Kết luận
Khi thực hiện nén hạt rơm với các điều kiện
khác nhau, trường hợp độ ẩm 5,5% và 9%, áp
suất nén 50 MPa kết quả là không hình thành
được viên nén. Nếu ta tiến hành thí nghiệm ở
điều kiện áp suất nén và nhiệt độ là không đổi
25℃, khi đó có thể thấy rằng khối lượng riêng
của viên nén và độ bền kéo của chúng đạt giá trị
lớn nhất ở độ ẩm 13% trong phạm vi tiến hành thí
nghiệm với các độ ẩm khác nhau (5,5; 9; 13 và
18%). Nếu thí nghiệm ở cùng độ ẩm 13% và điều
kiện nhiệt độ khác nhau, kết quả cho thấy khối
lượng riêng và độ bền kéo của viên nén ở nhiệt
độ 100℃ cao hơn khối lượng riêng và độ bền kéo
của viên nén ở 25℃.
Phương pháp thí nghiệm đã thực hiện cũng có
thể áp dụng cho các vật liệu khác để tìm được
điều kiện nén tối ưu (áp suất, độ ẩm, nhiệt độ
tối ưu trong quá trình kết tụ), để từ đó có được
khối lượng riêng, độ bền của viên nén thích hợp
cũng như có được viên nén tốt nhất. Xác định các
thành phần các chất của nhiên liệu sinh khối (ví
dụ: lignin, cellulose, hemicellulose, protein, lipid
và chất béo) và ảnh hưởng của nhiệt độ tới quá
trình nén nhiên liệu sinh khối cũng nên được tiến
hành nghiên cứu trong tương lai.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của độ ẩm và nhiệt độ tới quá trình kết tụ rơm ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Email: trinhvanquyen@duytan.edu.vn
Ảnh hưởng của độ ẩm và nhiệt độ tới quá trình kết tụ rơm ở Việt Nam
Effect of moisture content and temperature on agglomeration of rice straw in Vietnam
Trịnh Văn Quyềna, Mai Đức Thuậnb, Đinh Phi Trườngc
Trinh Van Quyen, Mai Duc Thuan, Dinh Phi Truong
aViện Nghiên cứu Lý thuyết và Ứng dụng, Trường Đại học Duy Tân, Hà Nội, Việt Nam
Institute of Theoretical and Applied Research, Duy Tan University, Ha Noi, Vietnam
bKhoa Công nghệ năng lượng, Trường Đại học Điện lực, Hà Nội, Việt Nam
Energy Technology Faculty, Electric Power University, Ha Noi, Vietnam
cViện Cơ khí, Trường Đại học Hàng hải, Hải Phòng, Việt Nam
School of Mechanical Engineering, Vietnam Maritime University, Hai Phong, Vietnam
(Ngày nhận bài: 30/10/2019, ngày phản biện xong: 02/12/2019, ngày chấp nhận đăng: 30/12/2019)
Tóm tắt
Sử dụng sinh khối là lựa chọn hấp dẫn để giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch. Sinh khối được sử dụng làm chất
đốt trong hộ gia đình, hệ thống nước nóng công nghiệp và nhà máy nhiệt điện để giảm sử dụng than nhập khẩu và giảm
khí thải CO2. Kết tụ vật liệu, chẳng hạn như ép viên, đóng viên, vê viên, có thể tăng khối lượng nở rời của vật liệu, cải
thiện kho chứa, giảm chi phí vận tải và tăng chất lượng sản phẩm. Mục đích bài báo này là phân tích ảnh hưởng của độ
ẩm và nhiệt độ đến quá trình kết tụ áp lực và độ bền cơ học của viên nhiên liệu sinh khối, với nguyên liệu đầu vào là rơm
ở Việt Nam. Rơm được nén bằng máy nén thủy lực, đường kính piston 25 mm, độ ẩm vật liệu 5,5; 9; 13 và 18%, nhiệt
độ khi nén của vật liệu được thực hiện ở 25℃ và 100℃. Kết quả nghiên cứu đã xác định được thông số tối ưu trong quá
trình kết tụ rơm là ở độ ẩm 13% và nhiệt độ 100℃.
Từ khóa: Kết tụ, sinh khối, viên nén, độ bền cơ học.
Abstract
Biomass is a good option for reducing fossil fuels consumption. Biomass has been used in domestic heating system,
industrial boilers and power plants to decrease the use of imported coal and reduce net CO
2
emissions. Agglomeration
of raw materials, such as tableting, briquetting, pelletizing, can increase bulk density, improve storability, reduce
transportation costs and increase the quality of products. The aim of this study is to analyze the effects of moisture content
and temperature of rice straw during agglomeration. The materials were compressed in a load cell by a hydraulic piston
press with 25 mm diameter. Effects of the independent variables, including moisture contents (5.5, 9, 13 and 18 wt.%
in the case of rice straw), and different temperatures (25 and 100℃) were investigated. Results showed that the optimal
production parameters during agglomeration were 13 wt.% moisture content and temperature of 100℃.
Keywords: Agglomeration, biomass, tableting, compressive strength.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN
DTU Journal of Science and Technology 07(38) (2020) .........
1. Giới thiệu
Hiện nay tại Việt Nam, nhà máy nhiệt điện
đốt than đóng vai trò rất quan trọng trong quá
trình sản xuất điện năng. Theo Quy hoạch điện
VII điều chỉnh do Thủ tướng Chính phủ kí ngày
18/3/2016 [1], cơ cấu nguồn điện vào năm 2020
19
tổng công suất các nhà máy nhiệt điện đốt than
sẽ đạt khoảng 26.000 MW, chiếm khoảng 49,3%
tổng điện năng sản suất. Tầm nhìn năm 2025 và
năm 2030, con số này lần lượt là 47.600 MW và
55.300 MW, tương đương 55% và 53,2% điện
sản xuất. Trong nội dung Quy hoạch điện VII
điều chỉnh, tỷ trọng điện năng từ nguồn sinh khối
dự kiến khoảng 2,1% vào năm 2030, bằng việc
đồng phát điện tại các nhà máy đường, lương
thực, thực phẩm, và đốt kèm nhiên liệu sinh khối
cùng than tại các nhà máy nhiệt điện dùng than
hiện tại. Điều này không những giảm sự phụ
thuộc của nền năng lượng vào nguồn nhiên liệu
hóa thạch mà còn giúp giảm phát thải khí nhà
kính, giảm chi phí xây dựng các nhà máy mới
dùng để thiêu đốt rác thải và sinh khối.
Năm 2010, tiềm năng nhiên liệu sinh khối tại
Việt Nam ước tính vào khoảng 104,4 triệu tấn
[2], tương đương khoảng 374 TWh, con số này
tương ứng khoảng 50% tổng điện năng tiêu thụ
trong năm 2009. Một trong những nhiên liệu sinh
khối phổ biến nhất của Việt Nam là sản phẩm phụ
trong quá trình sản xuất lúa gạo, bao gồm rơm rạ
và trấu. Theo thống kê hàng năm có khoảng 50
triệu tấn rơm rạ được tạo ra trong quá trình sản
xuất gạo thương phẩm [3]. Hiện tại, sử dụng nhiên
liệu sinh khối để phát điện chủ yếu với công suất
nhỏ tại một số nhà máy mía đường, ngoài ra việc
đốt kèm với than trong nhà máy nhiệt điện thương
mại cũng chưa thực sự áp dụng tại Việt Nam do
rào cản từ những yếu tố kỹ thuật và phi kỹ thuật,
yếu tố kỹ thuật như: nguồn nhiên liệu không ổn
định, thành phần nhiên liệu, cách phối trộn; yếu tố
phi kỹ thuật như: chính sách và sự cạnh tranh của
các nguồn nguyên liệu hóa thạch [4].
Một trong những rào cản lớn nhất của việc đốt
trộn sinh khối, than đó là việc sơ chế, lưu trữ, và
vận chuyển nhiên liệu sinh khối [5]. So với than
đá, nhiên liệu sinh khối có mật độ khối thấp, độ
ẩm cao, dễ hút ẩm, khó nghiền nhỏ và nhiệt trị
thấp. Vì thế, chi phí vận chuyển và lưu trữ của
nhiên liệu sinh khối cao hơn nhiều so với sự đóng
góp của chính nó về mặt năng lượng. Để cải thiện
đặc tính vật lý và năng lượng cho nhiên liệu sinh
khối thì một trong những phương pháp chính là
tạo ra viên nhiên liệu sinh khối bằng áp lực, hay
còn gọi là ngưng kết sinh khối áp lực [6].
Quá trình kết tụ sinh khối là quá trình cơ học
khi các hạt sinh khối rắn rời rạc (vật liệu khối,
hạt mịn) được liên kết lại bằng lực liên kết giữa
các hạt nhằm tạo ra hạt có kích thước lớn hơn
[7]. Kết tụ sinh khối áp lực, là quá trình sử dụng
ngoại lực tác dụng vào nhiên liệu sinh khối trong
khuôn kín để tạo ra những viên nhiên liệu với
kích thước và hình dạng mong muốn, được mô tả
trong Error! Reference source not found. [8].
Hình 1. Nguyên lý kết tụ áp lực
Theo nghiên cứu trước đây của nhóm tác giả,
một phương trình mới chứa độ ẩm như một thông
số được giới thiệu trên cơ sở chỉnh sửa phương
trình Johanson [9].
Độ bền cơ học của viên nhiên liệu sau khi kết
tụ là một trong số những nhân tố quan trọng tác
động đến quá trình sản xuất cũng như khả năng
ứng dụng của viên nhiên liệu. Có nhiều phương
pháp để đánh giá độ bền của viên nhiên liệu như
là phép thử rơi tự do, thí nghiệm mài mòn, thí
nghiệm sức bền nén, thí nghiệm sức bền uốn, thí
nghiệm độ bền kéo [10].
Hiện tại, các nghiên cứu ở Việt Nam về kết tụ
nhiên liệu sinh khối chưa được quan tâm nhiều.
Với mong muốn đưa ra bộ thông số tối ưu cho
từng loại nhiên liệu sinh khối phổ biến để sử
dụng trong sản xuất viên nhiên liệu cũng như
trong các quá trình biến đổi năng lượng cho viên
nhiên liệu, nhóm tác giả thực hiện nghiên cứu
quá trình kết tụ sinh khối áp lực được thực hiện
với nhiên liệu là rơm ở Việt Nam, được nén với
20
áp lực khác nhau. Cùng với đó là nghiên cứu ảnh
hưởng của các thông số như độ ẩm, áp suất nén
và nhiệt độ đến độ bền kéo của viên nhiên liệu.
2. Vật liệu, mô hình thí nghiệm, và phương
pháp thí nghiệm
2.1. Vật liệu
Vật liệu sử dụng trong quá trình thí nghiệm là
rơm, phụ phẩm từ quá trình sản xuất gạo tại tỉnh
Nam Định, Việt Nam. Trước khi đóng gói và vận
chuyển đến nơi thí nghiệm, rơm được phơi khô
dưới ánh nắng tự nhiên trong vòng 3 ngày để giảm
bớt độ ẩm. Sau đó, rơm được nghiền nhỏ với kích
thước sàng nghiền là 2mm, bằng máy nghiền
Retsch SM2000. Hình dạng của hạt sau khi nghiền
được thể hiện trong Hình 2. Thông số ban đầu
của hạt rơm được xác định như sau: độ ẩm 13%
(theo khối lượng), khối lượng riêng 224kg/m3, và
kích thước hạt x < 1,25mm. Sử dụng kính hiển vi
quang học để quan sát hình dạng hạt rơm, ta thấy
rằng sau khi nghiền về cơ bản các hạt không đồng
nhất và có hình dạng thon dài.
Hình 2. Hạt rơm sau khi nghiền (ảnh chụp bằng máy ảnh (trái) và bằng kính hiển vi quang học (phải))
Phân tích kích thước hạt rơm sau khi được
nghiền với kích thước lưới sàng nghiền 2 mm
được thực hiện bằng phương pháp rây, sự phân
bổ kích thước hạt được thể hiện trong Hình 3.
Hình 3. Phân bổ kích thước hạt
2.2. Thiết bị thí nghiệm
Máy nén thủy lực
Để tạo ra viên nhiên liệu từ hạt rơm, ta cần sử
dụng ngoại lực để nén nhiên liệu đặt trong khuôn
định hình. Ngoại lực sử dụng trong thí nghiệm được
tạo ra từ máy nén thủy lực, đường kính piston (tương
tác trực tiếp với nhiên liệu) là 25 mm, thiết bị nén này
được thiết kế và lắp đặt tại Đại học Miskolc, Hung-
ga-ri. Để tạo ra lực nén, máy nén sử dụng bơm được
truyền động bằng động cơ điện, tạo ra lực tác động
tối đa là 200 kN và vận tốc nén tối đa là 30 mm/s.
Hình 4. Máy nén thủy lực
21
Trong quá trình nén, khuôn nén có thể được
cấp nhiệt với dải nhiệt độ từ 20 đến 140℃, cùng
với đó vị trí piston trong quá trình nén được xác
định thông qua cảm biến đặt trên máy nén. Máy
nén được thể hiện trong Hình 4 phía trên.
Thiết bị kiểm tra độ bền kéo
Trong thí nghiệm này, thiết bị Instron 3365
được sử dụng để kiểm tra độ bền kéo của từng
mẫu viên nhiên liệu sau khi được nén. Thiết bị
Instron 3365, được vận hành bằng điện từ, để
điều chỉnh sự lên xuống của con trượt, con trượt
này sẽ tác động một lực lên mẫu vật. Thiết bị này
tạo ra lực tối đa là 5 kN và áp suất nén tối đa là
6,2 bar. Thiết bị được thể hiện trên Hình 5.
Hình 5. Thiết bị kiểm tra độ bền
2.3. Quá trình thí nghiệm
Trước mỗi thí nghiệm, khuôn mẫu được làm
sạch để loại bỏ các tạp chất từ thí nghiệm trước,
nhằm đảm bảo sự đồng nhất giữa các thí nghiệm.
Trong mỗi thí nghiệm, 5 g hạt rơm được đổ vào
khuôn của máy nén, sau đó khuôn được làm
nóng, khi nhiệt độ khuôn mẫu đạt tới nhiệt độ
yêu cầu thì tiến hành nén vật liệu. Hệ thống nén
hoạt động tới khi lực tác động đạt tới giá trị cho
trước. Áp lực nén được thay đổi trong quá trình
thí nghiệm với các giá trị cụ thể như sau: 50; 100;
150; 200; 250 và 300 MPa. Đồng thời ứng với
mỗi lực nén, độ ẩm của nhiên liệu được thay đổi
như sau: 5,5; 9; 13 và 18% tại 25℃. Ngoài ra, với
độ ẩm 13% thì nhiệt độ trong quá trình nén được
nghiên cứu thêm với giá trị là 100℃.
Sau khi nén, kích thước viên nén (đường kính,
độ dày) được xác định thông qua thước cặp Valiper
(sau khi nén viên nén có thể bị dãn nở). Với khối
lượng đầu vào mỗi viên nén cho trước, chúng ta sẽ
tính được mật độ nhiên liệu trong từng viên nén
cho từng thí nghiệm khác nhau. Mối quan hệ giữa
mật độ nhiên liệu sau khi nén với áp suất nén được
thể hiện qua phương trình Johanson [11]:
ρ
ρ∗
= � pp∗�1/𝑘𝑘 ; FFo = �VoV �𝑘𝑘
trong đó: k : hệ số nén, ρ là khối lượng riêng của
viên nhiên liệu sau khi nén [kg/m3], F: lực nén
[N], V: thể tích viên nén [m3], ρ*, p*, F
o
, V
o
: các
giá trị tham chiếu.
Độ bền cơ học của viên nhiên liệu sau khi nén,
được xác định gián tiếp thông qua độ bền kéo. Độ
bền kéo của mỗi viên nhiên liệu sau khi nén được
tính bằng biểu thức sau [12]: 𝜎𝜎 = 2 · Fmax
pi · h ∙ D [N/mm2]
trong đó σ là độ bền kéo [N/mm2], F
max
là lực
nén lớn nhất tác dụng lên bề mặt viên nén trong
quá trình thí nghiệm [N], h là chiều cao của viên
nén [mm], D là đường kính của viên nén [mm].
3. Kết quả và thảo luận
Viên nhiên liệu nén từ rơm dưới áp suất và độ
ẩm khác nhau được thể hiện trong Hình 6. Khối
lượng riêng của viên nén được xác định thông
qua giá trị của ba phép đo (đường kính, chiều cao
và khối lượng) với kích thước hạt < 1,25 mm ở
nhiệt độ là 25oC.
Hình 6. Viên nhiên liệu sau khi nén
22
Với cùng một giá trị độ ẩm ban đầu, dễ dàng
nhận thấy rằng chiều cao của mỗi viên nén sẽ giảm
đi khi áp suất nén tăng lên. Với cùng áp suất nén
50 MPa hoặc 150 MPa, khi độ ẩm tăng lên giúp
cho thể tích viên nén giảm xuống. Tuy nhiên thay
đổi về mặt kích thước ở áp suất nén cao hơn, khi
thay đổi độ ẩm khó so sánh bằng mắt thường.
Tuy nhiên điều này được thể hiện rõ hơn trong
mối quan hệ giữa áp suất nén và khối lượng riêng
của viên nhiên liệu sau khi nén, thể hiện trong
Hình 7. Mối liên hệ của áp suất nén và khối lượng
riêng của viên nhiên liệu thông qua phương trình
Johanson được thể hiện trong Bảng 1.
Hình 7. Thông số của viên nhiên liệu sau khi nén
(áp suất nén-khối lượng riêng)
Ở cùng một áp suất nén và nhiệt độ nén là
25℃, xu thế chung là khối lượng riêng của viên
nhiên liệu sau khi nén sẽ tăng lên khi tăng áp
suất nén, tuy nhiên tốc độ tăng của khối lượng
riêng đối với mỗi giá trị độ ẩm là khác nhau. Tốc
độ tăng khối lượng riêng khi áp suất tăng là lớn
nhất khi độ ẩm ở 5,5% và 9%. Đặc biệt, khi áp
suất lớn hơn 200 MPa, xu hướng tăng khối lượng
riêng của viên nhiên liệu sau nén với độ ẩm 9%
vượt qua xu hướng tăng khối lượng riêng ứng
với độ ẩm cao hơn (13% và 18%). Cùng độ ẩm là
13%, thí nghiệm khi tăng nhiệt độ trong quá trình
nén, với áp suất nhỏ hơn 150 MPa thì khối lượng
riêng của viên nhiên liệu khi nén với 25℃ sẽ nhỏ
hơn khi nén với nhiệt độ 100℃. Tuy nhiên với
miền áp suất nén lớn hơn 150 MPa, khối lượng
riêng của viên nhiên liệu sau nén ở nhiệt độ thấp
hơn sẽ vượt lên so với nén ở nhiệt độ cao hơn.
Bảng 1. Hệ số trong phương trình Johanson
(𝜌𝜌 = 𝑎𝑎𝑝𝑝1/𝜅𝜅) với độ ẩm và nhiệt độ khác nhau
Độ ẩm -
nhiệt độ
Hệ số a[kg1−1 κ⁄ m(1/κ)−3s2/κ] Hệ số κ[-] Độ lệch phân tán: Vs [%]Hệ số xác định: R2 [-]
Hệ số dư: σ [kg/m3]
5,5% - 25oC 32,3443 1,70 R2 = 0,9717; σ =0,0055;
V
s
= 6,7
9% - 25oC 67,2206 2,01 R2 = 0,9424; σ = 0,0082;
V
s
=7,6
13% - 25oC 287,2344 4,24 R2 =0,9771; σ =0,0007;
V
s
= 2,4
18% - 25oC 500,1211 8,17 R2 =0,9152; σ = 0,0007;
V
s
= 2,4
13% - 100oC 390,2004 5,76 R2 =0,9589; σ = 0,0007;
V
s
= 2,4
Hình 8. Độ bền kéo của viên nhiên liệu sau nén
Hình 8 mô tả mối quan hệ giữa các thông số
nén (áp suất nén, độ ẩm nhiên liệu, và nhiệt độ)
đến độ bền kéo của viên nhiên liệu sau khi nén.
Rõ ràng rằng, độ bền kéo của viên nhiên liệu tăng
lên khi tăng áp suất nén. Ở áp suất nén 300 MPa,
độ bền kéo của viên nhiên liệu sau khi nén ứng
với độ ẩm nhiên liệu ban đầu 9%, 13%, và 18%
gần như là bằng nhau, xấp xỉ 0.35 N/mm2. Tuy
nhiên khi thay đổi nhiệt độ với cùng độ ẩm là
13%, thì tốc độ tăng độ bền kéo của viên nhiên
23
liệu khi nén ở 100℃ nhanh hơn so với ở 25℃.
Và độ bền ứng với mỗi áp suất nén ở 100℃ cũng
vượt trội so với nén ở 25℃. Tại áp suất nén là
300 MPa và nhiệt độ là 100℃, độ bền kéo của
viên nhiên liệu xấp xỉ 0.6 N/mm2, con số này lớn
hơn 1,7 lần so với nén ở 25℃ cùng áp suất nén.
Điều này có thể giải thích là khi tăng nhiệt độ thì
sự ma sát trong quá trình nén sẽ giảm đi, dẫn tới
quá trình kết tụ nhiên liệu sẽ tốt hơn [13]. Tuy
nhiên, khi tăng nhiệt độ, thì tổng năng lượng tiêu
thụ cho quá trình nén sẽ tăng lên.
4. Kết luận
Khi thực hiện nén hạt rơm với các điều kiện
khác nhau, trường hợp độ ẩm 5,5% và 9%, áp
suất nén 50 MPa kết quả là không hình thành
được viên nén. Nếu ta tiến hành thí nghiệm ở
điều kiện áp suất nén và nhiệt độ là không đổi
25℃, khi đó có thể thấy rằng khối lượng riêng
của viên nén và độ bền kéo của chúng đạt giá trị
lớn nhất ở độ ẩm 13% trong phạm vi tiến hành thí
nghiệm với các độ ẩm khác nhau (5,5; 9; 13 và
18%). Nếu thí nghiệm ở cùng độ ẩm 13% và điều
kiện nhiệt độ khác nhau, kết quả cho thấy khối
lượng riêng và độ bền kéo của viên nén ở nhiệt
độ 100℃ cao hơn khối lượng riêng và độ bền kéo
của viên nén ở 25℃.
Phương pháp thí nghiệm đã thực hiện cũng có
thể áp dụng cho các vật liệu khác để tìm được
điều kiện nén tối ưu (áp suất, độ ẩm, nhiệt độ
tối ưu trong quá trình kết tụ), để từ đó có được
khối lượng riêng, độ bền của viên nén thích hợp
cũng như có được viên nén tốt nhất. Xác định các
thành phần các chất của nhiên liệu sinh khối (ví
dụ: lignin, cellulose, hemicellulose, protein, lipid
và chất béo) và ảnh hưởng của nhiệt độ tới quá
trình nén nhiên liệu sinh khối cũng nên được tiến
hành nghiên cứu trong tương lai.
Tài liệu tham khảo
[1] MOIT (2016), “Power Development Plan 7 Revise”,
Vietnamese Government.
[2] A. Leinonen and N. D. Cuong (2013), “Development
of biomass fuel chains in Vietnam”, VTT Technology
134.
[3] L. Q. Dien, D. T. Hoa, N. Thi, and M. Phuong (2011),
“Rice straw and corn stalk in the northern Vietnam as
potential lignocellulosc sources”, 8th Biomass Asia
Work, vol. 32.
[4] T. A. Hà, H. Anh, and H. Dương (2016), “Phân tích
chi phí-lợi ích của đồng đốt sinh khối với than :
Trường hợp nhà máy nhiệt điện Ninh Bình”, pp.3-10.
[5] L. Baxter (2005), “Biomass-coal co-combustion:
Opportunity for affordable renewable energy”, Fuel,
vol. 84, no. 10, pp. 1295-1302.
[6] A. Lisowski (2013), “Pressure agglomeration of
biomass with additive of rapeseed oil cake or calcium
carbonate”, vol. 13, no. 1, pp. 95-102.
[7] W. Pietsch (1991), “Size Enlargement by
Agglomeration”, John Wiley & Sons Ltd, p115.
[8] W. Pietsch (2005), “Agglomeration in Industry :
Occurrence and Applications”, WILEY- VCH Verlag
GmbH & Co. KGaA, Weinheim p 47.
[9] T.V. Quyen, S. Nagy S, B. Csőke (2017), “Effect
of Moisture Content and Particle Size on Beech
Biomass Agglomeration”, Advances in Agriculture
& Botanics- International Journal of the Bioflux
Society. Vol 9, issue 2.
[10] H. Schubert (1975), “Tensile strength of
agglomerates”, Powder Technol., vol. 11, no. 2, pp.
107-119.
[11] J. R. Jahanson (1965), “A Rolling Theory for Granular
Solids”, J. Appl. Mech, vol. 32, no. 4, pp. 842-848.
[12] J. T. Fell and J. M. Newton (1970), “Determination of
Tablet Strength by the Diametral-Compression Test”,
J. Pharm. Sci., vol. 59, no. 5, pp. 688-691.
[13] W. Stelte, J. K. Holm, A. R. Sanadi, S. Barsberg, J.
Ahrenfeldt, and U. B. Henriksen (2011), “Fuel pellets
from biomass: The importance of the pelletizing
pressure and its dependency on the processing
conditions”, Fuel, vol. 90.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_do_am_va_nhiet_do_toi_qua_trinh_ket_tu_rom_o_v.pdf