Ảnh hưởng của chế độ bón phân cho lúa tới thay đổi hàm lượng ni tơ trong kênh tiêu của lưu vực Hán Quảng, tỉnh Bắc Ninh
Recently, water quality has degraded seriuously in the Han Quang watershed belonging to service
area of the Bac Duong irrigation system. Exceeded fertilizer application on rice fields was
considered as a main cause. This paper aims to assess impact of change in fertilizer application on
variation inboth NH4 and NO3 concentration in drainage canals during the period of 2000 - 2013.
The results indicate that a decrease by 50% in manure together with a decrease in nitrogen
fertilization by 33% in spring season and 46% in wet seasoninduced a decrease in NO3 by 38% and
in NH4 by 46%. In addition, variation in both Q1 (Quartile 1) and Q2 (Median)was greater than
variation in Q3(Quartile 3). IQR(Interquartile range) of NO3 ranged from 0.03 mg/l to 2.2 mg/l and
IQR of NH4was in the range of 0.37 - 7 mg/l.
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 552 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của chế độ bón phân cho lúa tới thay đổi hàm lượng ni tơ trong kênh tiêu của lưu vực Hán Quảng, tỉnh Bắc Ninh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 76
BÀI BÁO KHOA HỌC
ẢNH HƯỞNG CỦA CHẾ ĐỘ BÓN PHÂN CHO LÚA TỚI
THAY ĐỔI HÀM LƯỢNG NI TƠ TRONG KÊNH TIÊU
CỦA LƯU VỰC HÁN QUẢNG, TỈNH BẮC NINH
Đặng Minh Hải1
Tóm tắt: Gần đây, chất lượng nước trong lưu vực Hán Quảng thuộc diện tích phục vụ của hệ thống
thủy nông Bắc Đuống đang suy giảm nghiêm trọng. Việc bón phân dư thừa trong canh tác lúa được
xem là nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng trên. Bài báo này sử dụng mô hình SWAT (Soil and
Water Assessment Tool) để đánh giá ảnh hưởng của việc thay đổi chế độ bón phân trong canh tác
lúa đến thay đổi hàm lượng Ni tơ trong kênh tiêu của lưu vực Hán Quảng từ năm 2000 đến năm
2013. Kết quả cho thấy khi lượng phân chuồng giảm 50%, lượng phân hóa học chứa N giảm 33%
(vụ xuân) và 46% (vụ mùa) thì trung bình lượng NO3 giảm 38% và lượng NH4 giảm 46%. Thêm vào
đó, sự thay đổi của Q1 (Bách vị phân thứ 25) và Q2 (Trung vị) nhiều hơn sự thay đổi của Q3 (Bách
vị phân thứ 75). IQR (hiệu số giữa Q3 và Q1) của NO3 thay đổi từ 0.03 mg/l đến 2.2 mg/l và IQR
của NH4 thay đổi từ 0.37 mg/l đến 7 mg/l.
Từ khóa: Lưu vực Hán Quảng, SWAT, chế độ bón phân, NO3, NH4
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Gần đây, chất lượng nước tưới trong các hệ
thống thủy nông ở nước ta đang bị suy giảm
nghiêm trọng. Nguyên nhân của vấn đề trên
được quy cho là sự xâm nhập vào hệ thống kênh
của lượng chất dinh dưỡng từ canh tác nông
nghiệp và nước thải chưa được xử lý từ các cơ
sở sản xuất công nghiệp và làng nghề. Để tìm
được giải pháp hợp lý đảm bảo chất lượng nước
tưới, việc đánh giá định lượng mức độ ảnh
hưởng của các nguyên nhân tới việc suy giảm
chất lượng nước là hết sức cần thiết và cấp bách.
Canh tác nông nghiệp được coi là nguồn
phân tán chủ yếu chất ô nhiễm gây suy giảm
chất lượng nguồn nước (Q.D.Lam&nnk, 2012).
Sử dụng mô hình SWAT để đánh giá mức độ
ảnh hưởng của các kịch bản phát triển và canh
tác nông nghiệp tới chất lượng nước của nguồn
tiếp nhận đã được nhiều nhà khoa học trên thế
giới thực hiện (Q.D.Lam&nnk, 2012; X.
Hu&nnk, 2007; McIsaac&nnk, 2001). Trong
các nghiên cứu trên, mô hình SWAT đã chứng
tỏ là một công cụ mạnh trong việc dự báo lưu
1 Trường Đại học Thuỷ lợi
lượng và chất lượng nước, các kết quả mô
phỏng phù hợp cao với số liệu quan trắc. Từ các
kết quả mô phỏng, nhiều giải pháp để giảm
thiểu ảnh hưởng của canh tác nông nghiệp tới
suy giảm chất lượng nước đã được đề xuất.
Ở nước ta, sử dụng mô hình SWAT để đánh
giá ảnh hưởng của canh tác nông nghiệp tới chất
lượng nguồn nước còn khá ít. Điều này do sự
phức tạp của vấn đề nghiên cứu và sự thiếu hụt
của các số liệu đầu vào. Viet Bach Tran &nnk
(2017) đã sử dụng mô hình SWAT để mô phỏng
diễn biến của chất lượng nước sông Cầu trong
mối liên hệ với các hoạt động phát triển trên lưu
vực, trong đó có xét đến canh tác nông nghiệp.
Việc tiếp tục những nghiên cứu tương tự cho
các lưu vực khác là hết sức cần thiết nhằm cung
cấp cơ sở khoa học để đề xuất các chính sách
bảo vệ nguồn nước.
Trong những năm qua, chất lượng nước tưới
trong các kênh tưới tiêu kết hợp của hệ thống
thủy nông Bắc Đuống đang suy giảm nghiêm
trong. Nồng độ NH4 tại 13 vị trí quan trắc vượt
giá trị cho phép (tại cột B1, QCVN 08-
MT:2015/BTNMT) từ 2 đến 10 lần (Viện Nước,
2016). Việc bón lượng lớn phân bón chứa N
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 77
trong canh tác lúa được coi là một nguyên nhân
chủ yếu gây nên tình trạng trên. Vì vậy, bài báo
này sử dụng mô hình SWAT để đánh giá hiệu
quả của việc thay đổi lượng phân bón trong
canh tác lúa đến sự thay đổi chất lượng nước tại
cửa ra của lưu vực tiêu Hán Quảng – một vùng
tiêu của hệ thống thủy nông Bắc Đuống trong
giai đoạn 2000-2013.
2. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1 Vùng nghiên cứu
Vùng nghiên cứu thuộc lưu vực tiêu trạm bơm
Hán Quảng, tiêu ra sông Đuống. Diện tích lưu
vực tiêu là 13800 ha, thuộc địa phận các huyện
Thuận Thành, Tiên Du, Quế Võ và thành phố
Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh (Hình 1). Khu vực có
khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ không khí
trung bình năm biến đổi từ 23oC đến 27oC.
Lượng mưa trung bình năm là 1520mm, trong đó
83% đến 87% lượng mưa xảy ra trong mùa mưa
từ tháng 5 đến tháng 10. Cao độ địa hình biến đổi
từ +2m đến +7m. Đất đai trong vùng nghiên cứu
chủ yếu là đất phù sa gley do sông bồi tích. Nước
dưới đất chủ yếu được chứa trong tầng chứa
nước bở rời có độ sâu từ 5 đến 50m.
Diện tích đất nông nghiệp chiếm 63% diện
tích đất tự nhiên. Cơ cấu cây trồng phổ biến trên
diện tích đất nông nghiệp là lúa - lúa - ngô.
Hình 1. Vùng nghiên cứu
2.2 Mô hình SWAT
SWAT là mô hình thông số phân phối được
phát triển để mô phỏng tác động dài hạn của các
hoạt động quản lý đất đến nước, bùn cát và chất
lượng nước ở các quy mô thời gian và không
gian khác nhau trong một lưu vực. SWAT được
phát triển dựa trên khái niệm về đơn vị phản
ứng thủy văn (HRUs – hydrologic response
units). Mỗi HRUs có sự đồng nhất về sử dụng
đất, quản lý đất và thuộc tính thổ nhưỡng. Dòng
chảy, bùn cát và tải lượng dinh dưỡng từ mỗi
HRUs được tính toán riêng dựa trên các số liệu
đầu vào như thời tiết, thổ nhưỡng, địa hình, thực
vật và các hoạt động quản lý sử dụng đất, sau đó
được tổng hợp lại để xác định giá trị cho các
tiểu lưu vực.
Quá trình vận chuyển và phân hủy chất dinh
dưỡng trong một tiểu lưu vực phụ thuộc vào quá
trình chuyển hóa chất dinh dưỡng trong môi
trường đất và chu trình dinh dưỡng trong dòng
chảy. SWAT mô phỏng chu trình ni tơ trên cánh
đồng và chu trình ni tơ trong dòng nước. Chu
trình ni tơ là một hệ động học gồm không khí,
đất và nước. SWAT mô phỏng ni tơ dưới 5
dạng: amoni (NH4+), nitrate (NO3-), ni tơ hữu cơ
hoạt tính, ni tơ hữu cơ ổn định (từ các thành
phần mùn), ni tơ hữu cơ sạch (từ các sản phẩm
thừa của cây trồng). Ni tơ được bổ sung vào đất
thông qua bón phân (hóa học, phân chuồng và
sản phẩm thừa), cố định đạm bởi cây họ đậu và
nitrate từ nước mưa. Ni tơ được loại khỏi đất
bởi quá trình bốc hơi mặt lá của thực vật, quá
trình phản nitrate, xói mòn, rò rỉ và bay hơi.
Mô hình SWAT diễn toán động học diễn biến
của chất lượng nước trong dòng chảy thông qua
mô hình chất lượng nước QUAL2E (L C
Brown&nnk, 1987). Quá trình chuyển hóa các
thành phần của N bị chi phối bởi sự phát triển và
phân hủy của tảo, nhiệt độ nước, mức độ ô xi hóa
sinh hóa và lắng của ni tơ hữu cơ với bùn cặn.
2.3 Dữ liệu đầu vào
Dữ liệu chính của mô hình SWAT gồm số
liệu về khí tượng, cao độ địa hình, thổ nhưỡng
và sử dụng đất.
Bản đồ địa hình dạng DEM (Digital
Elevation Model) có độ phân giải 90 m x 90 m
đượcthu thập từ USGS (the United States
Geological Survey), sử dụng để vẽ các tiểu lưu
vực. Toàn bộ khu vực nghiên cứu được chia
thành 3 tiểu lưu vực và 115 đơn vị thủy văn
(HRUs).
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 78
Bản đồ sử dụng đất năm 2013 được cấp bởi
Sở TN&MT tỉnh Bắc Ninh, toàn bộ khu vực có
15 loại hình sử dụng đất, trong đó phần lớn là
đất trồng lúa, tiếp đến là đất dùng cho sản xuất
kinh doanh phi nông nghiệp và đất trồng cây
hoa màu.
Bản đồ thổ nhưỡng được thu thập từ Viện
Nông hóa thổ nhưỡng, sau đó được phân loại lại
theo mã loại đất của FAO74 tương ứng trong cơ
sở dữ liệu thổ nhưỡng của SWAT. Các thông số
về thuộc tính của đất được xác định dựa trên cơ
sở dữ liệu thuộc tính đất của Việt Nam.
Số liệu khí hậu được thu thập từ trạm đo Bến
Hồ, bao gồm lượng mưa, nhiệt độ không khí lớn
nhất, nhỏ nhất, bức xạ Mặt Trời, tốc độ gió và
độ ẩm tương đối theo ngày trong khoảng thời
gian từ 01/01/2000 đến 31/12/2013.
Các số liệu về cơ cấu mùa vụ, chế độ canh
tác của lúa hiện trạng và chế độ canh tác theo
khuyến cáo của cơ quan Khuyến nông cũng
được thu thập từ Sở NN&PTNT tỉnh Bắc Ninh.
Chế độ canh tác hằng năm thể hiện thời gian
thực hiện các công việc tương ứng với các thời
kỳ sinh trưởng của cây trồng như làm đất, bón
phân và tưới nước.
Số liệu về lưu lượng và chất lượng nước thải
từ các cơ sở công nghiệp và làng nghề được xác
định từ (Báo cáo của Công ty TNHH MTV KT
CTTL Bắc Đuống, 2010).
2.4 Hiệu chỉnh mô hình
Lưu vực nghiên cứu không có số liệu thực đo
về lưu lượng và chất lượng nước. Trong bài báo
này, bộ thông số của mô hình được xác định
theo phương pháp “lưu vực tương tự gần nhất”
(Ammar Rafiei Emam&nnk, 2017; Chiew&nnk,
2005). Theo đó, bộ thông số của mô hình
SWAT áp dụng cho lưu vực Hán Quảng được
sử dụng từ bộ thông số của mô hình đã được
kiểm định và hiệu chỉnh cho lưu vực sông Cầu
bởi Viet Bach Tran (2017).
Bảng 1. Thông số chính sử dụng cho mô phỏng lưu lượng
và chất lượng nước của mô hình SWAT (Viet Bach Tran, 2017)
Thông số Mô phỏng Mô tả Phạm vi Hiệu chỉnh
a_CN2 Dòng chảy Số đường cong 35-98 -5
v_ALPHA_BF Dòng chảy Hằng số tiết giảm dòng chảy cơ bản 0-1 0.031
v_GW_DELAY Dòng chảy Thời gian trễ của nước ngầm 0-500 300
v_GW_REVAP Dòng chảy Hệ số bốc hơi nước ngầm 0.02-0.2 0.12
v_REVAPMN Dòng chảy Ngưỡng chiều sâu nước trong nước
ngầm tầng nông để xảy ra bay hơi
hoặc thấm xuống tầng nước ngầm
sâu hơn
0-500 430
v_CANMX Dòng chảy Độ che phủ lớn nhất 0-100 97
v_ESCO Dòng chảy Chỉ số bù bốc hơi mặt đất 0-1 0.181
v_SURLAG Dòng chảy Hệ số trễ dòng chảy mặt 0.05-24 12
v_CH_N2 Dòng chảy Hệ số nhám cho kênh chính 0.01-0.3 0.038
v_CH_K2 Dòng chảy Hệ số thấm hiệu quả trong kênh
chính
0-500 22.5
v_SOL_AWC Dòng chảy Độ ẩm đất sẵn có 0-1 0.315
v_EROGN Ni tơ Chỉ số giàu N hữu cơ 0-5 0.663
v_CDN Ni tơ Hệ số tốc độ phản ni tơ rát 0-3 0.379
v_SDNCO Ni tơ Ngưỡng hàm lượng nước xảy ra
phản ni tơ rat
0-1.1 0.68
v_NPERCO Ni tơ Hệ số thấm N 0-1 0.99
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 79
Thông số Mô phỏng Mô tả Phạm vi Hiệu chỉnh
r_RCHRG_DP Ni tơ Tỉ lệ thấm vào nước ngầm tầng sâu 0-1 0.261
v_SOL_NO3 Ni tơ Nồng độ NO3 ban đầu trong lớp đất 0-100 36
v_BC1 Ni tơ Hằng số tốc độ o xy hóa sinh hóa từ
NH4 tới NO2—N ở 20oC
0.1-1 0.9
v_BC2 Ni tơ Hằng số tốc độ o xy hóa sinh hóa từ
NO2-N tới NO3—N ở 20oC
0.2-2 0.06
r_: giá trị thông số hiện tại được nhân với (1+giá trị nào đó)
a_: giá trị thông số hiện tại được thêm vào một giá trị nào đó
v_: giá trị thông số hiện tại được thay thế bởi một thông số nào đó
2.5 So sánh ảnh hưởng của chế độ bón phân
Để đánh giá ảnh hưởng của chế độ bón phân
đến lượng ni tơ hòa tan tại cửa ra của lưu vực
nghiên cứu (gần trạm bơm Hán Quảng), hai chế
độ bón phân được mô phỏng. Chế độ bón phân
thứ nhất là chế độ bón phân thực tế mà người
dân đang áp dụng trong khu vực nghiên cứu (gọi
là chế độ HT). Chế độ bón phân thứ 2 là chế độ
bón phân được khuyến cáo áp dụng để đảm bảo
cân bằng dinh dưỡng (gọi là chế độ SRI) (bảng
2). Sự thay đổi nồng độ trung bình tháng NH4 và
NO3 được đặc trưng bởi các đại lượng bách phân
thứ 25 (Q1), trung vị (Q2), bách phân thứ 75
(Q3) và trị số IQR = Q3-Q1.Q1 là giá trị có 25%
số liệu nhỏ hơn hoặc bằng. Q2 là giá trị có 50%
số liệu nhỏ hơn hoặc bằng. Q3 là giá trị có 75%
số liệu nhỏ hơn hoặc bằng. IQR là chỉ số đặc
trưng cho mức độ phân tán của của số liệu. Nếu
(Q3-Q2)>(Q2-Q1) thì gọi phân bố của số liệu là
lệch trên. Nếu (Q3-Q2)<(Q2-Q1) thì gọi phân
bố của số liệu là lệch dưới.
Trị số DQi đánh giá sự thay đổi của Qi
(i=1,2,3) của chế độ bón phân SRI ( so
với chế độ bón phân HT( , DQi được xác
định theo công thức:
Bảng 2. Thời vụ và thời điểm bón phân của lúa vụ xuân và vụ mùa
Thời gian Giai đoạn Hoạt động Đơn vị Số lượng
HT SRI Giảm
5/1(5/7) Làm đất
Phân chuồng kg 10000 5000 50%
Phân Ure kg 160 56 12/1(19/7) Bón lót
17/1(24/7) Cấy
Ure kg 180
29/1(5/8) Bón thúc lần 1
NPK(15:15:15) kg 50 (150) 194
Ure kg 180
10/3(14/9) Bón thúc lần 2
NPK(15:15:15) kg 50
167(139)
17/5(21/11) Thu hoạch
33%
(46%)
Ghi chú: Trị số trong ngoặc đơn là thời điểm/giá trị áp dụng cho vụ mùa; HT là chế độ bón
phân mà nông dân đang thực hiện; SRI là chế độ bón phân theo khuyến cáo của cơ quan
Khuyến nông
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 80
3. KẾT QUẢVÀ THẢO LUẬN
3.1. Diễn biến NH4 và NO3 vụ xuân
Hình 2 cho thấy nồng độ NH4 của cả hai chế độ
bón phân HT và SRI đều giảm dần từ tháng 1 đến
tháng 6. Mô hình phân phối theo tháng nồng độ
NH4 của chế độ bón phân HT tập trung xung
quanh giá trị trung vị và khá đối xứng. Giá trị IQR
của chế độ bón phân HT lớn nhất là 1.03 mg/l
(vào tháng 6) và nhỏ nhất là 0.37 mg/l (vào tháng
3). Ngược lại, trong chế độ bón phân SRI, nồng
độ NH4 phân tán và phân bố lệnh xung quanh giá
trị trung vị. Giá trị IQR của chế độ bón phân SRI
lớn nhất là 6.39 mg/l (vào tháng 1) và nhỏ nhất là
1.13 mg/l (vào tháng 6). Mức độ giảm Q1 (DQ1)
gần tương đương với mức độ giảm
Q2 (DQ2) và lớn hơn nhiều so với mức độ
giảm của Q3 (DQ3) (hình 3a). DQ1 đạt giá trị
lớn nhất vào tháng 1 với 86% và đạt giá trị
nhỏ nhất vào tháng 6 với 54%. DQ2 đạt giá trị
lớn nhất vào tháng 1(77%) và giữ ổn định từ
tháng 2 đến tháng 4 (72%-73%) trước khi
giảm xuống giá trị nhỏ nhất vào tháng 6
(59%). Xu hướng tăng dần của DQ3 là trái
ngược với xu hướng giảm dần của DQ1 và
DQ2 trong vụ xuân. Điều đó cũng cho thấy
rằng, mức độ ảnh hưởng của thay đổi trong
chế độ bón phân tới các giá trị nồng độ lớn
của NH4 ít hơn so với ảnh hưởng tới các giá
trị nồng độ trung bình và nhỏ.
Hình 2. Thay đổi nồng độ NH4 và NO3 ở các tháng của vụ xuân
Hình 3. Thay đổi các đặc trưng thống kê của nồng độ NH4 (a) và NO3(b) ở các tháng của vụ xuân
Trong vụ xuân, nồng độ NO3 thay đổi nhiều
trong tháng 1 và tháng 2 và ít thay đổi trong
tháng 3 đến tháng 6 đối với cả hai chế độ bón
phân (hình 2). Tuy nhiên, ảnh hưởng của chế độ
bón phân đến sự thay đổi nồng độ NO3 lại khá
rõ trong hình. Phạm vi của DQ1, DQ2 và DQ3
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 81
là tương đương nhau, từ 33% đến 78%. Cả 3 đại
lượng DQ1, DQ2 và DQ3 đạt giá trị lớn nhất
vào tháng 3 (77%-78%). Trong tháng 1 và 2,
DQ3 nhỏ hơn so với DQ1 và DQ2 nhưng từ
tháng 3 đến tháng 6, DQ3 lớn hơn so với các giá
trị còn lại. Kiểm tra mức độ tương quan các trị
số DQ1, DQ2 và DQ3 của sự thay đổi nồng độ
NH4 và NO3 cho thấy DQ2 có giá trị tương quan
cao nhất (r=0.63, p=0.05), sau đó đến DQ3
(r=0.61, p=0.05) và cuối cùng là DQ1(r=0.46,
p=0.05). Như vậy, việc giảm lượng phân bón
đầu vào đã giảm đồng thời nồng độ NH4và NO3.
Hình 4. Thay đổi nồng độ NH4 và NO3 ở các tháng của vụ mùa
Hình 5. Thay đổi các đặc trưng nồng độ NH4(a) và NO3(b) ở các tháng của vụ mùa
3.2. Diễn biến NH4 và NO3 vụ mùa
Hình 4 cho thấy mức độ phân tán (giá trị
IQR) của mô hình thay đổi nồng độ NH4-HT
tăng dần từ tháng 7 đến tháng 11. Mô hình phân
bố nồng độ NH4-HT lệch về phía trên so với
trung vị trong tháng 7 và 8, lệnh về phía dưới so
với trung vị từ tháng 9 đến tháng 11 và đối xứng
trong tháng 12. Giá trị DQ1 tăng dần từ tháng 7
đến tháng 12, đạt giá trị lớn nhất là 89% vào
tháng 12. Giá trị của DQ2 nhỏ hơn DQ1 nhưng
có xu hướng biến đổi tương tự như xu hướng
biến đổi của DQ1, dao động từ 47% đến 81%.
Giá trị của DQ3 nhỏ hơn nhiều so với giá trị của
DQ1 và DQ2, biến đổi từ 15% đến 46%. Xu
hướng biến đổi của DQ1 và DQ2 trong vụ mùa
trái ngược với xu hướng biến đổi của những giá
trị này trong vụ xuân. Mức độ phân tán của
nồng độ NO3 trong tháng 10 là cao nhất so với
các tháng còn lại của vụ mùa. Giá trị IQR lớn
nhất của NO3-HT và NO3-SRI lần lượt là 1.86
mg/l và 1.08 mg/l trong tháng 10 và lớn hơn
nhiều so với giá trị trong các tháng còn lại (đều
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 82
nhỏ hơn 1.0 mg/l). Cả DQ1, DQ2, DQ3 đạt giá
trị lớn nhất trong tháng 8, tương ứng là 86%,
84% và 87%. DQ1 và DQ2 có giá trị nhỏ nhất
trong tháng 7, lần lượt là 34% và 37%. Các giá
trị DQ1 và DQ2 của vụ mùa lớn hơn vụ xuân
nhưng giá trị DQ3 của vụ mùa nhỏ hơn vụ xuân.
Điều này cho thấy mức độ ảnh hưởng của chế
độ bón phân đến nồng độ ni tơ hòa tan trong vụ
mùa khác với mức độ ảnh hưởng trong vụ xuân.
Như vậy, khi lượng phân chuồng giảm 50%,
lượng phân hóa học giảm 33% (vụ xuân) và
46% (vụ mùa) thì lượng NO3 giảm 38%, lượng
NH4 giảm 47%.
Kết quả mô phỏng trong bài báo phù hợp với
kết quả đã thực hiện trước đó của các nhà khoa
học trên thế giới. McIsaac&nnk (2001) cho rằng
giảm 12% lượng phân bón ni tơ trong lưu vực
sông Mississippi có thể giảm 33% lượng NO3
từ sông vào vịnh Mexico. Khi lượng phân bón
N giảm từ 10% đến 50% thì mô hình SWAT dự
báo giảm từ 10% đến 41% lượng NO3 trong
sông (X. Hu&nnk, 2007).
4. KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu này, mô hình SWAT
được sử dụng để mô phỏng ảnh hưởng của chế
độ bón phân đến sự thay đổi nồng độ NH4 và
NO3 từ năm 2000 đến năm 2013 tại cửa ra của
lưu vực Hán Quảng, thuộc hệ thống thủy nông
Bắc Đuống. Bộ thông số của mô hình được
xác định từ việc kiểm định và hiệu chỉnh mô
hình áp dụng cho lưu vực tương tự gần nhất –
lưu vực sông Cầu. Kết quả cho thấy khi lượng
phân chuồng giảm 50%, lượng phân hóa học
chứa N giảm 33% (vụ xuân) và 46% (vụ mùa)
thì trung bình lượng NO3 giảm 38% và lượng
NH4 giảm 46%. Sự thay đổi của Q1 và Q2
nhiều hơn sự thay đổi của Q3. Thêm vào đó,
IQR của NO3 thay đổi từ 0.03 mg/l đến 2.2
mg/l và IQR của NH4 thay đổi từ 0.37 mg/l
đến 7 mg/l.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
BC(2010) "Báo cáo thống kê các đơn vị xả thải vào hệ thống thủy nông Bắc Đuống." Công ty
TNHH MTV khai thác công trình thủy lợi Bắc Đuống.
Viện Nước, TT &MT(2016) "Giám sát, dự báo chất lượng nước trong hệ thống công trình thủy lợi
Bắc Đuống phục vụ sản xuất nông nghiệp".
Ammar Rafiei Emam, Martin Kappas, Nguyen Hoang Khanh Linh, Tsolmon Renchin (2017)
"Hydrological Modeling and Runoff Mitigation in an Ungauged Basin of Central Vietnam Using
SWAT Model." Hydrology, 16 (4).
Chiew, F.H.S. and L. Siriwardena (2005) " Catchments, Estimation Of SIMHYD ParameterValues
For Application In Ungauged". Congress on Modelling and Simulation, MODSIM 2005.
L C Brown, Tom Barnwell(1987) "The enhanced stream water quality models QUAL2E and
QUAL2E-UNCAS: documentation and user manual" Environmental Protection Agency.
McIsaac, G.F., M.B. David, G.Z. Gertner, and D.A. Goolsby (2001). "Eutrophication–nitrate flux in
the Mississippi river". Nature, 414, 166–167.
Q.D.Lam, B.Schmalz, N.Fohrer (2012) "Assessing the spatial and temporal variations of water
quality in lowland areas, Northern Germany". Journal of Hydrology, Volumes 438–439.
Viet Bach Tran, Hiroshi Ishidaira, Takashi Nakamura, Thu Nga Do, Kei Nishida (2017)
"Estimation of Nitrogen Load with Multi-pollution Sources Using the SWAT model: a Case
Study in the Cau River Basin in Northern Vietnam". Journal of Water and Environment
Technology, 15 (3), 106-119.
X. Hu, G. F. McIsaac, M. B. David, and C. A. L. Louwers(2007) "Modeling Riverine Nitrate Export
from an East-Central Illinois Watershed Using SWAT". J. Environ. Qual., 36, 996–1005
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 83
Abstract:
IMPACT OF FERTILIZER APPLICATION ON RICE FIELD ON VARIATION IN
NITROGEN CONCENTRATION IN DRAINAGE CANALS OF THE HAN QUANG
WATERSHED, BAC NINH PROVINCE
Recently, water quality has degraded seriuously in the Han Quang watershed belonging to service
area of the Bac Duong irrigation system. Exceeded fertilizer application on rice fields was
considered as a main cause. This paper aims to assess impact of change in fertilizer application on
variation inboth NH4 and NO3 concentration in drainage canals during the period of 2000 - 2013.
The results indicate that a decrease by 50% in manure together with a decrease in nitrogen
fertilization by 33% in spring season and 46% in wet seasoninduced a decrease in NO3 by 38% and
in NH4 by 46%. In addition, variation in both Q1 (Quartile 1) and Q2 (Median)was greater than
variation in Q3(Quartile 3). IQR(Interquartile range) of NO3 ranged from 0.03 mg/l to 2.2 mg/l and
IQR of NH4was in the range of 0.37 - 7 mg/l.
Keywords: Han Quang watershed, SWAT, fertilizer application, NO3, NH4
Ngày nhận bài: 08/5/2018
Ngày chấp nhận đăng: 29/5/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36474_117929_1_pb_0651_2070346.pdf