Từ kết quả trên cho thấy hạt giống lúa được
bao hạt bằng hỗn hợp nanochitosan và DC P.
putida là công thức có khả năng kháng bệnh tốt
nhất so với bao hạt đơn lẻ. Kết quả này phù
hợp với một số nghiên cứu về khả năng kháng
bệnh của nanochitosan và dịch chiết vi khuẩn P.
putida trên thế giới, Manikandan và cs (2016)
đã chứng minh hạt nanochitosan có tiềm năng
ngăn chặn bệnh đạo ôn của lúa do nấm
Pyricularia grisea; Các chất sinh học được sản
xuất bởi P. putida 267 cần thiết trong việc hình
thành màng sinh học và có khả năng diệt
khuẩn, kháng nấm (Kruijt và cs, 2009); một số
loài P. putida sản xuất enzyme, phytohormone
auxin và là chất đối kháng với nấm gây bệnh
thực vật (Egamberdiyeva, 2005); P. putida biến
đổi gen đã tạo ra các hợp chất có tác dụng
kháng nấm, kháng khuẩn cho vùng rễ của lúa
mì (Peter và cs, 2002)
4. KẾT LUẬN
Bao hạt giống lúa bằng hỗn hợp nanochitosan
và dịch chiết vi khuẩn đối kháng P. putida làm
tăng tỷ lệ nảy mầm lên 91,11% cao hơn so
với đối chứng (66,67%), tốc độ ra lá trung
bình nhanh hơn đối chứng 0,98 lá và làm tăng
chiều cao lên 20,17cm cao hơn so với đối
chứng 3,48cm.
Khả năng kháng bệnh của các cây lúa bao
hạt bằng hỗn hợp nanochitosan và dịch chiết vi
khuẩn P. putida cao hơn so với bao hạt giống
bằng tác nhân sinh học đơn lẻ và đối chứng, hạt
giống lúa bao hỗn hợp nanochitosan và dịch
chiết vi khuẩn đối kháng P. putida có chỉ số
AUDPC (44,44 và 49,95) thấp hơn so với ĐC
(188,89 và 177,76)
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 10 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của bao hạt giống lúa bằng nanochitosan và dịch chiết vi khuẩn đối kháng pseudomonas putida đến sinh trưởng, kháng bệnh trong điều kiện in vivo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV – Số 2/2018
3
ẢNH HƢỞNG CỦA BAO HẠT GIỐNG LÖA BẰNG NANOCHITOSAN
VÀ DỊCH CHIẾT VI KHUẨN ĐỐI KHÁNG Pseudomonas putida
ĐẾN SINH TRƢỞNG, KHÁNG BỆNH TRONG ĐIỀU KIỆN in vivo
Effect of the Rice Seed Coat with Chitosan Nanoparticles and The Extract of
Pseudomonas putida on Growth and Disease Resistance in vivo
Võ Thị Thƣơng Thƣơng, Võ Thị Mai Hƣơng, Nguyễn Hiền Trang,
Nguyễn Cao Cƣờng và Trần Thị Thu Hà
Trường đại học Nông lâm Huế, Đại học Huế
Ngày nhận bài: 20.08.2017 Ngày chấp nhận: 09.11.2017
Abstract
The study investigated the effect of the rice seed coat with chitosan nanoparticles and the extract of antagonistic
bactecria Pseudomonas putida (P. putida) on growth and disease resistance of rice in vivo. The experiments were
conducted with single and combination of biological agents (nanochitosan and the extract of P. putida). Results of
the study showed that rice seed coating with chitosan nanoparticles and P. putida extract increased 91.11%
germination rate compared to 66.67% (Control); Average leaf speed was faster than 0.98 leaves and increased
height to 20.17 cm higher than 3.48 cm; Disease resistance of rice seed coated with chitosan nanoparticles and P.
putida extracts was higher than that of control, rice seeds coated with chitosan nanoparticles and P. putida extract
had the AUDPC (44.44 and 49.95) lower than the control (188.89 and 177.76). More coordinated formulas and field
production practices should be investigated to further assess the growth and disease resistance of rice.
Keywords: seed coating, chitosan nanoparticles, Pseudomonas putida
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chất lượng hạt giống là yếu tố quan trọng
trong quá trình nảy mầm, sinh trưởng của cây.
Các loại hạt giống là nơi tiềm ẩn nhiều loài nấm
gây bệnh, đặc biệt là các loài nấm có nguồn gốc
trong đất (như Sclerotium rolfsii) và truyền qua
hạt giống như Aspergillus sp....trong điều kiện
bảo quản không tốt. Để phòng trừ những bệnh
này, cho đến nay thì biện pháp hóa học vẫn là
phổ biến được sử dụng để xử lý hạt giống.
Phương pháp tạo bao hạt giống (seed coating)
bằng các tác nhân sinh học được ứng dụng trên
thế giới nhưng ở Việt Nam chưa nghiên cứu và
áp dụng còn hạn chế.
Phương pháp tạo bao hạt giống là phương
pháp sử dụng hoá chất để tạo lớp màng bao
phủ hạt giống có tác dụng giúp hạt giống
không bị sâu bệnh hại tấn công trong quá trình
bảo quản, giúp tăng tỷ lệ nảy mầm, mọc đều
ngay cả trong điều kiện bất lợi như thiếu hoặc
thừa nước (Ahmed et al, 2001). Tuy nhiên,
biện pháp xử lý bằng hóa chất vẫn còn nhiều
hạn chế làm giảm khả năng tự đề kháng bệnh
của hạt giống, ảnh hưởng đến chất lượng của
nông sản và sức khỏe của người tiêu dùng,
ngoài ra, biện pháp này còn gây ô nhiễm môi
trường và để lại dư lượng trên hạt ngũ cốc
(Honglu và Guomei, 2008). Xu thế mới hiện
nay là hướng đến sử dụng các hợp chất tự
nhiên thân thiện với môi trường hoặc các
chủng vi sinh vật đối kháng cũng như dịch
chiết của chúng để tạo bao hạt giống bởi
màng bao sinh học mở ra nhiều triển vọng mới
như tăng cường tính kích kháng vi sinh vật gây
bệnh, tăng cường khả năng chống chịu với
điều kiện bất lợi của môi trường. (Pal và
Gardener, 2006; Zeng et al, 2012;
Chookhongkha et al, 2013).
Nanochitosan là dẫn xuất của chitosan.
Nanochitosan có kích thước siêu nhỏ (từ 10 đến
100nm) nên dễ dàng đi qua màng tế bào, có diện
tích và điện tích bề mặt cực lớn nên dễ dàng ức
chế các loại vi khuẩn, nấm bệnh (Chookhongkha
et al, 2013).
Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV – Số 2/2018
4
Ngoài ra các nhà khoa học cũng đã tìm ra
nhiều chủng vi khuẩn có khả năng kháng nấm
như B. subtilis, P. putida. Trong đó vi khuẩn P.
putida có khả năng đối kháng với nhiều loại vi
sinh vật gây bệnh (Trần Thị Thu Hà và cs, 2010).
Các nghiên cứu tạo bao hạt giống hiện nay
trên thế giới chủ yếu sử dụng các tác nhân sinh
học đơn lẻ, nghiên cứu của chúng tôi gồm các thí
nghiệm đơn lẻ và kết hợp giữa nanochitosan và
dịch chiết vi khuẩn đối kháng P. putida.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1 Vật liệu
- Hạt giống lúa TH5 được mua tại công ty
giống cây trồng Thừa Thiên Huế;
- Dung dịch nanochitosan được điều chế
theo phương pháp tạo gel ion (Nguyễn Cao
Cường và cs, 2014) và dịch chiết vi khuẩn đối
kháng P. putida được thu theo phương pháp
của Souza (2003).
- Chủng nấm mốc Aspergillus niger E1 được
phân lập từ hạt lúa bị bệnh (Nguyễn Cao Cường
và cs, 2017).
- Các hạt giống được tạo bao hạt như công
thức dưới đây, sau bảo quản 5 tháng được sử
dụng làm thí nghiệm.
2.2 Phƣơng pháp nghiên cứu
- Thời gian và địa điểm: Nghiên cứu được
thực hiện từ tháng 12/2016 đến 4/2017 tại nhà
lưới khoa Nông học, trường Đại học Nông lâm,
Đại học Huế.
- Vật liệu: Sử dụng đất phù sa và cát sạch phơi
khô và sàng mịn, trộn đều với nhau theo tỉ lệ 3:2.
Sau đó đóng vào bì nilong và hấp vô trùng (121
o
C
trong 20 phút). Sử dụng chậu nhựa, đường kính
chậu 15cm và chiều cao 8cm, mỗi chậu có 300g
hỗn hợp đất:cát (3:2) để bố trí thí nghiệm.
- Phương pháp bao hạt giống lúa: dung dịch
nanochitosan, dịch chiết vi khuẩn P. putida , dung
dịch hỗn hợp nanochitosan và dịch chiết vi khuẩn
P. putida được chuẩn bị sẵn. Hạt giống lúa được
làm sạch tạp chất được nhúng vào các dung dịch
trên. Sau đó được vớt ra, làm ráo và để khô tự
nhiên trong điều kiện phòng. Sau khi để ráo, hạt
giống lúa được xác định độ ẩm so với mẫu đối
chứng ban đầu trước khi tiến hành thí nghiệm.
Thí nghiệm ảnh hƣởng của bao hạt giống
lúa bằng nanochitosan và dịch chiết vi khuẩn
P. putida đến khả năng sinh trƣởng
Các công thức thí nghiệm bao hạt
giống lúa:
Công thức I: (Đối chứng): Không bao hạt
Công thức II: (Nanochitosan): Bao
nanochitosan 0,18%
Công thức III: (DC P. putida): Bao dịch chiết vi
khuẩn P. putida 18%
Công thức IV: (Nanochitosan + DC P. putida):
bao hỗn hợp nanochitosan 0,18% và dịch chiết vi
khuẩn P. putida 18%
Bố trí thí nghiệm: Gieo các hạt giống được
bao hạt vào chậu đã được chuẩn bị, mỗi chậu 15
hạt, mỗi chậu là 1 lần lặp lại và 3 lần lặp lại.
Thí nghiệm ảnh hưởng của bao hạt giống lúa
bằng nanochitosan và dịch chiết vi khuẩn P.
putida đến khả năng kháng nấm Aspergillus niger
(A. niger) trong điều kiện lây bệnh nhân tạo sử
dụng chủng nấm A. niger E1 (Nguyễn Cao
Cường và cs, 2017).
Trộn đều thạch nấm A. niger vào hỗn hợp đất-
cát đã được hấp vô trùng (30gram thạch
nấm/3000gram đất-cát). Cho hỗn hợp vào các
chậu nhựa thí nghiệm đã chuẩn bị, gieo các hạt
giống lúa theo các
Chỉ tiêu theo dõi: Tỉ lệ nảy mầm (%), chiều cao
cây (cm), số lá/cây (lá), tỉ lệ bệnh trước nảy mầm
(%), tỉ lệ bệnh sau nảy mầm (%),AUDPC (Đường
cong tiến triển bệnh - Area Under Disease Progress
Curve) (Campell và Madden, 1990)
Trong đó:
AUDPC: đường cong tiến triển chung của bệnh
yi, yi+1: đường ính vết bệnh trong lần theo dõi
thứ i và thứ i+1 (cm)
ti, ti+1: thời gian theo dõi bệnh thứ i và thứ
i+1 (h)
n: tổng số lần theo dõi
Số liệu được thu thập và xử lý bằng phần mềm
thống kê chuyên dụng Statistix 10.0.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Ảnh hƣởng của bao hạt giống lúa bằng
nanochitosan và dịch chiết vi khuẩn P. putida
đến khả năng nảy mầm và sinh trƣởng
Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV – Số 2/2018
5
Tỉ lệ nảy mầm ở các công thức tăng dần theo
thời gian và đạt cực đại vào ngày thứ 7, đặc biệt
là công thức nanochitosan + DC P. putida có tỉ lệ
nảy mầm cao nhất qua các ngày theo dõi (đạt
91,11 %), tăng 24,44 % so với công thức đối
chứng (66,67%). Công thức nanochitosan
(77,78%) và công thức DC P. putida (84,44%)
đều có tỉ lệ nảy mầm cao hơn so với công thức
đối chứng (bảng 1).
Bảng 1. Ảnh hƣởng của bao hạt giống lúa bằng nanochitosan
và dịch chiết vi khuẩn P. Putida đến tỉ lệ nảy mầm
Công thức
Tỉ lệ nảy mầm (%)
4NSG 5NSG 6NSG 7NSG
Đối chứng 31,11
a
35,33
b
55,55
b
66,67
b
Nanochitosan 33,33
a
40,00
ab
68,89
ab
77,78
ab
DC P. putida 33,33
a
42,22
ab
73,33
a
84,44
a
Nanochitosan + DC P. putida 40,00
a
51,11
a
80,00
a
91,11
a
Ghi chú: NSG – Ngày sau gieo
Trong cùng một cột, các chữ cái hác nhau thể hiện sự sai hác có ý nghĩa thống ê với p<0,05
Như vậy, có sự ảnh hưởng của bao hạt
nanochitosan và dịch chiết vi khuẩn P. putida lên
sự nảy mầm của hạt lúa. Đặc biệt đối với hạt được
bao hỗn hợp nanochitosan và dịch chiết vi khuẩn
P. putida có tỉ lệ nảy mầm vượt trội hơn hẳn so với
hạt không được bao gì. Kết quả của chúng tôi phù
hợp với nghiên cứu của một số tác giả trên thế giới,
khi hạt giống bao bằng chitosan có thể làm tăng tốc
độ nảy mầm và cải thiện khả năng chống chịu
stress của cây lúa lai (Ruan và Xue, 2002); hạt
ngâm chitosan làm tăng năng lượng nảy mầm, tỷ lệ
nảy mầm, hoạt tính của lipase, acid gibberellic
(GA3) và acid indolo acetic (IAA) trong đậu phộng
(Zhou và cs, 2002); các Rhizobacteria tăng trưởng
thúc đẩy sự nảy mầm, tăng sinh khối và năng suất
ở ngô (Kotchoni và Moussa, 2013).
Bảng 2. Ảnh hƣởng của bao hạt giống lúa bằng nanochitosan
và dịch chiết vi khuẩn P. putida đến tốc độ ra lá
Công thức
Tốc độ ra lá (lá)
5NSG 10NSG 15NSG 20NSG
Đối chứng 1,93
b
2,58
b
3,26
c
4,03
c
Nanochitosan 2,06
ab
3,04
ab
3,75
b
4,44
b
DC P. putida 2,18
a
3,12
ab
3,83
b
4,45
b
Nanochitosan + DC P. putida 2,22
a
3,26
a
4,21
a
5,01
a
Ghi chú: NSG – Ngày sau gieo
Trong cùng một cột, các chữ cái hác nhau thể hiện sự sai hác có ý nghĩa thống ê với p<0,05
Sau 5 ngày đầu tiên, số lá ở các công thức
biến động từ 1,93 - 2,22 lá. Sau 10 ngày, số
lá cao nhất ở công thức nanochitosan + DC P.
putida (3,26 lá) và thấp nhất ở công thức đối
chứng (2,58 lá). Sau 20 ngày theo dõi, số lá
biến động từ 4,03 – 5,01 lá; sự sai khác có ý
nghĩa đối với công thức nanochitosan + DC P.
putida (4,03 lá) và công thức đối chứng (5,01
lá); công thức nanochitosan (4,44 lá) và công
thức DC P. putida (4,45 lá) đều có số lá nhiều
hơn so với công thức đối chứng (Bảng 2).
Như vậy, cây lúa từ hạt được bao hạt bằng
nanochitosan và dịch chiết vi khuẩn P. putida
có tốc độ ra lá nhanh hơn so với cây lúa từ
Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV – Số 2/2018
6
hạt không được bao gì. Đặc biệt đối với hạt
được bao hỗn hợp nanochitosan và dịch chiết
vi khuẩn P. putida, cây lúa có tốc độ ra lá
nhanh nhất.
Bảng 3. Ảnh hƣởng của bao hạt giống lúa bằng nanochitosan
và dịch chiết vi khuẩn P. putida đến chiều cao cây
Công thức
Chiều cao cây (cm)
5NSG 10NSG 15NSG 20NSG
Đối chứng 1,59
a
11,80
a
14,75
b
16,69
c
Nanochitosan 3,87
a
16,07
a
16,14
ab
17,96
bc
DC P. putida 3,95
a
13,69
a
16,98
ab
19,23
ab
Nanochitosan + DC P. putida 2,87
a
14,31
a
17,98
a
20,17
a
Ghi chú: NSG – Ngày sau gieo
Trong cùng một cột, các chữ cái hác nhau thể hiện sự sai hác có ý nghĩa thống ê với p<0,05
Sau 5 ngày gieo, có sự chênh lệch về chiều
cao cây lúa ở các công thức (1,59 – 2,85 cm).
Sau 10 ngày gieo, cây lúa tăng trưởng mạnh về
chiều cao; các công thức nanochitosan (16,07
cm), công thức DC P. putida (13,69 cm), công
thức nanochitosan + DC P. putida (14,31 cm)
đều có chiều cao vượt trội hơn so với công thức
Đối chứng (11,80 cm) tuy nhiên không có sự sai
khác thống kê (Bảng 3). Tuy nhiên, 15 ngày sau
gieo, chiều cao cây biến động từ 14,75 – 17,98
cm; trong đó chiều cao cây ở công thức
nanochitosan + DC P. putida (17,98 cm) vượt trội
hơn hẳn so với công thức đối chứng (14,75 cm).
Ở lần đo sau 20 ngày, chiều cao cây ở các công
thức có sự khác nhau, cao nhất là công thức
nanochitosan + DC P. putida (20,17 cm), thấp
nhất là công thức đối chứng (16,69 cm), các
công thức còn lại đều có chiều cao cao hơn công
thức đối chứng (bảng 4).
Cây lúa từ hạt giống được bao nanochitosan
và dịch chiết P. putida có khả năng nảy mầm,
sinh trưởng, phát triển tốt hơn so với cây lúa từ
hạt giống không được bao gì, đặc biệt là hạt
được bao hỗn hợp nanochitosan và DC P. putida
cho kết quả nảy mầm, chiều cao, số lá tốt nhất.
Kết quả này cũng phù hợp với một số nghiên
cứu khác. Sự kết hợp của chitosan và vi khuẩn
rhizobacteria (A. lipoferum, P. fluorescens, và P.
putida) thúc đẩy sự nảy mầm, tăng trưởng ở cây
ngô; sự kết hợp này có hiệu quả hơn so với
chitosan và vi khuẩn riêng biệt (Agbodjato và cs,
2016). Hoạt tính peroxidase và indol 3-axetic axit
(IAA) tăng đã được phát hiện trên bề mặt rễ của
hạt cây đậu (Phaseolus vulgaris) được cấy với
một vi khuẩn đất, P. putida (Albert và Anderson,
1987). Hạt ngâm chitosan làm tăng năng lượng
nảy mầm, tỷ lệ nảy mầm, hoạt tính của lipase,
acid gibberellic (GA3) và acid indolo acetic (IAA)
trong đậu phộng (Zho và cs, 2002). Chitosan có
khả năng hòa hợp sinh học, chính vì vậy sự kết
hợp của nanochitosan và vi khuẩn P. putida làm
tăng tỷ lệ nảy mầm, kích thích sinh trưởng tốt
hơn so với sử dụng từng tác nhân đơn lẻ.
3.2 Ảnh hƣởng của vỏ bao hạt giồng lúa
bằng nanochitosan và dịch chiết vi khuẩn P.
putida đến khả năng kháng nấm A. niger.
Sau 4 ngày gieo thì cây bắt đầu nảy mầm và
có dấu hiệu nấm bệnh xuất hiện gây hại ở hạt lúa
tại các vị trí gieo hạt, dấu hiệu xuất hiện bệnh
giảm dần từ ngày thứ 4 cho đến hết ngày thứ 10.
Công thức Nanochitosan + DC P. putida có tỉ lệ
bệnh thấp nhất. Đường cong biến thiên tỉ lệ bệnh
(AUDPC) biểu thị sự tích lũy cường độ bệnh qua
các thời kỳ điều tra. Công thức đối chứng có chỉ
số AUDPC cao nhất (188,89) và sai khác có ý
nghĩa thống kê với công thức nanochitosan +DC
P. putida (44,44) (Bảng 4).
Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV – Số 2/2018
7
Bảng 4. Ảnh hƣởng của bao hạt giống lúa bằng nanochitosan
và dịch chiết vi khuẩn P. putida đến tỉ lệ bệnh trƣớc nảy mầm
Công thức
Tỉ lệ bệnh (%) AUDPC
4NSG 6NSG 8NSG 10NSG
Đối chứng 42,22 33,33 28,89 22,22 188,89
a
Nanochitosan 40,00 37,78 31,11 22,22 200,00
a
DC P. putida 17,78 28,89 22,22 17,78 137,78
a
Nanochitosan + DC P. putida 13,33 8,89 4,44 4,44 44,44
b
Ghi chú: NSG – Ngày sau gieo
Trong cùng một cột, các chữ cái hác nhau thể hiện sự sai hác có ý nghĩa thống ê với p<0,05
Sau 10 ngày gieo, bắt đầu xuất hiện triệu
chứng bệnh sau nảy nầm, tỉ lệ bệnh tăng dần
qua các ngày, nấm bệnh xuất hiện làm cho
cây còi cọc, thối gốc, vàng lá không phát
triển. Các công thức bao hạt đều có tỉ lệ
bệnh thấp hơn đối chứng, đặc biệt là công
thức nanochitosan+ DC P. putida có tỉ lệ
bệnh thấp nhất. Công thức đối chứng có chỉ
số AUDPC cao nhất (177,76), sự sai khác
giữa công thức đối chứng và công thức
nanochitosan+ DC P. putida có ý nghĩa khi
phân tích thống kê (bảng 5).
Bảng 5. Ảnh hƣởng của bao hạt giống lúa bằng nanochitosan
và dịch chiết vi khuẩn P. putida đến tỉ lệ bệnh sau nảy mầm
Công thức
Tỉ lệ bệnh (%)
AUDPC
10NSG 15NSG 20NSG 25NSG
Đối chứng 6,67 11,11 13,33 15,56 177,76
a
Nanochitosan 6,67 6,67 8,89 11,11 122,25
ab
DC P. putida 4,44 4,44 6,67 8,89 88,86
b
Nanochitosan + DC P. putida 2,22 2,22 4,44 4,44 49,95
b
Ghi chú: NSG – Ngày sau gieo
Trong cùng một cột, các chữ cái hác nhau thể hiện sự sai hác có ý nghĩa thống ê với p<0,05
Từ kết quả trên cho thấy hạt giống lúa được
bao hạt bằng hỗn hợp nanochitosan và DC P.
putida là công thức có khả năng kháng bệnh tốt
nhất so với bao hạt đơn lẻ. Kết quả này phù
hợp với một số nghiên cứu về khả năng kháng
bệnh của nanochitosan và dịch chiết vi khuẩn P.
putida trên thế giới, Manikandan và cs (2016)
đã chứng minh hạt nanochitosan có tiềm năng
ngăn chặn bệnh đạo ôn của lúa do nấm
Pyricularia grisea; Các chất sinh học được sản
xuất bởi P. putida 267 cần thiết trong việc hình
thành màng sinh học và có khả năng diệt
khuẩn, kháng nấm (Kruijt và cs, 2009); một số
loài P. putida sản xuất enzyme, phytohormone
auxin và là chất đối kháng với nấm gây bệnh
thực vật (Egamberdiyeva, 2005); P. putida biến
đổi gen đã tạo ra các hợp chất có tác dụng
kháng nấm, kháng khuẩn cho vùng rễ của lúa
mì (Peter và cs, 2002)
4. KẾT LUẬN
Bao hạt giống lúa bằng hỗn hợp nanochitosan
và dịch chiết vi khuẩn đối kháng P. putida làm
tăng tỷ lệ nảy mầm lên 91,11% cao hơn so
với đối chứng (66,67%), tốc độ ra lá trung
bình nhanh hơn đối chứng 0,98 lá và làm tăng
chiều cao lên 20,17cm cao hơn so với đối
chứng 3,48cm.
Kết quả nghiên cứu khoa học BVTV – Số 2/2018
8
Khả năng kháng bệnh của các cây lúa bao
hạt bằng hỗn hợp nanochitosan và dịch chiết vi
khuẩn P. putida cao hơn so với bao hạt giống
bằng tác nhân sinh học đơn lẻ và đối chứng, hạt
giống lúa bao hỗn hợp nanochitosan và dịch
chiết vi khuẩn đối kháng P. putida có chỉ số
AUDPC (44,44 và 49,95) thấp hơn so với ĐC
(188,89 và 177,76).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Agbodjato AN, Noumavo AP, Adjanohoun A,
Agbessi L, and Lamine BM, 2016. Synergistic
Effects of Plant Growth Promoting Rhizobacteria
and Chitosan on In Vitro Seeds Germination,
Greenhouse Growth, and Nutrient Uptake of Maize
(Zea mays L.). Biotechnol Res Int, 7830182
2. Ahmed MM, Hag FM, Wahab FS, Salih SF,
2001. Feeding strategies during dry summer for
lactating desert goats in a rainfed area under tropical
conditions. Small Rumin. Res, 39, pp. 161-166.
3. Albert F và Anderson A, 1987. The Effect of
Pseudomonas putida Colonization on Root Surface
Peroxidase, Plant Physiol, 85(2),pp. 537–541.
4. Campbell CL and Madden LV., 1990.
Introduction to Plant Disease Epidemiology. John
Wiley & Sons, New York. 532 p
5. Chookhongkha N, Sopodilok T,
Photchanachai S., 2013. Effect of chitosan and
chitosan nanoparticles on fungal growth and chilli
seed quality, International Society for Horticultural
Science, Acta Horticurae, 973, ISHS, pp.231-238.
6. Egamberdiyeva D, 2005. Characterization of
Pseudomonas Species Isolated from the
Rhizosphere of Plants Grown in Serozem Soil,
Semi-Arid Region of Uzbekistan”, The Scientific
World JOURNAL,5, pp. 501- 509.
7. Honglu X, Guomei X., 2008. Suspention
property of Gemini surfactant in seed coating agent,
J. Disp. Sci. Technol, 29 (4), pp 496 – 501.
8. Kotchoni OS và Moussa LB, 2013. Effect of
Different Plant Growth Promoting Rhizobacteria on
Maize Seed Germination and Seedling
Development, American Journal of Plant Sciences,
Vol.4 No.5.
9. Kruijt M, Ha Tran, Jos M. Raaijmakers, 2009.
Functional, genetic and chemical characterization of
biosurfactants produced by plant growth-promoting
Pseudomonas putida 26, Journal of Applied
Microbiology 107 (2). pp. 546 - 556.
10. Manikandan A, Sathiyabama M., 2016.
Preparation of Chitosan nanoparticles and its effect
on detached rice leaves infected with Pyricularia
grisea,Int J Biol Macromol,84,pp58-61.
11. Nguyễn Cao Cường, Lê Thanh Long,
Nguyễn Thị Thủy Tiên, Trần Bích Lam, 2014.
Nghiên cứu ứng dụng nanochitosan trong phòng trừ
bệnh thán thư hại ớt sau thu hoạch, Tạp chí khoa
học và công nghệ, 52(5C), tr. 222-228.
12. Pal KK & Gardener BM. Biological Control of
Plant Pathogens. The plant Health Instructor. Doi:
10. 1094/PHI-A-2006-1117-02.
13. Peter AHM et al, 2002. Effects of
Pseudomonas putida modified to produce
phenazine-1-carboxylic acid and 2,4-
diacetylphloroglucinol on the microflora of field
grown wheat, Institute of Biology, Antonie van
Leeuwenhoek,81, pp. 617 - 624.
14. Ruan SL, Xue QZ, 2002. Effects of chitosan
coating on seed germination and salt-tolerance of
seedlings in hybrid rice (Oryza sativa L.) Acta Agron
Sinica, 28, pp. 803–808.
15. Souza de J. T, De Boer M, De Waard P, Van
Beek TA, Raaijmakers JM, 2003. Biochemical,
genetic and zoosporicidal properties of cyclic
lipopeptide surfactants produced by Pseudomonas
fluorescens. Applied and Environmental
Microbiology.
16. Trần Thị Thu Hà, Đinh Thị Phương, Đào Thị
Hằng, Nguyễn Vĩnh Trường, Phạm Lê Hoàng,
2010. Ảnh hưởng của vi huẩn đối háng
Pseudomonas đến bệnh héo rũ gốc mốc đen
(Aspergillus niger Van Tiegh) trên cây lạc và hả
năng tồn tại của chúng, Trường Đại học Nông Lâm
Huế, Đại Học Huế, Tạp chí công nghệ sinh học
8(3B), tr.1299-1304.
17. Zeng D, Luo X, Tu R, 2012. Application of
bioactive coatings based on chitosan for soybean
seed protection. International Journal of
Carbohydrate Chemistry ,104565.
18. Zhou YG; Yang YD; Qi YG; Zhang ZM; Wang
XJ; Hu XJ, 2002. Effects of chitosan on some
physiological activity in germinating seed of
peanut. J Peanut Sci, 31, pp. 22–25.
Phản biện: TS. Hà Minh Thanh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_bao_hat_giong_lua_bang_nanochitosan_va_dich_ch.pdf