Kết quả ở bảng 5 chứng tỏ việc bổ sung thêm
phân hữu cơ và biochar đã giúp bắp gia tăng năng
suất. Điều này có thể do phân bón hữu cơ và biochar
đã giúp cải thiện tính chất lý - hóa học đất, giúp gia
tăng tiến trình khoáng hóa chất dinh dưỡng trong
đất, giúp đất được tơi xốp, tăng khả năng giữ nước,
thoát nước và hấp thu dinh dưỡng của cây trồng.
Bên cạnh đó, bản thân hai vật liệu hữu cơ (bã bùn
mía và biochar) có chứa một lượng lớn N,P,K sẽ
cung cấp thêm dinh dưỡng NPK cho đất, góp phần
gia tăng năng suất. Kết quả nghiên cứu cũng cho
thấy cung cấp phân hữu cơ và biochar có tác dụng
gia tăng đáng kể năng suất bắp trồng trên đất Tam
Bình, Vĩnh Long hơn so với đất canh tác bắp tại An
Phú, An Giang. Cụ thể, năng suất bắp tăng 40 - 60%
ở đất canh tác bắp tại Tam Bình, Vĩnh Long, và đất
canh tác bắp tại An Phú, An Giang là 1 - 9%. Một
trong những nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về
năng suất bắp giữa hai vùng đất thí nghiệm là do đất
thí nghiệm tại An Phú, An Giang nằm trong vùng
đê bao thâm canh bắp lai, không bị ảnh hưởng của
lũ nên việc khai thác hệ số sử dụng đất trong vùng
đê bao được nông dân gia tăng tối đa, trong canh
tác hầu hết nông dân không quan tâm đến việc bổ
sung thêm chất hữu cơ cho đất, nguồn nước tưới
cho cây bắp chủ yếu nhờ vào nước trời hoặc nước
giếng, nông dân chỉ cung cấp nước khi thấy đất có
biểu hiện khô. Kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng
của đê bao lên chất lượng đất cho thấy vùng phù
sa không ảnh hưởng bởi lũ ở An Giang của Dương
Minh Viễn và cộng tác viên (2010) cho thấy có sự
giảm thấp chất lượng về hàm lượng kali trao đổi và
kẽm trong đất; chứng tỏ, đất thâm canh bắp lai tại
An Phú, An Giang có thể thiếu K, Ca, Mg. Ngược
lại, đất thí nghiệm trồng bắp tại Tam Bình, Vĩnh
Long là đất canh tác lúa đã được chuyển sang canh
tác rau màu (đậu nành, hành lá và hoặc để trồng cỏ
phục vụ chăn nuôi) nông dân tại đây chỉ mới bắt
đầu trồng bắp được 1 - 2 vụ, nguồn nước tưới cho
cây bắp là nước sông, trong suốt quá trình trồng bắp
không xảy ra tình trạng thiếu nguồn nước tưới.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của bón phân hữu cơ và Biochar đến đặc tính nước trong đất và năng suất bắp lai trồng trên đất phù sa ở Vĩnh Long và An Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
39
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019
plants at tillering stage increased the grain/pot weight from 9.62 to 32.77% compared with the control and spraying
brassinolide with concentration of 0.1 mg/L or 0.2 mg/L improved the grain/pot weight best. Spraying brassinolide
on salinized rice plants at panicle initiation stage increased the grain/pot weight from 27.97 - 58.98% compared with
the control and brassinolide concentration of 0.10 mg/L improved grain weight/pot highest. Spraying brassinolide
on salinized rice plants at heading stage increased the grain/pot weight from 28.88 - 54.79% in comparison with the
control. The brassinolide concentration of 0.1 mg/L helped maintain the best grain/pot weight.
Keywords: Brassinolide, salt soil, OM251 rice variety
Ngày nhận bài: 18/12/2018
Ngày phản biện: 24/12/2018
Người phản biện: TS. Vũ Tiến Khang
Ngày duyệt đăng: 11/1/2019
1 Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng - Đại học Cần Thơ
ẢNH HƯỞNG CỦA BÓN PHÂN HỮU CƠ VÀ BIOCHAR
ĐẾN ĐẶC TÍNH NƯỚC TRONG ĐẤT VÀ NĂNG SUẤT BẮP LAI
TRỒNG TRÊN ĐẤT PHÙ SA Ở VĨNH LONG VÀ AN GIANG
Tất Anh Thư1, Trần Bá Linh1, Nguyễn Văn Quí1
TÓM TẮT
Thí nghiệm được tiến hành trên hai vùng đất phù sa không bồi canh tác bắp lai là Tam Bình - Vĩnh Long và An
Phú - An Giang nhằm đánh giá ảnh hưởng của phân bón hữu cơ, than sinh học (biochar) đến đặc tính nước trong
đất, sự sinh trưởng và năng suất bắp lai. Thí nghiệm được bố trí theo khối hoàn toàn ngẫu nhiên (RCBD), với 4 lần
lặp lại. Kết quả thí nghiệm cho thấy cung cấp 10 tấn biochar/ha, 5 tấn phân hữu cơ/ha và bón 5 tấn phân hữu cơ kết
hợp 10 tấn biochar cho đất giúp gia tăng độ xốp trong đất, lượng nước thủy dung ngoài đồng, lượng nước điểm héo
và lượng nước hữu dụng cho cây trồng cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức đối chứng không
bón phân hữu cơ và biochar. Bón 5 tấn phân hữu cơ kết hợp với 10 tấn biochar/ha cho năng suất bắp cao nhất ở cả
2 điểm nghiên cứu, cụ thể là 12,29 tấn hạt/ha ở Tam Bình, Vĩnh Long và 8,63 tấn hạt/ha ở An Phú, An Giang. Kết
quả nghiên cứu cho thấy việc bón phân hữu cơ và biochar trên đất Tam Bình - Vĩnh Long cải thiện đặc tính đất tốt
hơn so với đất An Phú - An Giang.
Từ khóa: Bắp lai, biochar, phân hữu cơ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cây bắp là cây trồng cạn rất nhạy cảm với sự
thiếu nước, tuy nhiên mức độ thiệt hại về năng
suất sẽ phụ thuộc vào giai đoạn mà cây bị thiếu
nước (Raemaekers, 2001). Các nghiên cứu gần đây
của Arora (2004) cho thấy một khi được cung cấp
nước đầy đủ, năng suất bắp trung bình có thể đạt
đến 4.000 kg/ha. Ngược lại, nếu cây bắp không được
cung cấp đủ nước thì năng suất có thể giảm xuống
còn 1.400 kg/ha hoặc thấp hơn. Theo Khalili và cộng
tác viên (2013), khả năng giữ nước của đất đóng một
vai trò quan trọng đối với tăng trưởng của cây bắp
thông qua tác động đến các quá trình sinh lý và sinh
hóa diễn ra trong cây trồng, là một trong các chỉ số
dùng để đánh giá chất lượng đất và sức sản xuất của
đất. Khả năng giữ và cung cấp nước của một loại
đất tùy thuộc vào các đặc tính khác nhau của đất
như thành phần cơ giới, độ xốp và cấu trúc của
đất, hàm lượng chất hữu cơ và biochar (Marcus và
cộng tác viên, 2014; Minasny and Mcbratney, 2018).
Theo Atkinson và cộng tác viên (2010), biochar rất
xốp, khi được bón cho đất có thể giúp cải thiện một
số đặc tính vật lý đất như tổng độ xốp, sự phân bố
cấp hạt, dung trọng đất, ẩm độ đất, nước hữu dụng
cho cây trồng, khả năng giữ nước và thoát nước của
đất. Bryant (2015) kết luận rằng cứ 1% chất hữu cơ
có trong đất giúp đất giữ được khoảng 20.000 lít
nước/ha. Bổ sung thêm phân hữu cơ hoặc biochar
giúp tăng lượng nước trong đất do các vật liệu phân
hữu cơ, biochar có khả năng giữ được nhiều nước
hơn từ mưa hoặc tưới trong điều kiện mưa ít hoặc
khô hạn, giúp giảm chi phí tưới nước, ổn định năng
suất cây trồng. Bên cạnh đó, cung cấp biochar và
phân hữu cơ vào đất còn được xem như là một chiến
lược duy trì độ phì nhiêu đất. Do đó, nghiên cứu
được thực hiện nhằm mục đích đánh giả hiệu quả
của việc cung cấp biochar và phân hữu cơ đến đặc
tính nước của đất và năng suất bắp lai được thực
hiện làm cơ sở cho việc khuyến cáo sử dụng phân
bón hữu cơ và biochar trong tương lai.
40
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Giống bắp lai NK7328 do công ty Syngenta cung
cấp được sử dụng trong nghiên cứu, đây là giống bắp
lai có thời gian sinh trưởng trung bình khoảng 100 -
105 ngày, có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt; cứng
cây, màu hạt đẹp (màu vàng cam), lõi trái nhỏ.
- Phân bón sử dụng trong thí nghiệm bao gồm
phân Urea (46% N), Super Lân (16% P2O5), Kali
clorua (60% K2O). Nguồn phân hữu cơ dùng trong
thí nghiệm là phân hữu cơ ủ bã bùn mía, nguồn
bã bùn mía được thu gom từ Nhà máy Mía đường
Phụng Hiệp - Hậu Giang; biochar dùng trong thí
nghiệm được sản xuất từ vỏ trấu, nhiệt phân ở điều
kiện nhiệt độ 400 - 5000C trong điều kiện yếm khí.
Thành phần dinh dưỡng của phân hữu cơ bã bùn
mía và biochar vỏ trấu dùng trong thí nghiệm được
trình bày tại bảng 1.
Bảng 1. Thành phần dinh dưỡng của biochar vỏ trấu
và phân hữu cơ ủ từ bã bùn mía
STT Chỉ tiêu phân tích
Đơn
vị
Kết quả phân tích
Biochar
vỏ trấu
Phân hữu
cơ bã bùn
mía
1 pHH20 - 9,92 ± 0,04 8,33 ± 0,08
2 Chất hữu cơ % OC 36,7 ± 0,44 30,0 ± 0,72
3 Đạm tổng số % N 0,86 ± 0,42 2,50 ± 0,18
4 Lân tổng số % P2O5 1,36 ± 0,41 3,00 ± 0,63
5 Kali tổng số % K2O 1,50 ± 0,66 1,68 ± 0,50
6 Độ ẩm % 3,00 ± 0,60 25,0 ± 1,50
- Bộ dụng cụ thu mẫu đất, hệ thống hộp cát (sand
box) và nồi nén áp suất của Phòng Thí nghiệm Hóa,
Lý và Phì nhiêu đất, Bộ môn Khoa học Đất, Khoa
Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng, Trường Đại học
Cần Thơ.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức phân bón được
bố trí theo thể thức khối hoàn toàn ngẫu nhiên
(RCBD), với 4 lần lặp lại. Diện tích mỗi ô thí nghiệm
là 120 m2, không kể rãnh luống. Các nghiệm thức
trong thí nghiệm được thể hiện ở bảng 2.
Bảng 2. Nghiệm thức thí nghiệm
STT Nghiệm thức Ký hiệu
1 NPK (200 N - 90 P2O5 - 80 K2O) (kg/ha) PHC0B0
2 NPK + 10 tấn biochar/ha PHC0B10
3 NPK + 5 tấn phân hữu cơ/ha PHC5B0
4 NPK + (5 tấn phân hữu cơ + 10 tấn biochar)/ha PHC5B10
2.2.2. Biện pháp canh tác
- Bắp được gieo với mật độ khoảng 95.000 cây/ha
hàng cách hàng 70 cm và cây cách cây 30 cm, mỗi
hốc gieo 3 - 4 hạt, độ sâu gieo 3 - 4 cm. Khi bắp được
2 - 3 lá thật, tỉa thưa, chỉ để lại 02 cây mỗi hốc.
- Phân hữu cơ, biochar và phân lân được bón
lót toàn bộ trước khi gieo hạt 1 tuần. Phân đạm và
phân kali được dùng để bón thúc. Bón thúc được
chia làm ba lần bón với các thời điểm như sau: Bón
thúc lần 1 (7 - 10 ngày sau khi gieo, cây được 3 - 4 lá):
1/3 lượng N và ½ lượng kali. Thúc lần 2 (20 - 25 ngày
sau khi gieo, cây được 6 -7 lá): 1/3 lượng N và thúc lần 3
(40 - 45 ngày sau khi gieo, cây xoáy nõn): Toàn bộ
lượng phân bón còn lại (1/3 N và ½ K20).
- Trong quá trình canh tác, sâu bệnh và cỏ dại
được kiểm soát thông qua sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật. Do thí nghiệm được trồng trong thời gian
mưa nên nguồn nước chủ yếu là nước mưa và nước
sông, hoặc nước giếng (Bắp An Giang). Nông dân
chỉ cung cấp nước khi thấy đất khô, nước được dẫn
vào các rãnh nước giữa các ô thí nghiệm.
2.2.3. Thu thập và phân tích số liệu
a) Mẫu đất
Mẫu đất được thu trước và sau khi thí nghiệm để
phân tích đặc tích lý - hóa đất. Trước khi thí nghiệm,
mẫu đất được thu ở 0 - 20 cm, sau khi thu hoạch
mẫu đất được thu ở 2 độ sâu khác nhau: 0 - 20 cm và
20 - 40 cm. Mẫu đất xáo trộn được dùng để phân tích
thành phần cơ giới và chất hữu cơ, trong khi mẫu đất
không xáo trộn (thu bằng ống kim loại hình trụ hay
ống ring có thể tích 98,125 cm3) được sử dụng để
phân tích một số đặc tính vật lý đất gồm: dung trọng,
đại tế khổng, vi tế khổng, ẩm độ đất tại điểm bão
hòa, thủy dung và điểm héo từ đó tính được tổng độ
xốp của đất và tổng lượng nước hữu dụng đối với
cây trồng.
Phương pháp phân tích mẫu đất: Chất hữu cơ
(CHC) trong đất được xác định theo phương pháp
Walkley- Black. Dung trọng đất được xác định theo
phương pháp trọng lực dựa trên cơ sở cân khối
lượng đất khô (sấy ở nhiệt độ 105oC) trên thể tích
41
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019
của mẫu đất thu ở điều kiện tự nhiên, không bị
xáo trộn. Thành phần cấp hạt được phân tích theo
phương pháp pipette.
Đại tế khổng (macroporosity) và vi tế khổng
(microporosity): Đại tế khổng, vi tế khổng trong đất
được xác định thông qua hệ thống hộp cát (hệ thống
sandbox). Đầu tiên mẫu đất sau khi thu về tiến hành
dùng vải bịt kín 1 đầu ring theo chiều ring thu mẫu.
Ngâm ring vào trong khay có chứa nước, cho nước
ngập ½ ống, để qua đêm (12 h) đến khi đất bão hòa
nước. Bước tiếp theo lấy ống ra và cho vào hệ thống
hộp cát, sau đó cho nước vào tiếp tục bão hòa 1 ngày,
rồi tiến hành hạ cột nước ở giá trị –10 kPa để xác định
khả năng giữ nước của đất (ẩm độ thủy dung). Sau 5
ngày khi hạ cột nước xuống mực – 10 kPa, tiến hành
lấy ống ring ra cân và ghi nhận các giá trị. Theo kết
quả nghiên cứu của Jarvis và cộng tác viên (2002) các
đại tế khổng có đường kính > 0,3 mm được xác định
bằng hiệu số giữa tổng tế khổng (lượng nước bão
hòa của đất) và vi tế khổng có đường kính < 0,3 mm
(lượng nước thể tích của đất ở giá trị –10 kPa). Đại
tế khổng (MacPOR: m3/m3) chính là tổng tế khổng
(tương ứng với hàm lượng nước bão hòa trong
đất: m3/m3) trừ đi vi tế khổng (m3/m3). Ẩm độ của
các mẫu đất thu tại hai điểm thí nghiệm được đo
tại các lực nén khác nhau như: Ẩm độ thuỷ dung
(Field capacity - FC) phân tích theo phương pháp hệ
thống hộp cát (sand box) pF = 2. Ẩm độ điểm héo
(permanent wilting point - PWP) theo phương pháp
hệ thống nồi nén áp suất với áp lực 15 bars
(pF = 4,2). Ẩm độ hữu dụng (available water capacity
- AWC) là ẩm độ giữa ẩm độ thủy dung (áp lực –10
kPa) và ẩm độ điểm héo, hay AWC = ẩm độ thủy
dung – ẩm độ điểm héo.
b) Năng suất hạt
Thu hoạch toàn bộ số trái của 4 hàng có trong ô
thí nghiệm, mỗi hàng dài 3 m, ngoại trừ hàng biên,
lột vỏ và phơi khô khoảng 1 - 2 nắng, rồi tách hạt.
Cân trọng lượng hạt, ẩm độ hạt và quy đổi về ẩm độ
chuẩn 13%. Sau đó qui ra năng suất tấn/ha.
2.2.4. Xử lí số liệu
Số liệu thí nghiệm đươc tính toán, xử lý bằng
phần mềm Microsoft Excel 2013 và được phân tích
thống kê bằng phần mềm SPSS Statistics 22, sử dụng
kiểm định Ducan với mức ý nghĩa 5%.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thí nghiệm canh tác bắp lai được thực hiện vào
vụ Thu Đông 2016 (tháng 6 - 9/2016) trên 02 vùng
đất canh tác bắp lai của xã Loan Mỹ, huyện Tam
Bình, tỉnh Vĩnh Long và xã Quốc Thái, huyện An
Phú, tỉnh An Giang. Đất nghiên cứu tại hai địa điểm
đều thuộc nhóm đất phù sa không bồi (Gleyic -
Fluvisol phân loại theo FAO, 1998).
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tính chất đất trước khi bố trí thí nghiệm
Theo phân loại của USDA/Soil Taxonomy và kết
quả phân tích đất (Bảng 2) cho thấy sa cấu đất của
hai ruộng thí nghiệm là thịt nhẹ pha sét. Cấp hạt
chủ yếu là thịt (chiếm từ 51% đến 55%), sét chiếm
khoảng từ 28,0 % đến 33,0 %, cấp hạt cát chiếm tỷ lệ
khá thấp so với thịt và sét (khoảng từ 11,0 - 21,0 %).
Cả hai vùng đất thí nghiệm có dung trọng lớn hơn
1,30 g/cm3. Theo Reynolds và cộng tác viên (2003),
đất có dung trọng lớn hơn 1,2 g/cm3 có thể cản trở
khả năng xuyên thấu của rễ vào sâu trong đất và độ
thoáng khí của đất thường giảm. Kết quả nghiên cứu
của Pravin và cộng tác viên (2013) ghi nhận đất có
dung trọng cao thường có hàm lượng chất hữu cơ
thấp, độ xốp thấp và độ nén chặt cao.
Bảng 3. Đặc tính hóa-lý đất đất thí nghiệm
Địa điểm
nghiên cứu
Sa cấu
Dung trọng
(g/cm3)
Chất hữu cơ
(%)% Cát % Thịt % Sét Tên sa cấu (USDA)
Tam Bình -
Vĩnh Long 11,7 ± 0,10 55,1 ± 0,95 33,2 ± 0,86
Thịt trung
bình pha sét 1,32 ± 0,02 1,51 ± 0,01
An Phú - An
Giang 21,4 ± 1,67 50,8 ± 1,92 27,8 ± 0,95 Thịt nhẹ 1,38 ± 0,03 1,72 ± 0,19
Ghi chú: ±: Sự chênh lệch giữa các lần lặp lại.
Kết quả phân tích đất cũng cho thấy hàm lượng
chất hữu cơ trong đất canh tác bắp lai ở Tam Bình,
Vĩnh Long và An Phú, An Giang đạt từ 1,51% C và
1,72% C. Theo Landon (1996), nếu hàm lượng chất
hữu cơ trong đất nhỏ hơn 2% C được xem là rất thấp.
Điều này cho thấy cả hai mẫu đất thí nghiệm có hàm
lượng chất hữu cơ trong đất thấp. Hàm lượng chất
hữu cơ tại hai điểm nghiên cứu thấp là do nông dân
42
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019
trong quá trình canh tác không cung cấp phân bón
hữu cơ, thêm vào đó thân cây bắp sau khi thu hoạch
được nông dân sử dụng nuôi bò. Nhìn chung, đất
nghiên cứu có dấu hiệu nén chặt, nghèo chất hữu
cơ dẫn đến khả năng giữ nước và thoát nước của đất
kém. Việc áp dụng các biện pháp quản lý giúp cải
thiện độ phì vật lý đất như giảm dung trọng, tăng
hàm lượng chất hữu cơ, gia tăng độ xốp và khả năng
giữ nước của đất, sẽ tác động tích cực đến sự sinh
trưởng và năng suất cây trồng.
3.2. Tác động của phân hữu cơ và biochar đến sự
thay đổi đặc tính nước trong đất canh tác bắp lai
3.2.1. Sự thay đổi số lượng đại tế khổng và vi tế
khổng trong đất sau khi bổ sung phân bón hữu cơ
và biochar tại hai điểm thí nghiệm
Kết quả trình bày tại bảng 4 cho thấy có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê về số lượng đại tế khổng, vi
tế khổng, tổng độ xốp trong đất ở các nghiệm thức
phân bón khác nhau và cả hai độ sâu thu mẫu lúc
cuối vụ (0 - 20 cm, 20 - 40 cm) với mức ý nghĩa 5%.
Bảng 4. Giá trị trung bình của đại tế khổng, vi tế khổng, tổng độ xốp
của đất thí nghiệm bắp ở các độ sâu khác nhau (0 - 20 cm và 20 - 40 cm)
Nghiệm thức
% Độ xốp (0 - 20 cm) % Độ xốp (20 - 40 cm)
MacPOR MicPOR Tổng MacPOR MicPOR Tổng
Tam Bình - Vĩnh Long
PHC0B0 5,43c ± 0,37 42,51b ± 1,35 47,94c 3,25c ± 0,62 43,22b ± 0,64 46,47c
PHC0B10 6,60b ± 0,94 46,54a ± 2,05 53,14a 4,68b ± 0,44 45,37a ± 1,39 50,05b
PHC5B0 6,26b ± 0,25 44,63ab ± 1,91 50,89b 4,27b ± 0,41 44,80ab ± 0,28 49,07b
PHC5B10 8,61a ± 0,50 44,68ab ± 1,34 53,29a 6,38a ± 0,41 45,75a ± 1,18 52,13a
F ** * ** ** * *
CV (%) 7,70 3,70 2,70 11,20 1,90 7,70
An Phú - An Giang
PHC0B0 6,35d ± 0,17 40,57b ± 0,57 46,92c 6,48d ± 0,37 40,15b ± 0,59 46,63d
PHC0B10 9,35b ± 0,53 39,61b ± 1,10 48,96b 8,50b ± 027 40,02b ± 0,59 48,52c
PHC5B0 7,28c ± 0,74 42,68a ± 0,90 49,96ab 7,66c ± 0,22 42,03a ± 0,23 49,69b
PHC5B10 10,46a ± 0,27 40,26b ± 0,36 50,72a 9,56a ± 0,58 41,17ab ± 0,77 50,73a
F ** * * ** ** **
CV (%) 5,30 1,80 1,20 4,50 5,30 0,50
Ghi chú: Các giá trị trung bình trong cùng một cột theo sau bởi các chữ cái giống nhau không khác biệt có ý nghĩa
thống kê; (*) khác biệt ý nghĩa thống kê 5% và (**) khác biệt ý nghĩa thống kê 1%.
Các nghiệm thức cung cấp phân hữu cơ, biochar
hoặc phối trộn giữa phân hữu cơ và biochar có số
lượng đại tế khổng, vi tế khổng và tổng độ xốp trong
đất cao hơn so với nghiệm thức đối chứng không
bón phân hữu cơ và biochar (PHC0B0) ở cả hai độ
sâu thu mẫu. Nguyên nhân là do than sinh học và vật
liệu hữu cơ có chứa nhiều lỗ rỗng có kích thước khác
nhau. Do đó khi bổ sung phân hữu cơ và biochar vào
đất đã giúp gia tăng số lượng tiểu tế khổng và đại
tế khổng, qua đó giúp gia tăng khả năng giữ nước
của đất. Nghiên cứu của Lei và cộng tác viên (2013)
ghi nhận có sự gia tăng tổng số lượng các tế khổng,
độ thoáng khí, nước hữu dụng trong đấ khả năng
chịu hạn và hiệu quả sử dụng nước của cây trồng khi
cung cấp biochar và phân hữu cơ.
3.2.2. Ảnh hưởng của phân hữu cơ và biochar lên
đặc tính giữ nước của đất canh tác bắp lai tại Tam
Bình - Vĩnh Long và An Phú - An Giang
Kết quả phân tích cho thấy đặc tính giữ nước trên
đất trồng bắp ở Tam Bình, Vĩnh Long có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức có bón
phân hữu cơ và biochar so với nghiệm thức đối chứng
(PHC0B0) ở độ sâu 0 - 20 cm. Các nghiệm thức bón
10 tấn biochar/ha (PHC0B10), 5 tấn phân hữu cơ/ha
(PHC5B0) và bón 5 tấn phân hữu cơ kết hợp 10 tấn
biochar (PHC5B10) có lượng nước thủy dung ngoài
đồng, lượng nước điểm héo và lượng nước hữu dụng
cho cây trồng khác biệt có ý nghĩa thống kê so với
nghiệm thức đối chứng không bón biochar và phân
hữu cơ, điều này phù hợp với nhiều nghiên cứu
43
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019
trước đây. Theo Nguyễn Đăng Nghĩa (2014), phân
hữu cơ và biochar có diện tích bề mặt lớn nên việc
bổ sung những vật liệu này với liều lượng thích hợp
vào đất sẽ làm thay đổi tính chất vật lý của đất như
làm tăng diện tích bề mặt của các hạt đất, cải thiện
cấu trúc đất. Do đó làm tăng lượng nước hữu dụng
cho cây trồng, giảm sự rửa trôi các chất dinh dưỡng.
Đối với độ sâu 20 - 40 cm, không có sự khác biệt có ý
nghĩa về lượng nước thủy dung ngoài đồng và điểm
héo giữa các nghiệm thức bón độc lập phân hữu cơ
và biochar. Tuy nhiên việc bón kết hợp biochar và
phân hữu cơ (PHC5B10) đã làm tăng lượng nước hữu
dụng so với nghiệm thức đối chứng (Hình 1). So với
đất Vĩnh Long thì kết quả phân tích lượng nước thủy
dung, lượng nước điểm héo và lượng nước hữu dụng
ít được cải thiện hơn trên đất An Giang. Kết quả
phân tích được trình bày ở Hình 2 cho thấy: Lượng
nước thủy dung, điểm héo và lượng nước hữu dụng
ở tầng 0 - 20 cm của đất An Giang chưa khác biệt
có ý nghĩa thống kê so với đối chứng nếu chúng ta
chỉ bón riêng rẽ phân hữu cơ (PHC5B0) hoặc biochar
(PHC0B10). Nếu bón kết hợp 10 tấn biochar và
5 tấn phân hữu cơ/ha (PHC5B10) thì lượng nước thủy
dung, điểm héo và lượng nước hữu dụng cao hơn
có ý nghĩa so với đối chứng. Ở độ sâu 20 - 40 cm
giữa các nghiệm thức không có sự khác biệt về lượng
nước thủy dung ngoài đồng, lượng nước điểm héo
và lượng nước hữu dụng.
Hình 1. Đặc tính giữ nước của đất ở các nghiệm thức phân bón hữu cơ và than sinh học
Ghi chú: Hình 1, Hình 2: PWP: ẩm độ điểm héo (%); FC: ẩm độ thủy dung (%); AWC: lượng nước hữu dụng (%).
Các chữ cái khác nhau thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5%, ns: khác biệt không ý nghĩa.
Hình 2. Đặc tính giữ nước của đất dưới các nghiệm thức bón phân bón hữu cơ
và than sinh học trên đất canh tác bắp lai ở An Phú, An Giang
3.3. Tác động của phân hữu cơ và than sinh học
đến năng suất bắp lai
Kết quả thí nghiệm cho thấy, năng suất bắp lai
khác biệt có ý nghĩa thống kê ở các nghiệm thức
phân bón khác nhau trên cả hai địa điểm nghiên
cứu (Bảng 5). Bón phân vô cơ kết hợp 5 tấn/ha phân
hữu cơ và 10 tấn/ha than sinh học (PHC5B10) cho
năng suất cao nhất ở cả 2 điểm nghiên cứu, cụ thể
là Tam Bình, Vĩnh Long đạt 12,29 tấn hạt/ha và An
Phú, An Giang đạt 8,63 tấn hạt/ha và khác biệt có ý
nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại. Tuy
nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
năng suất ở nghiệm thức bón kết hợp (PHC5B10) và
nghiệm thức chỉ bón phân hữu cơ (PHC5B0). Tương
tự, giữa nghiệm thức 3 (PHC5B0) và nghiệm thức 2
(PHC0B10) chưa thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê về năng suất bắp lai.
44
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019
Bảng 5. Ảnh hưởng của bón phân hữu cơ và biochar
đến năng suất bắp lai Tam Bình - Vĩnh Long
và An Phú - An Giang, vụ Thu Đông 2016
TT Nghiệm thức
Năng suất (tấn/ha)
Tam Bình -
Vĩnh Long
An Phú -
An Giang
1 PHC0B0 7,66c ± 1,69 7,87c ± 0,40
2 PHC0B10 10,74b ± 1,10 7,98b ± 0,49
3 PHC5B0 11,64ab ± 0,47 8,00ab ± 0,47
4 PHC5B10 12,29a ± 0,78 8,63a ± 0,26
F ** **
CV (%) 16,38 14,82
Ghi chú: Các chữ cái sau số trung bình trong cùng một
cột khác nhau thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở
mức ý nghĩa 5%; Các số theo sau dấu ± thể hiện độ lệch
chuẩn của dữ liệu.
Kết quả ở bảng 5 chứng tỏ việc bổ sung thêm
phân hữu cơ và biochar đã giúp bắp gia tăng năng
suất. Điều này có thể do phân bón hữu cơ và biochar
đã giúp cải thiện tính chất lý - hóa học đất, giúp gia
tăng tiến trình khoáng hóa chất dinh dưỡng trong
đất, giúp đất được tơi xốp, tăng khả năng giữ nước,
thoát nước và hấp thu dinh dưỡng của cây trồng.
Bên cạnh đó, bản thân hai vật liệu hữu cơ (bã bùn
mía và biochar) có chứa một lượng lớn N,P,K sẽ
cung cấp thêm dinh dưỡng NPK cho đất, góp phần
gia tăng năng suất. Kết quả nghiên cứu cũng cho
thấy cung cấp phân hữu cơ và biochar có tác dụng
gia tăng đáng kể năng suất bắp trồng trên đất Tam
Bình, Vĩnh Long hơn so với đất canh tác bắp tại An
Phú, An Giang. Cụ thể, năng suất bắp tăng 40 - 60%
ở đất canh tác bắp tại Tam Bình, Vĩnh Long, và đất
canh tác bắp tại An Phú, An Giang là 1 - 9%. Một
trong những nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về
năng suất bắp giữa hai vùng đất thí nghiệm là do đất
thí nghiệm tại An Phú, An Giang nằm trong vùng
đê bao thâm canh bắp lai, không bị ảnh hưởng của
lũ nên việc khai thác hệ số sử dụng đất trong vùng
đê bao được nông dân gia tăng tối đa, trong canh
tác hầu hết nông dân không quan tâm đến việc bổ
sung thêm chất hữu cơ cho đất, nguồn nước tưới
cho cây bắp chủ yếu nhờ vào nước trời hoặc nước
giếng, nông dân chỉ cung cấp nước khi thấy đất có
biểu hiện khô. Kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng
của đê bao lên chất lượng đất cho thấy vùng phù
sa không ảnh hưởng bởi lũ ở An Giang của Dương
Minh Viễn và cộng tác viên (2010) cho thấy có sự
giảm thấp chất lượng về hàm lượng kali trao đổi và
kẽm trong đất; chứng tỏ, đất thâm canh bắp lai tại
An Phú, An Giang có thể thiếu K, Ca, Mg. Ngược
lại, đất thí nghiệm trồng bắp tại Tam Bình, Vĩnh
Long là đất canh tác lúa đã được chuyển sang canh
tác rau màu (đậu nành, hành lá và hoặc để trồng cỏ
phục vụ chăn nuôi) nông dân tại đây chỉ mới bắt
đầu trồng bắp được 1 - 2 vụ, nguồn nước tưới cho
cây bắp là nước sông, trong suốt quá trình trồng bắp
không xảy ra tình trạng thiếu nguồn nước tưới.
IV. KẾT LUẬN
Bổ sung phân bón hữu cơ và biochar giúp gia
tăng số lượng đại tế khổng và vi tế khổng trong đất,
và hàm lượng nước hữu dụng trong đất, trong đó
mức độ gia tăng rõ rệt nhất được ghi nhận ở nghiệm
thức bón kết hợp biochar và phân hữu cơ. Kết quả
nghiên cứu cũng cho thấy cung cấp phân hữu cơ và
biochar đã giúp năng suất bắp lai gia tăng đáng kể
so với đối chứng không bón; trong đó bón kết hợp
phân hữu cơ và biochar cho năng suất bắp lai cao
nhất so với các nghiệm thức bón phân còn lại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Đăng Nghĩa. 2014. Vai trò của than sinh học
(biochar) sản xuất và sử dụng hiệu quả than sinh học.
Báo cáo phân tích xu hướng công nghệ. Trung tâm
Thông tin Khoa học và Công nghệ Tp Hồ Chí Minh.
Dương Minh Viễn, Võ Văn Bình, Huỳnh Thị Thu
Hương và Võ Thị Gương, 2010. Ảnh hưởng của phù
sa lên năng suất lúa và một số tính chất của đất. Kỉ yếu
Hội nghị khoa học phát triển nông nghiệp bền vững
thích ứng với biến đổi khí hậu. NXB Nông nghiệp.
Arora K.R., 2004. Irrigation, Water power and Water
Resources Engineering. Standard publishers, Delhi.
Atkinson C.J., J. D. Fitzgerald and N.A. Hipps, 2010.
Potential mechanisms for achieving agricultural
benefits from biochar application to temperate soils:
A review. Plant and Soil, 337 (1), 1-18.
Bryant, L., 2015. Organic Matter Can Improve Your Soil’s
Water Holding Capacity. NRDC Expert Blog. https://
www. nrdc.org/experts/lara-bryant/organic-matter-
can-improveyour-soils-water-holding-capacity.
Jarvis, N. J.; Zavattaro L., Rajkai K., Reynolds W. D.,
Olsen P.- A., McGechan M., Mecke M., Mohanty
B., Leeds - Harrison P. B., and Jacques D., 2002.
Indirect estimation of near-saturated hydraulic
conductivity from readily available soil information.
Geoderma, 108 (2002) 1-17.
Khalili M., Naghavi M. R., Aboughadareh A. P. and
Rad H. N., 2013. Effects of drought stress on yield and
yield components in Maize cultivars (Zea mays L).
International Journal of Agronomy and Plant
Production, Vol. 4 (4): 809 - 812.
Landon, J. R., 1996. Booker Tropical Soil Manual: A
handbook for Soil Survey and Agricultural Land
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_bon_phan_huu_co_va_biochar_den_dac_tinh_nuoc_t.pdf