Tỷ lệ sống sót của tế bào Bacillus subtilis B5 sau
chiếu xạ
Tác động của bức xạ gamma tới tỷ lệ sống sót
của vi khuẩn B. subtilis B5 được đánh giá bằng
phương pháp nhỏ trực tiếp dịch nuôi cấy lên đĩa
thạch và phương pháp đếm khuẩn lạc sống sót
sau chiếu xạ (Hình 4A và 4B).
Dựa vào đồ thị hình 4 ta có thể thấy, ở cả hai
loại môi trường số lượng tế bào vi khuẩn sống
sót đều giảm đáng kể theo chiều tăng của liều
chiếu xạ (giảm từ 109 xuống 104 khi liều tăng
từ 0-2000Gy). Tuy nhiên, ở liều dưới 1000 ảnh
hưởng của dịch chiết tới sự phát triển của tế bào
sau chiếu xạ rõ rệt hơn. Ở khoảng liều này, trong
môi trường có bổ sung dịch chiết, lượng tế bào
sống sót chỉ giảm từ 109 xuống 107, giảm chậm
hơn so với môi trường không bổ sung dịch chiết,
lượng tế bào sống sót giảm từ 109 xuống 106.
Hiệu ứng này cũng thể hiện rõ trên các đĩa thạch
được nhỏ trực tiếp dịch nuôi cấy sau chiếu xạ, ở
môi trường bổ sung dịch chiết khuẩn lạc mọc dày
hơn, cho thấy khả năng sinh trưởng và phát triển
tốt hơn (Hình 4). Qua đó khẳng định dịch chiết
CM2 có tác dụng bảo vệ đối với tế bào vi khuẩn
ở dải liều chiếu thấp, ít tác dụng ở các liều chiếu
cao.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của dịch chiết nấm đông trùng hạ thảo tới tế bào và dna của vi khuẩn bacillus subtilis bị chiếu xạ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
19Số 65 - Tháng 12/2020
1. MỞ ĐẦU
Con người chúng ta thường xuyên tiếp xúc trong
giới hạn an toàn với cả hai loại bức xạ: bức xạ
tự nhiên và bức xạ nhân tạo. Mức độ gây tác hại
của phóng xạ đối với chúng ta phụ thuộc vào thời
gian tiếp xúc và cường độ của phóng xạ. Tia gam-
ma nói riêng, tia phóng xạ nói chung được biết
đến như tác nhân gây đột biến ở cấp độ tế bào,
DNA và những sai sót trong quá trình sửa chữa
DNA tự nhiên dẫn đến sự hình thành các tế bào
ung thư [1].
Ảnh hưởng của tia gamma lên tế bào và DNA đã
được quan tâm nghiên cứu trên nhiều đối tượng
khác nhau như nguyên bào sợi và tế bào máu của
người [2, 3], tế bào chuột, plasmid [2], tế bào dâu
tây [4], Arabidopsis [5],... Dưới tác dụng của tia
gamma, DNA có một số biến đổi chủ yếu như:
Đứt gãy mạch đơn của phân tử DNA, làm phân
tử DNA biến dạng, giảm thể tích phân tử; Đứt
gãy mạch kép của phân tử DNA, làm giảm độ
nhớt của dung dịch; Tạo nhánh, tạo cầu liên kết
giữa các phân tử; Tạo dimer giữa các nucleotide
pyrimidine (thymine và cytosine), mà phổ biến
nhất là hiện tượng nhị trùng phân thymine-thy-
mine. Tất cả những biến đổi này đều ngăn cản
sao chép DNA, hình thành đột biến trên phân tử
DNA [2, 3, 4, 5, 6].
Nấm Đông trùng hạ thảo (Cordyceps) là một loại
nấm ký sinh nội bào, thuộc nhóm nấm Ascomy-
cota. Hiện có khoảng trên 500 loài khác nhau,
phân bố chủ yếu ở khu vực Bắc Mỹ, Nam Mỹ,
Châu Âu và Châu Á. Hiện nay, một số loài của
nấm này đã được nuôi trồng thành công trong
điều kiện nhân tạo để đáp ứng nhu cầu của người
dân về điều trị bệnh và nâng cao sức khỏe. Chủng
nấm Cordyceps militaris được biết tới như một
nguồn chất hỗ trợ tăng cường miễn dịch cũng
như bảo vệ phóng xạ tiềm năng nhờ mang hoạt
chất chống oxy hóa cao và hiện được nhiều nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu. Jae-Won Ha và
cộng sự (2006), Kang HJ và cộng sự (2015) đã có
những nghiên cứu về khả năng tăng cường miễn
dịch của dịch chiết nấm Cordyceps militaris [7,
8]. Đặc biệt, Jeong và cộng sự (2014) đã công bố
về việc sử dụng nấm Cordyceps militaris như
một chất bảo vệ phóng xạ, dịch chiết Cordyceps
militaris có tác dụng bảo vệ chống lại sự phá hủy
DNA do bức xạ gây ra. Theo nhóm tác giả này,
ẢNH HƯỞNG CỦA DỊCH CHIẾT NẤM ĐÔNG
TRÙNG HẠ THẢO TỚI TẾ BÀO VÀ DNA
CỦA VI KHUẨN Bacillus subtilis BỊ CHIẾU XẠ
Dịch chiết từ nấm đông trùng hạ thảo (Cordyceps militaris) do phòng Nghiên cứu Công nghệ
bức xạ - Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội phân lập, nuôi trồng được sử dụng như một chất bảo vệ phóng
xạ. Chất lượng của dịch chiết Cordyceps militaris được đánh giá thông qua hoạt tính chống oxy hóa
bằng phương pháp quét gốc tự do DPPH. Trong khi đó, ảnh hưởng của dịch chiết tới khả năng làm
giảm mức độ tổn thương gây ra bởi bức xạ tia gamma đối với tế bào và DNA của vi khuẩn Bacillus
subtilis được kết luận dựa trên những khảo sát về tỷ lệ sống sót của tế bào vi khuẩn trong môi trường
có bổ sung dịch chiết nấm Cordyceps militaris và kiểm tra mức độ đứt gãy DNA vi khuẩn Bacillus
subtilis sau chiếu xạ bằng các phương pháp sinh học phân tử.
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
20 Số 65 - Tháng 12/2020
dịch chiết Cordyceps militaris đã làm tăng hiệu
quả loại bỏ gốc tự do và giảm chuỗi DNA plasmid
gây ra do bức xạ trong các thử nghiệm in vitro
[9].
Nghiên cứu này tập trung khảo sát ảnh hưởng
của dịch chiết nấm Cordyceps militaris được
nuôi cấy tại Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội tới tế
bào và DNA của chủng vi khuẩn Bacillus subtilis
B5 bị chiếu xạ. Các kết quả thu được một lần nữa
khẳng định tác dụng bảo vệ phóng xạ của dịch
chiêt nấm đối với tế bào và DNA của vi khuẩn nói
riêng và xa hơn là tác dụng bảo vệ phóng xạ đối
với tế bào, DNA của các loài sinh vật khác cũng
như đối với con người.
2. NỘI DUNG
2.1. Đối tượng và phương pháp
2.1.1. Nguyên vật liệu và hóa chất
Nấm Cordyceps militaris nuôi cấy tại phòng
Nghiên cứu Công nghệ Bức xạ - Trung tâm Chiếu
xạ Hà Nội. Chủng Bacillus subtilis B5 được cung
cấp bởi Viện Công nghệ Sinh học – Đại học Bách
Khoa Hà Nội.
2,2-Diphenyl-1-Picrylhydrazyl (DPPH), môi
trường nutrient broth (NB) của hãng Sigma-Al-
drich. Một số hóa chất tách chiết và điện di DNA
của Thermo Fisher Scientific.
Máy móc, thiết bị nuôi cấy vi sinh và nguồn chiếu
xạ gamma nguồn Co-60 tại Trung tâm Chiếu xạ
Hà Nội.
2.1.2. Phương pháp
Phương pháp thu nhận dịch chiết nấm Cordyceps
militaris [10]
Một (01) g bột nấm Cordyceps militaris khô được
cho vào 40 ml dung môi H2O:C2H5OH tỷ lệ 1:1 và
ủ trong bể ổn nhiệt ở 85°C trong khoảng thời gian
2,5 giờ. Sau ủ, toàn bộ hỗn hợp được chia vào các
ống Falcon và ly tâm với tốc độ 8000 vòng/phút
trong 30 phút ở 4°C. Dịch chiết sau ly tâm được
sấy thăng hoa ở -80°C trong 24 giờ để thu dạng
bột khô tinh khiết.
Phương pháp đánh giá khả năng bắt giữ gốc tự
do DPPH [11]
Khả năng bắt giữ gốc tự do của dịch chiết nấm
Cordyceps militaris được đánh giá bằng phương
pháp DPPH theo Zhan và cộng sự (2006) [11].
Thành phần phản ứng bao gồm: 1 ml dịch chiết
nồng độ 0,5-9,0 mg/ml; 2 ml đệm acetate nồng
độ 0,05mol/l, pH 5,5; 1 ml C2H5OH 100%; 1 ml
DPPH nồng độ 0,5 mmol/l pha trong C2H5OH
100%. Hỗn hợp phản ứng được lắc đều và để ở
nhiệt độ 30°C trong tối trong 30 phút. Độ hấp thụ
quang của hỗn hợp được đo bởi máy đo quang
phổ ở bước sóng 517 nm. Ascorbic acid (vitamin
C) được sử dụng làm đối chứng dương, đối chứng
âm là mẫu không bổ sung DPPH. Khả năng bắt
giữ gốc tự do của dịch chiết được tính theo công
thức:
Trong đó: Ab, As, Asb lần lượt là độ hấp thụ
quang được đo ở bước sóng 517 nm của mẫu
trắng (dung dịch không chứa mẫu), mẫu và mẫu
trắng của mẫu tương ứng.
Phương pháp chiếu xạ
Đường cong sinh trưởng của chủng B. subtilis B5
được khảo sát trong môi trường nuôi cấy NB và
trong môi trường này có bổ sung dịch chiết nấm
Đông trùng hạ thảo (CM2) ở điều kiện lắc 120
vòng/phút, 37oC tại các thời điểm khác nhau từ
0-36 giờ.
Các ống nghiệm (10 ml/ống) chứa dịch nuôi cấy
tế bào vi khuẩn B. subtilis B5 và dịch nuôi cấy tế
bào vi khuẩn có bổ sung dịch chiết nấm Đông
trùng hạ thảo ở pha Log (OD550 = 0,6-0,7) được
đem xử lý chiếu xạ ở dải liều 0-2000 trên nguồn
gamma Co-60 Gy tại Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
21Số 65 - Tháng 12/2020
(3 ống nghiệm lặp lại cho mỗi liều/công thức thí
nghiệm).
Phương pháp tính tỷ lệ sống sót
Dung dịch nuôi cấy tế bào vi khuẩn (trước và sau
chiếu xạ) được pha loãng theo mũ thập phân. 0,1
ml mẫu ở các nồng độ pha loãng thích hợp được
cấy vào đĩa petri chứa môi trường NA (3 đĩa petri/
độ pha loãng). Sử dụng que gạt vô trùng dàn đều
dung dịch trên bề mặt thạch. Tiến hành đếm số
lượng khuẩn lac sau 24 giờ nuôi cấy ở nhiệt độ
37°C và tính số lượng tế bào (Mi) trong 1ml mẫu
theo công thức:
Mi (CFU/ml)= Ai x Di/V
Trong đó: Ai là số khuẩn lạc trung bình/ đĩa; Di
là độ pha loãng và V là thể tích dung dịch cấy vào
mỗi đĩa (ml).
Phương pháp tách chiết DNA sử dụng phenol/
chloroform
Dịch nuôi cấy sau khi chiếu xạ của vi khuẩn B.
subtilis B5 được ly tâm làm giàu và tách chiết
DNA tổng số bằng phương pháp sử dụng Phenol/
Chloroform. Kết quả tách chiết DNA tổng số vi
khuẩn B. subtilis B5 được điện di kiểm tra trên gel
agarose 1% sử dụng marker 1kb.
2.2. Kết quả và bàn luận
Khả năng bắt giữ gốc tự do của dịch chiết nấm
Đông trùng hạ thảo Cordyceps militaris
Hình 1. Dịch chiết Cordyceps militaris thu nhận được
Dịch chiết (CM2) Cordyceps mitaris được chiết
xuất bởi dung môi H2O:C2H5OH tỷ lệ 1:1 có
dạng đồng nhất, màu nâu, không còn chứa tạp
dạng bột. Thể tích dịch chiết thu được nằm trong
khoảng từ 25ml đến 35ml tùy vào lượng hao hụt
do bay hơi trong quá trình tách chiết (Hình 1).
Dịch chiết (CM2) được sấy thăng hoa ở -80°C
trong 24 giờ để thu dạng bột khô tinh khiết thuận
lợi cho việc tạo ra các dung dịch chiết nồng độ
khác nhau. Hoạt tính chống oxi hóa in vitro của
dịch chiết được đánh giá thông qua khả năng
bắt giữ gốc tự do DPPH. Kết quả được trình bày
trong Hình 2.
Hình 2. Khả năng bắt giữ gốc tự do của dịch chiết
CM2 và vitamin C
Hình 2 cho thấy khả năng bắt giữ gốc tự do của
dịch chiết CM2 tăng nhanh từ nồng độ 0-3 mg/
ml và đạt khoảng 90% ở nồng độ 3-9 mg/ml. Ở
khoảng nồng độ 3-9 mg/ml, khả năng bắt giữ gốc
tự do của của dịch chiết CM2 ổn định, ít thay đổi
theo chiều tăng của nồng độ và cao hơn mẫu đối
chứng là dung dịch vitamin C có cùng nồng độ.
Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Zhan
và cộng sự (2006) ở dải nồng độ tương tự [11].
Điều này cho thấy chất lượng nấm Cordyceps mi-
taris khá tốt cũng như phương pháp tách chiết
đạt hiệu quả cao.
Ảnh hưởng của dịch chiết tới sinh trưởng, phát
triển của tế bào B. subtilis B5
Hình 3 biểu diễn độ hấp thụ quang của dịch nuôi
cấy vi khuẩn trong môi trường nuôi cấy NB và
môi trường NB có bổ sung dịch chiết CM2. Đồ
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
22 Số 65 - Tháng 12/2020
thị cho thấy giai đoạn tăng trưởng rất mạnh- pha
log là khoảng 2-6 giờ.
Hình 3. Đường cong hấp thụ ở OD550 của dịch
nuôi cấy tế bào vi khuẩn B. subtilis B5 ở các thời
điểm khác nhau
Trong giai đoạn này, chủng vi khuẩn B5 ở môi
trường có bổ sung dịch chiết CM2 có tốc độ sinh
trưởng cao hơn so với chính nó ở môi trường
không bổ sung dịch chiết, OD550 ở thời điểm 6
giờ là 1,13 so với 0,95. Tốc độ sinh trưởng của vi
khuẩn chậm hơn ở giai đoạn tiếp theo khi bước
vào pha cân bằng (8-18 giờ). Do hạn chế của
phương pháp đo quang phổ là không phân biệt
được tế bào sống-chết, đồ thị vẫn có chiều hướng
đi lên và gần như đường thẳng. Ở giai đoạn này,
tốc độ tế bào sống tăng lên bằng tế bào chết đi
và không có sự khác biệt lớn về giá trị OD giữa
môi trường có bổ sung dịch chiết CM2 và môi
trường không bổ sung dịch chiết. Giai đoạn suy
vong được tính từ 18h trở đi. Đồ thị ở giai đoạn
này nằm ngang do trong dung dịch chỉ tồn tại tế
bào chết, không có sự tăng thêm về số lượng tế
bào sống. Thậm chí, các tế bào kết lại thành đám
làm giá trị OD550 giảm ở thời điểm 36 giờ xuống
còn 1,57 và 1.68. Các kết quả cho thấy chủng B.
subtilis B5 ở môi trường có bổ sung dịch chiết
CM2 có tốc độ suy thoái chậm hơn so với chủng
B5 ở môi trường không bổ sung dịch chiết.
Tỷ lệ sống sót của tế bào Bacillus subtilis B5 sau
chiếu xạ
Tác động của bức xạ gamma tới tỷ lệ sống sót
của vi khuẩn B. subtilis B5 được đánh giá bằng
phương pháp nhỏ trực tiếp dịch nuôi cấy lên đĩa
thạch và phương pháp đếm khuẩn lạc sống sót
sau chiếu xạ (Hình 4A và 4B).
Dựa vào đồ thị hình 4 ta có thể thấy, ở cả hai
loại môi trường số lượng tế bào vi khuẩn sống
sót đều giảm đáng kể theo chiều tăng của liều
chiếu xạ (giảm từ 109 xuống 104 khi liều tăng
từ 0-2000Gy). Tuy nhiên, ở liều dưới 1000 ảnh
hưởng của dịch chiết tới sự phát triển của tế bào
sau chiếu xạ rõ rệt hơn. Ở khoảng liều này, trong
môi trường có bổ sung dịch chiết, lượng tế bào
sống sót chỉ giảm từ 109 xuống 107, giảm chậm
hơn so với môi trường không bổ sung dịch chiết,
lượng tế bào sống sót giảm từ 109 xuống 106.
Hiệu ứng này cũng thể hiện rõ trên các đĩa thạch
được nhỏ trực tiếp dịch nuôi cấy sau chiếu xạ, ở
môi trường bổ sung dịch chiết khuẩn lạc mọc dày
hơn, cho thấy khả năng sinh trưởng và phát triển
tốt hơn (Hình 4). Qua đó khẳng định dịch chiết
CM2 có tác dụng bảo vệ đối với tế bào vi khuẩn
ở dải liều chiếu thấp, ít tác dụng ở các liều chiếu
cao.
Hình 4. Tỷ lệ sống sót của chủng B5 và chủng B5 có
bổ sung dịch chiết
A. Không bổ sung dịch chiết CM2
B. Có dịch chiết CM2
Mức độ đứt gãy DNA tổng số Bacillus subtilis B5
sau chiếu xạ
Để kiểm tra mức độ đứt gãy DNA của chủng vi
khuẩn B. subtilis B5 gây ra do chiếu xạ. DNA tổng
số của tế bào vi khuẩn trong dung dịch nuôi cấy
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
23Số 65 - Tháng 12/2020
ở các liều chiếu 0, 300, 700, 1500Gy được tách
chiết (mỗi liều gồm mẫu đối chứng và mẫu có bổ
sung dịch chiết (CM2). Kết quả điện di DNA tổng
số của các mẫu thí nghiệm được trình bày trong
Hình 5. Điện di DNA tổng số sử dụng marker
1kb, gel agarose 1%.
Hình 5. Kết quả điện di DNA tổng số các mẫu
M: Marker 1kb; 1-2: B5 0 Gy; 3-4: 300 Gy; 5-6:
700 Gy; 7-8: 1500 Gy
Hình 5 cho thấy khá rõ ảnh hưởng của chiếu xạ
tới sự đứt gãy của DNA tổng số. Mẫu 1 và 2 là
mẫu không chiếu xạ cho kết quả băng DNA sắc
nét, rõ ràng, không có vệt đứt gãy phía dưới. Mẫu
3 và 5 là mẫu chiếu xạ ở liều 300 Gy và 700 Gy
cho các băng sáng rõ, tuy nhiên do ảnh hưởng của
chiếu xạ tạo ra các vệt đứt gãy DNA rải rác phía
dưới. Mẫu 4 và 6 là mẫu chiếu xạ ở liều 300 Gy
và 700 Gy, tuy nhiên dưới tác dụng bảo vệ phóng
xạ của dịch chiết CM2 các vệt đứt gãy phía dưới
đã giảm nhiều, chúng ta có thể quan sát rõ nhất
ở mẫu số 6. Mẫu 7 và 8 là mẫu chiếu xạ ở liều
1500 Gy, ở liều chiếu cao các băng DNA tổng số
không còn rõ ràng do bị đứt gãy nhiều. Mẫu 8 có
bố sung dịch chiết CM2 đã giảm số vệt đứt gãy
phía dưới, tuy nhiên ở liều cao, hiệu ứng này là
không rõ ràng. Điều này có thể giải thích do ở
liều chiết cao, chiếu xạ đã gây đứt gãy lớn DNA,
đồng thời ảnh hưởng lớn tới tế bào, DNA không
thể phục hồi được bằng các cơ chế sửa chữa của tế
bào. Như vậy, kết quả này khẳng định dịch chiết
CM2 có tác dụng bảo vệ đối với DNA vi khuẩn B.
subtilis B5 ở các liều chiếu thấp, ít tác dụng ở liều
chiếu cao.
3. KẾT LUẬN
Khả năng bắt giữ gốc tự do của dịch chiết nấm
Đông trùng hạ thảo Cordyceps militaris là trên
90% ở nồng độ từ 3mg/ml. Với hoạt tính chống
oxy hóa tốt, dịch chiết này cho thấy khả năng bảo
vệ đáng kể tế bào và DNA vi khuẩn B. subtilis ở
những liều chiếu thấp. Khả năng bảo vệ này chưa
rõ ràng ở liều chiếu cao hơn. Trong nghiên cứu
tiếp theo, chúng tôi dự kiến sẽ PCR và giải trình
tự gene 16S nhằm đánh giá mức độ tổn thương
DNA của vi khuẩn ở mức độ nucleotide.
Trần Xuân An, Nguyễn Thị Thơm,
Hoàng Đăng Sáng, Nguyễn Văn Bính,
Trần Băng Diệp
Trung tâm chiếu xạ Hà Nội
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Tindall K. R., Stein J., Hutchinson F., “Changes
in DNA Base Sequence Induced by Gamma-Ray
Mutagenesis of Lambda Phage and Prophage”,
Genetics,118(4), pp. 551–560, 1988.
[2] Melanie Gulston, Jonathan Fulford, Terry Jen-
ner, Catherine de Lara, and Peter O’Neill “Clus-
tered DNA damage induced by gamma radiation
in human fibroblasts (HF19), hamster (V79-4)
cells and plasmid DNA is revealed as Fpg and Nth
sensitive sites”, Nucleic Acids Research, 30(15),
pp. 3464–3472, 2002.
[3] Sudprasert W., Navasumrit P., Ruchirawat M.,
“Effects of low-dose gamma radiation on DNA
damage, chromosomal aberration and expression
of repair genes in human blood cells”, Int J Hyg
Environ Health, 209(6), pp. 503-11, 2006.
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN
24 Số 65 - Tháng 12/2020
[4] J. D’amour, Gosselin C., Arul J., Castaigne
F., Willemot C., “Gamma‐Radiation Affects Cell
Wall Composition of Strawberries”, Food science,
Volume 58, pp. 182-185, 1993.
[5] Seung Gon Wi, Byung Yeoup Chung, Jin-
Hong Kim, Myung-Hwa Baek, Dae Hwa Yang,
Ju-Woon Lee, Jae-Sung Kim , “Ultrastructural
changes of cell organelles in Arabidopsis stems af-
ter gamma irradiation”, Journal of Plant Biology,
Volume 48, pp. 195–200, 2005.
[6] Đoàn Hồng Vân, Trần Minh Quỳnh, Nguyễn
Thị Thơm, Đinh Ba Tuấn, Trần Tuấn Anh, Nguyễn
Thuỳ Ngân, Tạ Bích Thuận, Võ Thị Thương Lan,
“Đánh giá mức độ tổn thương phân tử DNA dưới
tác dụng của tia tử ngoại”, Hội nghị Khoa học và
Công nghệ Hạt nhân toàn quốc lần thứ 11, 162-
163, 2015.
[7] Jae-Won Ha, Hwa-Seung Yoo, Jang-Woo Shin,
Jung-Hyo Cho, Nan-Heon Lee, Dam-Hee Yoon,
Yeon-Weol Lee, Chang-Gue Son, Chong-Kwan
Cho, “Effects of Cordyceps militaris Extract on
Tumor Immunity”, Korean Journal of Oriental
Medicine, Vol 27. No 4, pp. 12-29, 2006.
[8] Kang H. J., Baik H.W., Kim S. J., Lee S. G.,
Ahn H. Y., Park J. S., Park S. J., Jang E. J., Park S.
W., Choi J. Y., Sung J. H., Lee S. M., “Cordyceps
militaris Enhances Cell-Mediated Immunity in
Healthy Korean Men”, J Med Food, 18(10), pp.
1164-72, 2015.
[9] Jeong M. H., Park Y. S., Jeong D. H., Lee C. G.,
Kim J. S., Oh S. J., Jeong S. K., Yang K., Jo WS, “In
vitro evaluation of Cordyceps militaris as a po-
tential radioprotective agent”, International Jour-
nal of Molecular Medicine, Volume 34 Issue 5, pp.
1349-1357, 2014.
[10] Yu Zhan, Cai-Hong Dong, Yi-Jian Yao, “An-
tioxidant Activities of Aqueous Extract from Cul-
tivated Fruit-bodies of Cordyceps militaris (L.)
Link In Vitro”, Journal of Integrative Plant Biol-
ogy, 48(11), pp. 1365−1370, 2006.
[11] Zhang H., “The Optimization of Extraction
of Cordycepin from Fruiting Body of Cordyceps
militaris (L.) Link”, Advanced Materials Research,
Vols. 393-395, pp. 1024-1028, 2012.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_dich_chiet_nam_dong_trung_ha_thao_toi_te_bao_v.pdf