c) Tỷ lệ gạo nguyên
Tỷ lệ gạo nguyên có sự khác biệt có ý nghĩa giữa
các nghiệm thức. Các nghiêm thức thu hoạch 80 và
100% chín bị giảm tỉ lệ gạo nguyên ở cả 3 vùng sinh
thái. Có lẽ, ở thời điểm 100% lúa chín thì có nhiều
hạt lúa quá chín trên đồng gặp mưa bão làm hạt gạo
no nước, một số nảy mầm trên bông, sau khi phơi
và xay xát làm hạt dễ gãy thành tấm. Ngược lại, ở
thời điểm 80% lúa chín thì nhiều hạt gạo còn xanh
chưa đầy đặn nên khi xay thành tấm (hạt gạo nhỏ).
Tỷ lệ gạo nguyên cao nhất ở thời điểm thu hoạch 90
và giảm dần theo thứ tự 85, 95, 80 và 100% lúa chín.
Thời điểm thu hoạch 90% khác biệt có ý nghĩa với 80
và 100% lúa chín nhưng khác biệt không ý nghĩa so
với thời điểm 85 và 95% lúa chín.
Tỷ lệ gạo nguyên khác biệt không có ý nghĩa giữa
3 vùng sinh thái.
d) Tỉ lệ bạc bụng
Khác với vụ Đông Xuân, vụ Hè Thu gạo có tỷ lệ
bạc bụng cao hơn biến động từ 3,9 - 5,4 % số hạt
nhưng hạt bị bạc bụng chỉ ở cấp 1 (vết bạc bụng nhỏ
hơn 10%). Tỷ lệ bạc bụng khác biệt có ý nghĩa giữa
3 vùng sinh thái, cao nhất ở vùng phèn, kế đến là
vùng mặn và thấp nhất thuộc vùng ngọt. Như vậy ở
vụ Hè Thu tại vùng bị ảnh hưởng phèn, mặn cần có
giải pháp để rửa phèn, mặn để giảm tỷ lệ bạc bụng.
Tỷ lệ bạc bụng khác biệt có ý nghĩa giữa các thời
điểm thu hoạch, thời điểm 95, 100% lúa chín có tỷ lệ
bạc bụng cao nhất khác biệt có ý nghĩa với thời điểm
80, 85%. Thời điểm thu hoạch để giảm tỷ lệ bạc bụng
là 80 - 90% lúa chín.
4 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của các thời điểm thu hoạch đến năng suất và phẩm chất giống lúa thơm MTL372, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
50
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(99)/2019
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC THỜI ĐIỂM THU HOẠCH
ĐẾN NĂNG SUẤT VÀ PHẨM CHẤT GIỐNG LÚA THƠM MTL372
Vũ Anh Pháp1
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện tại 3 vùng sinh thái (phèn, ngọt và mặn) của Đồng bằng sông Cửu Long. Thí nghiệm
thực hiện 2 vụ Đông Xuân và Hè Thu trên giống MTL372 với 5 thời điểm thu hoạch nhằm tìm ra thời điểm thu
hoạch hợp lý nhất cho năng suất và phẩm chất gạo cao nhất. Thí nghiệm được bố trí theo khối hoàn toàn ngẫu nhiên
gồm 5 nghiệm thức ứng với 5 thời điểm thu hoạch: 80, 85, 90, 95, 100% lúa chín. Kết quả thí nghiệm cho thấy thời
điểm thu hoạch tốt nhất là 95% lúa chín của vụ Đông Xuân và 90% lúa chín của vụ Hè Thu tại cả 3 vùng sinh thái
đều cho năng suất và phẩm chất xay chà cao nhất như tăng tỉ lệ gạo nguyên, giảm tỉ lệ bạc bụng.
Từ khóa: Bạc bụng, năng suất, phẩm chất xay chà, thời điểm thu hoạch
1 Viện Nghiên cứu Phát triển Đồng bằng sông Cửu Long
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong canh tác lúa hiện nay, thời điểm thu hoạch
thích hợp sẽ quyết định năng suất và chất lượng lúa
gạo. Trong thực tế, thời điểm thu hoạch được quyết
định nhiều bởi giống lúa, có nhiều giống hạt rất dễ
rụng khi quá chín, có giống nảy mầm trên bông khi
gặp ẩm độ cao; thu hoạch ở thời điểm hạt lúa chưa
chín hoặc quá chín đều ảnh hưởng đến năng suất
và chất lượng xay chà (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008; Trần
Thị Hồng Thắm, 2016). Ngoài ra mùa vụ, bón phân,
tưới tiêu, quản lý dịch bệnh cũng ảnh hưởng đến
thời điểm thu hoạch thích hợp nhất cho năng suất
và chất lượng tốt nhất. Do đó, chọn thời điểm thu
hoạch để đạt được năng suất và chất lượng cao nhất
luôn là mong muốn của người sản xuất.
Giống lúa MTL372 là giống lúa thơm của Trường
Đại học Cần Thơ, có năng suất, chất lượng cao, hạt
dài, thơm, dẻo, ít bạc bụng, đặc biệt là rất ngắn ngày
(85 ngày) so với các giống phổ biến hiện nay là 95 -
100 ngày. Đây là giống lúa triển vọng cần phổ biến
nên ngoài áp dụng kỹ thuật canh tác thích hợp, cần
xác định thời điểm thu hoạch để cho năng suất và
chất lượng gạo cao nhất.
Vì vậy, việc nghiên cứu các thời điểm thu hoạch
trên giống lúa MTL372 ở hai vụ Đông Xuân 2016
- 2017 và Hè Thu 2017 tại 3 vùng sinh thái phèn,
ngọt và mặn được thực hiện nhằm mục tiêu xác
định được thời điểm thu hoạch thích hợp nhất bảo
đảm năng suất và chất lượng gạo tốt nhất. Từ đó làm
cơ sở xây dựng quy trình canh tác giống lúa thơm
MTL372 hiệu quả nhất.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Giống lúa MTL372 có thời gian sinh trưởng 85
ngày, năng suất cao, phẩm chất thơm, dẻo thích
nghi với nhiều vùng sinh thái, thuộc nhóm lúa
thơm đặc sản.
Các loại phân sử dụng: Urea (46% N), DAP (18% N
+ 46% P2O5 + 0% K2O), Kali Clorua (60% K2O).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
- Thí nghiệm này được thực hiện theo phương
pháp sạ hàng với mật độ 80 kg giống/ha, được bố
trí theo kiểu khối hoàn toàn ngẫu nhiên với 5 thời
điểm thu hoạch: NT1: 80% bông lúa chín (81 NSS
- ngày sau sạ); NT2: 85% bông lúa chín (83 NSS);
NT3: 90% bông lúa chín (85 NSS); NT4: 95% bông
lúa chín (87 NSS), và NT5: 100% bông lúa chín (90
NSS). Mỗi lô thí nghiệm 100 m2 (10 ˟ 10 m).
- Công thức phân bón: vụ Hè Thu: 80 N + 60 P2O5
+ 30 K2O; vụ Đông Xuân: 90N + 60 P2O5 + 30 K2O.
- Cách thức bón phân như sau: Bón lần 1 lúc 8
ngày sau sạ (NSS) (bón 1/3 N + 1/2 P2O5 + 1/2 K2O),
bón lần 2 lúc 20 NSS (bón 1/3 N + 1/2 P2O5), bón lần
3 lúc lúa phân hóa đòng (khoảng 40 NSS, bón 1/3 N
+ 1/2 K2O).
2.2.2. Chỉ tiêu theo dõi
- Năng suất thực tế: thu 5 m2/lô thí nghiệm, tách
hạt, giê sạch và phơi khô cân trọng lượng quy về ẩm
độ chuẩn 14%, quy ra tấn/ha.
- Phẩm chất:
+ Phẩm chất xay chà: tỉ lệ gạo lức, tỉ lệ gạo trắng
và tỉ lệ gạo nguyên.
+ Tỉ lệ bạc bụng theo Thang đánh giá của SES
(IRRI, 1996).
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Tính các giá trị trung bình, phân tích phương sai
(ANOVA) và so sánh các chỉ tiêu bằng kiểm định
DUNCAN.
51
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(99)/2019
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thí nghiệm được thực hiện từ tháng 11/2016 đến
tháng 8/2017 (2 vụ Đông Xuân 2016 - 2017 và Hè
Thu 2017) tại HTX Tân Cường, huyện Tam Nông,
tỉnh Đồng Tháp (ảnh hưởng phèn); Xã Tân Mỹ,
huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long (phù sa ngọt), và Xã
Tân Hưng, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng (ảnh
hưởng mặn).
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của các thời điểm thu hoạch đến
năng suất và chất lượng xay chà của vụ Đông Xuân
2016 - 2017 tại 3 vùng sinh thái
Thí nghiệm được thực hiện trong điều kiện tự
nhiên và kỹ thuật canh tác giống nhau, quản lý dịch
hại và tưới tiêu hợp lý nên ít ảnh hưởng đến dịch bệnh
và đổ ngã; chỉ khác biệt ở các thời điểm thu hoạch.
3.1.1. Năng suất
Vụ Đông Xuân là vụ có điều kiện thuận lợi đối với
canh tác lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)
nên cho năng suất và chất lượng cao nhất so với các
vụ khác trong năm. Bảng 1 cho thấy năng suất thực
tế của giống MTL372 ở vụ Đông Xuân biến động
6 - 6,4 tấn/ha lúa khô, điểm Vĩnh Long cho năng suất
cao nhất, kế đến là Sóc Trăng và Đồng Tháp; nhưng
năng suất khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa
3 điểm thử nghiệm cho thấy giống MTL372 thích
nghi và cho năng suất ổn định ở cả vùng sinh thái
này trong vụ Đông Xuân.
Kết quả các nghiệm thức thu hoạch thời điểm 80
và 100% lúa chín bị giảm năng suất khá lớn do thời
điểm 80% lúa chín nhiều hạt còn non nên khi phơi
khô thành hạt lửng, hạt lép; còn 100% chín thì cũng
có nhiều hạt chín quá bị rụng trước hoặc ngay khi
thu hoạch nên làm giảm năng suất. Thời điểm thu
hoạch cho năng suất cao nhất là 95, và giảm dần theo
thứ tự 90, 85, 100 và 80% lúa chín cho năng suất hạt
thấp nhất ở cả 3 điểm thí nghiệm. Như vậy, vụ Đông
Xuân thời điểm thu hoạch để đạt năng suất cao nhất
là giai đoạn 95% lúa chín khác biệt có ý nghĩa thống
kê với giai đoạn 80 và 100% lúa chín, tuy nhiên 3 giai
đoạn 85, 90 và 95% lại khác biệt không có ý nghĩa
thống kê ở cả 3 điểm thí nghiệm.
3.1.2. Chất lượng hạt gạo
Trong thí nghiệm này, phẩm chất hạt gạo được
đánh giá thông qua chất lượng xay chà như: tỷ lệ
gạo lức, tỷ lệ gạo nguyên, tỷ lệ gạo trắng; và tỷ lệ
bạc bụng. Tỷ lệ gạo nguyên và bạc bụng biến động
rất lớn, đây là một tính trạng di truyền và chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ bởi môi trường đặc biệt là nhiệt độ
và ẩm độ trong suốt thời kỳ hạt chín, kéo dài đến sau
thu hoạch (Lakshminarayana and Khush, 1977).
a) Tỷ lệ gạo lức
Tỷ lệ gạo lức cho biết hạt lúa có vỏ trấu dày hay
mỏng. Đồng thời, tỷ lệ gạo lức còn thể hiện khả năng
vận chuyển chất khô của cây lúa vào hạt ở giai đoạn
vào chắc đầy đủ (Lê Thu Thủy và ctv., 2005). Theo
kết quả trình bày ở bảng 1 cho thấy tỷ lệ gạo lức của
các thời điểm thu hoạch khác biệt không có ý nghĩa
thống kê ở cả 3 điểm thí nghiệm cũng như giữa các
thời điểm thu hoạch. Có lẽ do các thời điểm thu
hoạch cũng như vùng sinh thái không ảnh hưởng
đến độ dày vỏ trấu của giống MTL372.
b) Tỷ lệ gạo trắng
Các nghiệm thức trong thí nghiệm có tỷ lệ gạo
trắng đạt mức trung bình, theo tiêu chuẩn đánh giá
tỷ lệ xay xát (IRRI, 2002) là 60 - 65%. Tương tự như
tỷ lệ gạo lức của các thời điểm thu hoạch có sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê. Đồng thời, tỷ lệ gạo
trắng giữa 3 vùng sinh thái cũng khác biệt không có
ý nghĩa thống kê. Có lẽ do các thời thời điểm thu
hoạch cũng như vùng sinh thái không ảnh hưởng độ
dày vỏ lụa hạt gạo lức của giống MTL372 trong vụ
Đông Xuân.
c) Tỷ lệ gạo nguyên
Giá trị thương phẩm của hạt gạo tùy thuộc rất
lớn vào tỷ lệ gạo nguyên, nhưng tỷ lệ gạo nguyên
lại phụ thuộc rất lớn vào đặc tính giống, điều kiện
ngoại cảnh (đất, nước, thời tiết,...), kỹ thuật canh tác,
thu hoạch, phơi sấy, bảo quản và xay chà. Trong đó
yếu tố quan trọng nhất là thời điểm thu hoạch, phơi
sấy, xay chà và một số kỹ thuật trước và sau khi thu
hoạch (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008). Tỷ lệ gạo nguyên
có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các thời điểm thu
hoạch. Các thời điểm thu hoạch 80 và 100% lúa chín
bị giảm tỉ lệ gạo nguyên ở cả 3 vùng sinh thái. Có lẽ,
ở thời điểm 100% lúa chín thì có nhiều hạt lúa quá
chín trên đồng gặp nắng nóng, nhiệt độ tăng cao làm
hạt gạo răn nứt, dễ gãy khi xay xát. Ngược lại, ở thời
điểm 80% lúa chín thì nhiều hạt gạo còn xanh chưa
đầy đặn nên khi xay thành tấm (hạt gạo nhỏ). Tỷ lệ
gạo nguyên cao nhất ở thời điểm thu hoạch 95 và
giảm dần theo thứ tự 90, 85, 100 và 80% lúa chín.
Thời điểm thu hoạch 95% khác biệt có ý nghĩa với
80 và 100% lúa chín nhưng khác biệt không ý nghĩa
so với thời điểm 85 và 90% lúa chín.
d) Tỉ lệ bạc bụng
Giống MTL372 có đặc tính hạt gạo trắng trong,
rất ít bạc bụng, trong thí nghiệm này chứng minh
đặc tính này ở cả 3 vùng thái tỷ lệ bạc bụng rất thấp
khoảng 2% số hạt, hạt bị bạc bụng chỉ ở cấp 1 (vết
bạc bụng nhỏ hơn 10%). Tỷ lệ bạc bụng khác biệt
không ý nghĩa giữa các thời điểm thu hoạch.
52
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(99)/2019
Bảng 1. Ảnh hưởng của các thời điểm thu hoạch đến năng suất, tỷ lệ gạo lức, gạo trắng,
gạo nguyên và bạc bụng vụ Đông Xuân 2016 - 2017 tại 3 vùng sinh thái
Điểm Thời điểm TH
Năng suất
(tấn/ha)
Gạo lức
(%)
Gạo trắng
(%)
Gạo nguyên
(%)
Bạc bụng
(%)
Đồng Tháp
(phèn)
80% chín 5,8c 79,8 63,4 50,1b 2,0
85% chín 6,4 ab 81,1 66,2 52,6 ab 2,2
90% chín 6,5 a 81,0 65,1 53,5 ab 2,1
95% chín 6,6 b 81,1 66,1 54,3 a 2,1
100% chín 5,9 c 81,3 67,0 51,2 b 2,2
TB 6,2 80,9 65,6 52,4 2,1
Vĩnh Long
(ngọt)
80% chín 5,9 d 80,1 66,2 51,5 b 1,8
85% chín 6,5 ab 81,5 66,2 53,7 ab 2,1
90% chín 6,7 ab 80,9 66,4 53,3 ab 2,0
95% chín 6,7 a 81,0 66,2 54,7 a 1,9
100% chín 6,1 cd 81,7 66,7 51,6 b 2,2
TB 6,4 81,0 66,3 53,0 2,0
Sóc Trăng
(mặn)
80% chín 5,7 c 81,0 65,6 50,9 b 1,9
85% chín 6,2 ab 80,8 65,4 53,1 ab 1,8
90% chín 6,3 ab 81,1 65,7 53,9 a 1,9
95% chín 6,3 a 81,2 66,2 54,2 a 1,9
100% chín 6,0 bc 82,4 66,5 49,5 b 1,8
TB 6,1 81,3 65,9 52,3 1,9
Fnghiệm thức * ns ns * ns
Fđịa điểm ns ns ns ns ns
CV (%) 10,1 5,2 8,3 7,8 3,4
Ghi chú: Trong cùng một cột, những số có chữ theo sau giống nhau thì không khác biệt về mặt ý nghĩa thống kê;
ns: khác biệt không ý nghĩa; *: khác biệt ý nghĩa 5%.
Như vậy, trong vụ Đông Xuân năng suất và phẩm
chất của giống MTL372 đạt cao nhất ở thời điểm thu
hoạch 95%, tuy nhiên giữa 3 thời điểm 85, 90 và 95%
lúa chín sự không có ý nghĩa thống kê nên có thể thu
hoạch từ 85 đến 95% lúa chín.
3.2. Ảnh hưởng của các thời điểm thu hoạch đến
năng suất và chất lượng xay chà của vụ Hè Thu
2017 tại 3 vùng sinh thái
3.2.1. Năng suất
Vụ Hè Thu, ở vùng phèn, mặn thường bị ảnh
hưởng của phèn hoặc mặn đầu vụ nếu mùa mưa
trễ không rửa được, cũng như bị ảnh hưởng mưa
bão cuối vụ nên thường cho năng suất và chất lượng
gạo thấp như bảng 2 cho thấy năng suất thực tế của
giống MTL372 ở vụ Hè Thu khoảng 4,9 - 5,3 tấn/ha,
ở vùng ngọt cho năng suất cao nhất khác biệt có ý
nghĩa so với vùng phèn và mặn.
Thời điểm thu hoạch 90% đạt năng suất cao nhất
sau đó giảm dần 85, 95, 80 và 100% lúa chín. Thời
điểm 90% lúa chín có năng suất khác biệt có ý nghĩa
so với thời điểm 80 và 100%, nhưng khác biệt không
ý nghĩa so với 85 và 95%.
3.2.2. Chất lượng
a) Tỷ lệ gạo lức
Bảng 2 cho thấy tỷ lệ gạo lức của các thời điểm
thu hoạch khác biệt không có ý nghĩa thống kê ở cả
3 điểm thí nghiệm cũng như giữa các thời điểm thu
hoạch. Có lẽ do các thời thời điểm thu hoạch cũng
như vùng sinh thái không ảnh hưởng độ dày vỏ trấu
của giống MTL372 trong vụ Hè Thu.
b) Tỷ lệ gạo trắng
Tương tự như tỷ lệ gạo lức của các thời điểm
thu hoạch có sự khác biệt không có ý nghĩa thống
kê. Đồng thời, tỷ lệ gạo trắng giữa 3 vùng sinh thái
cũng khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Có lẽ do
các thời thời điểm thu hoạch cũng như vùng sinh
thái không ảnh hưởng độ dày vỏ lụa hạt gạo lức của
giống MTL372 trong vụ Hè Thu.
53
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(99)/2019
c) Tỷ lệ gạo nguyên
Tỷ lệ gạo nguyên có sự khác biệt có ý nghĩa giữa
các nghiệm thức. Các nghiêm thức thu hoạch 80 và
100% chín bị giảm tỉ lệ gạo nguyên ở cả 3 vùng sinh
thái. Có lẽ, ở thời điểm 100% lúa chín thì có nhiều
hạt lúa quá chín trên đồng gặp mưa bão làm hạt gạo
no nước, một số nảy mầm trên bông, sau khi phơi
và xay xát làm hạt dễ gãy thành tấm. Ngược lại, ở
thời điểm 80% lúa chín thì nhiều hạt gạo còn xanh
chưa đầy đặn nên khi xay thành tấm (hạt gạo nhỏ).
Tỷ lệ gạo nguyên cao nhất ở thời điểm thu hoạch 90
và giảm dần theo thứ tự 85, 95, 80 và 100% lúa chín.
Thời điểm thu hoạch 90% khác biệt có ý nghĩa với 80
và 100% lúa chín nhưng khác biệt không ý nghĩa so
với thời điểm 85 và 95% lúa chín.
Tỷ lệ gạo nguyên khác biệt không có ý nghĩa giữa
3 vùng sinh thái.
d) Tỉ lệ bạc bụng
Khác với vụ Đông Xuân, vụ Hè Thu gạo có tỷ lệ
bạc bụng cao hơn biến động từ 3,9 - 5,4 % số hạt
nhưng hạt bị bạc bụng chỉ ở cấp 1 (vết bạc bụng nhỏ
hơn 10%). Tỷ lệ bạc bụng khác biệt có ý nghĩa giữa
3 vùng sinh thái, cao nhất ở vùng phèn, kế đến là
vùng mặn và thấp nhất thuộc vùng ngọt. Như vậy ở
vụ Hè Thu tại vùng bị ảnh hưởng phèn, mặn cần có
giải pháp để rửa phèn, mặn để giảm tỷ lệ bạc bụng.
Tỷ lệ bạc bụng khác biệt có ý nghĩa giữa các thời
điểm thu hoạch, thời điểm 95, 100% lúa chín có tỷ lệ
bạc bụng cao nhất khác biệt có ý nghĩa với thời điểm
80, 85%. Thời điểm thu hoạch để giảm tỷ lệ bạc bụng
là 80 - 90% lúa chín.
Bảng 2. Ảnh hưởng của các thời điểm thu hoạch đến năng suất, tỷ lệ gạo lức,
gạo trắng, gạo nguyên và bạc bụng vụ HT2017 tại 3 vùng sinh thái
Điểm Thời điểm TH
Năng suất
(t/ha)
Gạo lức
(%)
Gạo trắng
(%)
Gạo nguyên
(%)
Bạc bụng
(%)
Đồng Tháp
(phèn)
80% chín 4,6 c 77,1 62,7 47,2 b 5,2 b
85% chín 5,3 a 79,5 64,5 50,3 a 5,3 b
90% chín 5,5 a 79,5 64,8 51,7 a 5,1 b
95% chín 5,2 a 81,2 64,4 51,2 a 5,8 a
100% chín 4,4 c 80,3 63,3 45,3 b 5,7 a
TB 5,0 B 79,5 63,9 49,2 5,4 a
Vĩnh Long
(ngọt)
80% chín 4,9 c 79,7 62,4 49,3 b 3,6 c
85% chín 5,6 ab 80,4 64,7 51,2 ab 3,9 b
90% chín 5,8 a 81,2 64,5 52,7 a 3,9 b
95% chín 5,4 b 80,8 64,9 52,5 a 4,1 ab
100% chín 4,8 c 81,5 63,4 49,5 b 4,2 a
TB 5,3 A 80,7 64,0 51,0 3,9 c
Sóc Trăng
(mặn)
80% chín 4,5 c 79,2 64,3 48,1 b 3,9 d
85% chín 5,2 ab 79,5 64,5 50,3 ab 4,1 cd
90% chín 5,4 a 80,1 64,4 51,5 a 4,2 bc
95% chín 5,1 b 79,8 64,5 51,1 a 4,4 b
100% chín 4,4 c 80,6 64,1 48,1 b 4,7 a
TB 4,9 B 79,8 64,4 49,8 4,3 b
Fnghiệm thức * ns ns * *
Fđịa điểm * ns ns ns *
CV (%) 13,7 4,6 6,0 10,3 5,7
Ghi chú: Trong cùng một cột, những số có chữ theo sau giống nhau thì không khác biệt về mặt ý nghĩa thống kê;
ns: khác biệt không ý nghĩa; *: khác biệt ý nghĩa 5%.
Như vậy, thời điểm thu hoạch tốt nhất của giống
MTL372 ở vụ Đông Xuân là 95% lúa chín và Hè Thu
là 90% lúa chín tại cả 3 vùng sinh thái Đồng Tháp
(phèn), Vĩnh Long (ngọt) và Sóc Trăng (mặn). Tuy
nhiên, thời điểm từ 85 đến 95% hạt lúa chín đều cho
năng suất và phẩm chất tốt gần như nhau, nên tùy
theo tình hình thời tiết, máy gặt đập và giá cả mà
chọn thời điểm thu hoạch phù hợp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_cac_thoi_diem_thu_hoach_den_nang_suat_va_pham.pdf