Hàm lượng proline (µmol/g)
Hàm lượng proline ở các thí nghiệm đều có sự
khác biệt có ý nghĩa qua phân tích thống kê giữa các
nghiệm thức (Bảng 8). Theo Nguyễn Văn Bo và cộng
tác viên (2011), việc tích lũy nồng độ proline cao
trong điều kiện bị khủng hoảng mặn để giúp điều
chỉnh thẩm thấu, gia tăng khả năng hút nước, hạn
chế sự hấp thu và vận chuyển Na+ từ rễ tới thân cây
từ đó gia tăng tính chống chịu trong điều kiện mặn.
- Thí nghiệm ở giai đoạn mạ: Ủ giống với BL ở
nồng độ BL 0,05 - 0,20 mg/L cho kết quả hàm lượng
proline trong cây tốt nhất (tăng 44,41 - 59,21% so với
đối chứng.
- Thí nghiệm giai đoạn đẻ nhánh: Tương tự ở thí
nghiệm giai đoạn mạ, ở giai đoạn này cũng cho kết
quả hàm lượng proline gia tăng ở các nghiệm thức
có xử lý BL (tăng 18,42 - 36,67%) so với đối chứng,
trong đó nồng độ BL 0,05 mg/L cho hàm lượng
proline cao nhất (15,58 µmol/g).
- Thí nghiệm giai đoạn tượng đòng: Hàm lượng
proline tích lũy trong cây gia tăng và khác biệt có ý
nghĩa qua phân tích thống kê (1%) giữa các nghiệm
thức, trong đó nghiệm thức phun BL nồng độ 0,10
- 0,20 mg/L cho kết quả hàm lượng proline đạt tốt
nhất (tăng 77,67 - 92,40% so với đối chứng).
- Thí nghiệm giai đoạn trổ: Sau khi xử lý mặn 5
ngày ở giai đoạn trổ, hàm lượng proline trong cây có
sự gia tăng từ 7,67 - 39,50% ở các nghiệm thức có
phun BL so với đối chứng. Trong đó phun BL nồng
độ 0,10 mg/L cho kết quả hàm lượng proline cao
nhất (12,96 µmol/g). Qua kết quả các thí nghiệm cho
thấy vai trò của BL làm tăng proline rất lớn giúp cây
lúa có khả năng chống chịu mặn tốt hơn khi được sử
dụng ở nồng độ thích hợp. Theo Phap (2006), trong
môi trường mặn, brassinosteroids tăng cường khả
năng phản ứng tích lũy proline trong tế bào lá như
là một đặc điểm thích nghi của cây lúa liên quan đến
khả năng chịu đựng stress.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của Brassinolide trong hạn chế tác hại của mặn trên lúa trồng trong nhà lưới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
32
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Đối với giống MTL372, mật độ sạ tối ưu là 80 -
100 kg/ha và liều lượng phân N 80 - 90 kg/ha cho
năng suất và hiệu quả tài chính cao nhất.
4.2. Đề nghị
Cần xây dựng nhãn hiệu cho hạt gạo cho địa
phương để tăng giá trị thương phẩm và mở rộng quy
mô sản xuất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Huy Đáp, 1980. Cây lúa Việt Nam. NXB Khoa học
kỹ thuật. Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Đệ, 2008. Giáo trình cây lúa. NXB Đại
học Quốc gia TP. HCM.
Nguyễn Đình Giao, Nguyễn Hữu Tề, Nguyễn Thiện
Huyên, 1997. Giáo trình cây lương thực, Tập I. NXB
Nông nghiệp. Hà Nội.
Nguyễn Văn Hoan, 1995. Kỹ thuật thâm canh lúa của hộ
nông dân. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Hà Nội.
IRRI, 1996. Standard evaluation systems. Viện Nghiên
cứu Lúa Quốc tế, Manila, Philippines.
ẢNH HƯỞNG CỦA BRASSINOLIDE TRONG HẠN CHẾ TÁC HẠI
CỦA MẶN TRÊN LÚA TRỒNG TRONG NHÀ LƯỚI
Lê Kiêu Hiếu1, Nguyễn Bảo Vệ2 và Phạm Phước Nhẫn2
TÓM TẮT
Các thí nghiệm được thực hiện trong điều kiện nhà lưới nhằm mục tiêu xác định nồng độ brassinolide để cải
thiện năng suất lúa trong điều kiện bị mặn 6‰ ở các giai đoạn mạ, đẻ nhánh, tượng đòng và trổ (bốn thí nghiệm
được thực hiện độc lập tương ứng với 4 giai đoạn sinh trưởng của lúa). Mỗi thí nghiệm được bố trí theo thể thức
hoàn toàn ngẫu nhiên, 1 nhân tố (nồng độ brassinolide: 0,00; 0,05; 0,10; 0,20; 0,40 mg/L) với 5 lần lặp lại. Kết quả
các thí nghiệm cho thấy ủ giống với brassinolide trước xử lý mặn không làm ảnh hưởng đến khối lượng hạt/chậu;
phun brassinolide cho lúa nhiễm mặn ở giai đoạn đẻ nhánh giúp gia tăng khối lượng hạt/chậu từ 9,62 - 32,77% so
với đối chứng; nồng độ phun brassinolide 0,10 mg/L hoặc 0,20 mg/L cải thiện khối lượng hạt/chậu tốt nhất. Phun
brassinolide ở giai đoạn tượng đòng giúp năng suất lúa tăng 27,97 - 58,98% so với đối chứng, nồng độ brassinolide
0,10 mg/L cải thiện khối lượng hạt/chậu cao nhất. Mặn ở giai đoạn lúa trổ, phun brassinolide cho khối lượng
hạt/chậu tăng 28,88 - 54,79% so với đối chứng, trong đó brassinolide nồng độ 0,10 mg/L giúp duy trì khối lượng
hạt/chậu tốt nhất.
Từ khóa: Brassinolide, đất mặn, lúa OM2517
Effect of seed quantity and nitrogen dose on yield of MLT372 rice variety
in Tam Nong district, Dong Thap province
Vu Anh Phap
Abstract
The research was carried out in Tam Nong district, Dong Thap province. The experiment was conducted on promising
variety MTL372 with very short growth duration (85 days) in order to find out suitable sowing density and nitrogen
dose for obtaining the best yield and profit. The experiment was arranged in sub-plots with 5 factors. The main factor
was with 5 different quantities of seeds (80, 100, 120, 140 and 160 kg/ha) and the sub factor was 4 nitrogen doses
(80, 90, 100 and 110 kg/ha). The results showed that the yield and the benefit were highest when sowing with 80 - 100 kg
of seeds and 80 - 90 kg/ha nitrogen fertilizer due to higher number of panicles and filled grains in comparison with
other treatments; at the same time the used quantity of seeds and nitrogen fertilizer dose and pests were less than
other treatments with higher seed quantity and nitrogen doses.
Keywords: Nitrogen fertilizer dose, seed quantity, short growth duration variety
Ngày nhận bài: 3/12/2018
Ngày phản biện: 9/12/2018
Người phản biện: TS. Vũ Tiến Khang
Ngày duyệt đăng: 11/1/2019
1 Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Bạc Liêu; 2 Trường Đại học Cần Thơ
33
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Những năm gần đây, diễn biến xâm nhập mặn
ngày càng phức tạp. Tại một số tỉnh ven biển Đồng
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nước biển xâm nhập
sâu vào nội đồng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
đời sống người dân và hoạt động nông nghiệp. Đặc
biệt, những tháng đầu năm 2016, diễn biến xâm
nhập mặn tại ĐBSCL được đánh giá nặng nề nhất
trong 100 năm qua và dự báo còn diễn biến xấu hơn
trong những năm tiếp theo (Lê Xuân Định và ctv.,
2016). Theo Tanwar (2003), ngưỡng chịu mặn của
cây lúa 3,0 ms/cm của độ mặn trong đất và 2,0 ms/
cm đối với độ mặn nước tưới, khi độ mặn trong đất
hoặc trong nước tưới vượt qua giá trị này thì năng
suất lúa sẽ giảm mạnh. Hiện nay, có nhiều biện pháp
để giúp cây lúa chống chịu mặn như sử dụng giống
chống chịu, kỹ thuật canh tác hay sử dụng chất kích
kháng thuộc nhóm hormon brassinosteroids cũng
đã và đang được nghiên cứu áp dụng. Nhiều nghiên
cứu hiện nay cho thấy brassinolide (BL) có tính kích
kháng tốt giúp cây trồng gia tăng tính chống chịu
mặn bởi khả năng kích thích sinh trưởng (El-Feky,
2014) tích lũy proline (Vardhini, 2012), ổn định
chất diệp lục tố (Nithila et al., 2013), hoạt động của
các enzyme chống oxy (El-Mashad and Mohamed,
2012),... trên một số cây trồng cạn. Tuy nhiên, các
nghiên cứu về hợp chất này trên lúa cao sản ở những
vùng đất nhiễm mặn của ĐBSCL còn rất hạn chế.
Mặc khác, nông dân thường sử dụng nước mặn để
tưới cho lúa trong điều kiện sản xuất lúa thiếu nước
ngọt vào mùa khô hoặc cuối mùa mưa nên dễ dẫn
đến gia tăng độ mặn trong đất và làm giảm năng suất
lúa. Vì vậy, nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm ra
được nồng độ phun brassinolide có thể hạn chế tác
hại của mặn ở nồng độ muối 6‰ lên lúa ở giai đoạn
mạ, đẻ nhánh, tượng đòng và trổ.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Giống lúa: OM2517 có thời gian sinh trưởng
90 - 95 ngày, năng suất 6 - 8 tấn/ha, đạt tiêu chuẩn
xuất khẩu, có khả năng chịu mặn trung bình khá.
- Chất điều hòa sinh trưởng thực vật brassinolide
(90% hoạt chất BL 0,01 N).
- Chất sử dụng để tạo môi trường mặn trong nhà
lưới là Chlorua natri (NaCl).
- Chậu nhựa PVC màu đen, chiều cao 35 cm,
đường kính mặt chậu 30 cm.
- Nước tưới: Nước tưới lấy từ hệ thống nước máy
cung cấp cho lúa trong suốt thời gian thí nghiệm.
Nồng độ muối 6‰ được pha bằng cách cho 6 g NaCl
vào 1 lít nước thành dung dịch để tưới cho lúa.
- Đất dùng trong thí nghiệm nhà lưới là đất lúa
ven biển tỉnh Bạc Liêu. Đặc tính đất thí nghiệm
được trình bày trong bảng 1.
Bảng 1. Đặc tính đất thực hiện thí nghiệm
Đặc tính đất Đơn vị Phương pháp phân tích Kết quả Đánh giá
pH 1 : 2,5 đất - nước, pH kế 4,58 Thấp
EC mS/cm Trích bão hòa, EC kế 7,1 Năng suất phần lớn cây trồng bị hạn chế
Na trao đổi meq/100g Máy hấp thu nguyên tử 9,81
K trao đổi meq/100g Máy hấp thu nguyên tử 1,29 Cao
Ca trao đổi meq/100g Máy hấp thu nguyên tử 4,35 Trung bình thấp
Mg trao đổi meq/100g Máy hấp thu nguyên tử 10,26 Cao
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
Bốn thí nghiệm được thực hiện độc lập ở 4 giai
đoạn sinh trưởng của lúa (mạ, đẻ nhánh, tượng đòng
và trổ) trong nhà lưới được bố trí theo thể thức hoàn
toàn ngẫu nhiên một nhân tố là các mức nồng độ
BL. Mỗi thí nghiệm có 5 nghiệm thức tương ứng với
5 mức nồng độ BL (0,00; 0,05; 0,10; 0,20; 0,40 mg/L),
có tất cả 5 lần lặp lại, mỗi lần lặp lại là 1 chậu.
2.2.2. Thực hiện thí nghiệm
Đất lúa ven biển được lấy ở độ sâu từ 0 - 20 cm,
để khô tự nhiên trong không khí, đập nhỏ cho vào
các chậu với trọng lượng 5 kg đất/chậu. Sau thời gian
cho ngập nước tiến hành gieo hạt giống đã nảy mầm
vào mỗi chậu thí nghiệm.
- Phun brassinolide: Phun BL trước khi cho lúa bị
mặn 1 ngày vào các thời điểm: Mạ (lúc ủ giống), đẻ
nhánh, tượng đòng và trổ (Phun BL ước đều hai mặt
lá; Lượng nước phun tương đương 320 lít nước/ha).
34
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019
- Xử lý mặn: Chỉ tưới mặn 1 lần ở các chậu vào
thời điểm mạ (sau khi gieo), đẻ nhánh, tượng đòng
và trổ. Các nghiệm thức đều được cho ngập mặn với
hàm lượng 6‰ với thể tích 1000 mL.
- Bón phân: Sử dụng công thức phân 100 N -
60 P2O5 - 30 K2O kg/ha (tương ứng 3 triệu kg đất
khô/ha) và chia ra làm 3 lần bón: Lần 1 (10 ngày sau
sạ): 1/4 lượng N + 1/2 lượng P2O5 + 1/3 lượng K2O;
Lần 2 (22 ngày sau sạ): 2/4 lượng N + 1/2 lượng P2O5;
Lần 3 (40 ngày sau sạ): 1/4 lượng N + 2/3 lượng K2O.
- Chăm sóc: Tiến hành tỉa chừa 5 cây/chậu dùng
làm thí nghiệm cho suốt cả vụ lúc 15 ngày sau gieo.
Mực nước trong chậu luôn được giữ ổn định khoảng
7 cm tính từ mặt đất trong suốt thời gian sinh trưởng
của cây lúa.
2.2.3. Chỉ tiêu thu thập
Chiều cao cây lúc thu hoạch (cm), chiều dài bông
(cm), số bông/chậu, số hạt chắc/bông, trọng lượng
1000 hạt và khối lượng hạt/chậu (g/chậu) ở ẩm độ
14%. Phân tích hàm lượng proline trong cây lúa
(Mạ: hàm lượng proline trong thân; đẻ nhánh, tượng
đòng và trổ: hàm lượng proline trong lá - cắt giữa lá
thứ 3 từ trên xuống để phân tích đối với thí nghiệm
ở giai đoạn tượng đòng và trổ) sau 5 ngày xử lý mặn
theo phương pháp của Bate và cộng tác viên (1973).
2.2.4. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu ghi nhận được phân tích phương sai
ANOVA để tìm sự khác biệt của các nghiệm thức
trong thí nghiệm, so sánh các trung bình bằng
phương pháp kiểm định DUNCAN ở mức ý
nghĩa 5%.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thí nghiệm được thực hiện trong nhà lưới của
trường Đại học Cần Thơ từ tháng 1 đến tháng
4/2017.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Chiều cao cây
- Thí nghiệm ở giai đoạn mạ: Khi cây lúa bị
nhiễm mặn ở giai đoạn mạ thì việc ủ giống với BL
hoặc không đều không ảnh hưởng đến chiều cao
cây lúc thu hoạch (Bảng 2). Có thể thấy khi áp lực
stress mặn được hạn chế ở sau giai đoạn mạ, nếu có
chế độ chăm sóc tốt cây lúa sẽ dần hồi phục và cho
năng suất.
- Thí nghiệm ở giai đoạn lúa đẻ nhánh: Theo
Lauchli và Grattan (2007), giai đoạn đẻ nhánh là
một trong những thời điểm cây lúa rất mẫn cảm
với mặn. Xử lý BL ở thời điểm này cho thấy chiều
cao cây giữa các nghiệm thức đều có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê 5% vào thời điểm thu hoạch.
Phun BL với nồng độ 0,05; 0,10; 0,20 mg/L đã giúp
cải thiện chiều cao cây (tăng 5,58% - 6,94% so với
đối chứng) trong điều kiện mặn ở giai đoạn lúa đẻ
nhánh, tuy nhiên nếu sử dụng BL nồng độ 0,40 mg/L
cây lúa có xu hướng bị ức chế chiều cao cây (Bảng 2).
- Thí nghiệm ở giai đoạn lúa tượng đòng và trổ:
Chiều cao cây ở các nghiệm thức có phun BL có xu
hướng cao hơn đối chứng, tuy nhiên qua phân tích
thống kê sự khác biệt này không ý nghĩa (Bảng 2).
Bảng 2. Chiều cao cây (cm) lúa lúc thu hoạch
ở từng thí nghiệm khác nhau
Nghiệm thức
(Nồng độ BL,
mg/L)
Thí nghiệm mặn ở các giai đoạn
Mạ Đẻ nhánh
Tượng
đòng Trổ
Đối chứng 77,88 76,53 b 71,28 78,87
0,05 79,57 81,84 a 75,33 79,90
0,10 79,08 81,40 a 75,39 81,46
0,20 82,66 80,80 a 78,25 80,62
0,40 78,51 79,49 ab 74,14 78,96
F ns * ns ns
CV (%) 4,36 3,46 4,47 3,82
Ghi chú: Bảng 2 - 8: Trong cùng một cột các số có chữ
theo sau giống nhau thì khác biệt không ý nghĩa thống kê;
(ns): khác biệt không có ý nghĩa thống kê; (*): khác biệt ý
nghĩa thống kê ở mức 5%, (**): khác biệt ý nghĩa thống kê
ở mức 1%.
Nhìn chung, qua các thí nghiệm cho thấy khi xử
lý BL ở nồng độ thích hợp đã giúp cải thiện chiều
cao cây lúa tốt hơn trong điều kiện mặn 6‰ ở giai
đoạn đẻ nhánh. Khi lúa bị mặn ở giai đoạn mạ,
tượng đòng và trổ phun BL không làm ảnh hưởng
đến chiều cao cây lúc thu hoạch.
3.2. Chiều dài bông
- Thí nghiệm ở giai đoạn mạ: Khi cây lúa bị mặn
ở giai đoạn mạ, việc ủ giống với BL trước khi gieo sạ
cho chiều dài bông khi thu hoạch giao động từ 16,47
- 17,13 cm cao hơn so với đối chứng (16,05 cm)
nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa qua phân
tích thống kê (Bảng 3).
- Thí nghiệm ở giai đoạn đẻ nhánh: Chiều dài
bông có sự khác biệt có ý nghĩa qua phân tích thống
kê ở các nghiệm thức (Bảng 3), cao nhất ở nghiệm
thức phun nồng độ BL 0,20 mg/L cho chiều dài bông
dài nhất (16,29 cm).
35
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019
Bảng 3. Chiều dài bông (cm) lúa
ở từng thí nghiệm khác nhau
Nghiệm thức
(Nồng độ BL,
mg/L)
Thí nghiệm mặn ở các giai đoạn
Mạ Đẻ nhánh
Tượng
đòng Trổ
Đối chứng 16,05 14,94 b 16,84 17,83 b
0,05 17,13 14,78 b 16,90 18,80 a
0,10 16,77 15,24 b 16,99 18,97 a
0,20 16,99 16,29 a 17,59 18,55 ab
0,40 16,47 15,22 b 16,93 18,52 ab
F ns ** ns *
CV (%) 4,54 3,66 4,64 2,98
- Thí nghiệm ở giai đoạn tượng đòng: Phun BL
khi lúa bị mặn ở giai đoạn tượng đòng cho chiều
dài bông lúa đạt từ 16,90 - 17,59 cm, cao hơn so với
đối chứng (không xử lý BL) nhưng sự khác biệt này
không có ý nghĩa qua phân tích thống kê (Bảng 3).
- Thí nghiệm giai đoạn trổ: Kết quả bảng 3 cho
thấy, chiều dài bông ở các nghiệm thức có phun BL
đều cho kết quả dài hơn từ 0,69 - 1,14 cm so với
nghiệm thức đối chứng (17,83 cm). Phun BL ở nồng
độ 0,05 và 0,10 mg/L cho chiều dài bông tốt nhất
(tăng từ 5,44 - 6,39% so với đối chứng).
Như vậy, khả năng chịu mặn của lúa ở mỗi giai
đoạn sinh trưởng và phát triển khác nhau có ảnh
hưởng đến chiều dài bông lúa. Trong điều kiện bị
mặn ở giai đoạn mạ và tượng đòng, BL không làm
ảnh hưởng đến chiều dài bông, tuy nhiên ở giai
đoạn đẻ nhánh (BL: 0,20 mg/L) và trổ (BL: 0,05;
0,10 mg/L) thì BL đã có vai trò quan trọng trong việc
cải thiện chiều dài bông.
3.3. Số bông/chậu
- Thí nghiệm giai đoạn mạ và giai đoạn trổ: Theo
kết quả thực hiện 2 thí nghiệm trong điều kiện
mặn vào giai đoạn mạ và trổ cho thấy các nghiệm
thức có xử lý với BL đều cho số bông/chậu tăng từ
1,00 - 1,20 bông/chậu (thí nghiệm giai đoạn mạ) và
1,00 - 1,60 bông/chậu (thí nghiệm giai đoạn trổ) so
với đối chứng, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê (Bảng 4).
- Thí nghiệm giai đoạn đẻ nhánh: Xử lý mặn và
phun BL khi lúa bước vào giai đoạn đẻ nhánh cho
kết quả số bông/chậu có sự thay đổi và khác biệt có ý
nghĩa thống kê (1%) giữa các nghiệm thức (Bảng 4),
trong đó, nghiệm thức đối chứng có số bông thấp
nhất (15,60 bông/chậu) kế đến là nghiệm thức phun
BL ở nồng độ 0,40 mg/L (16,00 bông/chậu). Phun
BL nồng độ 0,05; 0,10; 0,20 mg/L cho kết quả số
bông/chậu tốt nhất (tăng 1,60 - 1,80 bông/chậu so
với đối chứng).
Bảng 4. Số bông/chậu của lúa
ở từng thí nghiệm khác nhau
Nghiệm thức
(Nồng độ BL,
mg/L)
Thí nghiệm mặn ở các giai đoạn
Mạ Đẻ nhánh
Tượng
đòng Trổ
Đối chứng 17,80 15,60 b 18,20 c 26,40
0,05 18,80 17,40 a 21,20 b 27,40
0,10 19,20 17,20 a 21,80 ab 27,20
0,20 19,00 17,20 a 22,80 a 28,00
0,40 18,80 16,00 b 21,20 b 27,00
F ns ** ** ns
CV (%) 7,85 4,96 4,29 3,34
- Thí nghiệm giai đoạn tượng đòng: Số bông/chậu
có sự thay đổi và khác biệt có ý nghĩa thống kê (1%)
giữa các nghiệm thức khi xử lý mặn và phun BL ở giai
đoạn tượng đòng (Bảng 4). Các nghiệm thức có phun
BL đều cho kết quả cao hơn (3,0 - 4,6 bông/chậu) so
với đối chứng và khác biệt có ý nghĩa thống kê (1%).
Theo Lauchli và Grattan (2007), giai đoạn đẻ nhánh
và tượng khối sơ khởi là các thời điểm rất mẫn cảm
với mặn. Số lượng bông thấp hơn ở độ mặn cao do
sự tích lũy chất đồng hóa trong các cơ quan sinh sản
thấp hơn (Hasamuzzaman et al., 2009).
Như vậy, khi cây lúa bị mặn vào giai đoạn mạ và
trổ, phun BL không làm thay đổi số bông/chậu, tuy
nhiên vai trò cải thiện số bông/chậu của BL sẽ được
thấy rõ hơn vào giai đoạn lúa bị mặn lúc đẻ nhánh
và tượng đòng.
3.4. Số hạt chắc/bông
- Thí nghiệm giai đoạn mạ: Trong điều kiện mặn
ở giai đoạn mạ, ủ giống với BL không làm thay
đổi số hạt chắc/bông khi thu hoạch lúa (Bảng 5).
Ở thời kỳ này, có thể do tác động mặn cục bộ, cây
lúa có khả năng phục hồi sau khi mặn được hạn
chế nên tác động BL không làm ảnh hưởng đến số
hạt chắc/bông.
- Thí nghiệm giai đoạn đẻ nhánh: Kết quả thí
nghiệm cho thấy, số hạt chắc/bông ở các nghiệm
thức có phun BL với các nồng độ khác nhau đều
làm gia tăng số hạt chắc/bông (3,85 - 14,19%) so với
đối chứng và khác biệt có ý nghĩa (5%) qua phân
tích thống kê (Bảng 5). Trong đó, phun BL nồng độ
0,20 mg/L cho số hạt chắc/bông cao nhất (41,52 hạt
chắc/bông).
- Thí nghiệm giai đoạn tượng đòng và trổ: Theo
Yoshida (1981), độ mặn trong đất cao làm gia tăng
36
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019
hạt bất thụ trên cây lúa. Trong điều kiện mặn cao
(6‰), các nghiệm thức có phun BL với các nồng
độ khác nhau đều làm gia tăng số hạt chắc/bông
(Thí nghiệm giai đoạn tượng đòng tăng 7,41 - 30,59%;
Thí nghiệm giai đoạn trổ tăng 24,09 - 42,63%) so với
đối chứng và khác biệt có ý nghĩa (1%) qua phân tích
thống kê ở cả 2 thí nghiệm (Bảng 5). Trong điều kiện
mặn ở giai đoạn tượng đòng hoặc trổ phun BL nồng
độ 0,10 mg/L đều cho số hạt chắc/bông đạt cao nhất.
Bảng 5. Số hạt chắc/bông của lúa
ở từng thí nghiệm khác nhau
Nghiệm thức
(Nồng độ BL,
mg/L)
Thí nghiệm mặn ở các giai đoạn
Mạ Đẻ nhánh
Tượng
đòng Trổ
Đối chứng 37,80 36,36 c 21,74 c 20,01 d
0,05 39,09 38,53 abc 23,35 b 24,83 c
0,10 39,36 40,34 ab 28,39 a 28,54 a
0,20 40,55 41,52 a 25,48 b 26,80 b
0,40 39,01 37,76 bc 23,72 bc 26,81 b
F ns * ** **
CV (%) 3,25 6,64 7,46 4,11
Nhìn chung, trong điều kiện mặn ở các giai đoạn
lúa đẻ nhánh, tượng đòng hoặc trổ phun BL ở nồng
độ thích hợp đã giúp cải thiện số hạt chắc/bông. Fujii
và Saka (2002) cho rằng brassinosteroids có vai trò
rất lớn giúp thúc đẩy gia tăng tích lũy tinh bột vào
hạt, góp phần gia tăng tỷ lệ hạt chắc trên cây trồng,
thông qua giúp tăng kích thước lá đã thúc đẩy sự vận
chuyển của carbohydrate về hạt (Arteca, 1995).
3.5. Trọng lượng 1000 hạt
- Thí nghiệm ở giai đoạn mạ, đẻ nhánh và tượng
đòng: Trọng lượng 1000 hạt khác biệt không có
ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức ở cả 3 thí
nghiệm tưới mặn và phun BL vào giai đoạn mạ, đẻ
nhánh và tượng đòng (Bảng 6).
- Thí nghiệm giai đoạn trổ: Tác động mặn và
phun BL ở giai đoạn trổ cho kết quả trọng lượng
1000 hạt có sự khác biệt qua phân tích thống kê (1%)
giữa các nghiệm thức (Bảng 6), trong đó nồng độ
BL 0,10 - 0,20 mg/L cho trọng lượng 1000 hạt tốt
nhất, thấp nhất là nghiệm thức đối chứng (25,51 g).
Trọng lượng 1000 hạt thấp là do sự tích lũy của
carbohydrate và các chất khác về hạt thấp hơn dưới
ảnh hưởng của mặn (Hasamuzzaman et al., 2009).
Theo Anuradha và Rao (2003), Brassinolide có tác
động làm tăng tỷ lệ phân chia tế bào ở lục lạp của lá,
tăng khả năng tích lũy chlorophyll, bằng việc giúp
duy trì chỉ số màu xanh của lá, đây sẽ là một trong
những cơ sở giúp cho khả năng quang hợp của cây
lúa sau trổ được tốt hơn, từ đó cải thiện được trọng
lượng hạt trong điều kiện stress mặn.
Bảng 6. Trọng lượng 1000 hạt (g)
ở từng thí nghiệm khác nhau
Nghiệm thức
(Nồng độ BL,
mg/L)
Thí nghiệm mặn ở các giai đoạn
Mạ Đẻ nhánh
Tượng
đòng Trổ
Đối chứng 26,15 25,27 25,72 25,51 b
0,05 26,55 25,83 25,71 25,52 b
0,10 26,40 26,00 26,19 26,88 a
0,20 26,22 26,64 26,38 26,85 a
0,40 26,05 25,99 25,96 26,62 ab
F ns ns ns *
CV (%) 1,82 2,85 1,69 3,28
3.6. Khối lượng hạt trên chậu (g/chậu)
- Thí nghiệm ở giai đoạn mạ: Khối lượng hạt trên
chậu ở các nghiệm thức xử lý BL đều cho kết quả cao
hơn đối chứng nhưng khác biệt không có ý nghĩa
thống kê, điều này có thể cho thấy khi cây lúa bị mặn
(6‰) ở thời kỳ mạ vẫn có thể hồi phục nếu được
chăm sóc tốt sau đó. Như vậy, việc ủ giống với BL
không làm ảnh hưởng đến trọng lượng hạt/chậu khi
cây lúa bị mặn ở giai đoạn mạ (Bảng 7).
- Thí nghiệm ở giai đẻ nhánh: Kết quả thí nghiệm
cho thấy, khối lượng hạt/chậu có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (1%) giữa các nghiệm thức (Bảng 7).
Phun BL giúp gia tăng khối lượng hạt/chậu từ
9,62 - 32,77% so với đối chứng, trong đó, phun BL
nồng độ 0,10 và 0,20 mg//L cho kết quả cải thiện
khối lượng hạt/chậu tốt nhất.
Bảng 7. Khối lượng hạt (g/chậu) của lúa
ở ở từng thí nghiệm khác nhau
Nghiệm thức
(Nồng độ BL,
mg/L)
Thí nghiệm mặn ở các giai đoạn
Mạ Đẻ nhánh
Tượng
đòng Trổ
Đối chứng 17,58 14,34 c 10,19 c 13,47 d
0,05 19,50 17,38 ab 13,80 b 17,36 c
0,10 19,94 18,03 a 16,20 a 20,85 a
0,20 20,19 19,04 a 15,29 a 20,14 ab
0,40 19,10 15, 72 bc 13, 04 b 19,25 b
F ns ** ** **
CV (%) 7,75 9,66 7,30 4,76
37
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019
- Thí nghiệm giai đoạn tượng đòng: Khối lượng
hạt/chậu khi phun BL lên các nghiệm thức đều cho
năng suất cao hơn (tăng 27,97 - 58,98%) so với đối
chứng (Bảng 7). Trong điều kiện mặn ở giai đoạn
lúa tượng đòng, phun BL nồng độ 0,10 mg/L hoặc
0,20 mg/L cho hiệu quả cải thiện khối lượng hạt/
chậu cao nhất.
- Thí nghiệm giai đoạn tượng trổ: Các nghiệm
thức có phun BL đều có khối lượng hạt/chậu cao
hơn (tăng 28,88 - 54,79%) so với đối chứng không
xử lý (Bảng 7), trong đó nồng độ BL 0,10 mg/L giúp
duy trì năng suất lúa tốt nhất (20,85 g/chậu).
Nhìn chung, năng suất lúa chịu sự tác động mạnh
mẽ bởi khả năng chịu mặn của lúa ở các giai đoạn
sinh trưởng khác nhau. Vai trò giúp cải thiện năng
suất cây trồng trọng điều kiện mặn của BL cũng được
ghi nhận từ nghiên cứu của Das và cộng tác viên
(2011). Khatun và cộng tác viên (1995b) báo cáo
rằng mặn làm giảm sức sống hạt phấn và sự tạo hạt
lúa. Sự thụ phấn thành công có liên quan rất nhiều
đến năng suất hạt. Độ mặn trong nước hoặc trong
đất cao cũng là nguyên nhân làm cho hạt lúa bất thụ
(Zeng et al., 2003). Có thể nói, việc xử lý BL với các
mức nồng độ thích hợp đã giúp cải thiện khối lượng
hạt/chậu ở các giai đoạn trong điều kiện mặn cục bộ
khác nhau, nhưng không phải tất cả liều lượng BL
sử dụng đều giúp cây chịu mặn tốt ở các giai đoạn,
mà ngược lại sử dụng nồng độ BL quá cao sẽ có thể
góp phần làm cây lúa mẫn cảm với mặn hơn. Theo
Takematsu và cộng tác viên (1988), thông qua việc
giúp gia tăng số hạt vào chắc thì BL giúp năng suất
cây trồng được cải thiện rõ rệt.
3.7. Hàm lượng proline (µmol/g)
Hàm lượng proline ở các thí nghiệm đều có sự
khác biệt có ý nghĩa qua phân tích thống kê giữa các
nghiệm thức (Bảng 8). Theo Nguyễn Văn Bo và cộng
tác viên (2011), việc tích lũy nồng độ proline cao
trong điều kiện bị khủng hoảng mặn để giúp điều
chỉnh thẩm thấu, gia tăng khả năng hút nước, hạn
chế sự hấp thu và vận chuyển Na+ từ rễ tới thân cây
từ đó gia tăng tính chống chịu trong điều kiện mặn.
- Thí nghiệm ở giai đoạn mạ: Ủ giống với BL ở
nồng độ BL 0,05 - 0,20 mg/L cho kết quả hàm lượng
proline trong cây tốt nhất (tăng 44,41 - 59,21% so với
đối chứng.
- Thí nghiệm giai đoạn đẻ nhánh: Tương tự ở thí
nghiệm giai đoạn mạ, ở giai đoạn này cũng cho kết
quả hàm lượng proline gia tăng ở các nghiệm thức
có xử lý BL (tăng 18,42 - 36,67%) so với đối chứng,
trong đó nồng độ BL 0,05 mg/L cho hàm lượng
proline cao nhất (15,58 µmol/g).
Bảng 8. Hàm lượng proline (µmol/g) trong cây lúa
ở từng thí nghiệm khác nhau
Nghiệm thức
(Nồng độ BL,
mg/L)
Thí nghiệm mặn ở các giai đoạn
Mạ Đẻ nhánh
Tượng
đòng Trổ
Đối chứng 16,01 b 11,40 c 8,42 c 9,29 c
0,05 23,59 a 15,58 a 10,57 bc 10,00 bc
0,10 23,12 a 15,20 ab 14,96 a 12,96 a
0,20 25,49 a 15,31 ab 16,20 a 12,21 ab
0,40 14,58 b 13,50 b 11,48 b 11,95 ab
F ** ** ** *
CV (%) 9,68 9,76 14,25 14,08
- Thí nghiệm giai đoạn tượng đòng: Hàm lượng
proline tích lũy trong cây gia tăng và khác biệt có ý
nghĩa qua phân tích thống kê (1%) giữa các nghiệm
thức, trong đó nghiệm thức phun BL nồng độ 0,10
- 0,20 mg/L cho kết quả hàm lượng proline đạt tốt
nhất (tăng 77,67 - 92,40% so với đối chứng).
- Thí nghiệm giai đoạn trổ: Sau khi xử lý mặn 5
ngày ở giai đoạn trổ, hàm lượng proline trong cây có
sự gia tăng từ 7,67 - 39,50% ở các nghiệm thức có
phun BL so với đối chứng. Trong đó phun BL nồng
độ 0,10 mg/L cho kết quả hàm lượng proline cao
nhất (12,96 µmol/g). Qua kết quả các thí nghiệm cho
thấy vai trò của BL làm tăng proline rất lớn giúp cây
lúa có khả năng chống chịu mặn tốt hơn khi được sử
dụng ở nồng độ thích hợp. Theo Phap (2006), trong
môi trường mặn, brassinosteroids tăng cường khả
năng phản ứng tích lũy proline trong tế bào lá như
là một đặc điểm thích nghi của cây lúa liên quan đến
khả năng chịu đựng stress.
IV. KẾT LUẬN
Xử lý brassinolide trong điều kiện lúa bị mặn
(6‰) ở từng giai đoạn sinh trưởng của lúa cho thấy:
- Giai đoạn mạ: Ủ giống với brassinoide không
làm ảnh hưởng đến khối lượng hạt/chậu khi cây lúa
bị mặn ở giai đoạn mạ.
- Giai đoạn lúa đẻ nhánh: Phun brassinolide gia
tăng khối lượng hạt/chậu từ 9,62 - 32,77% so với đối
chứng, trong đó phun brassinoolide nồng độ 0,10
mg/L hoặc 0,20 mg/L cải thiện trọng lượng/chậu
tốt nhất.
- Giai đoạn lúa tượng đòng: Phun brassinolide
cho năng suất tăng 27,97 - 58,98% so với đối chứng,
nồng độ brassinolide 0,10 mg/L cải thiện khối lượng
hạt/chậu cao nhất.
- Giai đoạn lúa trổ: Phun brassinolide khối lượng
hạt/chậu tăng 28,88 - 54,79% so với đối chứng, nồng
38
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 1(98)/2019
độ brassinolide 0,10 mg/L giúp duy trì khối lượng
hạt/chậu tốt nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê Xuân Định, Nguyễn Mạnh Quân và Phùng Anh
Tiến, 2016. Tổng luận: Xâm nhập mặn tại ĐBSCL
nguyên nhân, tác động và các giải pháp ứng phó. Bộ
Khoa học và Công nghệ.
Nguyễn Văn Bo, Nguyễn Thanh Tường, Nguyễn Bảo
Vệ và Ngô Ngọc Hưng, 2011. Ảnh hưởng của canxi
đến khả năng sản sinh proline và sinh trưởng của
cây lúa trên đất nhiễm mặn. Tạp chí Khoa học, Đại
học Cần Thơ, 18b: 203-211.
Anuradha, S. and S. Rao, 2003. Application of
brassinosteroids to rice seeds (Oryza sativa L.)
reduced the impact of salt stress on growth, prevented
photosynthetic pigment loss and increased nitrate
reductase activity. Plant Growth Regul, 40: 29-32.
Arteca, R.N., 1995. Brassinosteroids. In P.J. Davis
ed., Plant hormones: Physiology, Biochemistry and
Molecular Biology. Kluwer Academic Publisher,
Dordrecht, the Netherlands, 206-213.
Bates, L., R.P. Waldren and I.D. Teare, 1973. Rapid
determination of free proline for water-stress studies.
Plant and Soil, 39: 205-207.
Das, T. and Y.M. Shukla, 2011. Effect of brassinolide
on biochemical constituents in rice (Oryza sativa L.)
under salinity stress. The Asian Journal of Experimental
Chemistry, 6: 22-25.
El-Feky, S.S. and Abo-Hamad, S.A., 2014. Effect of
exogenous application of brassinolide on growth and
metabolic activity of Wheat seedlings under normal
and salt stress conditions. Annual Research & Review
in Biology. 4: 3687-3698.
El-Mashad, A.A.A., and H.I. Mohamed, 2012.
Brassinolide alleviates salt stress and increases
antioxidant activity of cowpea plants (Vigna sinensis).
Protoplasma, 249: 625-635.
Fujii, S. and Saka, H., 2002. Distribution of assimilates to
each organ in rice plants exposed to low temperature
at the ripening stage and effect of brassinolide on the
distribution. Plant Prod Sci., 4: 136-134.
Hasamuzzaman M, M. Fujita, M.N. Islam, K.U.
Ahamed and K. Nahar, 2009. Performance of four
irrigated rice varieties under differerent level of
salinity stress. International Journal of Integrative
Biology, 6: 85-90.
Läuchli, A., & Grattan, S. R, 2007. Plant growth and
development under salinity stress. In Advances in
molecular breeding toward drought and salt tolerant
crops (pp. 1-32). Springer Netherlands.
Nithila, S., D. Durga Devi, G. Velu, R. Amutha and
G. Rangaraju, 2013. Physiological evaluation of
groundnut (Arachis hypogaea L.) varieties for salt
tolerance and amelioration for salt stress. Research
Journal of Agriculture and Forestry Sciences. ISSN
2320-6063 1: 1-8.
Phap V. A, 2006. Induction of salt tolerance in rice
(Oryza sativa L.) by brassinosteroids, Ph.D. Thesis,
University of Bonn, Germany.
Khatun S., C.A. Rizzo and T.J. Flower, 1995b.
Genotypic variation in the effect of salinity on
fertility on rice. Plant Soil, 173: 239-250.
Tanwar, B.S, 2003. Saline Water Management for
Irrigation (3rd Revised Draft). International
Commission on Irrigation and Drainage (ICID).
New Delhi, India.
Takematsu T, Ikekawa N, Shida A., 1988. Increasing the
yield of cereals by means of brassinolide derivatives.
US Patent, 4: 442 -467.
Vardhini, B.V, 2012. Application of brassinolide
mitigates saline stress of certain metabolites of
sorghum grown in Karaikal. Journal of Phytology, 4:
01-03.
Yoshida, S., 1981. Cơ sở khoa học cây lúa. IRRI, Los
Banos, Laguna, Philippines (Bản dịch của Trần
Minh Thành, 1992. Trường Đại học Cần Thơ).
Zeng L., S. M. Lesch and C.M. Grieve, 2003. Rice
growth and yield respond to changes in water depth
and salinity stress. Agricultural Water Management,
59: 67-75.
Effects of brassinolide on the restriction of salinity damage
on rice plants under nethouse conditions
Le Kieu Hieu, Nguyen Bao Ve, Pham Phuoc Nhan
Abstract
The experiments were carried out in nethouse conditions on rice to determine the concentrations of brassinolide
for enhancing the growth and yield of rice under saline water irrigation conditions 6‰ at 4 growth stages, including
seedling, tillering, panicle initiation and heading (four experiments were carried out independently, corresponding
to four growth stages). Every experiment was laid out in completely randomized design (CRD), one factors
(Concentrations of brassinolide: 0; 0.05; 0.1; 0.2; 0.4 mg/L) with 5 replicates. The results showed that incubation of
seeds with brassinolide before salt treatment did not affect weight of grain/pot. Spraying brassinolide on salinized rice
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_brassinolide_trong_han_che_tac_hai_cua_man_tre.pdf