Ảnh hưởng của pH
Mỗi loài nấm đều sinh trưởng, phát triển thuận lợi ở giá
trị pH nhất định. pH có ảnh hưởng đến sự tiết các enzym
ngoại bào trong chất nền. Các enzym ngoại bào thường thể
hiện hoạt động trong một phạm vi pH hẹp và có ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình chuyển hóa chất dinh dưỡng của nấm
[8]. Zagrean và cs (2016) [12] cho rằng, tốc độ phát triển
của hệ sợi nấm P. eryngii phụ thuộc vào bản chất môi trường
và pH của nó.
Kết quả theo dõi đặc điểm sinh trưởng hệ sợi của chủng
nấm P. linteus trên môi trường với giá trị pH thay đổi từ 5
đến 10 (bảng 3, hình 3) cho thấy, chủng nấm P. linteus sinh
trưởng tốt khi pH môi trường có giá trị từ 7 đến 10, tốc độ
mọc hệ sợi đạt từ 4,83 đến 5,0 mm/ngày. Tại pH 5 và 6, tốc
độ sinh trưởng sợi của nấm P. linteus chậm hơn so với pH
từ 7 đến 10. Mật độ sợi nấm P. linteus trên các môi trường
nuôi cấy tại pH 7, 8, 9, 10 dày, phân bố đều, bám chặt môi
trường và có màu vàng đặc trưng.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của điều kiện nuôi cấy đến sinh trưởng hệ sợi của nấm Phellinus linteus, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
39
Khoa học Nông nghiệp
63(2) 2.2021
Đặt vấn đề
Nấm Phellinus linteus (Berk. & Curt.) Teng thuộc chi
nấm Phellinus spp. có khoảng 200 loài khác nhau, chúng
thường xuất hiện trên các loại cây lá rộng như sồi, dẻ [1].
Nấm P. linteus được biết đến là loại nấm có giá trị dược
liệu cao, có khả năng phòng chống ung thư tuyến tụy, bạch
cầu, tế bào biểu mô, vòm họng, đại tràng hay ung thư biểu
mô thận [2, 3]. Tại Hàn Quốc, sản xuất nấm Phellinus spp.
được xem là lĩnh vực sản xuất có tiềm năng, có thể phát
triển thành ngành công nghiệp thực phẩm chức năng trong
tương lai gần [4].
Nấm ăn và nấm dược liệu đang ngày càng trở nên quan
trọng trong đời sống kinh tế - xã hội. Nhu cầu sử dụng các
loại nấm, đặc biệt là các loại nấm có giá trị dược liệu như
một loại thực phẩm bồi bổ sức khỏe đang là xu thế của
người dân trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Ngoài một số loại nấm chủ lực như linh chi, vân chi, đầu khỉ
hay đông trùng hạ thảo thì các nghiên cứu về nhân giống và
nuôi trồng nấm P. linteus ở Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn sơ
khai. Các sản phẩm nấm P. linteus xuất hiện trên thị trường
hiện nay chủ yếu là sản phẩm nhập nội với giá thành rất cao.
Vì vậy, việc tối ưu hóa các điều kiện nuôi cấy hệ sợi giống
nấm P. linteus phù hợp với điều kiện Việt Nam là hết sức
cần thiết, góp phần tạo nguồn giống nấm tốt phục vụ cho các
nghiên cứu sau này.
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn giống nấm
Chủng giống nấm P. linteus được Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn cung cấp, hiện đang được lưu giữ tại
Trung tâm Đào tạo, nghiên cứu và phát triển nấm ăn và nấm
dược liệu, Khoa Công nghệ sinh học, Học viện Nông nghiệp
Việt Nam ở nhiệt độ 4oC trên môi trường PDA.
Ảnh hưởng của nguồn dinh dưỡng cacbon
Chủng nấm P. linteus được nhân nuôi trên môi trường
PA (200 g/l khoai tây, 16 g/l agar) và có bổ sung thêm 8
nguồn cacbon khác nhau (glucose, fructose, maltose,
sucrose, dextrin, lactose, xylose và tinh bột tan) với nồng độ
2,0%. Môi trường nhân giống được hấp khử trùng ở nhiệt độ
121oC trong 60 phút và được chia vào các đĩa petri vô trùng
(đường kính 9,0 cm). Mỗi đĩa petri chứa 20 ml môi trường
và được cấy 1 miếng giống gốc nấm P. linteus có kích thước
0,5x0,5 cm tại vị trí trung tâm đĩa. Hệ sợi nấm P. linteus
được nuôi ở điều kiện không có ánh sáng, độ ẩm không khí
65-70%, nhiệt độ 30oC trong thời gian 12 ngày [4].
Ảnh hưởng của nguồn dinh dưỡng nitơ
Chủng giống nấm P. linteus nuôi trên môi trường PGA
(200 g/l khoai tây, 20 g/l glucose, 16 g/l agar) được bổ sung 7
nguồn nitơ khác nhau gồm NH
4
Cl, (NH
4
)
2
SO
4
, (NH
4
)
2
HPO
4
,
NH
4
NO
3
,
casein, pepton và urê để khảo sát sự sinh trưởng hệ
Ảnh hưởng của điều kiện nuôi cấy
đến sinh trưởng hệ sợi của nấm Phellinus linteus
Nguyễn Văn Giang1, Nguyễn Thị Bích Thuỳ1, Vũ Thị Khánh Linh1, Nguyễn Duy Trình2, Trần Thu Hà2*
1Học viện Nông nghiệp Việt Nam
2Viện Di truyền Nông nghiệp
Ngày nhận bài 20/11/2020; ngày chuyển phản biện 24/11/2020; ngày nhận phản biện 29/12/2020; ngày chấp nhận đăng 4/1/2021
Tóm tắt:
Nấm Phellinus linteus (Berk. & Curt.) Teng thuộc chi nấm Phellinus spp. là loại nấm có giá trị dược liệu cao. Nghiên
cứu này đánh giá ảnh hưởng của nguồn dinh dưỡng cacbon, nitơ, pH và nhiệt độ đến sinh trưởng hệ sợi của chủng
giống P. linteus nhập nội. Glucose và casein với nồng độ lần lượt là 2,0 và 0,2% được xác định là nguồn dinh dưỡng
cacbon, nitơ thích hợp nhất cho nấm P. linteus. Ngược lại, hệ sợi nấm P. linteus không có khả năng mọc trên môi
trường sử dụng urê. Sợi nấm P. linteus sinh trưởng tốt tại các điều kiện pH 7-10 và nhiệt độ nuôi sợi 30oC. Ở điều
kiện này, tốc độ phát triển của hệ sợi nấm P. linteus đạt 5,0 mm/ngày, mật độ hệ sợi dày, phân bố đều, bám chắc vào
chất nền.
Từ khóa: nguồn cacbon, nguồn nitơ, nhiệt độ, pH, Phellinus linteus, Phellinus spp.
Chỉ số phân loại: 4.1
*Tác giả liên hệ: Email: tranthuhapt@gmail.com
40
Khoa học Nông nghiệp
63(2) 2.2021
sợi của chủng giống. Mỗi nguồn nitơ được bổ sung vào môi
trường với nồng độ 0,2%. Hệ sợi nấm P. linteus được nuôi
ở điều kiện không có ánh sáng, độ ẩm không khí 65-70%,
nhiệt độ 30oC trong thời gian 12 ngày [4].
Ảnh hưởng của pH
Chủng giống nấm P. linteus được nhân nuôi trên môi
trường PGA có bổ sung 0,2% casein. Trước khi hấp khử
trùng sử dụng dung dịch NaOH 1N hoặc HCl 1N để hiệu
chỉnh giá trị pH môi trường nhân giống bằng 5, 6, 7, 8, 9 và
10. Ươm sợi nấm P. linteus trong điều kiện không có ánh
sáng, độ ẩm không khí 65-70%, nhiệt độ 30oC, thời gian
nuôi sợi 12 ngày [4].
Ảnh hưởng của nhiệt độ
Chủng giống nấm P. linteus được nhân nuôi trên môi
trường dinh dưỡng tối ưu nhất gồm khoai tây, glucose,
casein và agar. Sau khi cấy giống, các đĩa petri được nuôi
trong điều kiện không có ánh sáng, độ ẩm không khí 65-
70% và 5 ngưỡng nhiệt độ khác nhau (15, 20, 25, 30 và
35oC) trong thời gian 12 ngày.
Các chỉ tiêu theo dõi
Khả năng sinh trưởng hệ sợi của chủng nấm P. linteus
được đánh giá qua các chỉ tiêu sau:
Đường kính hệ sợi (mm): là đường kính phần sợi nấm
P. linteus sinh trưởng trên bề mặt môi trường thạch sau 12
ngày nuôi sợi.
Tốc độ sinh trưởng hệ sợi của chủng nấm P. linteus được
đánh giá theo phương pháp của Nguyễn Thị Bích Thùy và
cs (2016) [5], đơn vị tính mm/ngày.
Mật độ hệ sợi: quan sát hệ sợi nấm và đánh giá mật độ hệ
sợi theo phương pháp của Jo và cs (2006) [4]: C (compact) -
sợi dày, bám chặt; SC (somewhat) - sợi phân bố không đều;
T (thin) - sợi nấm mỏng.
Phương pháp xử lý số liệu
Kết quả nghiên cứu được xử lý thống kê bằng phần mềm
Excel 2010 và phân tích Anova bằng phần mềm IRRISTAT
5.0 tại mức ý nghĩa p<0,05 cho thí nghiệm một nhân tố.
Kết quả và thảo luận
Ảnh hưởng của nguồn dinh dưỡng cacbon
Cacbon đóng vai trò quan trọng với tế bào, tham
gia vào các hợp chất cấu trúc và dự trữ trong tế bào như
monosaccharides, disacharides và polysacharides [6].
Nguồn dinh dưỡng cacbon thích hợp sẽ kích thích hệ sợi
nấm sinh trưởng nhanh, tạo sinh khối lớn. Kết quả bảng 1
cho thấy, khả năng sinh trưởng hệ sợi nấm P. linteus trên các
môi trường có bổ sung glucose, fructose, xylose và sucrose
The effect of culture conditions
for the mycelium growth
of Phillenus linteus
Van Giang Nguyen1, Thi Bich Thuy Nguyen1,
Thi Khanh Linh Vu1, Duy Trinh Nguyen2, Thu Ha Tran2*
1Vietnam National University of Agriculture
2Agricultural Genetics Institute
Received 20 November 2020; accepted 4 January 2021
Abstract:
Phellinus linteus (Berk. & Curt.) Teng mushroom
belonging to the genus Phellinus spp., has high
medicinal value. This study was carried out with the
aim to evaluate the effects of carbon, nitrogen sources,
pH, and temperature on the mycelial growth of the P.
linteus strain. The experimental results showed that
glucose and casein with concentrations of 2.0 and 0.2%
respectively are identified as the most suitable carbon
and nitrogen nutrient sources for P. linteus. Conversely,
the mycelia of P. linteus are not able to grow on the urea
media. Mycelium of P. linteus growths well at 7-10 pH
and temperature at 30oC. When mycelia are incubated
in these conditions, the rate of mycelial growth of P.
linteus reaches 5.0 mm/day with thick density even
distribution, and adherence to the substrate firmly.
Keywords: carbon source, nitrogen source, pH, Phellinus
linteus, Phellinus spp., temperature.
Classification number: 4.1
41
Khoa học Nông nghiệp
63(2) 2.2021
là không có sự sai khác có ý nghĩa (p<0,05), tốc độ mọc
sợi đạt 4,29 đến 4,5 mm/ngày. Tốc độ mọc sợi của nấm
P. linteus trên môi trường maltose, dextrin và tinh bột tan
là như nhau (4,23 mm/ngày). Hệ sợi nấm P. linteus sinh
trưởng chậm nhất trên môi trường có bổ sung lactose (2,53
mm/ngày). Mật độ hệ sợi nấm P. linteus trên các môi trường
được bổ sung glucose, fructose, sucrose, maltose, dextrin,
tinh bột tan dày, phân bố đồng đều, sợi nấm màu vàng tươi,
bám chắc vào môi trường thạch (hình 1).
Bảng 1. Ảnh hưởng của nguồn cacbon đến sinh trưởng hệ sợi nấm P.
linteus.
Nguồn
cacbon
(2%)
Đường kính hệ sợi ở các ngày
khác nhau (mm) Tốc độ
mọc sợi
Mật độ
hệ sợi
2 4 6 8
PA 13,75 23,50 40,50 65,25d 4,04c SC
Glucose 13,08 26,58 47,00 72,88a 4,50a C
Fructose 12,92 26,83 49,67 72,91a 4,43ab C
Sucrose 12,78 28,92 50,00 71,42a 4,29ab C
Maltose 11,23 23,75 46,17 67,67c 4,23bc C
Dextrin 12,12 26,58 46,67 66,67cd 4,23bc C
Xylose 11,85 25,83 50,17 69,58b 4,30ab T
Lactose 9,75 19,42 31,50 41,92e 2,53d SC
TBT 11,58 25,08 44,83 65,75d 4,23bc C
Ghi chú: C (compact): sợi dày, bám chặt; SC (somewhat compact): sợi phân bố
dày, mỏng không đều; T (thin): sợi nấm mỏng; PA: potato agar; TBT: tinh bột
tan. Các chữ cái trong cùng một cột ứng với mỗi giá trị sai khác giữa các giá trị
trung bình tại mức ý nghĩa p<0,05.
4
trên các môi trường có bổ sung glucose, fructose, xylose và sucrose là không có sự sai
khác có ý nghĩa (p<0,05), tốc độ mọc sợi đạt 4,29 đến 4,5 mm/ngày. Tốc độ mọc sợi
của nấm P. linteus trên môi trường maltose, dextrin và tinh bột tan là như nhau (4,23
mm/ngày). Hệ sợi nấm P. linteus sinh trưởng chậm nhất trên môi trường có bổ sung
lactose (2,53 mm/ngày). Mật độ hệ sợi nấm P. linteus trên các môi trường được bổ
sung glucose, fructose, sucrose, maltose, dextrin, tinh bột tan dày, phân bố đồng đều,
sợi nấm màu vàng tươi, bám chắc vào môi trường thạch (hình 1).
Bảng 1. Ảnh hưởng của nguồn cacbon đến sinh trưởng hệ sợi nấm P. linteus.
Nguồn cacbon
(2%)
Đường kính hệ sợi ở các ngày khác nhau (mm) Tốc độ
mọc sợi Mật độ hệ sợi 2 4 6 8
PA 13,75 23,50 40,50 65,25d 4,04c SC
Glucose 13,08 26,58 47,00 72,88a 4,50a C
Fructose 12,92 26,83 49,67 72,91a 4,43ab C
Sucrose 12,78 28,92 50,00 71,42a 4,29ab C
Maltose 11,23 23,75 46,17 67,67c 4,23bc C
Dextrin 12,12 26,58 46,67 66,67cd 4,23bc C
Xylose 11,85 25,83 50,17 69,58b 4,30ab T
Lactose 9,75 19,42 31,50 41,92e 2,53d SC
TBT 11,58 25,08 44,83 65,75d 4,23bc C
Ghi chú: C (compact): sợi dày, bám chặt; SC (somewhat compact): sợi phân bố dày, mỏng
không đều; T (thin): sợi nấm mỏng; PA: Potato agar; TBT: Tinh bột tan. Các chữ cái trong cùng
một cột ứng với mỗi giá trị sai khác giữa các giá trị trung bình tại mức ý nghĩa p<0,05.
Hình 1. Hình thái hệ sợi nấm P. linteus trên môi trường chứa các nguồn cacbon khác
nhau sau 6 ngày nuôi sợi ở nhiệt độ 30oC.
Ảnh hưởng của các nguồn cacbon khác nhau đến sinh trưởng của hệ sợi nấm
Phellinus spp. cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá. Jo và cs (2006) [4] khi
nghiên cứu ảnh hưởng của dinh dưỡng cacbon đến sinh trưởng hệ sợi của Phellinus
spp. đã kết luận đường glucose và mannose hỗ trợ hệ sợi nấm Phellinus sinh trưởng tốt
TBT
Glucose Dextrin
Lactose Sucrose
Xylose Fructose Maltose
PA
Hình 1. Hình thái hệ sợi nấm P. linteus trên môi trường chứa các
nguồn cacbon khác nhau sau 6 ngày nuôi sợi ở nhiệt độ 30oC.
Ảnh hưởng của các nguồn cacbon khác nhau đến sinh
trưởng của hệ sợi nấm Phellinus spp. cũng đã được nhiều
nhà nghiên cứu đánh giá. Jo và cs (2006) [4] khi nghiên cứu
ảnh hưởng của dinh dưỡng cacbon đến sinh trưởng hệ sợi
của Phellinus spp. đã kết luận đường glucose và mannose
hỗ trợ hệ sợi nấm Phellinus sinh trưởng tốt nhất. Hur và cs
(2008) [7] cũng chứng minh glucose, fructose, sucrose và
dextrose là tối ưu cho sinh trưởng hệ sợi của nấm Phellinus
spp., lactose, maltose và galactose ít ảnh hưởng hơn đến
tăng trưởng của hệ sợi. Dựa trên kết quả đánh giá tốc độ
mọc sợi, khả năng bám của hệ sợi vào môi trường, mật độ
hệ sợi, chúng tôi chọn glucose cho các thí nghiệm tiếp theo.
Ảnh hưởng của nguồn dinh dưỡng nitơ
Nitơ là nguyên tố thiết yếu cần thiết cho tất cả các
loại nấm để tổng hợp các hợp chất quan trọng như purin,
pyrimidine, protein và N-acetylglucosamine, thành phần
tham gia cấu tạo nên chitin, hợp chất của thành tế bào [8].
Trong nghiên cứu này, ảnh hưởng của một số nguồn nitơ
hữu cơ và nitơ vô cơ đối với sự phát triển của hệ sợi nấm P.
linteus đã được khảo sát. Kết quả bảng 2 cho thấy, các nguồn
nitơ được sử dụng đều tác động tới sinh trưởng của hệ sợi
nấm P. linteus. Tốc độ mọc sợi của nấm P. linteus nhanh
nhất trên môi trường có casein (4,91 mm/ngày); trên môi
trường bổ sung urê, sợi nấm P. linteus không sinh trưởng
(hình 2). Sinh trưởng hệ sợi nấm P. linteus là như nhau khi
sử dụng dinh dưỡng NH
4
Cl, (NH
4
)
2
SO
4
, pepton, NH
4
NO
3
,
tốc độ mọc sợi trung bình từ 3,98 đến 4,09 mm/ngày.
Bảng 2. Ảnh hưởng của nguồn nitơ đến sinh trưởng hệ sợi nấm P.
linteus.
Nguồn nitơ
(0,2%)
Đường kính hệ sợi ở các ngày khác nhau (mm) Tốc độ
mọc sợi
Mật độ
sợi 2 4 6 8
PGA 13,75 26,58 47,58 72,88c 4,50a C
NH
4
Cl 13,58 29,25 59,17 78,08b 4,03b T
NH
4
NO
3
13,92 31,50 63,25 77,75b 3,98b T
(NH
4
)
2
SO
4
12,92 27,92 64,08 79,00b 3,98b T
(NH
4
)
2
HPO
4
13,83 27,58 55,58 73,58c 3,75c C
Casein 13,58 29,42 68,00 85,5a 4,91a C
Pepton 12,5 30,17 63,58 79,33b 4,09b C
Urê 0 0 0 0 0d -
Ghi chú: C (compact): sợi dày, bám chặt; T (thin): sợi nấm mỏng. Các chữ cái
trong cùng một cột ứng với mỗi giá trị sai khác giữa các giá trị trung bình tại
mức ý nghĩa p<0,05.
Mật độ hệ sợi nấm P. linteus trên các môi trường có bổ
sung nguồn nitơ khác nhau cũng có sự sai khác. Hệ sợi nấm
P. linteus dày nhất và phân bố đều trên môi trường bổ sung
casein, tiếp đến là môi trường sử dụng PGA, peptone. Độ
dày hệ sợi, hình thái của hệ sợi nấm P. linteus trên các môi
trường NH
4
Cl, (NH
4
)
2
SO
4
, NH
4
NO
3
không có sự khác biệt.
Hur và cs (2008) [7] cũng khẳng định dinh dưỡng nitơ
ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của hệ sợi nấm P. linteus.
Nghiên cứu của Chi và cs (1996), Hwang và cs (2003), Li
và cs (2020) [9-11] đều ghi nhận các nguồn nitơ hữu cơ như
bột ngô hay nhộng tằm cũng là dinh dưỡng phù hợp nhất
cho sinh trưởng hệ sợi của nấm Phellinus.
42
Khoa học Nông nghiệp
63(2) 2.2021
6
Hình 2. Hình thái hệ sợi nấm P. linteus trên môi trư ờng có chứa các nguồn nitơ khác
nhau sau 10 ngày nuôi ở nhiệt độ 30oC.
Ảnh hưởng của pH
Mỗi loài nấm đều sinh trưởng, phát triển thuận lợi ở giá trị pH nhất định. pH có
ảnh hưởng đến sự tiết các enzym ngoại bào trong chất nền. Các enzym ngoại bào
thường thể hiện hoạt động trong một phạm vi pH hẹp và có ảnh hưởng trực tiếp đến
quá trình chuyển hóa chất dinh dưỡng của nấm [8]. Zagrean và cs (2016) [12] cho
rằng, tốc độ phát triển của hệ sợi nấm P. eryngii phụ thuộc vào bản chất môi trường và
pH của nó.
Kết quả theo dõi đặc điểm sinh trưởng hệ sợi của chủng nấm P. linteus trên môi
trường với giá trị pH thay đổi từ 5 đến 10 (bảng 3, hình 3) cho thấy, chủng nấm P.
linteus sinh trưởng tốt khi pH môi trường có giá trị từ 7 đến 10, tốc độ mọc hệ sợi đạt
từ 4,83 đến 5,0 mm/ngày. Tại pH 5 và 6, tốc độ sinh trưởng sợi của nấm P. linteus
chậm hơn so với pH từ 7 đến 10. Mật độ sợi nấm P. linteus trên các môi trường nuôi
cấy tại pH 7, 8, 9, 10 dày, phân bố đều, bám chặt môi trường và có màu vàng đặc
trưng.
Bảng 3. Ả nh hưởng của pH đ ến sinh trư ởng hệ sợi nấm P. linteus.
pH
Đường kính hệ sợi ở các ngày khác nhau (mm) Tốc độ
mọc sợi
Mật độ
sợi 2 4 6 8
5 14,46 28,88 63,96 83,25d 4,36b SC
6 15,21 29,92 66,08 83,83d 4,58b C
7 14,75 32,04 66,92 85,63b 4,91a C
8 16,00 32,30 67,50 85,00b 4,83a C
9 16,10 32,60 67,83 84,58c 4,92a C
10 16,75 33,30 67,81 87,10a 5,00a C
Ghi chú: C (compact): sợi dày, bám chặt; SC (somewhat compact): sợi phân bố dày, mỏng
không đều. Các chữ cái trong cùng một cột ứng với mỗi giá trị sai khác giữa các giá trị trung
bình tại mức ý nghĩa p<0,05.
NH4Cl NH4NO3 (NH4)2SO4
Casein (NH4)2HPO4 Peptone
Urê
PGA
ình 2. Hình thái hệ sợi nấm P. linteus trên môi trường có chứa các
nguồn nitơ khác nhau sau 10 ngày nuôi ở nhiệt độ 30oC.
Ảnh hưởng của pH
Mỗi loài nấm đều sinh trưởng, phát triển thuận lợi ở giá
trị pH nhất định. pH có ảnh hưởng đến sự tiết các enzym
ngoại bào trong chất nền. Các enzym ngoại bào thường thể
hiện hoạt động trong một phạm vi pH hẹp và có ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình chuyển hóa chất dinh dưỡng của nấm
[8]. Zagrean và cs (2016) [12] cho rằng, tốc độ phát triển
ủa hệ sợi nấm P. eryngii phụ thuộ vào bản chất môi trườ g
và pH của nó.
Kết quả theo dõi đặc điểm sinh trưởng hệ sợi của chủng
nấm P. linteus trên môi trường với giá trị pH thay đổi từ 5
đến 10 (bảng 3, hình 3) cho thấy, chủng nấm P. linteus sinh
trưởng tốt khi pH môi trường có giá trị từ 7 đến 10, tốc độ
mọc hệ sợi đạt từ 4,83 đến 5,0 mm/ngày. Tại pH 5 và 6, tốc
độ sinh trưởng sợi của nấm P. linteus chậm hơn so với pH
từ 7 ến 10. Mật độ sợi nấm P. linteus trên cá môi trường
nuôi cấy tại pH 7, 8, 9, 10 dày, phân bố đều, bám chặt môi
trường và có màu vàng đặc trưng.
Bảng 3. Ảnh hưởng của pH đến sinh trưởng hệ sợi nấm P. linteus.
pH
Đường kính hệ sợi ở các ngày khác nhau
(mm) Tốc độ
mọc sợi
Mật độ
sợi
2 4 6 8
5 14,46 28,88 63,96 83,25d 4,36b SC
6 15,21 29,92 66,08 83,83d 4,58b C
7 14,75 32,04 66,92 85,63b 4,91a C
8 16,00 32,30 67,50 85,00b 4,83a C
9 16,10 32,60 67,83 84,58c 4,92a C
10 16,75 33,30 67,81 87,10a 5,00a C
Ghi chú: C (compact): sợi dày, bám chặt; SC (somewhat compact): sợi phân bố
dày, mỏng không đều. Các chữ cái trong cùng một cột ứng với mỗi giá trị sai
khác giữa các giá trị trung bình tại mức ý nghĩa p<0,05.
7
Hình 3. Hình thái hệ sợi nấm P. linteus trên các môi trường có pH khác nhau sau 6 ngày
nuôi ở nhiệt độ 30oC.
Nghiên cứu của Hur (2008) [13] kết luận rằng, pH 6-7 là thích hợp nhất cho sự
sinh trưởng của 13 chủng nấm Phellinus spp., trong đó chủng P. linteus sinh trưởng
sợi nhanh nhất khi pH môi trường 7-9. Lee và cs (2008) [14] cho biết, pH 5,5 là phù
hợp cho sinh trưởng hệ sợi chủng nấm P. linteus IY003 trong môi trường dịch thể.
Như vậy, giá trị pH môi trường phụ thuộc vào từng chủng nấm P. linteus thí nghiệm.
Ảnh hưởng của nhiệt độ
Nhiệt độ là yếu tố môi trường quan trọng nhất đối với sự phát triển của sợi nấm
[6]. Mỗi chủng nấm sẽ phát triển và biểu hiện các đặc điểm sinh học tốt nhất tại
ngưỡng nhiệt độ thích hợp, vì tại ngưỡng nhiệt độ này các phản ứng trao đổi chất, hoạt
động của enzym diễn ra mạnh. Khả năng sinh trưởng hệ sợi nấm P. linteus tại 5
ngưỡng nhiệt độ 15, 20, 25, 30 và 35oC có sự sai khác có ý nghĩa thống kê p<0,05
(bảng 4). Tốc độ mọc sợi của P. linteus nhanh nhất tại nhiệt độ 30oC (5,0 mm/ngày) và
chậm nhất tại nhiệt độ 15oC (2,01 mm/ngày). Nhiệt độ quá cao ảnh hưởng bất lợi đến
các hoạt động trao đổi chất của tế bào, do đó tốc độ sinh trưởng giảm, tốc độ mọc sợi
của nấm P. linteus tại ngưỡng nhiệt độ 35oC là 3,07 mm/ngày, mật độ hệ sợi nấm
mỏng (hình 4).
Bảng 4. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến sinh trưởng hệ sợi nấm P. linteus.
Nhiệt độ
(oC)
Đường kính hệ sợi ở các ngày khác nhau (mm) Tốc độ
mọc sợi
Mật độ
sợi 2 4 6 8
15 9,58 14,08 18,75 25,92e 2,01e SC
20 10,92 17,83 30,50 42,83d 2,87d SC
25 16,00 29,58 54,50 74,25b 3,65b C
30 16,75 33,29 69,17 87,08a 5,00a C
35 11,75 27,92 45,50 52,30c 3,07c T
Ghi chú: C (compact): sợi dày, bám chặt; SC (somewhat compact): sợi phân bố dày, mỏng
không đều; T (thin): sợi nấm mỏng. Các chữ cái trong cùng một cột ứng với mỗi giá trị sai khác
giữa các giá trị trung bình tại mức ý nghĩa p<0,05.
pH 8 pH 10 pH 9
pH 7 pH 6 pH 5
Hình 3. Hình thái hệ sợi nấm P. linteus trên các môi trường có pH
khác nhau sau 6 ngày nuôi ở nhiệt độ 30oC.
Nghiên cứu của Hur (2008) [13] kết luận rằng, pH 6-7
là thích hợp nhất cho sự sinh trưởng của 13 chủng nấm
Phellinus spp., trong đó chủng P. linteus sinh trưởng sợi
nhanh nhất khi pH môi trường 7-9. Lee và cs (2008) [14]
cho biết, pH 5,5 là phù hợp cho sinh trưởng hệ sợi chủng
nấm P. linteus IY003 trong môi trường dịch thể. Như vậy,
giá trị pH môi trường phụ thuộc vào từng chủng nấm P.
linteus thí nghi m.
Ảnh hưởng của nhiệt độ
Nhiệt độ là yếu tố môi trường quan trọng nhất đối với sự
phát triển của sợi nấm [6]. Mỗi chủng nấm sẽ phát triển và
biểu hiện các đặc điểm sinh học tốt nhất tại ngưỡng nhiệt
độ thích hợp, vì tại ngưỡng nhiệt độ này các phản ứng trao
đổi chất, hoạt động của enzym diễn ra mạnh. Khả năng sinh
trưởng hệ sợi nấm P. linteus tại 5 ngưỡng nhiệt độ 15, 20,
25, 30 và 35oC có sự sai khác có ý nghĩa thống kê p<0,05
(bảng 4). Tốc độ mọc sợi của P. linteus nhanh nhất tại nhiệt
độ 30oC (5,0 mm/ngày) và chậm nhất tại nhiệt độ 15oC (2,01
mm/ngày). Nhiệt độ quá cao ảnh hưởng bất lợi đến các hoạt
động trao đổi chất của tế bào, do đó tốc độ sinh trưởng giảm,
tốc độ mọc sợi của nấm P. linteus tại ngưỡng nhiệt độ 35oC
là 3,07 mm/ngày, mật độ hệ sợi nấm mỏng (hình 4).
Bảng 4. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến sinh trưởng hệ sợi nấm P. linteus.
Nhiệt độ
(oC)
Đường kính hệ sợi ở các ngày
khác nhau (mm) Tốc độ
mọc sợi
Mật độ
sợi
2 4 6 8
15 9,58 14,08 18,75 25,92e 2,01e SC
20 10,92 17,83 30,50 42,83d 2,87d SC
25 16,00 29,58 54,50 74,25b 3,65b C
30 16,75 33,29 69,17 87,08a 5,00a C
35 11,75 27,92 45,50 52,30c 3,07c T
Ghi chú: C (compact): sợi dày, bám chặt; SC (somewhat compact): sợi phân bố
dày, mỏng không đều; T (thin): sợi nấm mỏng. Các chữ cái trong cùng một cột
ứng với mỗi giá trị sai khác giữa các giá trị trung bình tại mức ý nghĩa p<0,05.
43
Khoa học Nông nghiệp
63(2) 2.2021
8
Hình 4. Hình thái hệ sợi nấm P.linteus sau 10 ngày nuôi ở các nhiệt độ khác nhau.
Báo cáo của Hur (2008) [13] khẳng định 25-30oC là ngưỡng nhiệt độ thích hợp
nhất cho sinh trưởng hệ sợi nấm P. Linteus; khi nhiệt độ nuôi sợi vượt quá 30oC, sinh
trưởng hệ sợi kém, tốc độ mọc sợi giảm. Heo và cs (2004) [15] thông báo nhiệt độ
nuôi cấy tối ưu của chủng giống P. baumii và P. igniarius trong khoảng 25-30oC. Jo
và cs (2006) [4] kết luận nhiệt độ thích hợp nhất cho sinh trưởng hệ sợi Phellinus spp.
là 30oC và sự sinh trưởng bị ức chế một cách nhanh chóng ở nhiệt độ cao hơn 30oC và
thấp hơn 20oC.
Kết luận
Cacbon và nitơ rất cần thiết cho sự sinh trưởng hệ sợi của nấm P. linteus.
Glucose là dinh dưỡng cacbon phù hợp nhất cho nhân nuôi sợi nấm P. linteus. Sử dụng
glucose với nồng độ 2,0%, tốc độ mọc sợi của nấm P. linteus đạt 4,5 mm/ngày. Nitơ
hữu cơ cho hiệu quả nhân giống nấm P. linteus cao hơn nitơ vô cơ, trong đó casein là
nguồn dinh dưỡng nitơ tối ưu nhất. Trên môi trường nuôi cấy được bổ sung casein, sợi
nấm P. linteus mọc nhanh nhất (4,91 mm/ngày), hệ sợi dày, bám chắc vào môi trường,
lan đều về các hướng. Sợi nấm P. linteus không mọc trên môi trường nuôi cấy được bổ
sung urê.
Giá trị pH và nhiệt độ thích hợp cho nuôi sợi nấm P. linteus là pH 7-10 và 30oC,
tại điều kiện này hệ sợi nấm P. linteus phát triển nhanh nhất, mật độ hệ sợi dày, bám
chắc vào chất nền, hệ sợi phân bố đều.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trịnh Tam Kiệt (2012), Nấm lớn ở Việt Nam, Tập 2, Nhà xuất bản Khoa
học Tự nhiên và Công nghệ.
[2] M. Lemieszek, W. Rzeski (2012), "Anticancer properties of polysaccharides
isolated from fungi of the basidiomycetes class", Contemp. Oncol., 4, pp.285-289.
[3] T. Zhu, et al. (2018), "Polysaccharide isolated from Phellinus
linteus mycelia exerts anti-inflammatory effects via MAPK and PPAR signaling
pathways", Carbohydr. Polym., 200, pp.487-497.
[4] W.S. Jo, et al. (2006), "The culture conditions for the mycelial growth of
Phellinus spp.", Mycobiology, 34, pp.200-205.
[5] Nguyễn Thị Bích Thùy và cs (2016), “Đánh giá sinh trưởng và năng suất
của nấm sò vua (Pleurotus eryngii) (DC.:Fr.) Quel) trên nguyên liệu nuôi trồng khác
nhau”, Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, 14, tr.816-823.
35oC 30oC 15oC
00000
20oC 25oC
8
Hình 4. Hình thái hệ sợi nấm P.linteus sau 10 ngày nuôi ở các nhiệt độ khác n au.
Báo cáo của Hur (2008) [13] khẳng định 25-30oC là ngưỡng nhiệt độ thích hợp
nhất cho sinh trưởng hệ sợi nấm P. Linteus; khi nhiệt độ nuôi sợi vượt quá 30oC, sinh
trưởng hệ sợi kém, tốc độ mọc sợi giảm. Heo và cs (2004) [15] thông báo nhiệt độ
nuôi cấy tối ưu của chủng giống P. baumii và P. igniarius trong khoảng 25-30oC. Jo
và cs (2006) [4] kết luận nhiệt độ thích hợp nhất cho sinh trưởng hệ sợi Phellinus spp.
là 30oC và sự sinh trưởng bị ức chế một cách nhanh chóng ở nhiệt độ cao hơn 30oC và
thấp hơn 20oC.
Kết luận
Cacbon và nitơ rất cần thiết cho sự sinh trưởng hệ sợi của nấm P. linteus.
Glucose là dinh dưỡng cacbon phù hợp nhất cho nhân nuôi sợi nấm P. linteus. Sử dụng
glucose với nồng độ 2,0%, tốc độ mọc sợi của nấm P. linteus đạt 4,5 mm/ngày. Nitơ
hữu cơ cho hiệu quả nhân giống nấm P. linteus cao hơn nitơ vô cơ, trong đó casein là
nguồn dinh dưỡng nitơ tối ưu nhất. Trên môi trường nuôi cấy được bổ sung casein, sợi
nấm P. linteus mọc nhanh nhất (4,91 mm/ngày), hệ sợi dày, bám chắc vào môi trường,
lan đều về các hướng. Sợi nấm P. linteus không mọc trên môi trường nuôi cấy được bổ
sung urê.
Giá trị pH và nhiệt độ thích hợp cho nuôi sợi nấm P. linteus là pH 7-10 và 30oC,
tại điều kiện này hệ sợi nấm P. linteus phát triển nhanh nhất, mật độ hệ sợi dày, bám
chắc vào chất nền, hệ sợi phân bố đều.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trịnh Tam Kiệt (2012), Nấm lớn ở Việt Nam, Tập 2, Nhà xuất bản Khoa
học Tự nhiên và Công nghệ.
[2] M. Lemieszek, W. Rzeski (2012), "Anticancer properties of polysaccharides
isolated from fungi of the basidiomycetes class", Contemp. Oncol., 4, pp.285-289.
[3] T. Zhu, et al. (2018), "Polysaccharide isolated from Phellinus
linteus mycelia exerts anti-inflammatory effects via MAPK and PPAR signaling
pathways", Carbohydr. Polym., 200, pp.487-497.
[4] W.S. Jo, et al. (2006), "The culture conditions for the mycelial growth of
Phellinus spp.", Mycobiology, 34, pp.200-205.
[5] Nguyễn Thị Bích Thùy và cs (2016), “Đánh giá sinh trưởng và năng suất
của nấm sò vua (Pleurotus eryngii) (DC.:Fr.) Quel) trên nguyên liệu nuôi trồng khác
nhau”, Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, 14, tr.816-823.
35oC 30oC 15oC
00000
20oC 25oC
Hình 4. Hình thái hệ sợi nấm P. linteus sau 10 ngày nuôi ở các nhiệt
độ khác nhau.
Báo cáo của Hur (2008) [13] khẳng định 25-30oC là
ngưỡng nhiệt độ thích hợp nhất cho sinh trưởng hệ sợi
nấm P. Linteus; kh nhiệt độ nuôi sợi vượt quá 30oC, sinh
trưởng hệ sợi kém, tốc độ mọc sợi giảm. Heo và s (2004)
[15] thông báo nhiệt độ nuôi cấy tối ưu của chủng giống P.
baumii và P. igniarius trong khoảng 25-30oC. Jo và cs (2006)
[4] kết luận nhiệt độ thích hợp nhất cho sinh trưởng hệ sợi
Phellinus spp. là 30oC và sự sinh trưởng bị ức chế một cách
nhanh chóng ở nhiệt độ cao hơn 30oC và thấp hơn 20oC.
Kết luận
Cacbon và nitơ rất cần thiết cho sự sinh trưởng hệ sợi
của nấm P. linteus. Glucose là dinh dưỡng cacbon phù hợp
nhất cho nhân nuôi sợi nấm P. linteus. Sử dụng glucose với
nồng độ 2,0%, tốc độ mọc sợi của nấm P. linteus đạt 4,5
mm/ngày. Nitơ hữu cơ cho hiệu quả nhân giống nấm P.
linteus cao hơn nitơ vô cơ, trong đó casein là nguồn dinh
dưỡng nitơ tối ưu nhất. Trên môi trường nuôi cấy được bổ
sung casein, sợi nấm P. linteus mọc nhanh nhất (4,91 mm/
ngày), hệ sợi dày, bám chắc vào môi trường, lan đều về các
hướng. Sợi nấm P. linteus không mọc trên môi trường nuôi
cấy được bổ sung urê.
Giá rị pH và nhiệt độ thích hợp cho nuôi sợi nấm P.
linteus là pH 7-10 và 30oC, tại điều kiện này hệ sợi nấm P.
linteus phát triển nhanh nhất, mật độ hệ sợi dày, bám chắc
vào chất nền, hệ sợi phân bố đều.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trịnh Tam Kiệt (2012), Nấm lớn ở Việt Nam, Tập 2, Nhà xuất bản
Khoa học Tự nhiên và Công nghệ.
[2] M. Lemieszek, W. Rzeski (2012), “Anticancer properties
of polysaccharides isolated from fungi of the basidiomycetes
class”, Contemp. Oncol., 4, pp.285-289.
[3] T. Zhu, et al. (2018), “Polysaccharide isolated from Phellinus
linteus mycelia exerts anti-inflammatory effects via MAPK and PPAR
signaling pathways», Carbohydr. Polym., 200, pp.487-497.
[4] W.S. Jo, et al. (2006), “T e culture conditions for the mycelial
growth of Phellinus spp.”, Mycobiology, 34, pp.200-205.
[5] Nguyễn Thị Bích Thùy và cs (2016), “Đánh giá sinh trưởng và
năng suất của nấm sò vua (Pleurotus eryngii) (DC.:Fr.) Quel) trên nguyên
liệu nuôi trồng khác nhau”, Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, 14,
tr.816-823.
[6] Ha Thi Hoa, C.L. Wang (2015), “The effects of temperature and
nutritional conditions on mycelium growth of two oyster mushrooms
(Pleurotus ostreatus and Pleurotus cystidiosus)”, Mycobiology, 43,
pp.14-23.
[7] H. Hur, et al. (2008), “Suitable conditions for mycelial growth of
Phellinus spp.”, Mycobiology, 36, pp.152-156.
[8] P.G. Miles, S.T. Chang (1997), Mushroom biology: concise basics
and current developments, World Scientific.
[9] J.H. Chi, et al. (1996), “Studies on the main factors affecting the
mycelial growth of Phellinus linteus”, Korean J. Mycol., 24, pp.214-222.
[10] H.J. Hwang, et al. (2003), “Production and characterization of
exopolysaccharides from submerged culture of Phellinus linteus KCTC
6190”, Enzyme Microbiol. Technol., 33, pp.309-319.
[11] Z.N. Li, et al. (2020), “Defatted silkworm pupae hydrolysates
as a nitrogen source to produce polysaccharides and flavonoids using
Phellinus baumii”, Biomass Conversion and Biorefinery, DOI: 10.1007/
s13399-020-00800-3.
[12] V. Zagrean, et al. (2016), “Effect of nutritive media and pH on
mycelial growth of some Pleurotus eryngii strains in vitro”, Research
Institute for Vegetable and Flower Growing Vidra, Ilfov County, Romania,
73, pp.276-278.
[13] H. Hur (2008), “Cultural characteristics and logmediated
cultivation of the medicinal mushroom, Phellinus linteus”, Mycobiology,
36, pp.81-87.
[14] J.W. Lee, et al. (2008), “Submerged culture of Phellinus linteus
for mass production of polysaccharides”, Mycobiology, 36, pp.178-182.
[15] B.S. Heo, et al. (2004), "Cultural conditions for the mycelial
growth of Phellinus spp.", Korean J. Mycol., 32, pp.134-137.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_dieu_kien_nuoi_cay_den_sinh_truong_he_soi_cua.pdf