Kết luận
Trong phạm vi bài viết, tác giả đã sử dụng
mô hình VAR nhằm đánh giá tác động của
giá dầu đến các biến ngân sách của Việt
Nam giai đoạn 1990- 2019. Kết quả khẳng
định: Các cú sốc giá dầu có ảnh hưởng tích
cực đến tổng thu ngân sách, thu từ dầu thô
và cải thiện thâm hụt ngân sách, mặc dù ảnh
hưởng này đến các biến số là không đáng
kể. Mặt khác, biến động giá dầu không có
bất cứ tác động nào đến chi tiêu ngân sách.
Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất một số
gợi ý chính sách như: Chính phủ nên tăng
nguồn thu nội địa để đảm bảo cơ cấu thu
bền vững. Chính phủ nên cắt giảm chi ngân
sách mạnh mẽ, giảm tỷ trọng chi thường
xuyên, tăng dần tỷ trọng chi đầu tư phát
triển và cuối cùng có các biện pháp như
phát triển các hợp đồng phái sinh nhằm hạn
chế những rủi ro do cú sốc giá dầu gây ra.
Nghiên cứu sử dụng mô hình VAR với dữ
liệu quan sát khá lớn được thu thập theo
quý từ 1990 đến 2019 nhằm đo lường
ảnh hưởng của các cú sốc giá dầu đến các
biến ngân sách của Việt Nam, từ đó đưa
ra những kết quả ước lượng có độ tin cậy
cao hơn những nghiên cứu đã có với sự
giới hạn về số lượng quan sát. Tuy nhiên,
nghiên cứu cũng còn một số hạn chế sau:
Một là, nghiên cứu chưa tính đến các biến
động tỷ giá (chẳng hạn USD/VND) có
thể ảnh hưởng đến tương quan giữa giá
dầu Việt Nam và giá dầu thế giới, từ đó
ảnh hưởng đến các biến ngân sách. Hai là,
nghiên cứu sẽ có những đánh giá chính xác
hơn nếu tách biến Chi ngân sách thành hai
biến Chi thường xuyên và Chi đầu tư phát
triển, từ đó xem xét cụ thể tác động của giá
dầu đến từng biến này. Ba là, nếu nghiên
cứu áp dụng mô hình giá dầu phi tuyến tính
của Mork (1989) chia cú sốc giá dầu thành
2 biến Giá dầu thực tăng và Giá dầu thực
giảm thì việc đánh giá ảnh hưởng của các
cú sốc giá dầu đến các biến ngân sách sẽ
chi tiết hơn, tương ứng với thực tế từng giai
đoạn giá dầu tăng giảm ở Việt Nam. Các
nghiên cứu tiếp theo nếu khắc phục những
hạn chế này sẽ có thể cho kết quả nghiên
cứu tốt hơn
13 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 265 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của các cú sốc giá dầu đến các biến ngân sách của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 219- Tháng 8. 2020
Ảnh hưởng của các cú sốc giá dầu đến các biến
ngân sách của Việt Nam
Nguyễn Thành Nam
Khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng
Ngày nhận: 03/05/2020
Ngày nhận bản sửa: 09/06/2020
Ngày duyệt đăng: 22/06/2020
Bài viết áp dụng phương pháp tự hồi quy véc-tơ VAR (Vector Autoregression) nhằm
đánh giá ảnh hưởng của các cú sốc giá dầu đến các biến ngân sách Việt Nam trong
giai đoạn từ năm 1990- 2019. Kết quả cho thấy rằng, các cú sốc giá dầu có ảnh
hưởng tích cực, nhưng mức độ tác động là khá nhỏ đến thu từ dầu thô, và tổng thu
ngân sách với độ trễ tương ứng là 1 quý và 2 quý. Trong mối quan hệ với thâm hụt
ngân sách, biến động giá dầu có quan hệ ngược chiều. Theo đó, khi giá dầu tăng lên
thì thâm hụt ngân sách có thể được cải thiện sau 1 quý. Ngược lại, không tìm thấy
bằng chứng về tác động của giá dầu lên chi tiêu ngân sách.
Từ khóa: Chi ngân sách, Giá dầu, Thâm hụt ngân sách, Thu ngân sách, Thu từ dầu
thô, Việt Nam
Impacts of oil price shocks on budget variables in Vietnam
Abstract: This paper applies Vector Autoregression model to explore the affects of oil price shocks on
main budget variables of Vietnam using quarterly data between 1990Q1 and 2019Q4. The empirical
results indicate that the shocks of oil price have a weakly positive impact on oil revenues and budget
revenues with lag of 1 quarter and 2 quarters respectively. The relationship between budget deficit
and fluctuation of oil price are negative. This means when having an increase in oil price can improve
the budget deficit after 1 quarter. By contrast, there is not statistical evidence of impact of oil price on
budget expenditure.
Keywords: Budget expenditure, Oil price, Budget deficit, Budget revenues, Oil revenues, Vietnam
Nam Thanh Nguyen
Email: namnt@hvnh.edu.vn
Banking Faculty, Banking Academy of Vietnam
1. Giới thiệu
Trong giai đoạn 1990- 2008, cân đối
ngân sách của Việt Nam lệ thuộc nhiều
vào thu nhập từ dầu thô, giai đoạn 2000-
2008 tỷ trọng bình quân thu từ dầu thô
chiếm khoảng 25% tổng thu ngân sách
Nhà nước (NSNN), nên khi có biến
động về giá dầu sẽ có ảnh hưởng rất lớn
đến thu ngân sách. Đến giai đoạn 2009-
2019, tỷ trọng đóng góp của thu từ dầu
thô vào tổng thu NSNN có xu hướng
Ảnh hưởng của các cú sốc giá dầu đến các biến ngân sách của Việt Nam
2 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020
giảm dần qua các năm, tỷ trọng bình quân
giai đoạn 2011- 2015 giảm mạnh xuống
khoảng 13%, và từ 2016- 2019 tỷ trọng thu
từ dầu thô chỉ chiếm khoảng 4% tổng thu
NSNN. Tuy nhiên, những cú sốc giá dầu
giảm vẫn tạo ra những tác động tiêu cực
nhất định đến thu ngân sách, đặc biệt khi
giá dầu bình quân trên thực tế có sự giảm
mạnh so với dự toán ban đầu, thu ngân sách
từ dầu thô sẽ sụt giảm nhiều so với con số
dự toán, từ đó đặt ra những thách thức cho
cân đối ngân sách (Minh Anh, 2020), đặc
biệt là vấn đề thâm hụt ngân sách. Nếu
tình trạng thâm hụt kéo dài với quy mô lớn
và tốc độ cao sẽ kéo theo một số các hậu
quả tiêu cực đến nền kinh tế như lạm phát
tăng cao, tăng lãi suất, tác động tiêu cực tới
tỷ giá, tăng tỷ lệ nợ công, làm giảm tăng
trưởng kinh tế, đe dọa sự ổn định vĩ mô,
gây áp lực trở lại đối với NSNN khiến Việt
Nam đi vào một vòng luẩn quẩn với gánh
nặng nợ ngày càng tăng. Vì vậy nghiên cứu
này sẽ tập trung đánh giá ảnh hưởng của
biến động giá dầu thế giới tới các biến ngân
sách của Việt Nam (gồm chi ngân sách, thu
ngân sách, thu từ dầu thô, thâm hụt ngân
sách), từ đó đưa ra các gợi ý chính sách phù
hợp nhằm giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực
của biến động giá dầu tới tình trạng NSNN.
2. Cơ sở lý thuyết
Kể từ năm 1973 đến nay, đã có nhiều nghiên
cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa sự
thay đổi giá dầu và các biến kinh tế vĩ mô
của nền kinh tế, điển hình như nghiên cứu
của Hamilton (1983), Gisser (1986); Mork
(1989), Mehrara (2008), Du và các cộng sự
(2010), Naccache (2010). Tuy nhiên, chỉ
một số ít các nghiên cứu đánh giá tác động
của biến động giá dầu đến các biến ngân
sách, dẫu vậy mỗi nghiên cứu lại đưa ra
những quan điểm khác nhau về mối quan hệ
giữa giá dầu và các biến ngân sách. Cụ thể:
○ Quan điểm giá dầu có ảnh hưởng mạnh
đến biến ngân sách
Nghiên cứu của Eltony và Al-Awadi (2001)
sử dụng mô hình tự hồi quy Vectơ (VAR)
và mô hình hiệu chỉnh sai số (VECM) để
kiểm định tác động của biến động giá dầu
đến 7 biến vĩ mô của Kuwait đã khẳng định
rằng giá dầu và thu nhập từ dầu có tác động
đáng kể đến chi tiêu thường xuyên và chi
phát triển của Chính phủ, nhưng chi phát
triển chịu tác động lớn hơn. Kết quả này
trùng với nghiên cứu của Almulali và Che
Sab (2013) khi cho rằng một sự tăng mạnh
của giá dầu dẫn tới tăng thu nhập về dầu,
từ đó tác động tích cực làm tăng chi tiêu
Chính phủ ở các quốc gia thuộc Tổ chức
các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC).
Tương tự như vậy, nghiên cứu của Lorde
và Thomas (2009) ở quốc gia Trinidad và
Tobago, nghiên cứu của Jbir và Zouari-
Ghorbel (2009) tại Tunisia và nghiên cứu
của Oriakhi và Iyoha (2013) tại Nigeria
cũng cho thấy các cú sốc giá dầu tác động
đáng kể và cùng chiều đến thu nhập, cũng
như chi tiêu ngân sách của Chính phủ.
Tại Việt Nam, một vài nghiên cứu cũng thể
hiện quan điểm là sự biến động của giá dầu
có ảnh hưởng đến thu ngân sách của Việt
Nam. Cụ thể: Nguyễn Đức Thành, Nguyễn
Quang Thái, Phạm Văn Đại (2016) trong
bài thảo luận chính sách CS-11 của VEPR
tiến hành đánh giá ảnh hưởng giá dầu tới
nguồn thu ngân sách trong giai đoạn 2011-
2015 đã đưa ra kết quả là nếu giá dầu giảm
1 USD sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách
trung bình khoảng 2.100 tỷ đồng và giá
dầu tiếp tục giảm xuống dưới 40 USD thì
nguồn thu ngân sách sẽ sụt giảm đáng kể.
Một nghiên cứu khác của Lương Văn Khôi
và Nhóm nghiên cứu Ban Kinh tế thế giới
(2015) tiến hành xem xét triển vọng giá dầu
NGUYỄN THÀNH NAM
3Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
trong trung hạn và một số kịch bản tác động
tới nền kinh tế Việt Nam cũng khẳng định
giá dầu giảm xuống làm nguồn thu ngân
sách giảm, nhưng đổi lại sẽ hỗ trợ sản xuất
do Việt Nam là nước phải nhập khẩu nhiều
xăng dầu thành phẩm, từ đó làm tăng GDP,
và mức tăng của GDP sẽ bù đắp vào việc
giảm nguồn thu ngân sách do giá dầu sụt
giảm, do đó xét một cách tổng thể giá dầu
thế giới giảm sẽ không ảnh hưởng xấu đến
nền kinh tế Việt Nam.
○ Quan điểm giá dầu không ảnh hưởng
hoặc ảnh hưởng yếu đến biến ngân sách
Có một số nghiên cứu lại đưa ra quan điểm
rằng tác động của giá dầu đến các biến
ngân sách là không đáng kể. Có thể kể đến
nghiên cứu của Olusegun O.A (2008) và
Akin và Babajidie (2011) sử dụng mô hình
VAR nhằm thực hiện phân tích nền kinh
tế Nigeria đã đưa ra kết quả rằng các cú
sốc giá dầu ảnh hưởng không lớn đến các
khoản chi của Chính phủ. Hay nghiên cứu
của Farzanegan and Markwardt (2009) ở
nền kinh tế Iran cũng khẳng định không tìm
thấy bất kỳ một tác động đáng kể nào của
giá dầu đến chi tiêu Chính phủ.
Trong khi đó, nghiên cứu của Elsiddig
Rahma, Noel Perera và Kian Tan (2016)
đánh giá tác động của các cú sốc giá dầu
đến các biến ngân sách ở Sudan lại chỉ ra
rằng: Khi giá dầu sụt giảm sẽ ảnh hưởng
mạnh mẽ đến chi thường xuyên, thu từ dầu
và thâm hụt ngân sách, nhưng khi giá dầu
tăng lên lại không hề ảnh hưởng đến các
biến này.
Như vậy, từ những nghiên cứu điển hình
trên thế giới và Việt Nam đã đề cập ở trên,
có thể thấy tồn tại những kết luận khác
nhau về mối quan hệ giữa giá dầu và các
biến ngân sách. Điều này có thể do sự khác
biệt về số liệu, mô hình nghiên cứu, cấu
trúc nền kinh tế, cơ cấu chi tiêu ngân sách,
và tỷ trọng thu từ dầu thô trong tổng thu
ngân sách của từng quốc gia. Ngoài ra, các
nghiên cứu đã có chủ yếu tập trung đánh
giá ảnh hưởng biến động giá dầu đến các
biến chi ngân sách và thu từ dầu thô, rất ít
nghiên cứu đề cập đến biến thu ngân sách
và thâm hụt ngân sách.
Những hạn chế này sẽ được khắc phục
trong nghiên cứu này của tác giả, thể hiện ở
những điểm mới sau:
Một là, nghiên cứu này đánh giá ảnh hưởng
của biến giá dầu đến tất cả các biến ngân
sách gồm thu từ dầu thô, thu ngân sách,
chi ngân sách và thâm hụt ngân sách. Điều
này khác với các nghiên cứu trước chỉ bao
gồm biến thu từ dầu thô và chi ngân sách,
ví dụ nghiên cứu của Nguyễn Đức Thành,
Nguyễn Quang Thái, Phạm Văn Đại (2016)
và Lương Văn Khôi và Nhóm nghiên cứu
(2015) về trường hợp của Việt Nam chỉ đề
cập đến biến thu ngân sách.
Hai là, khác với các nghiên cứu trước
thường chỉ sử dụng bộ số liệu giới hạn (kể
cả nghiên cứu của Nguyễn Đức Thành,
Nguyễn Quang Thái, Phạm Văn Đại (2016)
chỉ có số liệu từ 2011- 2015 nên chưa thấy
được một cách bao quát ảnh hưởng của cú
sốc giá dầu đến tình trạng NSNN), trong
nghiên cứu này, tác giả sử dụng bộ số liệu
khá lớn từ năm 1990 (từ khi Việt Nam bắt
đầu quá trình cải cách kinh tế) đến năm
2019, được kỳ vọng sẽ tạo ra kết quả tin
cậy hơn các nghiên cứu trước đây.
Ba là, những nghiên cứu ở Việt Nam về
tác động của các cú sốc giá dầu thường chỉ
dừng lại ở phân tích định tính hoặc phân
tích định lượng sử dụng các mô hình hồi
quy tuyến tính giản đơn. Nghiên cứu này
Ảnh hưởng của các cú sốc giá dầu đến các biến ngân sách của Việt Nam
4 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020
tác giả sử dụng phân tích định lượng với
mô hình tự hồi quy véc-tơ (VAR-Vector
Autoregression) nhằm đánh giá tác động
giá dầu không chỉ lên thu ngân sách, mà
còn đến thâm hụt ngân sách, chi ngân sách
(các biến mà các nghiên cứu trước tại Việt
Nam chưa đề cập).
3. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu
3.1. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng mô hình VAR được
Christopher A. Sim đề xuất năm 1980 để
đánh giá tác động của cú sốc giá dầu đến
thâm hụt ngân sách. Mô hình này cũng đã
được áp dụng trong các nghiên cứu của
Hamilton (1983); Mork (1989); Jimenez-
Rodriguez (2008); Zhang (2011) để đánh
giá tác động của các cú sốc giá dầu đến các
biến kinh tế vĩ mô. Mô hình VAR bao gồm
một tập hợp các biến được hồi quy trên các
giá trị trong quá khứ của riêng chúng và các
giá trị bị trễ các biến số khác (Guidi, 2009).
Mô hình VAR (p) có dạng:
tptpttt yyyy εφφφφ +++++= −−− ....... 22110
Trong đó: yt là vec-tơ của các biến nội sinh
(Thu ngân sách, Chi tiêu ngân sách, Thu từ
thuế, Thâm hụt ngân sách và giá dầu); ɸi là
các ma trận hệ số, p là độ trễ, và ɛt là vec-tơ
nhiễu (phần dư) (Hamilton, 1994. p. 257).
Thông thường, các nhà nghiên cứu thường
sử dụng mô hình VAR để phân tích quan
hệ nhân quả Granger, phân tích hàm phản
ứng (impulse response functions- IRFs) và
phân rã phương sai.
Các biến trong mô hình này gồm: Giá dầu
(OILP), Thâm hụt ngân sách (DEFICIT),
Chi tiêu ngân sách (CUREXP), Thu từ dầu
(OILREV), Thu ngân sách (REV). Tác giả
đề xuất cơ chế truyền dẫn của giá dầu đến
các biến ngân sách tại Hình 1.
3.2. Dữ liệu nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện kiểm định tác động
của cú sốc giá dầu (OILP) đến các biến ngân
sách (Thu ngân sách- REV, Chi tiêu ngân
sách- CUREXP, Thu từ dầu- OILREV và
thâm hụt ngân sách- DEFICIT). Các dữ liệu
này được thu thập trong giai đoạn 1990- 2019
từ Báo cáo thường niên trên website https://
www.mof.gov.vn/ của Bộ Tài chính và từ
mục Số liệu thống kê trên website https://
www.gso.gov.vn/ của Tổng cục thống kê.
Riêng giá dầu được lấy từ cơ quan quản lý
thông tin năng lượng Hoa Kỳ (US Energy
Information Administration) tại website
https://www.statista.com/statistics/266659/
west-texas-intermediate-oil-prices/ và http://
www.eia.gov/. Bởi vì số liệu được thống kê
theo năm (trừ số liệu về giá dầu), nên tác giả
đã tiến hành nội suy để có được bộ số liệu
theo quý, từ Quý I/1990 đến Quý IV/2019
nhằm tạo ra một mẫu đủ lớn (120 quan sát)
với độ tin cậy 95%.
Về đo lường các biến số, tất cả các biến
ngân sách (Thu ngân sách, Chi tiêu ngân
Hình 1. Mối quan hệ giữa giá dầu và các
biến ngân sách
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Thâm hụt
ngân sách
Chi ngân
sách
Thu từ
dầu
Giá dầu
Thu ngân
sách
NGUYỄN THÀNH NAM
5Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
sách, Thu từ dầu và thâm hụt ngân sách)
đều tính theo phần trăm trên GDP (REV/
GDP, CUREXP/GDP OILREV/GDP,
DEFICIT/GDP). Riêng biến giá dầu tính
theo giá dầu thô WTI của Hoa Kỳ, đơn vị
USD/thùng (OILP).
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Kiểm định tính dừng
Nghiên cứu sử dụng kiểm định nghiệm
đơn vị ADF (Augmented Dickey-Fuller)
và kiểm định PP (Phillips-Perron) để kiểm
tra tính dừng của chuỗi số liệu các biến số.
Mục đích của việc kiểm định tính dừng của
dữ liệu là để đảm bảo cho mô hình không có
hiện tượng hồi quy giả mạo. Kết quả kiểm
định cho thấy các biến DEFICIT, REV,
OILREV, CUREXP, và OILP đều không
dừng, chỉ có biến DEFICIT dừng tại mức
ý nghĩa 5% với kiểm định PP và biến REV
dừng tại mức ý nghĩa 10% đối với kiểm
định ADF (Bảng 1). Tiến hành lấy sai phân
bậc 1 thì tất cả các biến đều dừng tại cả 3
mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%. Do đó, các
biến trong mô hình đều tích hợp bậc nhất I
(1). Bởi vì mục tiêu của nghiên cứu là đánh
giá các cú sốc giá dầu đến các biến ngân
sách thông qua phân tích hàm phản ứng và
phân rã phương sai nên sẽ không xem xét
mối quan hệ dài hạn, nghĩa là vấn đề đồng
tích hợp sẽ không đề cập ở đây.
4.2. Lựa chọn độ trễ cho mô hình
Tiến hành kiểm tra độ trễ của mô hình theo
tiêu chuẩn AIC, HQ, SC cho thấy rằng độ trễ
của mô hình là 5 quý được chấp nhận ở hầu
hết mọi tiêu chuẩn (Bảng 2).
4.3. Kiểm định nhân quả Granger
Để xác định xem liệu các giá trị lịch sử
của một chuỗi thời gian có hữu ích trong
việc dự báo giá trị của một chuỗi khác hay
không, nghiên cứu tiến hành kiểm tra quan
hệ nhân quả Granger (Granger, 1969). Giả
thuyết là không có mối quan hệ nhân quả
giữa các biến. Nếu giá trị P có được nhỏ
hơn 5% (P value < 5%) thì có cơ sở để loại
bỏ giả thuyết này, nghĩa là có mối quan hệ
nhân quả giữa các biến.
Bảng 3 thể hiện kết quả kiểm định nhân quả
Granger giữa những cú sốc giá dầu với các
biến ngân sách. Với các giá trị P < 5%, rõ
ràng sự thay đổi giá dầu ảnh hưởng đến thu
nhập từ dầu (0,0032), đến thu ngân sách
(0,0263) và ảnh hưởng đến thâm hụt ngân
sách (0,0059). Tuy nhiên, giá dầu không hề
ảnh hưởng đến chi tiêu ngân sách.
Bảng 1. Kiểm định tính dừng theo phương pháp ADF và PP
Biến số
Kiểm định ADF Kiểm định PP
Chuỗi gốc (Level) Sai phân bậc 1 (First different) Chuỗi gốc (Level)
Sai phân bậc 1 (First
different)
DEFICIT -2,062432 -4,529467*** -3,499513** -5,563529***
REV -2,794361* -4,912913*** -2,822821 -4,896898***
OILREV -1,325557 -3,412445*** -0,989810 -4,917798***
CUREXP -1,664401 -4,325705*** -1,961875 -5,367957***
OILP -1,601853 -9,097272*** -1,652044 -8,640114***
*, **, *** lần lượt là có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%
Nguồn: Tính toán từ Eviews 9
Ảnh hưởng của các cú sốc giá dầu đến các biến ngân sách của Việt Nam
6 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020
4.4. Kiểm định độ ổn định của mô hình
Kết quả Hình 2 thể hiện mô hình có tính
ổn định (tất cả các nghiệm đều nằm trong
vòng tròn đơn vị) hay các mô đun tính toán
được đều có giá trị nhỏ hơn 1
4.5. Kết quả ước lượng mô hình
Tiến hành ước lượng mô hình VAR với độ
trễ 5 quý. Bởi vì nghiên cứu chỉ tập trung
đánh giá tác động của biến động giá dầu
đến các biến ngân sách nên tác giả chỉ xuất
một phần kết quả từ mô hình VAR (Bảng
4). Kết quả mô hình cho thấy rằng:
Bảng 3. Kiểm định nhân quả Granger
Giả thuyết Số quan sát Thống kê F Giá trị P
DOILP không có tác động đến DDEFICIT 117 5,38155 0,0059
DDEFICIT không có tác động đến DOILP 0,45814 0,6336
DOILP không có tác động đến DOILREV 117 6,03891 0,0032
DOILREV không có tác động đến DOILP 1,54732 0,2173
DOILP không có tác động đến DCUREXP 117 1,38466 0,2547
DCUREXP không có tác động đến DOILP 0,53346 0,5881
DOILP không có tác động đến DREV 117 0,85910 0,0263
DREV không có tác động đến DOILP 1,59647 0,2072
Nguồn: Tính toán từ Eviews 9
-1.5
-1.0
-0.5
0.0
0.5
1.0
1.5
-1.5 -1.0 -0.5 0.0 0.5 1.0 1.5
Inverse Roots of AR Characteristic Polynomial
Hình 2. Đồ thị đơn vị AR
Nguồn: Tính toán từ Eviews 9
Bảng 2. Lựa chọn độ trễ cho mô hình
Lag LogL LR FPE AIC SC HQ
0 -162,0641 NA 1,40e-05 3,010164 3,132215 3,059677
1 -71,96012 170,4670 4,32e-06 1,837119 2,569425* 2,134194
2 -56,74032 27,42307 5,17e-06 2,013339 3,355899 2,557976
3 -45,83696 18,66342 6,71e-06 2,267333 4,220147 3,059532
4 61,18139 173,5433 1,55e-06 0,789525 3,352594 1,829286
5 122,2347 93,50505 8,27e-07* 0,139916* 3,313239 1,427239*
6 133,1738 15,76804 1,10e-06 0,393266 4,176844 1,928151
7 143,6577 14,16750 1,50e-06 0,654816 5,048649 2,437264
8 186,6104 54,17456* 1,15e-06 0,331344 5,335432 2,361355
* Chỉ ra độ trễ của mô hình
Nguồn: Tính toán từ Eviews 9
NGUYỄN THÀNH NAM
7Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Thứ nhất, những cú sốc giá dầu có tác động
thuận chiều đến nguồn thu từ dầu thô với
độ trễ 1 quý, nhưng tác động này là không
lớn. Cụ thể, kết quả từ mô hình cho thấy
nếu giá dầu thô tăng 1USD thì sau khoảng
1 quý thu từ dầu thô sẽ tăng lên 0,1461%.
Điều này khá phù hợp với những gì đã diễn
ra ở Việt Nam. Trong giai đoạn 1990- 2008,
giá dầu tăng mạnh từ 24,52 USD/thùng lên
mức cao kỷ lục 99,06 USD/thùng năm 2008,
đã đóng góp vào thu từ dầu thô tăng từ 1,2
nghìn tỷ đồng năm 1990 lên 89,6 nghìn tỷ
đồng năm 2008. Tương tự như thế, giai đoạn
2010- 2013 giá dầu tăng và duy trì ở mức
cao bình quân khoảng 91,6 USD/thùng cũng
góp phần đáng kể vào tổng thu từ dầu thô
đạt bình quân khoảng 109,9 nghìn tỷ đồng.
Ngược lại, trong giai đoạn 2014- 2019, giá
dầu thô giảm sâu, giá dầu trung bình ở giai
đoạn này dao động khoảng 59,3 USD/thùng,
khiến nguồn thu từ dầu chỉ đạt mức trung
bình khoảng 62,01 nghìn tỷ đồng.
Thứ hai, trong mối tương quan với biến số
tổng thu ngân sách, biến giá dầu có tác động
cùng chiều nhưng khá yếu (hệ số hồi quy
là 0,000406>0) và ảnh hưởng sau 2 quý.
Điều này là bởi tỷ trọng nguồn thu từ dầu
thô trong tổng thu cân đối ngân sách của
Việt Nam đã giảm dần qua các năm, khi đó
giá dầu tăng sẽ không mang lại nhiều đóng
góp đáng kể vào thu ngân sách nữa. Cụ thể,
trong giai đoạn 1990- 2014, gánh nặng thu
ngân sách vẫn đặt nặng lên hàng hóa “mũi
nhọn” mang tên dầu thô, tỷ trọng thu từ dầu
trong cơ cấu thu ngân sách luôn ở mức 2
con số, trung bình khoảng 18,61% (đặc biệt
trong năm 2006, tỷ trọng thu từ dầu thô ở
mức cao nhất khoảng 29,82%), nhưng đến
giai đoạn 2015- 2019, thu ngân sách có vẻ
như đã chủ động dần “thoát dầu”, giảm
dần sự lệ thuộc vào nguồn thu từ khai thác
tài nguyên này, phần đóng góp của ngành
này vào tổng thu ngân sách chỉ còn chiếm
trung bình khoảng 3,94%/năm và trong cả
giai đoạn này, tỷ trọng thu từ dầu thô chỉ
ở mức 1 con số, không vượt quá 6%/năm.
Do vậy, bất chấp sự giảm sút của giá dầu kể
từ 2015 đến nay, nguồn thu ngân sách cũng
không bị ảnh hưởng đáng kể. Mặt khác, giá
dầu giảm còn mang lại lợi ích cho thu ngân
sách, bởi vì khi giá dầu thô giảm sẽ góp
phần giảm chi phí đầu vào cho hầu hết các
doanh nghiệp như doanh nghiệp vận tải, sản
xuất phân bón, nhựa, khai thác tài nguyên,
đánh bắt thủy sản, luyện kim (vì xăng dầu
chiếm khoảng 20%- 30% chi phí đầu vào
của những ngành này), từ đó tăng lợi nhuận
cho doanh nghiệp, tăng nguồn thu từ thuế
cho ngân sách.
Thứ ba, biến số được quan tâm nhất là
thâm hụt ngân sách có tương quan nghịch
với biến giá dầu với độ trễ 1 quý, nhưng ở
mức độ tương quan yếu. Nghĩa là khi giá
dầu tăng lên 1 USD tại quý thứ t-1 thì thâm
hụt ngân sách sẽ giảm 0,1935% trong quý
thứ t. Kết quả này cho thấy giá dầu có tác
động cải thiện thâm hụt ngân sách, dù rằng
tác động này không đáng kể. Xem xét kết
quả này với thực tiễn ở Việt Nam thấy rằng
mối quan hệ giữa giá dầu và bội chi ngân
sách phụ thuộc vào mối tương quan giữa
thu ngân sách và chi ngân sách. Trong cả
giai đoạn 1990- 2019, có những thời điểm
giá dầu tăng cao, sau đó giảm mạnh nhưng
cả thu và chi ngân sách vẫn tăng qua các
năm, nhưng tốc độ tăng của thu ngân sách
không cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của
chi ngân sách nên mức độ bội chi không
được cải thiện nhiều.
Thứ tư, không tìm thấy bằng chứng có ý
nghĩa thống kê về ảnh hưởng của biến động
giá dầu đến chi tiêu ngân sách. Điều này là
hợp lý bởi chi tiêu ngân sách thường chịu
ảnh hưởng của các yếu tố như mô hình tổ
chức bộ máy Nhà nước, nhiệm vụ kinh tế-
Ảnh hưởng của các cú sốc giá dầu đến các biến ngân sách của Việt Nam
8 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020
xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ,
nhu cầu đòi hỏi về hàng hóa dịch vụ công,
sự phát triển của lực lượng sản xuất, năng
lực thu ngân sách của nền kinh tế, giới hạn
nợ công, các yếu tố biến động kinh tế, chính
trị Từ đây, muốn nghiên cứu ảnh hưởng
của sự biến động giá dầu đến chi ngân sách
chỉ có thể thông qua nhân tố năng lực thu
ngân sách. Thật vậy, trong bối cảnh giá
dầu giảm sâu làm ảnh hưởng đến nguồn
thu ngân sách, khi đó Chính phủ cần tính
toán lại các khoản chi ngân sách, cơ cấu lại
các khoản chi một cách cứng rắn, bởi giảm
chi cũng mang lại lợi ích như tăng thu, góp
phần giảm áp lực lên bội chi ngân sách.
4.6. Phân tích hàm phản ứng
Hàm phản ứng kiểm tra các phản ứng của
các biến ngân sách trước các cú sốc giá dầu
không dự đoán được. Phương pháp phân
tích Cholesky được sử dụng với thời gian
Bảng 4. Mô hình VAR
Mẫu (được điều chỉnh): 1991Q3 2019Q4
Số quan sát: 114 sau khi điều chỉnh
Các sai số chuẩn trong dấu ( ) & Giá trị t quan sát trong dấu [ ]
DDEFICIT DOILP DOILREV DREV DCUREXP
DOILP(-1) -0.001935** 0.216627** 0.001461** -0.003859 -0.002954
(0.00084) (0.10850) (0.00062) (0.00324) (0.00360)
[-2.30379] [ 1.99650] [ 2.34281] [-1.19187] [-0.81981]
DOILP(-2) 0.001293 -0.418943*** -0.001100 0.000406* -0.000687
(0.00089) (0.11536) (0.00066) (0.00344) (0.00383)
[ 1.44724] [-3.63158] [-1.65844] [ 0.69908] [-0.17922]
DOILP(-3) 0.000375 -0.086609 -0.000580 -0.002312 -0.001125
(0.00098) (0.12668) (0.00073) (0.00378) (0.00421)
[ 0.38196] [-0.68369] [-0.79675] [-0.61167] [-0.26747]
DOILP(-4) 0.000262 0.099612 -0.000485 0.000686 -0.001504
(0.00093) (0.11974) (0.00069) (0.00357) (0.00398)
[ 0.28237] [ 0.83190] [-0.70539] [ 0.19213] [-0.37812]
DOILP(-5) -4.75E-06 -0.197264* -0.000428 -0.003502 -0.004909
(0.00090) (0.11661) (0.00067) (0.00348) (0.00387)
[-0.00526] [-1.69160] [-0.63865] [-1.00654] [-1.26760]
C 0.001475 0.724093 -0.000985 0.005398 0.000221
(0.00648) (0.83677) (0.00481) (0.02497) (0.02779)
[ 0.22773] [ 0.86534] [-0.20488] [ 0.21621] [ 0.00796]
R2 0.763856 0.306324 0.627739 0.391402 0.653269
R2 điều chỉnh 0.696769 0.109257 0.521984 0.218505 0.554766
*, **, *** lần lượt là có ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1%
Nguồn: Trích một phần kết quả từ Eviews 9
NGUYỄN THÀNH NAM
9Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
phản ứng là 10 quý. Kết quả phân tích hàm
phản ứng (Hình 3) được phân tích như sau:
Một là, các cú sốc giá dầu có tác động tích
cực đến nguồn thu từ dầu trong khoảng 2
quý đầu tiên, nhưng sau đó ảnh hưởng của
giá dầu đến thu từ dầu là ngược chiều.
Hai là, đối với phản ứng của thu ngân sách
trước các cú sốc giá dầu, giá dầu tăng chỉ
thực sự ảnh hưởng làm tăng thu ngân sách từ
quý thứ 2 trở đi. Điều này là bởi vì phải cần
có thời gian đủ dài để hiệu ứng truyền tải tác
động từ biến động giá dầu đến thu từ dầu,
sau đó mới ảnh hưởng đến thu ngân sách.
Ba là, cú sốc giá dầu chỉ có tác dụng cải
thiện thâm hụt ngân sách trong 2 quý đầu
tiên, sau đó tình trạng ngân sách không
được cải thiện nữa.
Bốn là, dễ dàng nhận thấy phản ứng của chi
ngân sách trước các cú sốc giá dầu là nghịch
chiều trong 2 quý đầu tiên, kể từ quý 2 trở
đi cú sốc giá dầu tăng sẽ làm tăng chi ngân
sách mặc dù sự tăng là không đáng kể.
4.7. Phân rã phương sai
Phương pháp phân rã phương sai để xác
định biến động của các biến ngân sách có
sự đóng góp bao nhiêu phần trăm từ sự biến
động của chính mỗi biến đó và từ biến động
của các biến khác, trong đó có biến giá dầu.
Bảng phân rã phương sai thể hiện ở Bảng
5 dưới đây:
Thứ nhất, tại quý thứ 10 sự biến động của
thâm hụt ngân sách chủ yếu do chính biến
này đóng góp (57,29%) tiếp theo là chi ngân
sách đóng góp 21,64%, trong khi đó giá dầu
chỉ đóng góp 2,49%. Do vậy, sự biến động
của tăng giá dầu không hề có vai trò lớn
trong việc cải thiện thâm hụt ngân sách.
-.03
-.02
-.01
.00
.01
.02
.03
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Response of DOILREV to DOILP
-.12
-.08
-.04
.00
.04
.08
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Response of DREV to DOILP
-.04
-.03
-.02
-.01
.00
.01
.02
.03
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Response of DDEFICIT to DOILP
-.12
-.08
-.04
.00
.04
.08
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Response of DCUREXP to DOILP
Response to Cholesky One S.D. Innovations ± 2 S.E.
Hình 3. Phân tích hàm phản ứng
Nguồn: Tính toán từ Eviews 9
Ảnh hưởng của các cú sốc giá dầu đến các biến ngân sách của Việt Nam
10 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020
Thứ hai, khi phân tích nguồn gốc gây ra sự
biến động của thu ngân sách cũng tại quý
thứ 10 thấy rằng thu ngân sách biến động
chủ yếu do chính nó gây nên (66,53%), chỉ
có một tỷ lệ nhỏ (1,82%) là sự đóng góp
của biến thu từ dầu thô và giá dầu chỉ đóng
góp 0,84%. Kết quả này chứng tỏ thu ngân
sách của Việt Nam đang giảm dần sự phụ
thuộc nguồn thu từ dầu thô.
Thứ ba, xem xét sự biến động của biến thu
từ dầu có sự đóng góp lớn nhất từ chính
biến này là 83,92% và đúng như kỳ vọng
biến giá dầu đóng góp lớn thứ hai vào sự
biến động của biến này (7,91%) tại quý 10.
Điều này cho thấy giá dầu vẫn ảnh hưởng
đến thu nhập từ dầu thô.
Thứ tư, đối với biến chi ngân sách, sự biến
động của biến này đến từ phần lớn đóng góp
của biến đó (44,87%), và có đến 27,42%
thu ngân sách giải thích được sự biến động
của chi ngân sách. Điều này hàm ý rằng,
chi ngân sách phụ thuộc khá lớn vào năng
lực thu ngân sách, nếu thu ngân sách tăng
lên, thì mức chi cũng theo đó mà tăng lên,
và ngược lại khi các nguồn động viên vào
ngân sách bị hạn chế, thì Chính phủ cũng
phản ứng bằng cách thắt chặt chi tiêu hơn,
tiết kiệm hơn. Và cũng không bất ngờ, khi
biến giá dầu đóng góp ít nhất (1,27%) vào
sự biến động của chi ngân sách, điều này
càng chứng minh yếu tố giá dầu hầu như
không ảnh hưởng đến nguồn chi ngân sách.
5. Một số hàm ý chính sách
Từ những kết quả phân tích ở trên, tác giả
đưa ra một số gợi ý chính sách nhằm giảm
thâm hụt ngân sách như sau:
Thứ nhất, Chính phủ nên điều chỉnh cơ cấu
thu ngân sách, tăng nguồn thu nội địa để
có thể bù đắp được mức giảm của thu dầu
thô và xuất khẩu, và đảm bảo cơ cấu thu
bền vững. Thực tế cho thấy tỷ trọng nguồn
thu từ dầu trong tổng thu ngân sách ngày
càng giảm trong bối cảnh diễn biến giá dầu
giảm từ 2014 đến 2019 và đồng thời kết
quả thực nghiệm từ mô hình cũng cho thấy
giá dầu tăng không tác động đáng kể làm
tăng tổng thu ngân sách sau 2 quý. Do đó,
trước những biến động giảm giá dầu, Chính
phủ hoàn toàn có đủ thời gian (2 quý) để cơ
cấu lại tỷ trọng thu ngân sách và cần nỗ lực
khai thác triệt để các nguồn thu nội địa như
thu thuế thu nhập cá nhân, thu từ bất động
sản và các nguồn thu khác.
Thứ hai, Chính phủ cần thực hiện giảm chi
ngân sách một cách mạnh mẽ để giảm thâm
hụt ngân sách. Kết quả mô hình thể hiện
ảnh hưởng của giá dầu tăng chỉ có tác dụng
cải thiện thâm hụt ngân sách trong 1 quý
đầu tiên, và mức độ cải thiện không nhiều.
Ngoài ra, tại quý thứ 10, biến chi ngân sách
cũng đóng góp khá đáng kể (21,64%) vào
sự biến động của biến thâm hụt ngân sách.
Do đó, về mặt lâu dài để giảm thâm hụt
ngân sách Chính phủ cần thiết phải giảm
chi ngân sách một cách mạnh mẽ và cứng
rắn như: Cơ cấu lại chi NSNN theo hướng
tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển; Tiết
kiệm các khoản chi thường xuyên trên cơ
sở quản lý chặt chẽ biên chế, tinh gọn bộ
máy nhà nước, tăng định mức cho chi sự
nghiệp kinh tế, chi duy tu, bảo dưỡng; Vay
bù đắp bội chi ngân sách chỉ dành cho đầu
tư phát triển, không vay để phục vụ cho
tiêu dùng thường xuyên.
Thứ ba, nghiên cứu cho thấy sự biến động
giá dầu tăng không đem lại những kết quả
tích cực nhiều cho việc tăng thu ngân sách,
cũng như ít cải thiện được thâm hụt ngân
sách, mà còn gây ra nhiều tác động không
tốt cho doanh nghiệp (trừ các doanh nghiệp
khai thác dầu khí và kinh doanh xăng dầu)
NGUYỄN THÀNH NAM
11Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Bảng 5. Phân rã phương sai của thâm hụt ngân sách, thu ngân sách, chi ngân sách,
thu từ dầu thô
Period S.E. DDEFICIT DREV DCUREXP DOILREV DOILP
Variance Decomposition of DDEFICIT:
1 0,063026 100,0000 0,000000 0,000000 0,000000 0,000000
2 0,069317 92,74645 4,947433 0,337530 0,768019 1,200569
3 0,075659 85,90985 9,492143 0,376923 2,907251 1,313836
4 0,080952 79,98271 12,27594 0,335856 4,122560 3,282935
5 0,092340 69,31024 12,68510 11,85156 3,490529 2,662570
6 0,093238 69,10001 12,44748 12,16443 3,428505 2,859581
7 0,094871 68,63573 12,55911 11,94068 4,083616 2,780872
8 0,097723 66,85116 12,88438 11,45855 5,921714 2,884196
9 0,105258 58,50674 13,47090 20,40958 5,122472 2,490307
10 0,106403 57,29963 13,46437 21,64363 5,103923 2,488448
Variance Decomposition of DREV:
1 0,183116 28,49151 71,50849 0,000000 0,000000 0,000000
2 0,227431 29,35077 70,27766 0,291062 0,065555 0,014944
3 0,272516 30,09451 68,63760 0,517690 0,651138 0,099062
4 0,314891 29,52546 67,99417 0,719286 0,814422 0,946661
5 0,330868 29,47653 67,37858 1,222380 1,063810 0,858699
6 0,339310 29,41739 66,99631 1,350453 1,419129 0,816714
7 0,342072 29,34705 66,81456 1,437772 1,554672 0,845947
8 0,342154 29,33309 66,78278 1,475512 1,559421 0,849200
9 0,342908 29,33413 66,69939 1,498853 1,619105 0,848517
10 0,345237 29,29957 66,53392 1,505369 1,823099 0,838035
Variance Decomposition of DOILREV:
1 0,250453 0,147787 3,550813 2,457749 93,84365 0,000000
2 0,287222 0,119510 3,711838 1,718489 88,44454 6,005620
3 0,324722 0,096189 3,911973 1,373845 89,81630 4,801695
4 0,357310 0,079264 4,112063 1,131801 90,27204 4,404836
5 0,387376 0,098687 4,142520 1,545806 88,79966 5,413332
6 0,390271 0,189464 4,042019 1,552004 87,18768 7,028832
7 0,391624 0,353030 4,048151 1,558312 86,57892 7,461590
8 0,395645 0,694304 4,382250 1,527309 85,61428 7,781856
9 0,408843 0,944017 4,878825 1,620978 84,57171 7,984468
10 0,411965 1,099500 5,429716 1,643717 83,91744 7,909627
Variance Decomposition of CUREXP:
Ảnh hưởng của các cú sốc giá dầu đến các biến ngân sách của Việt Nam
12 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 219- Tháng 8. 2020
như tăng chi phí đầu vào, giảm lợi nhuận,
từ đó giảm thu ngân sách. Do vậy, Chính
phủ cần có các biện pháp phòng ngừa rủi
ro giá cả, phát triển các hợp đồng phái sinh
nhằm hạn chế những rủi ro do biến động
giá dầu gây ra.
6. Kết luận
Trong phạm vi bài viết, tác giả đã sử dụng
mô hình VAR nhằm đánh giá tác động của
giá dầu đến các biến ngân sách của Việt
Nam giai đoạn 1990- 2019. Kết quả khẳng
định: Các cú sốc giá dầu có ảnh hưởng tích
cực đến tổng thu ngân sách, thu từ dầu thô
và cải thiện thâm hụt ngân sách, mặc dù ảnh
hưởng này đến các biến số là không đáng
kể. Mặt khác, biến động giá dầu không có
bất cứ tác động nào đến chi tiêu ngân sách.
Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất một số
gợi ý chính sách như: Chính phủ nên tăng
nguồn thu nội địa để đảm bảo cơ cấu thu
bền vững. Chính phủ nên cắt giảm chi ngân
sách mạnh mẽ, giảm tỷ trọng chi thường
xuyên, tăng dần tỷ trọng chi đầu tư phát
triển và cuối cùng có các biện pháp như
phát triển các hợp đồng phái sinh nhằm hạn
chế những rủi ro do cú sốc giá dầu gây ra.
Nghiên cứu sử dụng mô hình VAR với dữ
liệu quan sát khá lớn được thu thập theo
quý từ 1990 đến 2019 nhằm đo lường
ảnh hưởng của các cú sốc giá dầu đến các
biến ngân sách của Việt Nam, từ đó đưa
ra những kết quả ước lượng có độ tin cậy
cao hơn những nghiên cứu đã có với sự
giới hạn về số lượng quan sát. Tuy nhiên,
nghiên cứu cũng còn một số hạn chế sau:
Một là, nghiên cứu chưa tính đến các biến
động tỷ giá (chẳng hạn USD/VND) có
thể ảnh hưởng đến tương quan giữa giá
dầu Việt Nam và giá dầu thế giới, từ đó
ảnh hưởng đến các biến ngân sách. Hai là,
nghiên cứu sẽ có những đánh giá chính xác
hơn nếu tách biến Chi ngân sách thành hai
biến Chi thường xuyên và Chi đầu tư phát
triển, từ đó xem xét cụ thể tác động của giá
dầu đến từng biến này. Ba là, nếu nghiên
cứu áp dụng mô hình giá dầu phi tuyến tính
của Mork (1989) chia cú sốc giá dầu thành
2 biến Giá dầu thực tăng và Giá dầu thực
giảm thì việc đánh giá ảnh hưởng của các
cú sốc giá dầu đến các biến ngân sách sẽ
chi tiết hơn, tương ứng với thực tế từng giai
đoạn giá dầu tăng giảm ở Việt Nam. Các
nghiên cứu tiếp theo nếu khắc phục những
hạn chế này sẽ có thể cho kết quả nghiên
cứu tốt hơn ■
1 0,050880 45,75991 12,50093 41,73915 0,000000 0,000000
2 0,060992 42,94849 23,10037 33,71828 0,028488 0,204364
3 0,068262 40,98357 30,62118 27,40458 0,783847 0,206825
4 0,075282 38,48988 35,58722 23,46380 0,988131 1,470961
5 0,076082 32,84687 35,75583 29,16897 0,975348 1,252981
6 0,077062 32,41153 35,88574 29,47172 0,961290 1,269725
7 0,077333 32,22075 35,64810 29,67842 1,165514 1,287213
8 0,078118 31,82523 35,24702 29,52781 2,030054 1,369890
9 0,078645 29,87594 34,39213 32,54550 1,901518 1,284917
10 0,079149 24,50174 27,42201 44,86965 1,940366 1,266237
Cholesky Ordering: DDEFICIT DREV DCUREXP DOILREV DOILP
Nguồn: Tính toán từ Eviews 9
NGUYỄN THÀNH NAM
13Số 219- Tháng 8. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Tài liệu tham khảo
1. Akin, I., Babajidie, F. (2011). “Impact of oil price shocks on selected macroeconomic varaibles in Nigeria”. Energy
Policy, 39, 603-612.
2. Almulali, U., Che Sab, C.N. (2013). “Exploring the impact of oil revenues on OPEC members’ macroeconomy”. Energy
Review, 37(4), 416-428.
3. Christopher A. Sims (1980). “Macroeconomics and Reality”. Econometrica, 48(1), 1-48.
4. Du, L., He, Y., Wei, C. (2010). “The relationship between oil price shock and China’s macreocomy: An empirical
analysis”. Energy Policy, 38(8), 4142-4151.
5. Elsiddig Rahma, Noel Perera and Kian Tan (2016). “Impact of Oil Price Shocks on Sudan’s Government Budget”.
International Journal of Energy Economics and Policy, 6(2), 243-248
6. Eltony, M.N., Al-Awadi, M. (2001). “Oil price fluctuations and their impact on the macroeconomic variables of Kuwait:
A case study using a VAR model”. International Journal of Energy Research, 25, 939-959.
7. Farzanegan, M., Markwardt, G. (2009). “The effect of oil price shocks on the Iranian economy”. Energy Economics, 31,
134-151.
8. Federer, J.P. (1996). “Oil price volatility and the macroeconomy”. Journal of Macroeconomy, 18, 1-26.
9. Gisser, M.G. (1986). “Crude oil and macroeconomy”. Journal of Money Credit and Banking, 18, 94-103.
10. Granger, C. (1969). “Investigating causal relation by econometrical and cross-sectional method”. Econometrica, 37,
424-438.
11. Guidi, F. (2009). “The economic effects of oil prices shocks on the UK manufacturing and services sector”. De Munich
Personal RePEc Archive, Last accessed on 2014 Nov 12, Available from:
12. Hamilton, D. (1983). “Oil and macroeconomic since world war II”. Journal of Political Economy, 91(2), 228-248.
13. Hamilton, D. (1994). “Time Series Analysis”. New Jersey: Princeton University Press, p257.
14.
15. https://www.gso.gov.vn/
16. https://www.mof.gov.vn/
17. https://www.statista.com/statistics/266659/west-texas-intermediate-oil-prices/
18. Jbir, R., Zourai-Ghorbel, S. (2009). “Recent oil price shocks and Tunisian economy”. Energy Policy, 37, 1041-1051.
19. Jimenez-Rodriguez, R. (2008). “The impact of oil price shocks: Evidence from the industries of six OECD countries”.
Energy Economics, 30, 3095-3108.
20. Lorde, T.J., Thomas, C. (2009). “The macroeconomic effects of oil price fluctuations on samll open- oil-producing
country: The case of Trinidad and Tobago”. Energy Policy, 37, 2708-2716.
21. Lương Văn Khôi và Nhóm nghiên cứu Ban Kinh tế thế giới (2015). Triển vọng giá dầu thế giới trong trung hạn và một số
kịch bản tác động tới nền kinh tế Việt Nam. Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
22. Mehrara, M. (2008). “The asymmetric relationship between oil revenues and economic activities: The case of oil-
exporting countries”. Energy Policy, 36, 1164-1168.
23. Minh Anh (2020). Giá dầu tác động làm giảm thu ngân sách. Truy cập 20.04.2020, từ
pages/nhip-song-tai-chinh/2020-03-17/gia-dau-tac-dong-lam-giam-thu-ngan-sach-83947.aspx
24. Mork, A.K. (1989). “Oil and the macroeconomy whenl prices go up and down: An extension of Hamilton’s results”.
Journal of Political Economy, 97(3), 740-744.
25. Naccache, T. (2010). “Slow oil shocks and the weakening of the oil price-macroeconomy relationship”. Energy Policy,
38(5), 2340-2245.
26. Nguyễn Đức Thành, Nguyễn Quang Thái, Phạm Văn Đại (2016). Tác động của diễn biến giá dầu tới ngân sách. Bài thảo
luận chính sách CS-11. Truy cập 26.04.2018, từ
27. Nguyễn Xuân Thành, Đỗ Thiên Anh Tuấn (2016). Liều thuốc mạnh cho căn bệnh nợ công. Truy cập 15.04.2020, từ
https://fsppm.fulbright.edu.vn/vn/tin-tuc-su-kien/giang-vien-fetp-tren-bao-chi/lieu-thuoc-manh-cho-can-benh-no-cong/
28. Nguyễn Xuân Thành, Đỗ Thiên Anh Tuấn (2017). “Bắt mạch” nợ công Việt Nam. Truy cập 20.05.2020, từ https://
fsppm.fulbright.edu.vn/cache/MPP-PA2020-513-R12V-Bat-mach-no-cong-Vietnam--Nguyen-Xuan-Thanh,-Do-Thien-Anh-
Tuan-2019-03-04-17282820.pdf
29. Olusegun, O.A. (2008). “Energy consumption and Economic Growth in Nigeria: A Bounds Testing Co-inntegrative
Approach”. Journal of Economic Theory 2, 118-123.
30. Oriakhi, D.E., Iyoha, D.O. (2013). “Oil price volatility and its sequences on the growth og Nigerian economy: An
examination (1970-2010)”. Asian Economic and Financial Review, 3(5), 683-702.
31. Phạm Thế Anh (2020). Bài toán ngân sách và nợ công. Truy cập 20.05.2020, từ https://doanhnhansaigon.vn/kinh-doanh/
bai-toan-ngan-sach-va-no-cong-1096633.html
32. Zhang, Q. (2011). “The impact of international oil price fluctuation on China’s economy”. Energy Procedia, 5, 1360-
1364.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- anh_huong_cua_cac_cu_soc_gia_dau_den_cac_bien_ngan_sach_cua.pdf