cạnh đó, Liu và ctv (2020) báo cáo rằng curcumin có hoạt tính kháng oxy hóa cao, đồng thời gia tăng nồng độ hormon FSH và LH, có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nang trứng và rụng trứng, giúp cải thiện năng suất trứng ở gà mái Hy-Line Brown 40 tuần tuổi khi bổ sung BN ở 100, 150 và 150 mg/kg TA. Park và ctv (2012) đã chứng minh rằng gà mái đẻ được bổ sung BN ở 0,25 và 0,5% trong 14 ngày có sự tăng năng suất trứng cũng như sản lượng trứng hàng ngày. Kết quả phân tích chất lượng trứng cho thấy bổ sung BN không có ảnh hưởng đáng kể đến KL, các thành phần của trứng, độ dày vỏ trứng và các chỉ tiêu màu sắc lòng đỏ, ngoại trừ có sự khác biệt về chỉ số LT/LĐ và CSHD trong đó LT/LĐ cao nhất ở BN0.1 và CSHD cao nhất ở BN0.15. Các kết quả nghiên cứu khác cho thấy việc bổ sung BN trong khẩu phần gà mái có thể cải thiện được một số chỉ tiêu về chất lượng trứng như khối lượng và màu sắc lòng đỏ (Park và ctv, 2012; Galli và ctv, 2018), độ dày vỏ, độ chịu lực của trứng và KL lòng đỏ (Liu và ctv, 2020). Sự cải thiện về chất lượng trứng có thể là do sự tăng cường tổng hợp vitellogenin, tiền chất của lòng đỏ trứng được tổng hợp ở tế bào gan, cũng như estrogen cần thiết để kích thích sự tổng hợp albumen. Liu và ctv (2020) cho rằng chất lượng vỏ trứng được cải thiện là do sự tăng lượng ăn ở gà đẻ giúp giải phóng canxi trong huyết thanh kết hợp với protein huyết tương hoặc các thành phần khác để có đủ Ca2+ trong máu tham gia cấu tạo vỏ trứng.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 10 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng bột nghệ (curcuma longa L) trong khẩu phần lên khả năng sinh sản của gà mái nòi lai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DINH DƯỠNG VÀ THỨC ĂN CHĂN NUÔI KHKT Chăn nuôi số 259 - tháng 9 năm 202034 populations of feedlot cattle. J. Ani. Sci., 80: 1977-85. 10. Vũ Duy Giảng, Nguyễn Xuân Bả, Lê Đức Ngoan, Nguyễn Xuân Trạch, Vũ Chí Cương và Nguyễn Hữu Văn (2008). Dinh dưỡng và thức ăn cho bò. NXB Nông nghiệp. 11. Gollop N., Zakin V. and Weinberg Z.G. (2005). Antibacterial activity of lactic acid bacteria included in inoculants for silage and in silages treated with these inoculants. J. Appl. Microbiology, 98: 662-66. 12. Hatfield R.D., Ralph J. and Grabber J.H. (1999). Cell wall structural foundations: molecular basis for improving forage digestibilities. Crop Sci.,39: 27-37. 13. Jiao P.X., Liu F.Z., Beauchemin K.A. and Yang W.Z. (2017). Impact of strain and dose of lactic acid bacteria on in vitro ruminal fermentation with varying media pH levels and feed substrates. Ani. Feed Sci. Tech., 224: 1-13. 14. Krause D.O., McSweeney C.S. and Forster R.J. (1999). Molecular ecological methods to study fibrolyticruminal bacteria: phylogeny, competition and persistence. p.15- 19. In Proceedings of the 8th International Symposium on Microbial Ecology. 15. Loh T.C., Thanh N.T., Foo H.L., Hair-Bejo M. and Azhar B.K. (2010). Feeding of different levels of metabolite combinations produced by Lactobacillus plantarum on growth performance, fecal microflora, volatile fatty acids and villi height in broilers. Ani. Sci. J., 81: 205-14. 16. Menke K.H., Raab L., Salewski A., Steingass H., Fritz D. and Schneider W. (1979). The estimation of the digestibility and metabolizable energy content of ruminant feedingstuffs from the gas production when they are incubated with rumen liquor in vitro. J. Agr. Sci., 93: 217-22. 17. Morgavi D.P., Beauchemin K.A., Nsereko V.L., Rode L.M., Iwaasa A.D., Yang W.Z., McAllister and T.A. Wang Y. (2000). Synergy between ruminal fibrolytic enzymes and enzymes from Trichoderma longibrachiatum.J.Dai. Sci., 83: 1310-21. 18. Đinh Văn Mười (2012). Nghiên cứu xác định tỷ lệ tiêu hóa, giá trị dinh dưỡng và xây dựng phương trình chẩn đoán các giá trị này của một số loại thức ăn dùng cho gia súc nhai lại. Luận án Tiến sỹ nông nghiệp. Viện Chăn nuôi. 19. Nocek J.E., Kautz W.P., Leedle J.A.Z. and Allman J.G. (2002). Ruminal supplementation of direct-fed microbials on diurnal pH variation and in situ digestion in dairy cattle. J. Dai. Sci., 85: 29-43. 20. Soriano A.P., Mamuad L.L., Kim S.H., Choi Y.J., Jeong C.D., Bae G.S., Chang M.B. and Lee S.S. (2014). Effect of Lactobacillus mucosae on in vitro rumen fermentation characteristics of dried brewers grain, methane production and bacterial diversity. Asian-Aust. J. Ani. Sci., 27: 1562-70. 21. Thanh N.T., Chwen L.T., Foo H.L., Hair-Bejo M. and Kasim A.B. (2010). Inhibitory activity of metabolites produced by strains of Lactobacillus plantarum isolated from Malaysian fermented food. Int. J. Probiotics & Prebiotics, 5: 37. 22. Thu T.V., Loh, T.C., Foo, H.L., Yaakub H. and Bejo M.H. (2011). Effects of liquid metabolite combinations produced by Lactobacillus plantarum on growth performance, faeces characteristics, intestinal morphology and diarrhoea incidence in postweaning piglets. Tro. Ani. Health & Pro., 43: 69-75. 23. Weinberg Z.G., Chen Y. and Gamburg M. (2004). The passage of lactic acid bacteria from silage into rumen fluid, in vitro studies. J. Dai. Sci., 87: 3386-97. 24. White B.A., Mackie R.I. and Doerner K.C. (1993). Enzymatic hydrolysis of forage cell walls. In: Jung H.G., Buxton D.R., Hatfield R.D., Ralph J. (Eds.), Forage Cell Wall Structure and Digestibility. Am. Soc. Agr., Crop Sci. Soc. Am., Soil Sci. Soc. Am, Madison, WI, USA, Pp. 455- 98. 25. Yoon I.K. and Stern M.D. (1995). Influence of direct- fed microbials on ruminal microbial fermentation and performance of ruminants: a review. Asian-Aust. J. Ani. Sci., 8: 533-55. ẢNH HƯỞNG BỘT NGHỆ (CURCUMA LONGA L) TRONG KHẨU PHẦN LÊN KHẢ NĂNG SINH SẢN CỦA GÀ MÁI NÒI LAI Nguyễn Thị Kim Khang1*, Nguyễn Thảo Nguyên1, Ngô Thị Minh Sương1, Nguyễn Thành Tứ1 và Nguyễn Thị Hồng Nhân1 Ngày nhận bài báo: 22/06/2020 - Ngày nhận bài phản biện: 10/07/2020 Ngày bài báo được chấp nhận đăng: 31/07/2020 TÓM TẮT Thí nghiệm được thực hiện nhằm tìm ra ảnh hưởng bổ sung bột nghệ lên khả năng sinh sản và chất lượng trứng của gà mái Nòi lai ở giai đoạn 16-26 tuần tuổi. Tổng số 96 gà mái Nòi lai được bố trí theo thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên với 4 nghiệm thức (NT) và 8 lần lặp lại, mỗi lần lặp lại 1 Trường Đại học Cần Thơ, 2 Trường Đại học Tiền Giang * Tác giả liên hệ: PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Khang, Trưởng Bộ môn Chăn nuôi, Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ. TP Cần Thơ. Điện thoại: 0939.205.355. Email: ntkkhang@ctu.edu.vn DINH DƯỠNG VÀ THỨC ĂN CHĂN NUÔI KHKT Chăn nuôi số 259 - tháng 9 năm 2020 35 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Ngành chăn nuôi gia cầm ở nước ta đã có bước chuyển mạnh mẽ từ số lượng sang chất lượng, từ quy mô nhỏ ở nông hộ sang nuôi công nghiệp với quy mô lớn và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào trong sản xuất. Trước đây, việc phối hợp kháng sinh trong khẩu phần đã được sử dụng rộng rãi để kích thích sinh trưởng. Tuy nhiên, phương pháp này đã phát sinh nhiều nguy cơ gây kháng thuốc nguy hiểm nên nó đã bị cấm sử dụng. Để thay thế, có nhiều chất phụ gia thảo dược đang được nghiên cứu để tối đa năng suất sinh trưởng cho gia cầm ăn khẩu phần không có kháng sinh. So sánh với kháng sinh tổng hợp, các sản phẩm có nguồn gốc thực vật này đã được chứng minh là ít độc hại, không có dư lượng và được cho là phụ gia thức ăn lý tưởng trong sản xuất thức ăn chăn nuôi (Wang và ctv, 1998). Nghệ vàng (Curcuma longa L) có hoạt chất curcumin với tác dụng sinh học rất mạnh (Lal, 2012) đã được bổ sung vào khẩu phần ăn giúp gà phát triển nhanh hơn, TKL lớn hơn (Al-Jaleel, 2012) và có khả năng kháng khuẩn (Gowda, 2009). Với liều bổ sung 0,5 hoặc 1,0% nghệ làm tăng khối lượng (TKL) trứng, sản lượng trứng ở gà công nghiệp (Riasi và ctv, 2012). Bổ sung 0,1% BN (Nguyễn Thị Kim Khang và ctv, 2016) có ảnh hưởng tốt lên năng suất sinh trưởng của gà công nghiệp. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chỉ dừng lại ở đối tượng gà công nghiệp, rất ít hoặc chưa có nghiên cứu kết hợp bổ sung các chất phụ gia có nguồn gốc thảo dược này vào khẩu phần cho gà hậu bị địa phương và cụ thể là cho gà Nòi vì đây là giống bản địa đang được nuôi rất nhiều vì nhu cầu thị trường tăng cao. Nghiên cứu này được thực là 3 con. Bốn NT tương ứng với 4 mức bổ sung bột nghệ (BN): (1) Đối chứng (ĐC) sử dụng khẩu phần cơ sở (KPCS) không có BN, (2) BN0.05: KPCS có bổ sung 0,05% BN/kg TA, (3) BN0.1: KPCS có bổ sung 0,1% BN/kg TA và (4) BN0.15: KPCS có bổ sung 0,15% BN/kg TA. Thí nghiệm được thực hiện 10 tuần. Kết quả cho thấy tuổi đẻ quả trứng đầu tiên và tuổi đẻ đạt 50% của gà mái Nòi lai là: 139-146 và 155-165 ngày tuổi. Không có sự sai khác có ý nghĩa thống kê giữa các NT về khối lượng qua 10 tuần nuôi. Tiêu tốn thức ăn, HSCHTA và khối lượng trứng giữa các NT khác biệt không có ý nghĩa thống kế. Tổng số trứng của gà mái Nòi lai giai đoạn 24-26 tuần tuổi cao nhất ở BN0.15 (55,88 quả) và thấp nhất ở BN0.1 (26,63 quả) (P<0,05). Tương tự, BN0.1 có CSHD thấp nhất và BN0.05 có trị số LT/ LĐ thấp nhất (P£0,05). Từ khóa: Bột nghệ, gà hậu bị, tuổi đẻ trứng đầu tiên, tỷ lệ đẻ. ABSTRACT Effects of dietary supplemented turmeric powder (Curcuma longa L) on reproductive performance of crossbred Noi laying hens This study was done to evaluate the effects of dietary supplemented curcumin powder of different levels on reproductive performance and egg quality of crossbred Noi laying hens at 16- 26 weeks of age. A total of 96 crossbred Noi pullets was completely randomized design into 4 dietary treatments and replicated eight times with 3 pullets per replicate. The experimental diets were as followed as (1) control was a basic diet without any curcumin supplement (KPCS); (2) BN0.05 consisted of KPCS plus 0.05% curcumin powder (CP); (3) BN0.1 consisted of KPCS added 0.1% CP; and (4) BN0.15 consisted of 0.15% CP, respectively. The experiment was carried out for 10 weeks. Results showed that the age at first lay ranged in 139-146 days and the age of 50% egg production was 155-165 days. There was no significant difference in the body weight of crossbred Noi pullets for 10 weeks. No different significances were found among treatments on feed intake, feed conversion ratio and egg weight. The total egg production of crossbred Noi laying hens was signigcant difference among treatments at 24-26 weeks of age, highest on BN0.15 (55.88 eggs) and lowest on BN0.1 (26.63 eggs). The egg shape index was also significantly different among treatments, lowest on BN0.1 and highest on BN0.05. It is concluded that supplementation of 0.15% CP to dietary feed improved egg production of crossbred Noi laying hens. Keywords: Curcumin powder, first egg laying day, egg laying rate, hen. DINH DƯỠNG VÀ THỨC ĂN CHĂN NUÔI KHKT Chăn nuôi số 259 - tháng 9 năm 202036 hiện nhằm đánh giá việc ảnh hưởng của việc bổ sung bột nghệ trong khẩu phần lên khả năng sinh sản của gà mái Nòi lai ở giai đoạn từ 16 đến 26 tuần tuổi. 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Vật liệu Thí nghiệm được tiến hành trên 96 con gà mái Nòi lai ở giai đoạn 16-26 tuần tuổi, từ tháng 9/2019 đến tháng 11/2019, tại trại gà thí nghiệm thuộc ấp Thuận Tiến B, xã Thuận An, Thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long. Thức ăn cơ sở của Trại có giá trị dinh dưỡng CP là 17% và ME 2.700 kcal/kg và bổ sung bột nghệ có dạng bột, mịn mùi thơm, màu vàng, được sản xuất tại hộ kinh doanh cơ sở Bảo Ngọc số 67 đường Nguyễn Văn Cừ, khu phố 4, P. Thảo Điền, Q2, TP. Hồ Chí Minh. Đàn gà đã được tiêm phòng vaccine và tẩy ký sinh trùng đầy đủ trước khi tiến hành thí nghiệm. Gà được nuôi trong hệ thống chuồng hở kích thước dài 6m, rộng 36m và cao 2,5m, mái lợp tole, bạt mủ che chắn xung quanh. Hai bên vách xây gạch cao 0,5m. Trên mái chuồng có hệ thống thông khí. Khu dãy chuồng gồm 3 tầng xếp chồng lên nhau theo hình tháp, tầng thấp nhất cách nền chuồng 50cm, kích thước mỗi ô chuồng trong tầng là 60x40x40cm. Gà được chiếu sáng 16 giờ/ngày, hệ thống đèn được điều khiển tự động, đèn tự động tắt lúc 21 giờ và tự động bật lúc 4 giờ. Máng ăn được đặt phía trước mỗi tầng lồng, cách máng hứng trứng 10cm, được làm bằng nhựa. Gà uống nước tự do với hệ thống nước bằng núm uống tự động. 2.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm Thí nghiệm (TN) tiến hành được bố trí theo thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên gồm 3 nghiệm thức (NT) và 1 đối chứng (ĐC) tương ứng với 4 khẩu phần khác nhau về tỷ lệ bổ sung như sau: ĐC: Khẩu phần cơ sở (KPCS); BN0.05: KPCS có bổ sung 0,05% BN; BN0.10: KPCS có bổ sung 0,10% BN; BN0.15: KPCS có bổ sung 0,15% BN. Các nghiệm thức được lặp lại 8 lần, mỗi lần lặp lại là 3 gà mái Nòi lai ở 16 tuần tuổi. Ghi thập số liệu và các chỉ tiêu theo dõi Tiêu tốn TA, hiệu quả sử dụng TA được ghi nhận hàng ngày dựa trên lượng TA ăn vào và lượng TA thừa. Trứng gà được thu gom, cân và ghi nhận hằng ngày vào lúc 16 giờ chiều để tính các chỉ tiêu về tuổi đẻ trứng đầu tiên, tỷ lệ đẻ và năng suất trứng bình quân (NSTBQ). Mẫu trứng được lấy và đo các chỉ tiêu về chất lượng trứng gà ở các NT được chọn vào lúc 21 tuần tuổi. Tổng số quả trứng gà phân tích là 28 quả trứng được chia làm 2 lần phân tích lần lượt (4 quả x 4 NT và 3 quả x 4 NT). Các chỉ tiêu về chất lượng trứng như KL trứng, tỷ lệ các thành phần của quả trứng, chỉ số hình dáng (CSHD), chỉ số lòng trắng đặc và lòng đỏ, màu sắc lòng đỏ và độ dày vỏ. Gà được cân ở 16, 20, 24 và 26 tuần tuổi. Trạng thái sức khỏe đàn gà được quan sát và ghi nhận có những biểu hiện gì khác thường không vào mỗi buổi sáng sớm. Các vitamin và chất điện giải được pha trộn vào nước uống của gà vào các ngày nhiệt độ môi trường tăng cao. Chuồng trại, máng ăn, máng uống được vệ sinh dọn dẹp hàng ngày ở tất cả các ô thí nghiệm. 2.3. Xử lý số liệu Số liệu sẽ được xử lý sơ bộ bằng phần mềm Excel 2010 và xử lý thống kê bằng phần mềm Minitab 16 với mô hình Tuyến tính Tổng quát (GLM), để xác định mức độ khác biệt ý nghĩa của các nghiệm thức bằng phương pháp Tukey với độ tin cậy 95%. 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Ảnh hưởng của việc bổ sung nghệ lên năng suất sinh trưởng của gà thí nghiệm giai đoạn 16-20 tuần tuổi được thể hiện qua bảng 1. DINH DƯỠNG VÀ THỨC ĂN CHĂN NUÔI KHKT Chăn nuôi số 259 - tháng 9 năm 2020 37 Khối lượng gà mái hậu bị Nòi lai ở các tuần tuổi tuy có sự khác biệt nhưng không có ý nghĩa thống kê (P>0,05), KL ban đầu của gà thí nghiệm ở 16 tuần tuổi nằm trong khoảng 1.140-1.161 g/con và KL cuối kì ở 26 tuần tuổi là 1.622-1.663 g/con. Tương tự, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các NT về TTTĐ, TTTK và TTTA (P>0,05), trong đó TTTĐ của gà thí nghiệm là 12,39-14,49 g/con/ ngày, TTTK khoảng 469,58-522,92 g/con, TTTA khoảng 65,96-69,07 g/con, HSCHTA của gà ở ĐC (4,63) có khuynh hướng thấp hơn so với các NT có bổ sung BN (5,27-5,86), tuy nhiên sự khác biệt này lại không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Ảnh hưởng của bổ sung bột nghệ lên tuổi thành thục của gà mái hậu bị Nòi lai (Bảng 1) cho thấy sự chênh lệch về tuổi thành thục của gà thí nghiệm giữa các NT không có ý nghĩa thống kê (P>0,05), mặc dù BN0.05 có tuổi đẻ trứng 5% (139 ngày) sớm hơn BN0.10 (142 ngày), BN0.15 (146 ngày) và ĐC (140 ngày). Tuổi đẻ trứng đạt 50% của gà mái hậu bị Nòi lai ở các NT có bổ sung BN lại sớm hơn 3-13 ngày so với ĐC, đặc biệt là BN0.15 (152 ngày) sớm hơn so với ĐC (165 ngày), tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Bảng 1. Năng suất sinh trưởng của gà thí nghiệm giai đoạn 16-20 tuần tuổi Các chỉ tiêu Nghiệm thức SEM PĐC BN0.05 BN0.10 BN0.15 Khối lượng gà, g 16 1140,4 1151,7 1161,7 1153,3 9,73 0,50 20 1531,7 1486,3 1516,7 1534,2 37,17 0,79 24 1608,3 1591,7 1649,6 1592,5 42,01 0,74 26 1663,3 1629,2 1675,4 1622,9 44,05 0,80 TTTĐ16-20, g/con/ngày 14,49 12,39 13,15 14,10 1,28 0,65 TTTK16-26, g/con 522,92 477,50 513,75 469,58 43,98 0,78 TTTA16-20, g/con/ngày 65,96 66,25 66,28 69,07 1,96 0,65 HSCHTA16-20 4,63 5,86 5,51 5,27 0,58 0,50 Tuổi đẻ, ngày 5% 140 139 142 146 0,20 0,98 50% 165 155 162 152 0,69 0,88 TKLTĐ: Tăng khối lượng tuyệt đối, TKLTK: tăng khối lượng toàn kì, TTTA: tiêu tốn thức ăn, HSCHTA: hệ số chuyển hóa thức ăn Bảng 2. Ảnh hưởng của bổ sung bột nghệ lên năng suất sinh sản của gà mái Nòi lai Các chỉ tiêu Nghiệm thức SEM P ĐC BN0.05 BN0.10 BN0.15 Tỷ lệ đẻ, % 20-24 23,44 28,05 22,77 40,63 6,31 0,19 24-26 37,05 46,13 31,99 54,02 7,20 0,17 Năng suất trứng (NST), quả/mái 20-24 16,62 20,87 15,63 31,88 4,44 0,06 24-26 14,12ab 15,37ab 10,50b 21,37a 2,35 0,02 20-26 33,87ab 37,0ab 26,63b 55,88a 6,20 0,02 Khối lượng trứng (KLT), g/quả 20-24 34,65 34,16 35,50 35,19 1,08 0,82 24-26 39,82 37,96 37,56 38,98 0,82 0,86 TTTA, g/con/ngày 20-24 78,48 76,39 80,77 80,86 1,43 0,11 24-26 86,28 86,50 86,65 86,56 0,90 0,10 HQSDTA, g TA/g trứng 20-24 2,28 2,24 2,28 2,32 0,07 0,86 24-26 2,18 2,28 2,31 2,23 0,06 0,38 Giá trị Mean mang các chữ cái khác nhau trên cùng dòng thì khác biệt và có ý nghĩa thống kê ở mức P<0,05 DINH DƯỠNG VÀ THỨC ĂN CHĂN NUÔI KHKT Chăn nuôi số 259 - tháng 9 năm 202038 Tỷ lệ đẻ giai đoạn 20-24 và 24-26 tuần tuổi ở BN0.15 (40,63 và 54,02%) và BN0.05 (28,05 và 46,13%) có khuynh hướng cao hơn so với ĐC (23,44 và 37,05%), tuy nhiên sự khác biệt về TLĐ giữa các NT qua các tuần tuổi không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Bên cạnh đó, KLT, TTTA và HQSDTA của gà thí nghiệm qua các tuần tuổi khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa các NT (P>0,05). Tuy nhiên, NST ở giai đoạn 24-26 tuần tuổi và tổng năng suất trứng (TNST) giữa các NT khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05), BN0.15 có NST cao nhất và thấp nhất ở BN0.10. Kết quả Bảng 3 về chất lượng trứng gà thí nghiệm cho thấy tỷ lệ lòng trắng (TLLT), tỷ lệ lòng đỏ (TLLĐ), tỷ lệ vỏ (TLV), độ dày vỏ (ĐDV), chỉ số lòng đỏ (CSLĐ), chỉ số lòng trắng đặc (CSLTĐ), đơn vị Haugh, khối lượng trứng (KLT) và màu lòng đỏ không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các NT (P>0,05). Tương tự, L*, a* và b* giữa các NT không khác nhau có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Ngược lại, chỉ số hình dáng (CSHD) và tỷ lệ lòng trắng và lòng đỏ (LT/LĐ) giữa các NT khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Bảng 3. Ảnh hưởng bột nghệ lên chất lượng trứng Chỉ tiêu Nghiệm thức SE P ĐC BN0.05 BN0.10 BN0.15 KLT, g 36,20 31,32 34,53 34,80 1,39 0,14 TLLT, % 59,22 55,60 62,77 56,91 1,67 0,07 TLLĐ, % 27,52 31,83 24,65 30,05 1,72 0,08 TLV, % 13,26 12,58 12,59 13,04 0,10 0,94 ĐDV, mm 0,35 0,33 0,31 0,33 0,12 0,41 LT/LĐ 2,15ab 1,78b 2,56a 1,91ab 0,16 0,04 CSHD 1,31ab 1,29ab 1,25b 1,36a 0,22 0,05 CSLĐ 0,82 0,42 0,48 0,45 0,22 0,55 CSLTĐ 0,09 0,07 0,12 0,09 0,02 0,17 HU 84,16 80,86 93,02 87,30 3,38 0,13 L* 51,26 49,56 53,10 49,23 1,41 0,25 a* 6,04 8,79 4,69 6,22 1,35 0,24 b* 42,30 43,89 42,95 41,55 1,67 0,79 4. THẢO LUẬN Bột nghệ được xem như thức ăn bổ sung có nguồn gốc thực vật trong chăn nuôi gia cầm, đặc biệt là gà đẻ giúp cải thiện năng suất và chất lượng trứng của chúng, tuy nhiên vẫn còn rất ít nghiên cứu trên các giống gà địa phương. Kết quả thí nghiệm cho thấy việc bổ sung bột nghệ trong khẩu phần không ảnh hưởng đến KL, TKL, TTTA và HSCHTA của gà mái hậu bị Nòi lai giai đoạn 16-20 và 20-26 tuần tuổi. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Khang và ctv (2020) cũng cho kết quả tương tự khi bổ sung bột vỏ cam (BVC) ở 0,5; 1 và 1,5 g/kg TA trong khẩu phần của gà mái hậu bị Nòi lai cùng giai đoạn tuổi không ảnh hưởng đến các chỉ tiêu này. Moeini và ctv (2011) cho rằng hiệu quả sử dụng thức ăn không bị ảnh hưởng bởi mức bổ sung BN trong khẩu phần của gà đẻ, khi gà mái ăn 1% BN có TTTA thấp và làm giảm NST. Ngược lại, Radwan và ctv (2008) cho rằng TTTA của gà mái bổ sung 0,5 hoặc 1% BN trong khẩu phần không có sự khác biệt, nhưng giúp cải thiện HSCHTA và TKL. Liu và ctv (2020) báo cáo rằng bổ sung bột nghệ vào khẩu phần gà mái đẻ không có sự khác biệt về TKL và TTTA, nhưng có sự cải thiện về HSCHTA so với ĐC, đặc biệt là ở BN bổ sung ở 100 và 150 mg/kg TA. Kết quả nghiên cứu trên gà thịt Cobb500 cho thấy khi bổ sung BN trong TA đều có sự cải thiện về KL, TKL của gà, đặc biệt ở mức 1g BN/kg TA (Nguyễn Thị Kim Khang và ctv, 2016). Các kết luận khác nhau giữa kết quả thí nghiệm và các nghiên cứu trước đó có thể là do sự khác biệt về liều lượng, hướng sản xuất, giống gà và điều kiện nuôi khác nhau. So sánh tuổi đẻ trứng 5 và 50% của gà thí nghiệm ở nghiên cứu này với kết quả bổ sung BVC trong khẩu phần của gà mái hậu bị Nòi lai giai đoạn 16-26 tuần tuổi (Nguyễn Thị Kim Khang và ctv, 2020) cho thấy tuổi thành thục của gà mái hậu bị Nòi lai được rút ngắn hơn khi bổ sung BN (139-146 ngày và 152-162 ngày tuổi ở 5 và 50%) so với BVC (149-154 ngày và 157-181 ngày tuổi ở 5 và 50%). Bên cạnh đó, có sự cải thiện về tỷ lệ đẻ và năng suất trứng của gà thí nghiệm ở 0,05 và 0,1% BN so với ĐC. Mazur và Adlercreutz (1998) cho rằng thành phần flavonoid ở bột nghệ hoạt động như phytoestrogen có chức năng tương tự như estrogen, giúp cải thiện chức năng và hoạt động của tế bào gan, cải thiện màng DINH DƯỠNG VÀ THỨC ĂN CHĂN NUÔI KHKT Chăn nuôi số 259 - tháng 9 năm 2020 39 vitellogenin (tiền chất protein lòng đỏ trứng), từ đó giúp gà thí nghiệm ở các NT có bổ sung đạt tuổi thành thục sớm hơn và năng suất trứng cao hơn. Bên cạnh đó, Liu và ctv (2020) báo cáo rằng curcumin có hoạt tính kháng oxy hóa cao, đồng thời gia tăng nồng độ hormon FSH và LH, có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nang trứng và rụng trứng, giúp cải thiện năng suất trứng ở gà mái Hy-Line Brown 40 tuần tuổi khi bổ sung BN ở 100, 150 và 150 mg/kg TA. Park và ctv (2012) đã chứng minh rằng gà mái đẻ được bổ sung BN ở 0,25 và 0,5% trong 14 ngày có sự tăng năng suất trứng cũng như sản lượng trứng hàng ngày. Kết quả phân tích chất lượng trứng cho thấy bổ sung BN không có ảnh hưởng đáng kể đến KL, các thành phần của trứng, độ dày vỏ trứng và các chỉ tiêu màu sắc lòng đỏ, ngoại trừ có sự khác biệt về chỉ số LT/LĐ và CSHD trong đó LT/LĐ cao nhất ở BN0.1 và CSHD cao nhất ở BN0.15. Các kết quả nghiên cứu khác cho thấy việc bổ sung BN trong khẩu phần gà mái có thể cải thiện được một số chỉ tiêu về chất lượng trứng như khối lượng và màu sắc lòng đỏ (Park và ctv, 2012; Galli và ctv, 2018), độ dày vỏ, độ chịu lực của trứng và KL lòng đỏ (Liu và ctv, 2020). Sự cải thiện về chất lượng trứng có thể là do sự tăng cường tổng hợp vitellogenin, tiền chất của lòng đỏ trứng được tổng hợp ở tế bào gan, cũng như estrogen cần thiết để kích thích sự tổng hợp albumen. Liu và ctv (2020) cho rằng chất lượng vỏ trứng được cải thiện là do sự tăng lượng ăn ở gà đẻ giúp giải phóng canxi trong huyết thanh kết hợp với protein huyết tương hoặc các thành phần khác để có đủ Ca2+ trong máu tham gia cấu tạo vỏ trứng. 5. KẾT LUẬN Bổ sung BN ở mức 0,15% trong khẩu phần giúp cải thiện năng suất trứng ở gà mái Nòi lai. LỜI CẢM ƠN Nghiên cứu này được tài trợ một phần từ Dự án “Nâng cấp Trường đại học Cần Thơ” VN14-P6 được hỗ trợ bởi ODA, Nhật Bản. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Al-Jaleel R.A. Abd. (2012). Use of turmeric (Curcuma longa) on the performance and some physiological traits on the broiler diets. The Iraqi J. Vet. Med., 36: 51-57. 2. Galli G.M., Da Silvaa A.S., Biazus A.H., Reis J.H., Boiagoa M.M., Topazio J.P., Migliorini M.J., Guarda N.S., Moresco R.N., Ourique A.F., Santos C.G., Lopes L.S., Baldissera M.D. and Stefani L.M. (2018). Feed addition of curcumin to laying hens showed anticoccidial effect, and improved egg quality and animal health. Res. Vet. Sci., 118: 101-06. 3. Gowda N.K., Ledoux D.R., Rottinghaus G.E., Bermudez A.J. and Chen Y.C. (2009). Antioxidant efficacy of curcuminoids from turmeric (Curcuma longa L.) powder in broiler chickens fed diets containing aflatoxin B1. Bri. J. Nut., 102: 1629-34. 4. Nguyen Thi Kim Khang, Nguyen Ai Sang, Nguyen Thao Nguyen and Ngo Thi Minh Suong (2020). Effects of supplemental dietary dried orange peel powder on performance of crossbred Noi pullets. J. Ani. Hus. Sci. Tech., 258: 28-32. 5. Nguyễn Thị Kim Khang, Phạm Ngọc Du, Trịnh Hoàng Hải Đăng, Lê Nguyễn Duy Phước và Nguyễn Nhựt Xuân Dung. (2016). Ảnh hưởng của bổ sung bột nghệ lên sự tăng trưởng và hiệu quả kinh tế ở gà thịt. Tạp chí KHKT Chăn nuôi, 207: 23-30. 6. Lal J. (2012). Turmeric, curcumin and our life: A review. Bull. Environ. Pharmacol. Lif. Sci., 1: 11-17. 7. Liu M., Lu Y., Gao P., Xie X., Li D., Yu D. and Yu M. (2020). Effect of curcumin on laying performance, egg quality, endocrine hormones, and immune activity in heat-stressed hens. Poul. Sci., 99: 2196-02. 8. Mazur W. and Adlercreutz H. (1998). Naturally occurring estrogens in food. Pure & Applied Chem., 70: 1759-76. 9. Moeini M.M., Malekizadeh M. and Ghazi S. (2011). The effects of different levels of ginger (Zingiber officinale) and turmeric (Curcuma longa) rhizomes powder on productive performance characteristics of laying hens. J. Agr. Sci. Tech., 14: 127-34. 10. Park S.S., Kim J.M., Kim E.J., Kim H.S., An B.K. and Kang C.W. (2012). Effects of dietary turmeric powder on laying performance and egg qualities in laying hens. Kor. J. Poult. Sci., 39:27-32. 11. Radwan N.L., Hassan E.M.Q. and Fayek H.M. (2008). Effect of natural antioxidant on oxidative stability of eggs and productive and reproductive performance of laying hens. Intern. J. Poul. Sci., 7: 134-50. 12. Riasi A., Kermanshahi H. and Mahdavi A.H. (2012). Production performance, egg quality and some serum metabolites of older commercial laying hens fed different levels of turmeric rhizome (Curcuma longa) powder. J. Med. Plant Res., 6: 2141-45. 13. Wang R., Li D. and Bourne S. (1998). Can 2000 years of herbal medicine history help us solve problems in the year 2000. In Alltechs annual symposium., 14: 168-84.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfanh_huong_bot_nghe_curcuma_longa_l_trong_khau_phan_len_kha_n.pdf
Tài liệu liên quan