Ảnh hưởng của chọn lọc lên năng suất sinh sản và tiến bộ di truyền của 3 thế hệ chim cút Nhật Bản

Tiến bộ di truyền Hệ số di truyền (h2) được sử dụng nhiều trong công tác chọn giống. Thông qua hệ số di truyền sẽ hạn chế được ảnh hưởng của môi trường ngoài và tìm thấy được giá trị di truyền của tính trạng nghiên cứu. Hệ số di truyền của các tính trạng riêng biệt là một đại lượng tương đối ổn định, nó phụ thuộc vào các tính trạng số lượng khác nhau. Ở gia cầm, các tính trạng có hệ số di truyền thấp (h2=0,25) gồm có tuổi đẻ trứng, sản lượng trứng, cường độ đẻ. Theo kết quả nghiên cứu của Tawefeuk (2001) trên cút Nhật Bản cho thấy, trong suốt 70 ngày đẻ, hệ số di truyền của cút trong khoảng 0,30-0,41. Tuy nhiên, theo Helal (1995), trong giai đoạn 12-15 tuần sản xuất trứng hệ số di truyền của tính trạng này nằm trong khoảng 0,40-0,88. Trong khi đó, kết quả nghiên cứu hiện tại về tính trạng năng suất trứng cho thấy, hệ số di truyền của quần thể cút thí nghiệm trong 20 tuần đẻ ở TH1-THXP là 0,33 và ở TH2- TH1 là 0,28. Kết quả nghiên cứu hiện tại cao hơn so với kết quả của Ribeiro và ctv (2017) trên giống cút thịt UFV1 (0,16) và UFV2 (0,22) trong 407 ngày khảo sát và thấp hơn so với nghiên cứu của Helal (1995) và Tawefeuk (2001). Kết quả này gần với kết quả nghiên cứu của Momoh và ctv (2014) trên cút Nhật Bản với hệ số di truyền cho số lượng trứng là 0,34. Kết quả tương tự (0,35 và 0,21) đối với hai giống cút thịt cho sản xuất trứng đến 200 ngày được báo cáo bởi Mielenz và ctv (2006). Tuy nhiên, nghiên cứu của Okenyi và ctv (2013) cho thấy, hệ số di truyền của tính trạng số lượng trứng có xu hướng tăng lên qua 3 thế hệ khảo sát (THXP là 0,12; TH1 là 0,33 và TH2 là 0,48). Trong khi đó, nghiên cứu hiện tại cho thấy có sự giảm hệ số di truyền qua các thế hệ chọn lọc từ 0,36 (TH1-THXP) giảm xuống 0,28 (TH2-TH1). Theo Falcorner và Mackay (1989), hệ số di truyền của tính trạng số lượng trứng giảm qua nhiều thế hệ cho thấy sự ổn định di truyền tăng lên. Như vậy, quần thể chim cút qua quá trình chọn lọc có xu hướng ổn định dần về mặt di truyền.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của chọn lọc lên năng suất sinh sản và tiến bộ di truyền của 3 thế hệ chim cút Nhật Bản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DI TRUYỀN - GIỐNG VẬT NUÔI KHKT Chăn nuôi số 255 - tháng 3 năm 2020 13 5. Khadem A., Hafezian H. and Rahimi-Mianji G. (2010). Association of single nucleotide polymorphisms in IGFI, IGF-II and IGFBP-II with production traits in breeder hens of Mazandaran native fowls breeding station. Afr. J. Biot., 9(6): 805-10. 6. Đỗ Võ Anh Khoa (2012). Ảnh hưởng của đột biến điểm C1032T trên gen IGFBP2 trên các tính trạng năng suất thịt ở gà tàu vàng, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 24(b): 1-7. 7. Lei M., C. Luo, X. Peng, M. Fang, Q. Nie, D. Zhang, G. Yang and X. Zhang (2007). Polymorphism of Growth- Correlated Genes Associatedwith Fatness and Muscle Fiber Traits in Chickens. Poult. Sci., 86: 835-42. 8. Lei M.M., Nie Q.H., Peng X., Zhang D.X. and Zhang X.Q. (2005). Single nucleotide polymorphisms of the chicken insulin-like factor binding protein 2 gene associated with chicken growth and carcass traits. J. Poult. Sci., 84(8): 1911-18. 9. Mehdi S., Hamidreza S., Abolfazl G., Nosratollah Z. (2014). Growth Hormone Receptor Gene Polymorphism and its Associations with Some Growth traits in West- Azarbaijan Native chicken. Bull. Env. Pharmacol. Life Sci., 3(6): 140-43. 10. Nguyen T.L.A., Sajee Kanharaeng and Monchai Duangjinda (2015). Association of Chicken Growth Hormones and Insulin-like Growth Factor Gene Polymorphisms with Growth Performance and Carcass Traits in Thai Broilers. Asian-Australas J Anim Sci., 28(12): 1686-95. 11. Nie Q., Lei M., Ouyang J., Zeng H., Tang G. and Zhang X. (2005). Identification and characterization of single nucleotide polymorphisms in 12 chicken growth- correlated genes by denaturing high performance liquid chromatography, Genet. Sel. Evol. 37: 339-60. 12. Nie Q.H., Fang M.X., Xie L., Zhou M., Liang Z.M., Luo Z.P., Wang G.H., Bi W.S., Liang C.J, Zhang W. and Zhang X.Q (2008). The PIT1gene polymorphisms were associated with chicken growth traits. BMC Genetic, 9: 20-24. 13. Rodriguez S., Gaunt T.R. and Day I.N.M. (2009). Hardy-Weinberg equilibrium testing of biological ascertainment for Mendelian randomization studies. Am J Epidemiol, 169: 505. 14. Zahra R., Masoud A., Hamid R.S. and Cyrus A. (2011), Identification of a single nucleotide polymorphism of the pituitary-specific transcriptional factor 1 (Pit 1) gene and its association with body composition trait in Iranian commercial broiler line. African Journal of Biotechnology, 10(60): 12979-83. ẢNH HƯỞNG CỦA CHỌN LỌC LÊN NĂNG SUẤT SINH SẢN VÀ TIẾN BỘ DI TRUYỀN CỦA 3 THẾ HỆ CHIM CÚT NHẬT BẢN Lâm Thái Hùng1* và Lý Thị Thu Lan1 Nhận nhận bài báo: 04/12/2019 - Ngày nhận bài phản biện: 29/12/2019 Ngày bài báo được chấp nhận đăng: 08/01/2020 TÓM TẮT Nghiên cứu được tiến hành nhằm so sánh năng suất sinh sản và tiến bộ di truyền của 3 thế hệ chim cút Nhật Bản trong 20 tuần đẻ thông qua chọn lọc và nhân giống. Tổng số chim cút được theo dõi ở thế hệ xuất phát (THXP) gồm 360 mái và 120 trống; thế hệ 1 (TH1) gồm 240 mái và 80 trống; thế hệ 2 (TH2) gồm 120 mái và 40 trống. Cút được nuôi theo ô cá thể, được ăn tự do bằng thức ăn chứa 22%CP và ME 2.900 kcal/kg và được uống nước tự do. Ở các thế hệ, chim cút đều được theo dõi năng suất sinh sản trong 20 tuần đẻ. Kết quả theo dõi cho thấy năng suất trứng cút tăng dần qua 3 thế hệ THXP, TH1 và TH2 đạt lần lượt 121,3; 126,6; 128,1 quả/mái/20 tuần đẻ. Số trứng có phôi, tỷ lệ trứng có phôi, tỷ lệ nở, chỉ số hình dáng và tỷ lệ đẻ ở TH1 và TH2 cao hơn có ý nghĩa so với THXP. Hiệu quả chọn lọc TH1 so với THXP là 5,3 quả trong khi TH2 so với TH1 là 1,5 quả với hệ số di truyền lần lượt là 0,36 và 0,28. Từ khóa: Cút Nhật Bản, năng suất sinh sản và hiệu quả chọn lọc. ABSTRACT Evaluation of the reproductive performance and hereditary improvement of three generations for Japanese quails The study of Japanese quail mate selection and continued breeding fertility was conducted to evaluate the reproductive performance and hereditary improvement of three generations of 1 Trường Đại học Trà Vinh *Tác giả liên hệ: TS. Lâm Thái Hùng, Trưởng khoa Nông nghiệp–Thủy sản, Trường Đại học Trà Vinh; email: lthung@tvu.edu.vn DI TRUYỀN - GIỐNG VẬT NUÔI KHKT Chăn nuôi số 255 - tháng 3 năm 202014 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Ở nước ta, chăn nuôi cút đã trở thành một nghề phổ biến ở nhiều nông hộ với các quy mô khác nhau, từ vài trăm con tới hàng chục ngàn con (Bùi Hữu Đoàn, 2009). Chim cút giữ vai trò quan trọng trong cung cấp trứng và thịt phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Cút được nhập vào nuôi ở Việt Nam năm 1971 và tổng đàn đã tăng lên hàng chục triệu con (Bùi Hữu Đoàn, 2009). Chăn nuôi cút có nhiều ưu điểm như chi phí đầu tư không cao, thu hồi vốn nhanh, cút dễ nuôi, ít bệnh, có tuổi thành thục sớm, đẻ nhiều trứng, thời gian đẻ kéo dài, thịt thơm ngon có giá trị dinh dưỡng cao (Bùi Hữu Đoàn, 2010). Cút được nuôi lấy trứng và lấy thịt, trong đó cút đẻ trứng được biết rộng rãi và phổ biến hơn so với cút được nuôi lấy thịt (Rogerio, 2009). Tuy nhiên, kết quả điều tra sơ bộ về đàn cút nuôi tại Tiền Giang, Bến Tre và Trà Vinh cho thấy tỷ lệ đẻ trứng của cút chỉ đạt 240 trứng/con/năm, kết quả này cho thấy năng suất đẻ trứng của đàn cút Nhật Bản tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có khuynh hướng giảm. Điều này có thể do các giống cút trong một thời gian dài không được chọn lọc hay chọn phối nên bị pha tạp ở nhiều mức độ khác nhau, từ đó làm phân chia thành nhiều dòng dẫn tới năng suất sinh sản chênh lệch. Vì vậy, đàn cút giống cần được chọn lọc và khôi phục lại để năng suất trong đàn được cải thiện (Phạm Văn Giới và ctv, 2000; Trần Huê Viên, 2003; Bùi Hữu Đoàn, 2009). Việc khảo sát khả năng sinh sản và tiến bộ di truyền của 03 thế hệ chim cút Nhật Bản qua 20 tuần đẻ là nhằm đánh giá lại năng suất sinh sản thực tế và tiến bộ di truyền sau quá trình chọn lọc và nhân giống chim cút Nhật Bản nuôi tại ĐBSCL. 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Địa điểm Thí nghiệm được thực hiện tại Trại thực nghiệm Chăn nuôi, Khoa Nông nghiệp - Thủy sản thuộc Trường Đại học Trà Vinh. 2.2. Bố trí thí nghiệm Việc chọn lựa cút giống ở 3 thế hệ được dựa theo mô hình chọn lọc cá thể xuất sắc cút trống và cút mái đầu dòng để nhân giống theo phương pháp của Đặng Vũ Bình (2002). Thế hệ xuất phát (THXP) gồm 360 con mái và 120 con trống lúc 7 tuần tuổi được sử dụng để làm đàn hạt nhân. Cút được nuôi theo phương thức cá thể trên lồng và ghép đôi giao phối tự nhiên với tỷ lệ 1 trống và 3 mái, mỗi trống được ghép với mỗi mái trong 3 giờ. Chọn lọc các cá thể cho năng suất sinh sản cao để tiến hành nhân giống. Cút được nở ra từ trứng của những cá thể cho năng suất sinh sản cao ở THXP được chọn lựa dần đến 6 tuần tuổi căn cứ vào đặc điểm ngoại hình để hình thành thế hệ 1 (TH1). Ở thế hệ 1 có 240 cút mái và 80 cút trống được chọn Japanese quail over 20 weeks of egg laying. A total of 3 generations of Japanese quails observed consisted of the original generation including 360 females and 120 males, the first offspring generation including 240 females and 80 males, and the second offspring generation including 120 females and 40 males. Birds were kept in individual cages, fed and given water ad libitum with a diet consisting of 22% crude protein with an ME of 2,900 kcal/kg of feed. All results from the generations of laying quails were calculated during a period of 20 weeks. The results showed that Japanese quails’ egg productivity gradually decreased from the original generation to the first and the second offspring generation at 121:3, 126:6, 128:1 egg/quail/20 weeks of laying egg respectively. The number of inseminated eggs, ratio of inseminated eggs, ratio of hatched eggs, shape ratio, and egg laying ratio of Japanese quails in the offspring generations were higher than that of the original generation. Genetic selective efficiency of the first offspring generation was improved by 5.3 eggs compared to the original generation, but genetic selective efficiency of the second offspring generation was only 1.5 eggs compared to the first offspring generation while their heritage coefficients were 0.36 and 0.28, respectively. Keywords: Japanese quails, reproductive performance, and genetic selective efficiency. DI TRUYỀN - GIỐNG VẬT NUÔI KHKT Chăn nuôi số 255 - tháng 3 năm 2020 15 lọc, theo dõi và nhân giống. Chọn những cá thể có năng suất sinh sản cao ở TH1 để hình thành đàn giống ở thế hệ 2 (TH2). Ở TH2, tổng số cút gồm 120 cút mái và 40 cút trống được nuôi dưỡng và tiếp tục theo dõi năng suất sinh sản. Cút được nuôi theo ô cá thể với diện tích mỗi ô là 30x42x20cm. Cút được ăn tự do bằng thức ăn chứa protein thô 22% và năng lượng trao đổi 2.900 kcal/kg thức ăn và được uống nước tự do. Trứng được thu gom lúc 16 giờ hàng ngày và được theo dõi trong 20 tuần. Năng suất trứng, tỷ lệ đẻ, khối lượng trứng, chỉ số hình dáng trứng, tỷ lệ trứng có phôi, tỷ lệ ấp nở và hệ số tiến bộ di truyền của 03 thế hệ cút thí nghiệm được xác định: Khối lượng trứng được xác định bằng cách cân, đường kính lớn và nhỏ của trứng được đo bằng thước kẹp. Năng suất trứng được xác định bằng cách cộng dồn trứng theo từng cá thể cút suốt thời gian thí nghiệm. Chỉ số hình dáng trứng được xác định bằng cách tính tỷ số giữa đường kính nhỏ và đường kính lớn của trứng. Tỷ lệ trứng có phôi được xác định bằng cách tính tỷ lệ (%) giữa số trứng có phôi trên tổng số trứng đẻ của một cút mái. Tỷ lệ ấp nở của trứng được xác định bằng cách tính tỷ lệ (%) giữa số cút nở ra còn sống trên tổng số trứng đẻ ra của một cút mái. Tiến bộ di truyền (TBDT) là hiệu quả chọn lọc của bất kỳ một tính trạng nào đó trên một đơn vị thế hệ, hay là sự vượt trội về giá trị trung bình ở thế hệ con của bố mẹ được chọn làm giống so với giá trị trung bình của đàn con mà bố và mẹ chúng không được áp dụng bất kỳ một phương pháp chọn lọc nào trên một đơn vị thời gian thế hệ. TBDT được tính theo công thức: ΔG=R/ L=iδph2/L, trong đó: ΔG là TBDT, R là hiệu quả chọn lọc, i là cường độ chọn lọc, δp là độ lệch chuẩn kiểu hình, h2 là hệ số di truyền, L (thường được tính theo đơn vị năm) là khoảng cách thời gian giữa hai thế hệ (Đặng Vũ Bình, 2002). 2.3. Xử lý số liệu Số liệu được xử lý thống kê bằng ANOVA và so sánh sự khác biệt trung bình của 3 thế hệ bằng Tukey của phần mềm Minitab 13.2 (2000). 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Năng suất trứng của chim cút Nhật Bản trong 20 tuần đẻ của 3 thế hệ Kết quả theo dõi năng suất sinh sản ở Bảng 1 cho thấy, việc chọn lọc giống đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao năng suất sinh sản của đàn cút thí nghiệm thể hiện qua sự khác biệt rất có ý nghĩa thống kê ở tất cả các chỉ tiêu theo dõi (P<0,001) của thế hệ chọn lọc TH1 và TH2 so với THXP, trừ chỉ tiêu khối lượng trứng. Tổng số trứng của đàn cút thí nghiệm ở TH2 có sự cải tiến đáng kể về số lượng trứng đạt 128,1 quả/mái/20 tuần cao hơn năng suất trung bình của TH1 (126,6 quả) và khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,01) so với đàn cút ở THXP (121,3 quả). Kết quả này cho thấy việc chọn lọc đàn cút theo hướng di truyền đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao năng suất sinh sản của đàn cút thí nghiệm. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, quần thể cút được chọn lọc cho năng suất sinh sản cao thể hiện năng suất cao hơn kết quả của Bùi Hữu Đoàn (2009) với 112,8 quả/mái/20 tuần, Trần Huê Viên (2003) là 126,6 quả/mái/20 tuần. Kết quả này cho thấy, phương pháp di truyền đã hỗ trợ tích cực trong việc chọn lọc giống theo hướng nâng cao số lượng trứng của cút. Kết quả ở Bảng 1 cũng cho thấy, các thế hệ cút chọn lọc TH1 và TH2 luôn thể hiện khả năng sinh sản cao hơn so với THXP, ngoài trừ chỉ tiêu tỷ lệ nở hầu hết các chỉ tiêu khảo sát như số trứng có phôi, tỷ lệ có phôi, số con nở ra, tỷ lệ nở, chỉ số hình dáng và tỷ lệ đẻ, TH1 và TH2 đều thể hiện cao hơn và khác biệt có ý nghĩa so với THXP. Tuy nhiên, ở TH1 và TH2 chỉ tìm thấy sự chênh lệch có ý nghĩa ở chỉ tiêu số trứng có phôi và tỷ lệ có phôi, trong đó TH2 luôn thể hiện cao hơn so với TH1. Kết quả này cho thấy việc chọn lọc đã góp phần cải thiện năng suất sinh sản của cút và đưa giống cút dần ổn định về năng suất trứng. DI TRUYỀN - GIỐNG VẬT NUÔI KHKT Chăn nuôi số 255 - tháng 3 năm 202016 Kết quả nghiên cứu này cũng cho thấy, TH2 thể hiện năng suất cao hơn so với các nghiên cứu của Phòng Văn Mỹ (1994); Trần Huê Viên (2003); Bùi Hữu Đoàn (2009); Trần Hồng Định (2010) với tỷ lệ đẻ dao động lần lượt là 86,4-88,3; 88,8-91,4; 57,6-73,7; 86,1 và 79-80%. Kết quả về tỷ lệ đẻ cho thấy đây là một kết quả rất tốt trong công tác chọn lọc đàn cút sinh sản với mục tiêu lựa chọn những giống cút có năng suất sản xuất trứng cao. Bên cạnh đó, chỉ số hình dáng cũng cao hơn công bố của Phòng Văn Mỹ (1994) là 76,61-79,14%; tỷ lệ trứng có phôi cao hơn kết quả nghiên cứu của Trần Huê Viên (2003) (92%). Từ những kết quả trên cho thấy năng suất trứng của cút đã được cải thiện và chất lượng con giống qua quá trình chọn lọc đã dần ổn định hơn về năng suất. Việc chọn giống chim cút được căn cứ vào mục đích hướng thịt hoặc hướng trứng. Tuy nhiên, dù hướng trứng hay hướng thịt thì khả năng sinh sản cũng đều quan trọng trong chăn nuôi cút (Bùi Hữu Đoàn, 2009). Nghiên cứu của Daikwo (2011) về các thông số di truyền của một số tính trạng sản xuất trứng ở cút Nhật Bản nuôi trong môi trường nhiệt đới. Thí nghiệm với 250 cút mái sản xuất trứng, sử dụng mô hình bình phương hỗn hợp của Harvey và ctv (2010) để ước tính di truyền, tương quan di truyền và kiểu hình của tính trạng sản xuất trứng. Kết quả ghi nhận được khối lượng cút trung bình lúc đẻ quả trứng đầu tiên là 145,7g. Tuổi trung bình khi đẻ trứng đầu tiên là 47,0 ngày, số trứng trung bình ở mỗi cút mái là 248 trứng/năm, số lượng trứng đẻ hàng năm có tương quan di truyền cao và ảnh hưởng đáng kể với tuổi đẻ trứng đầu tiên. Từ đó cho thấy các tính trạng sản xuất trứng có thể được nghiên cứu để cải thiện thông qua lai tạo, phương pháp lựa chọn và lựa chọn qua quan sát số lượng trứng có thể nâng cao số lượng trứng đẻ hàng năm và giảm khoảng cách các thế hệ. 3.2. Hệ số di truyền của 3 thế hệ cút thí nghiệm Trong chăn nuôi gia cầm, hầu hết các tính trạng số lượng đều có ý nghĩa kinh tế lớn như sản lượng trứng, khối lượng trứng và khối lượng cơ thể. Để hoàn thiện các giống gia cầm, điều quan trọng là nhận biết các đại lượng di truyền cơ bản của các tính trạng kinh tế, cũng như mức độ di truyền của các tính trạng. Các chương trình chọn giống gia cầm nhằm nâng cao tiềm năng di truyền của các con thông qua chọn lọc và lai tạo giống. Ban đầu, các thông số di truyền trong thí nghiệm chọn lọc được sử dụng trong ước tính hệ số di truyền và tương quan di truyền. Chọn giống thuần chủng nhằm thiết lập và duy trì các đặc điểm ổn định ở các thế hệ tiếp theo. Bằng cách “chọn giống tốt nhất”, sử dụng một mức độ cận huyết nhất định và lựa chọn những cá thể có phẩm chất “vượt trội”, để có thể phát triển dòng máu cao hơn ở một số khía cạnh đối với đàn giống ban đầu (Grandin và Johnson, 2005). Kết quả chọn lọc đàn cút cho năng suất sinh sản cao được thể hiện ở Bảng 2. Bảng 1. Năng suất sinh sản trong 20 tuần đẻ của cút ở 3 thế hệ Chỉ tiêu THXP TH1 TH2 P/SE Mean Tổng số trứng (quả/mái) 121,3b±0,532 126,6a±0,091 128,1a±1,014 0,000/0,746 Số trứng có phôi (quả/mái) 104,2c±0,596 111,9b±0,774 119,3a±1,135 0,000/0,835 Tỷ lệ có phôi (%) 87,3a±0,264 88,2a±0,343 92,8a±0,503 0,000/0,370 Số con nở ra (con) 95,5a±0,652 100,6b±0,847 104,6c±1,242 0,000/0,914 Tỷ lệ nở (%) 91,3a±0,273 90,2b±0,355 86,9c±0,521 0,000/0,383 Chỉ số hình dáng (%) 76,1c±0,182 77,1b±0,236 78,2a±0,346 0,000/0,255 Khối lượng trứng (g) 11,8±0,034 11,8±0,044 11,9±0,065 0,325/0,048 Tỷ lệ đẻ (%) 84,7b±0,362 90,5a±0,470 91,5a±0,689 0,000/0,057 Ghi chú: Các chữ cái ở giá trị trung bình cùng hàng giống nhau thì không khác biệt có ý nghĩa thống kê (P>0,05). DI TRUYỀN - GIỐNG VẬT NUÔI KHKT Chăn nuôi số 255 - tháng 3 năm 2020 17 Bảng 2. Hệ sô di truyền qua 3 thế hệ Chỉ tiêu TH1-THXP TH2-TH1 Hiệu quả chọn lọc, R 5,3 1,5 Ly sai chọn lọc, S 15,4 4,9 Hệ số di truyền, h2 0,36 0,28 Cường độ chọn lọc, i 1,40 1,40 Khoảng cách thế hệ, năm 0,60 0,60 sP G0 13,3 5,4 Tiến bộ di truyền, ΔG 11,3 3,6 Các thông số di truyền ước lượng cho các tính trạng kinh tế khác nhau của cút Nhật Bản được báo cáo bởi nhiều nghiên cứu (Marks, 1996; Narinc và ctv, 2010; Zerehdaran và ctv, 2012). Thông số di truyền cho sản lượng trứng và một vài tính trạng sinh sản đã được ước tính bởi Mielenz và ctv (2006). Một vài nghiên cứu thể hiện các thông số di truyền về hệ số chuyển hóa thức ăn, tính trạng chất lượng thịt ở cút Nhật Bản (Aksit và ctv, 2003; Narinc và ctv, 2010; Narinc và ctv, 2013). Sự cải tiến về di truyền giống đã cho các nhà di truyền học gia cầm cơ hội tận dụng các đặc điểm khác nhau ở các dòng bố mẹ khác nhau (Marks, 1996). Việc chọn lọc giống cút Nhật Bản dựa trên các đa hình gen liên quan đến năng suất sinh sản của đàn cút thí nghiệm hiện tại cho thấy, cường độ chọn lọc và khoảng cách thế hệ thì không tìm thấy sự thay đổi qua các thế hệ chọn lọc. Tuy nhiên, qua 2 thế hệ chọn lọc cho thấy, hiệu quả chọn lọc của TH1 cao hơn 5,3 trứng so với THXP với ly sai chọn lọc tương đối cao (15,4 quả). Bên cạnh đó, TH2 cũng thể hiện hiệu quả chọn lọc (1,5 quả) và ly sai chọn lọc (4,9 quả) tương đối hiệu quả so với TH1. Tuy nhiên, các chỉ số này thấp hơn TH1 so với THXP. Kết quả này cho thấy, mức độ ổn định qua các thế hệ chọn lọc ngày càng cao. Tương tự, ở các chỉ tiêu độ lệch chuẩn kiểu hình và tiến bộ di truyền, TH1 có sự tiến bộ cao hơn so với THXP và TH2 chênh lệch thấp hơn so với TH1. Kết quả này cho thấy việc chọn lọc về mặt di truyền đã góp phần nâng cao năng suất sinh sản của đàn cút thí nghiệm 3.3. Tiến bộ di truyền Hệ số di truyền (h2) được sử dụng nhiều trong công tác chọn giống. Thông qua hệ số di truyền sẽ hạn chế được ảnh hưởng của môi trường ngoài và tìm thấy được giá trị di truyền của tính trạng nghiên cứu. Hệ số di truyền của các tính trạng riêng biệt là một đại lượng tương đối ổn định, nó phụ thuộc vào các tính trạng số lượng khác nhau. Ở gia cầm, các tính trạng có hệ số di truyền thấp (h2=0,25) gồm có tuổi đẻ trứng, sản lượng trứng, cường độ đẻ. Theo kết quả nghiên cứu của Tawefeuk (2001) trên cút Nhật Bản cho thấy, trong suốt 70 ngày đẻ, hệ số di truyền của cút trong khoảng 0,30-0,41. Tuy nhiên, theo Helal (1995), trong giai đoạn 12-15 tuần sản xuất trứng hệ số di truyền của tính trạng này nằm trong khoảng 0,40-0,88. Trong khi đó, kết quả nghiên cứu hiện tại về tính trạng năng suất trứng cho thấy, hệ số di truyền của quần thể cút thí nghiệm trong 20 tuần đẻ ở TH1-THXP là 0,33 và ở TH2- TH1 là 0,28. Kết quả nghiên cứu hiện tại cao hơn so với kết quả của Ribeiro và ctv (2017) trên giống cút thịt UFV1 (0,16) và UFV2 (0,22) trong 407 ngày khảo sát và thấp hơn so với nghiên cứu của Helal (1995) và Tawefeuk (2001). Kết quả này gần với kết quả nghiên cứu của Momoh và ctv (2014) trên cút Nhật Bản với hệ số di truyền cho số lượng trứng là 0,34. Kết quả tương tự (0,35 và 0,21) đối với hai giống cút thịt cho sản xuất trứng đến 200 ngày được báo cáo bởi Mielenz và ctv (2006). Tuy nhiên, nghiên cứu của Okenyi và ctv (2013) cho thấy, hệ số di truyền của tính trạng số lượng trứng có xu hướng tăng lên qua 3 thế hệ khảo sát (THXP là 0,12; TH1 là 0,33 và TH2 là 0,48). Trong khi đó, nghiên cứu hiện tại cho thấy có sự giảm hệ số di truyền qua các thế hệ chọn lọc từ 0,36 (TH1-THXP) giảm xuống 0,28 (TH2-TH1). Theo Falcorner và Mackay (1989), hệ số di truyền của tính trạng số lượng trứng giảm qua nhiều thế hệ cho thấy sự ổn định di truyền tăng lên. Như vậy, quần thể chim cút DI TRUYỀN - GIỐNG VẬT NUÔI KHKT Chăn nuôi số 255 - tháng 3 năm 202018 qua quá trình chọn lọc có xu hướng ổn định dần về mặt di truyền. 4. KẾT LUẬN Năng suất trứng cút TH2 đạt 128,1 quả/ mái/20 tuần đẻ, cao hơn TH1 (126,6 quả/ mái/20 tuần đẻ) và cao hơn THXP (121,3 quả/ mái/20 tuần đẻ). Hiệu quả chọn lọc TH1 so với THXP là 5,3 quả; TH2 so với TH1 là 1,5 quả với hệ số di truyền lần lượt là 0,36 và 0,28. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Aksit M., I. Oguz, Y. Akbas, Y. Altan and M. Ozdogan (2003). Genetic variation of feed traits and relationships to some meat production traits in Japanese quail (Coturnix coturnix Japonica). Arch. Geflugelkd., 67: 76-82. 2. Đặng Vũ Bình (2002). Di truyền số lượng và chọn giống vật nuôi. Giáo trình sau Đại học. Nxb Nông Nghiêp, Hà Nội. 3. Daikwo I.S. (2011). Genetic Studies on Japanese Quails (Coturnix coturnix japonica) in a Tropical Environment. PhD Thesis, College of Animal Science, University of Agriculture Makurdi, Nigeria. 4. Trần Hồng Định (2010). Ảnh hưởng của các mức protein thô lên khả năng sinh trưởng và phát dục của chim cút và các mức năng lượng và protein trên năng suất trứng của cút mái sinh sản nuôi tại tỉnh Bạc Liêu. Luận văn thạc sĩ. Khoa Nông Nghiệp và SHƯD, Trường đại học Cần Thơ. 5. Bùi Hữu Đoàn (2009). Chăn nuôi bồ câu và cút. Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 6. Bùi Hữu Đoàn (2010). Nuôi và phòng trị bệnh cho cút. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 7. Falconer D.S. and F.C. Mackay (1989). Introduction to Quantitative Genetics, 3rd ed. Longman Scientific & Technical, Harlow. 8. Phạm Văn Giới, Nguyễn Quế Côi và Nguyễn Thị Loan (2000). Khảo sát năng suất của cút đang được nuôi ở một số địa phương tỉnh Hà Tây. Tạp chí KHCN quốc gia, 48: 359-62. 9. Grandin T. and C. Johnson (2005). Animals in Translation. Houghton Mifflin Harcourt, New York, NY. 10. Harvey R.C., C.G. Mullighan, X. Wang, and K.K. Dobbin (2010). Identification of novel cluster groups in pediatric high-risk B-precursor acute lymphoblastic leukemia with gene expression profiling: correlation with genome-wide DNA copy number alterations, clinical characteristics, and outcome. The American Society of Hematology. Blood, 116: 4874-84. 11. Helal M.A. (1995). The effect of crossing on the performance of Japanese quail. M. Sc. Thesis, Vet. Med. College, Alexandria Univ., Egypt. 12. Marks H.L. (1996). Long-term selection for body weight in Japanese quail under different environments. Poult. Sci., 75: 1198-03. 13. Mielenz N., R.N. Ronny and L. Schuler (2006). Estimation of additive and non-additive genetic variances of body weight, egg weight and egg production for quails Coturnix coturnix japonica with an animal model analysis. Arch. Tierz. Dummerstorf, 49: 300-07. 14. Minitab (2000). Minitab Reference Manual. PC Version, Release 13.2. Minitab Inc., State College, PA. 15. Momoh O.M., D. Gambo and N.I. Dim (2014). Genetic parameters of growth, body, and egg traits in Japanese quails (Cotournix cotournix japonica) reared in southern guinea savannah of Nigeria, J. App. Biosciences, 79: 6947-54. 16. Phòng Văn Mỹ (1994). Thử nghiệm thay thế bắp bằng bột mì và bột khoai mì ủ nấm sợi Cephalosporium eichhorniae trong khẩu phần cút đẻ. Luận văn tốt nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ. 17. Narinc D., T. Aksoy, and E. Karaman (2010). Genetic parameters of growth curve parameters and weekly body weights in Japanese quail. J. Anim. Vet. Adv., 9: 501-07. 18. Narinc D., T. Aksoy, E. Karaman, A. Aygun, M.Z. Firat and M.K. Uslu (2013). Japanese quail meat quality: Characteristics, heritabilities, and genetic correlations with some slaughter traits. Poult. Sci., 92: 1735-44. 19. Okenyi N., H.M. Ndofor-Foleng, C.C. Ogbu and C.I. Agu (2013). Genetic parameters and consequences of selection for short-term egg production traits in Japanese quail in a tropical environment. Afr. J. Biot., 12(12): 1357-62. 20. Ribeiro J.C., L.P.D. Silva, A.C.C. Soares, G.D.C. Caetano, C.D.S. Leite, C.M. Bonafé and R.D.A. Torres (2017). Genetic parameters for egg production in meat quails through partial periods. Ciência Rural, 47(4): Em bổ sung đường dẫn vào đây. 21. Rogerio G.T. (2009). Quail meat- an undiscovered alternative. World Poult. J., 25(2): 7-16. 22. Tawefeuk F.A. (2001). Studies in Quail breeding using selection index for the improvement of growth and egg production in Japanese quail. PhD thesis, Fac. Agric. Tanta Univ. Egypt. 23. Trần Huê Viên (2003). Một số đặc điểm sinh sản của cút nuôi tại Thái Nguyên. Tạp chí NN&PTNT, 2: 287-88. 24. Zerehdaran S., E. Lotfi and Z. Rasouli (2012). Genetic evaluation of meat quality traits and their correlation with growth and carcass composition in Japanese quail. Br. Poult. Sci., 53: 756-62.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfanh_huong_cua_chon_loc_len_nang_suat_sinh_san_va_tien_bo_di.pdf
Tài liệu liên quan