Kết luận
+ Khi cây hoa Cúc vàng Đài Loan được bón
bằng phân bón lá có thể giảm được 25% lượng
phân bón gốc mà không ảnh hưởng đến khả năng
sinh trưởng, phát triển, năng suất cũng như chất
lượng hoa.
+ Sử dụng chế phẩm phân bón lá Pomior đều
đặn trên nền đất trồng với lượng phân bón gốc
giảm 25% có tác dụng làm tăng số lượng hoa loại
I, giảm đáng kể tỷ lệ hoa dị dạng không có giá trị
thương phẩm.
+ Đối với cây Cúc vàng Đài Loan, phun phân
bón lá phức hữu cơ Pomior cho hiệu quả kinh tế
cao nhất ngay cả khi giảm đi 25% lượng phân bón
gốc. Ngoài ra còn có tác dụng tốt trong việc giảm
thiểu ô nhiểm môi trường do giảm lượng phân
bón gốc vào đất.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 11 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của các mức phân bón gốc kết hợp với phân bón lá đến sinh trưởng, năng suất và chất lượng hoa cúc (chrysanthemum sp) trồng tại Việt Trì – Phú Thọ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khoa hoïc noâng nghieäp
Ñaïi hoïc Huøng Vöông - Khoa hoïc Coâng ngheä62
1. Đặt vấn đề
Trong nhiều năm gần đây, nghề trồng hoa luôn
cho thu nhập cao so với nhiều loại cây trồng khác.
Điều này đã thúc đẩy diện tích trồng hoa tăng lên
trên nhiều vùng miền trong toàn quốc. Một trong
các loại hoa phải kể đến là hoa cúc, loại hoa dễ
trồng, có nhiều chủng loại và cho hiệu quả kinh tế
cao. Trong sản xuất hoa cây cảnh, một trong những
biện pháp để đẩy mạnh sản xuất là sử dụng phân
bón. Theo thông báo của FAO, phân bón làm tăng
năng suất cây trồng nông nghiệp 35 - 45%, trong
đó phân bón qua lá chiếm vị trí quan trọng trong
nền nông nghiệp sạch và thâm canh tăng năng
suất, chất lượng cây trồng nhất là trong lĩnh vực
sản xuất Rau - Hoa - Quả. Hiện nay đa số các vùng
trồng hoa nước ta đều lạm dụng việc sử dụng phân
hóa học làm cho cây phát triển không cân đối, tỷ lệ
hoa bại dục cao, độ bền hoa cắt thấp, ngoài ra còn
làm ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí.
Dựa vào khả năng hấp thu dinh dưỡng qua lá
của cây, các nhà khoa học đã đề xuất phương pháp
dinh dưỡng qua lá nhằm phát huy hiệu quả sử dụng
phân bón và làm giảm sự ô nhiễm môi trường. Vũ
Cao Thái (1996) đã nhận định, phân bón lá là một
giải pháp chiến lược an toàn dinh dưỡng cho cây
trồng. Theo Đường Hồng Dật (2003), cây trồng có
tổng diện tích bề mặt lá tiếp xúc với phân bón cao
gấp 8 - 10 lần diện tích tán cây che phủ, các chất
dinh dưỡng được vận chuyển theo chiều từ trên
xuống với vận tốc 30 cm/h nên khả năng hấp thu
chất dinh dưỡng gấp 8 - 10 lần qua rễ. Vì vậy, cây
trồng có khả năng hấp thu chất dinh dưỡng qua lá
cao đạt 90 - 95% trong khi nếu bón qua đất cây chỉ
sử dụng được 40 - 50% lượng phân bón.
Kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học
cho thấy, sử dụng phân bón lá cho nhiều loại cây
hoa như hoa cúc, hoa hồng, layon, lily... (Nguyễn
Quang Thạch và cs, 1997; Nguyễn Thị Kim Lý, 2001;
Hoàng Ngọc Thuận, 2005) đều cho năng suất cao
và chất lượng hoa tốt hơn so với phân bón gốc. Đó
chính là lý do để chúng tôi thực hiện đề tài này.
2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
+ Thời gian và địa điểm: Thí nghiệm được
thực hiện trong vụ Thu Đông 2012 tại xã Minh
Phương – TP Việt Trì.
+ Vật liệu nghiên cứu
- Giống Hoa cúc vàng Đài Loan
(Chrysanthemum maximum Rysalry)
- Phân bón lá phức hữu cơ Pomior do Công ty
Cổ phần Giống – vật tư nông nghiệp công nghệ
cao Việt Nam sản xuất.
+ Phương pháp bố trí thí nghiệm
- Các công thức thí nghiệm
CT1. Phân chuồng và NPK đầy đủ theo quy
trình (Đ/C).
CT2. Phân chuồng và 75% NPK theo quy trình
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC MỨC PHÂN BÓN GỐC KẾT HỢP VỚI PHÂN BÓN LÁ
ĐẾN SINH TRƯỞNG, NĂNG SUẤT VÀ CHẤT LƯỢNG HOA CÚC
(CHRYSANTHEMUM SP.) TRỒNG TẠI VIỆT TRÌ – PHÚ THỌ
Hoàng Thị Lệ Thu
Khoa Nông Lâm Ngư,
Trường Đại học Hùng Vương
TóM TắT
Thí nghiệm tiến hành nghiên cứu sử dụng phân bón lá Pomior cho cây hoa cúc trồng trên các nền phân
bón gốc khác nhau nhằm làm giảm thiểu khả năng gây ô nhiễm môi trường do sử dụng quá nhiều lượng
phân hóa học bón vào đất. Thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh. Theo dõi các chỉ
tiêu về sinh trưởng, năng suất và chất lượng hoa cắt. Kết quả thí nghiệm chỉ ra rằng, sử dụng phân bón lá
trên nền giảm 25% lượng phân bón gốc mặc dù các chỉ tiêu về sinh trưởng, năng suất không cao hơn đối
chứng (sử dụng hoàn toàn phân bón gốc) nhưng lại cho số lượng hoa loại I cao hơn dẫn đến hiệu quả kinh
tế cũng cao hơn. Điều này cho thấy, dinh dưỡng qua lá là phương thức hỗ trợ có hiệu quả cho dinh dưỡng
qua đất.
Từ khóa: Chế phẩm bón lá, dinh dưỡng qua lá, dinh dưỡng qua rễ.
Ñaïi hoïc Huøng Vöông - Khoa hoïc Coâng ngheä 63
Khoa hoïc noâng nghieäp
+ Phân bón lá Pomior.
CT3. Phân chuồng và 50% NPK theo quy trình
+ Phân bón lá Pomior.
CT4. Phân chuồng và 25% NPK theo quy trình
+ Phân bón lá Pomior.
Trong đó: Thí nghiệm được bố trí theo kiểu
khối ngẫu nhiên hoàn chỉnh (RCB), với 3 lần
nhắc. Diện tích ô thí nghiệm: 10 m2.
+ Các chỉ tiêu theo dõi: Theo dõi các chỉ tiêu
về sinh trưởng; năng suất; chất lượng hoa; tình
hình sâu bệnh hại và các chỉ tiêu liên quan đến
hiệu quả kinh tế.
+ Xử lý số liệu
Các số liệu thu được xử lý theo chương trình
Excel và IRRISTAT.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Ảnh hư ởng của các mức phân bón gốc kết
hợp với phân bón lá tới động thái tăng trưởng
chiều cao cây và số lá của cây Cúc vàng Đài Loan
Kết quả trong bảng 1 cho thấy, ở giai đoạn sau
trồng 15 ngày, chiều cao và số lá/cây giữa các công
thức không có sự khác biệt, tuy nhiên ở các giai
đoạn sau trồng 30, 40, 60 và 75 ngày các mức bón
phân khác nhau đã có ảnh hưởng rõ rệt đến sự
tăng trưởng về chiều cao và số lá của cây hoa cúc.
Đến giai đoạn 60 và 75 ngày tốc độ tăng trưởng
thân, lá của cây giảm dần, do Cúc vàng Đài Loan
là cây ngày ngắn, càng vào gần giữa vụ ngày càng
ngắn dần, nhiệt độ không khí và thời gian chiếu
sáng giảm, nên tốc độ tăng trưởng chiều cao và số
lá/cây giảm dần, cây bắt đầu có dấu hiệu phân hóa
mầm hoa (Bảng 1).
3.2. Ảnh hưởng của các mức phân bón gốc kết
hợp với phân bón lá tới thời gian qua các giai
đoạn sinh trư ởng và kích thước khi cây có nụ của
cây cúc vàng Đài Loan
Kết quả nghiên cứu được thể hiện trong bảng 2.
Kết quả bảng 2 cho thấy:
- Thời gian hồi xanh 100% và thời gian từ
trồng đến ra lá mới của hoa cúc ở các công thức
thí nghiệm chênh lệnh nhau không nhiều biến
động từ 6,3 – 6,5 ngày sau trồng (ở giai đoạn hồi
xanh và 9,4 - 10,2 ngày (giai đoạn ra lá mới). Thời
gian từ trồng đến ra nụ và ra hoa 50% đều có
sự sai khác nhau một cách chắc chắn ở độ tin
cậy 95%. Tuy nhiên so với đối chứng, CT2 bón
giảm 25% lượng phân hóa học và được thay bằng
phân bón lá không có sự sai khác với đối chứng.
Điều đó chứng tỏ phân bón lá có thể thay thế
được một phần phân bón gốc mà không làm
Bảng 1. Ảnh hưởng của các mức phân bón gốc kết hợp với phân bón lá đến động thái
tăng trưởng chiều cao, số lá cây hoa cúc
Công
thức
Thời gian từ trồng đến...
15 ngày 30 ngày 45 ngày 60 ngày 75 ngày
Cao cây
(cm)
Số lá
(lá)
Cao cây
(cm)
Số lá
(lá)
Cao cây
(cm)
Số lá
(lá)
Cao cây
(cm)
Số lá
(lá)
Cao cây
(cm)
Số lá
(lá)
CT1 11,2 8,8 18,1 16,8 38,4 26,2 64,2 34,8 67,2 37,2
CT2 10,8 8,5 17,4 15,7 36,7 24,5 59,4 33,7 64,6 35,6
CT3 10,2 8,6 15,8 13,8 33,6 21,6 55,2 31,4 62,4 33,4
CT4 9,7 8,4 15,2 12,6 30,2 20,4 52,2 28,6 59,7 31,7
Bảng 2. Ảnh hưởng của các mức phân bón gốc kết hợp với phân bón lá đến thời gian sinh trưởng,
phát triển của cây hoa Cúc vàng Đài Loan
Đơn vị: ngày
Công thức Thời gian từ trồng đến...Hồi xanh 100% Ra lá mới 100% Ra nụ 50% Nở hoa 50%
CT1 6,4 9,4 91,2 110,2
CT2 6,4 9,8 88,4 105,7
CT3 6,5 10,1 74,7 93,4
CT4 6,3 10,2 71,8 90,5
Khoa hoïc noâng nghieäp
Ñaïi hoïc Huøng Vöông - Khoa hoïc Coâng ngheä64
ảnh hưởng đến thời gian ra nụ, ra hoa của cây.
Nhưng nếu giảm đi lượng phân quá nhiều (từ
50 – 75% lượng phân hóa học bón vào gốc) và bổ
sung phân bón lá với liều lượng như thí nghiệm
thì cũng không thể đáp ứng đủ cho quá trình
sinh trưởng, phát triển của cây. Do đó làm cho
quá trình phát triển thân lá diễn ra yếu hơn, cây
hoa nhanh bước vào giai đoạn già hóa chính vì
vậy quá trình ra hoa sớm hơn so với công thức
đối chứng.
- Đánh giá ảnh hưởng của các mức phân bón
cho cây hoa cúc đến kích thước khi cây có nụ cho
thấy: Chiều cao cây, đường kính thân và số lá/cây ở
các công thức nghiên cứu có sự sai khác một cách
chắc chắn ở độ tin cậy 95%. Điều đó được giải thích
lá do thời gian tiến hành bón lót đợt cuối cùng là
vào khoảng 60 ngày sau trồng. Như vậy, công thức
CT3, CT4 do bước vào giai đoạn ra nụ sớm hơn 60
ngày nên cây đã ra nụ trước khi bón lót trong khi
công thức CT1, CT2 bước vào giai đoạn phân hóa
mầm hoa muộn hơn, việc bón thúc được tiến hành
vào trước giai đoạn ra nụ nên các chỉ tiêu trên đều
cao hơn.
Bảng 3. Ảnh hư ởng của các mức phân bón
gốc kết hợp với phân bón lá đến kích thước
khi cây có nụ
Công
thức
Chiều cao
cây (cm)
Số lá/cây
(lá)
Đường kính
thân (cm)
CT1 65,4 35,6 0,56
CT2 63,6 33,6 0,53
CT3 56,2 30,2 0,38
CT4 52,7 28,5 0,35
LSD0,05 3,9 3,1 0,2E-01
CV(%) 3,3 4,9 2,1
3.3. Ảnh hưởng của các mức phân bón gốc kết
hợp với phân bón lá tới động thái ra hoa của cây
cúc vàng Đài Loan
Qua kết quả nghiên cứu cho thấy:
- Tốc độ nở hoa của cây Cúc vàng Đài Loan
chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của phân bón, sau
trồng 75 ngày các công thức CT1, CT2 vẫn chưa
có hoa nở song ở các công thức CT3, CT4 đã có
hoa nở lác đác với tỷ lệ thấp khoảng từ 15 – 20%.
Điều này do mặc dù đã được bổ sung phân bón lá
song lượng bón này không đủ cho quá trình sinh
trưởng của cây nên sinh trưởng kém, cây phân hóa
mầm hoa sớm hơn nên hoa nở sớm hơn. Cũng
qua kết quả cho thấy, công thức 2, mặc dù lượng
phân bón hóa học vào gốc đã giảm đi 25% song
nếu được bổ sung phân bón lá thường xuyên thì
quá trình nở hoa không thay đổi nhiều so với đối
chứng. Công thức này bắt đầu nở hoa và ra hoa
rộ trong thời gian từ 105 đến 135 ngày sau trồng.
Điều này rất có ý nghĩa trong việc chăm sóc, thu
hoạch hoa cũng như kế hoạch trồng nhằm vào các
ngày lễ lớn.
ĐỘNG THÁI RA HOA THÍ NGHIỆM 1
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
75 90 105 120 135 150
NGÀY THEO DÕI
T
Ỷ
L
Ệ
N
Ở
H
O
A
CT1
CT2
CT3
CT4
Hình 1: Động thái ra hoa cây hoa cúc vàng
Đài Loan ở các thí nghiệm
3.4. Ảnh hưởng của các mức phân bón gốc kết
hợp với phân bón lá tới năng suất và chất lượng
hoa của cây hoa cúc vàng Đài Loan
Kết quả nghiên cứu bảng 4 cho thấy:
- Đường kính thân của các công thức thí
nghiệm có sự sai khác rõ rệt dao động từ 0,47 -
0,68 cm. Trong đó công thức đối chứng có đường
kính cao nhất. Các công thức khác đều có đường
kính cuống hoa tương đương hoặc thấp hơn so
với đối chứng.
- Đường kính đế hoa, đường kính hoa, số cánh
hoa có mối quan hệ tỷ lệ thuận với nhau tức là nếu
đường kính đế hoa lớn thì đường kính hoa lớn và
số cánh hoa nhiều..
- Số liệu bảng 4 cho thấy CT1 có đường kính
cuống hoa lớn nhất 0,68cm, độ bền hoa cắt cũng
cao nhất đạt 11,8 ngày. Các chỉ tiêu này thấp dần
hoặc tương đương ở các công thức khác. Riêng
CT4 đường kính cuống bông bông thấp nhất nên
độ bền hoa cắt cũng thấp nhất.
3.5. Ảnh h ưởng của các mức phân bón gốc kết
hợp với phân bón lá tới tỷ lệ sâu bệnh hại hoa
trên cây Cúc vàng Đài Loan
Để xác định thành phần sâu bệnh hại hoa cúc,
tiến hành theo dõi các loại sâu, bệnh hại chính
trên thí nghiệm và thu được kết quả được thể hiện
ở bảng số liệu 5.
Ñaïi hoïc Huøng Vöông - Khoa hoïc Coâng ngheä 65
Khoa hoïc noâng nghieäp
Bảng 4. Ảnh hư ởng của các mức phân bón gốc kết hợp với phân bón lá tới chất lượng hoa cúc
Công
thức
ĐK đế hoa
(cm)
ĐK hoa
(cm)
ĐK
cuống hoa
(cm)
Số cánh
hoa
(cánh/bông)
Màu sắc
hoa
Độ bền hoa (ngày)
Tự nhiên Hoa cắt
CT1 0,96 8,76 0,68 334,7 Vàng 21,4 11,8
CT2 0,94 8,54 0,65 326,5 Vàng tươi 19,7 10,2
CT3 0,87 8,18 0,50 314,8 Vàng tươi 17,6 9,4
CT4 0,82 7,86 0,47 306,5 Vàng 15,8 8,7
LSD0,05 0,5E-01 0,3 0,4E-01 13,2 1,02 0,58
CV% 2,6 2,0 3,7 2,1 2,8 2,9
Bảng 5. Ảnh h ưởng của phân bón lá tới tỷ lệ sâu bệnh hại hoa cúc
Công thức
Sâu xanh (con/m2) Rệp Đốm lá
Bộ phận hại Mức độ Bộ phận hại Mức độ Bộ phận hại Mức độ
CT1
Lá non, ngọn
non
5,8
Ngọn, nụ
hoa và lá
non
++
Lá, gốc
+
CT2 5,2 ++ +
CT3 4,6 + +
CT4 4,5 + ++
Qua nghiên cứu cho thấy, các công thức trong
thí nghiệm đều thấy xuất hiện sâu xanh nhưng
với mật độ khác nhau biến động từ 4,5-5,8con/m2
trong đó công thức đối chứng có mật độ sâu xanh
lớn nhất. Rệp xuất hiện trong giai đoạn cây hoa cúc
phân hóa mầm hoa. Sau khi đo đếm tỷ lệ cây bị hại
tiến hành phun thuốc hóa học ngay để trừ rệp. Các
giai đoạn tiếp theo không thấy xuất hiện rệp.
Trong quá trình theo dõi các thí nghiệm và
nhận thấy các loại bệnh xuất hiện trên cây hoa cúc
rất ít, chỉ có bệnh đốm lá xuất hiện trên công thức
4 với mức độ trung bình, các công thức còn đều
xuất hiên với mức độ nhẹ.
3.6. Ảnh hưởng của các mức phân bón gốc kết
hợp với phân bón lá đến tỷ lệ nở hoa và tỷ lệ hoa
thương phẩm của cây Cúc vàng Đài Loan
* Tỷ lệ nở hoa và số lượng hoa thực thu
Tỷ lệ nở hoa có ảnh hưởng quyết định tới
năng suất hoa. Tỷ lệ nở hoa trên tổng số cây
trồng giữa các công thức thí nghiệm biến động
từ 86,4 - 95,2%. Đánh giá về số lượng hoa thực
thu của các công thức nghiên cứu cho thấy, CT1
và CT2 không có sự sai khác rõ rệt, song so với
CT3, CT4 thì sự sai khác này là chắc chắn ở độ
tin cậy 95%.
* Tỷ lệ hoa thương phẩm
Kết quả thu được ở bảng 6 cho thấy:
- CT2 có số cành hoa loại I đạt cao nhất là 208,8
cành (61,4%), kế đến là CT1 có 193,2 cành (54,8%).
Các công thức còn lại đều có tỷ lệ hoa loại II cao có
giá trị thẩm mỹ thấp hơn nên hiệu quả kinh tế cũng
thấp hơn. Như vậy, nếu giảm đi 25% lượng phân
bón gốc và được bổ sung bằng phân bón lá thì tỷ
lệ hoa loại I không có sự sai khác so với bón theo
quy trình (CT1)..
3.7. Hiệu quả kinh tế của việc sử dụng phân
bón lá trên nền giảm lượng phân bón gốc cho cây
hoa Cúc vàng Đài Loan
Đánh giá hiệu quả kinh tế của việc sử dụng
phân bón lá trên nền giảm lượng phân bón gốc
cho cây hoa cúc vàng Đài Loan, kết quả cho thấy:
Lãi thuần của các công thức có mức phân bón
lá khác nhau là khác nhau. Với diện tích 10m2,
CT1 (Đ/C) mặc dù có lãi thuần đạt cao nhất là
571.419,7 đồng tuy nhiên xét về tỷ số lãi trên đồng
vốn đầu tư thì CT2 có giá trị cao nhất là 2,51. Điều
này có nghĩa là với cùng một đồng vốn đầu tư, nếu
thực hiện như công thức 2 thì người sản xuất sẽ
thu được số tiền lãi là cao nhất (Bảng 7).
Đây thực sự là một vấn đề rất có ý nghĩa trong
sản xuất lớn từ 1 hécta đến vài chục hécta hoặc
hơn nữa. Rõ ràng mức đầu tư có giảm mà năng
suất và chất lượng hoa vấn được giữ nguyên và lợi
nhuận vẫn đạt cao hơn. Ngoài ra hiệu quả về môi
trường, hiệu quả về xã hội cũng rất đáng kể nhưng
chưa đề cập đến. Đây là vấn đề mà người sản xuất
rất quan tâm trong điều kiện có ít vốn đầu tư và
phải đầu tư với quy mô diện tích lớn.
Khoa hoïc noâng nghieäp
Ñaïi hoïc Huøng Vöông - Khoa hoïc Coâng ngheä66
Bảng 7. Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế
Đơn vị: đồng
Công
thức Tổng thu Tổng chi Lãi thuần
Tỷ số
lãi
CT1 801.859,7 230.440,0 571.419,7 2,48
CT2 784.442,8 223.580,0 560.862,7 2,51
CT3 678.800,0 220.790,0 458.009,9 2,07
CT4 618.799,6 218.697,5 400.102,1 1,83
4. Kết luận
+ Khi cây hoa Cúc vàng Đài Loan được bón
bằng phân bón lá có thể giảm được 25% lượng
phân bón gốc mà không ảnh hưởng đến khả năng
sinh trưởng, phát triển, năng suất cũng như chất
lượng hoa.
+ Sử dụng chế phẩm phân bón lá Pomior đều
đặn trên nền đất trồng với lượng phân bón gốc
giảm 25% có tác dụng làm tăng số lượng hoa loại
I, giảm đáng kể tỷ lệ hoa dị dạng không có giá trị
thương phẩm.
+ Đối với cây Cúc vàng Đài Loan, phun phân
bón lá phức hữu cơ Pomior cho hiệu quả kinh tế
cao nhất ngay cả khi giảm đi 25% lượng phân bón
gốc. Ngoài ra còn có tác dụng tốt trong việc giảm
thiểu ô nhiểm môi trường do giảm lượng phân
bón gốc vào đất.
Tài liệu tham khảo
1. Đường Hồng Dật (2003), Sổ tay hướng dẫn sử
dụng phân bón, NXB Nông nghiệp, tr. 94.
2. Nguyễn Thị Kim Lý (2001), Nghiên cứu,
tuyển chọn và nhân giống cây hoa cúc trên vùng đất
trồng hoa ở Hà Nội, Luận án Tiến sỹ Nông nghiệp,
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam,
Hà Nội.
3. Vũ Cao Thái (1996), Phân bón và an toàn
dinh dưỡng cây trồng, Tổng kết các thí nghiệm
nghiên cứu các chế phẩm mới phân bón hữu cơ
Komix, Viện Nông hóa Thổ nhưỡng, Hà Nội, tr.
85 - 86.
4. Nguyễn Quang Thạch và cs (1997). Kết quả
khảo nghiệm chế phẩm Spray-N-Grow và Bills
fertilizer trên một số cây hoa.
5. Hoàng Ngọc Thuận (2005), Nghiên cứu ứng
dụng chế phẩm phân bón lá phức hữu cơ Pomior
(EGTA - Aminoacid chelated) trong kỹ thuật nâng
cao năng suất và chất lượng một số cây trồng nông
nghiệp, Báo cáo khoa học, Trường Đại học Nông
nghiệp I, Hà Nội, đề tài cấp Bộ, tr. 22 - 30.
Bảng 6. Ảnh h ưởng của phân bón lá tới năng suất và tỷ lệ hoa th ương phẩm của cây cúc
Công
thức
Số cây nở hoa(10m2) Số hoa thực thu(10m2) Hoa loại I Hoa loại II
Số lượng (cây) % Số lượng (cây) % Số lượng (cây) % Số lượng (cây) %
CT1 380,8 95,2 352,6 92,6 193,2 54,8 159,4 45,2
CT2 370,4 92,6 340,0 91,8 208,8 61,4 131,3 38,6
CT3 355,2 88,8 302,6 85,2 147,1 48,6 155,6 51,4
CT4 345,6 86,4 277,9 80,4 126,1 45,4 151,7 54,6
LSD0,05 17,7 12,7 8,9
CV% 2,8 3,8 3,0
SUMMARY
EFFECT OF SOIL FERTILIZER WITH COMBINATION FOLIA FERTILIZER
ON GROWTH, YIELD AND QUALITY OF CHRYSANTHEMUM
IN VIET TRI CITY, PHU THO PROVINCE
Hoang Thi Le Thu
Faculty of Agroforestry
and Aquaculture, Hung Vuong University
An experiment was conducted to study the effect of Pomior foliar fertilizer with combination of reduc-
tion of soil fertilizer rate for Chrysanthemum sp. to minimize potential environmental pollution due to
excessive use of chemical fertilizer on land. The experiment was replicated three times in a randomized
complete block design. It was shown that foliar application with 25% reduced soil fertilization was not
more efficient than normal full rate of soil application in terms of vegetative growth and flower yield but
numbers of flower type I is highter resulted higher economic efficiency. This indicated that foliar application
was effective and positively supported soil nutrition.
Key words : Chrysanthemum sp., foliar fertilizer, soil fertilizer.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_cac_muc_phan_bon_goc_ket_hop_voi_phan_bon_la_d.pdf