Hiệu quả kinh tế các tổ hợp giống và
mật độ trồng Chùm ngây
Một tiêu chí rất quan trọng đối với người
trồng Chùm ngây là hiệu quả kinh tế mang lại
từ việc đầu tư sản xuất. Kết quả nghiên cứu
cho thấy hiệu quả kinh tế khi trồng Chùm ngây
là khá cao so với nhiều loại rau ăn lá khác.
Trong nghiên cứu này, mật độ trồng thưa (100
cây/m2) cho hiệu quả kinh tế cao hơn so với
nghiệm thức mật độ trung bình (133 cây/m2)
và mật độ dày (200 cây/m2). Sở dĩ như vậy là
vì Chùm ngây trồng trong điều kiện mật độ
quá dày dẫn đến sự cạnh tranh về không gian
dinh dưỡng làm một số cây chết, giảm năng
suất. Ngoài ra, các khoản chi phí như lượng
giống, công lao động ở mật độ dày luôn cao
hơn trồng ở mật độ thưa.
Giống Chùm ngây Ninh Thuận cho hiệu quả
kinh tế cao nhất, kế đến giống Bình Thuận và
thấp nhất là giống Thái Lan. Giống Chùm ngây
Ninh Thuận có sinh trưởng, phát triển khá tốt
với điều kiện sinh thái trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai, cho hiệu quả kinh tế vượt trội với các
giống khác khi trồng ở mật độ thưa (1 triệu
cây/ha) đạt 418 triệu đồng/ha.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của giống và mật độ trồng đến sinh trưởng và năng suất lá chùm ngây (moringa oleifera L) làm rau, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lâm sinh
21TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2015
ẢNH HƯỞNG CỦA GIỐNG VÀ MẬT ĐỘ TRỒNG ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ
NĂNG SUẤT LÁ CHÙM NGÂY (Moringa oleifera L.) LÀM RAU
Mai Hải Châu
ThS. Cơ sở 2, Trường Đại học Lâm nghiệp
TÓM TẮT
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm xác định giống và khoảng cách trồng phù hợp sản xuất Chùm ngây làm rau
theo hướng hữu cơ tại tỉnh Đồng Nai. Thí nghiệm hai yếu tố được bố trí theo kiểu lô phụ, 3 lần lặp lại, trên nền
phân bò hoai mục với lượng 30 tấn/ha. Yếu tố lô chính (A) là 3 mật độ trồng (A1: 100 cây/m2; A2: 133 cây/m2 và
A3: 200 cây/m2) và yếu tố lô phụ (B) là 5 giống (B1: giống Chiatai nhập từ Thái Lan; B2: giống thu thập từ
Bình Thuận; B3: giống thu thập từ Ninh Thuận; B4: giống thu thập từ Đồng Nai; B5: giống thu thập từ Bà Rịa
– Vũng Tàu). Kết quả nghiên cứu cho thấy giống Chùm ngây Ninh Thuận có hàm lượng dinh dưỡng và
flavonoid đạt cao nhất; sinh trưởng tốt trong điều kiện sinh thái ở Đồng Nai; năng suất sinh khối đạt 171,7 và
198,7 tấn/ha; năng suất lá thực thu 36,6 và 36,9 tấn/ha tương ứng với hai điểm nghiên cứu Cẩm Mỹ và Trảng
Bom. Mật độ gieo trồng thích hợp nhất trồng Chùm ngây làm rau là 100 cây/m2. Tổ hợp giống Chùm ngây
Ninh Thuận và mật độ 100 cây/m2 cho năng suất lá thực thu đạt 30,53 tấn/ha, hiệu quả kinh tế cao nhất đạt 418
triệu đồng/ha.
Từ khóa: Dinh dưỡng, giống Chùm ngây, mật độ, năng suất, flavonoid.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chùm ngây (Moringa oleifera L.) là loài
cây bản địa thuộc chi Moringa và họ
Moringaceae, hiện được hơn 80 quốc gia trên
thế giới sử dụng rộng rãi trong công nghệ dược
phẩm, mỹ phẩm, nước giải khát, dinh dưỡng và
thực phẩm chức năng. Các quốc gia đang phát
triển sử dụng Chùm ngây như dược liệu kỳ
diệu chữa bệnh hiểm nghèo (Fahey, 2005). Lá
Chùm ngây rất giàu dinh dưỡng, hiện được
WHO và FAO xem như là giải pháp ưu việt
cho các bà mẹ thiếu sữa và trẻ em suy dinh
dưỡng, và là giải pháp lương thực cho thế giới
thứ ba (Fuglie, 1999).
Ở Việt Nam, Chùm ngây là cây bản địa mọc
tự nhiên tại các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận,
Đồng Nai, Kiên Giang Do cây Chùm ngây
có giá trị cao về mặt dinh dưỡng và dược liệu
nên trong những năm vừa qua, phong trào
trồng Chùm ngây với mục đích lấy hạt, sản
xuất bột dinh dưỡng, nguyên liệu sản xuất mì
gói, làm rau xanh đã phát triển ở nhiều tỉnh
thành trong cả nước. Tuy nhiên, quy trình
trồng trọt áp dụng để sản xuất Chùm ngây chủ
yếu là dựa vào kinh nghiệm dân gian, mang
tính mày mò tự phát, chưa có giống và kỹ thuật
canh tác chuẩn để áp dụng. Do đó, việc khai
thác giá trị về kinh tế, dinh dưỡng và dược liệu
của cây Chùm ngây từ các mô hình canh tác
này chưa thật hiệu quả và rộng rãi.
Các nghiên cứu về mật độ trồng đã được
Foild (1999, 2001), Price (2000), L.H Manh
(2005), L.H.Manh (2005), Amaglo (2006),
Sanchez (2006) và Goss (2012) thực hiện và
chỉ ra rằng mật độ trồng không chỉ ảnh hưởng
đến sinh trưởng, phát triển của cây Chùm ngây
mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và
chất lượng nguyên liệu lá Chùm ngây. Mật độ
trồng thay đổi tuỳ thuộc vào giống, mục tiêu
sản xuất, kỹ thuật canh tác, điều kiện khí hậu
thời tiết, đất đai.
Nghiên cứu về giống và chọn tạo giống
Chùm ngây rất hạn chế, mới chỉ dừng lại ở các
nghiên cứu về đa dạng di truyền, bảo tồn
nguồn gen. Duy nhất tại Trường Đại học Nông
nghiệp Tamil Nadu, Periyakulam, miền Nam
Ấn Độ đã thành công trong việc phát triển và
chọn ra được hai giống Chùm ngây
Periyakulam 1(PKM-1) và Periyakulam2
(PKM-2).
Lâm sinh
22 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2015
Theo quan sát của tác giả, hiện nay ở Việt
Nam xuất hiện hai giống Chùm ngây đọt xanh
và tím, nguồn gốc cũng không rõ ràng. Để
đánh giá chắc chắn giống nào có năng suất,
hàm lượng dinh dưỡng, dược liệu cao đòi hỏi
phải có một công trình nghiên cứu một cách
bài bản về vấn đề này.
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm
hiểu ảnh hưởng của giống và khoảng cách trồng
đến sinh trưởng, năng suất và chất lượng lá
Chùm ngây trồng với mật độ dày, làm cơ sở cho
việc đề xuất quy trình canh tác cây Chùm ngây
làm rau theo hướng hữu cơ tại tỉnh Đồng Nai.
II. VẬT LIỆU, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
5 giống Chùm ngây gồm 1 giống Chiatai có
nguồn gốc từ Thái Lan và 4 giống có nguồn
gốc từ các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận, Đồng
Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu.
Bảng 1. Ký hiệu giống và nguồn gốc của 5 giống Chùm ngây
STT Ký hiệu giống Nguồn gốc
1 TL Thái Lan
2 BT Bình Thuận
3 NT Ninh Thuận
4 DN Đồng Nai
5 BR Bà Rịa – Vũng Tàu
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thí nghiệm được thực hiện từ tháng 5 –
12/2013 trên 2 địa điểm: (1) Đất xám phù sa cổ
thuộc Trung tâm Thực nghiệm và Phát triển
công nghệ, Trường Đại học Lâm nghiệp – Cơ
sở 2, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai và (2)
Đất đỏ bazan thuộc Trung tâm Sinh học công
nghệ cao, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
* Nền thí nghiệm:
Các biện pháp kỹ thuật trồng, chăm sóc và
thu hoạch tại hai điểm thí nghiệm được thực
hiện theo quy trình như sau:
- Làm đất: Đất thí nghiệm được cày và bừa
bằng máy cày, sử dụng các công cụ làm đất để
làm sạch cỏ dại và thực bì sau đó lên luống,
phủ bạt nilon, đục lỗ trồng.
- Trồng: Hạt giống xử lý nảy mầm và được
gieo ở độ sâu 2 cm, gieo 2 hạt/hố. Ở 15 ngày
sau mọc mầm (NSMM) chỉ giữ lại 1 cây khoẻ
mạnh/hố.
- Lượng phân bón lót/ha gồm: 30 tấn phân
bò hoai và 300 kg vôi bột.
- Chăm sóc: Sử dụng phân hữu cơ bón lá
VIF-Super với lượng 35 ml cho bình 10 lít,
phun ở thời điểm cây 30 NSMM, 7 – 10 ngày
phun/lần, ngừng phun trước các lần thu hoạch
1 tuần. Sử dụng chế phẩm BT, bột lá Xoan
chịu hạn để kiểm soát sâu hại.
- Thu hoạch: Bắt đầu thu hoạch ở thời điểm
cây 60 NSMM, cắt 5 lần/vụ.
* Bố trí thí nghiệm: Thí nghiệm hai yếu tố
được bố trí theo kiểu lô phụ, 3 lần lặp lại, diện
tích ô thí nghiệm 12 m2. Yếu tố lô chính (A) là
ba mật độ trồng (A1: 100 cây/m2; A2: 133
cây/m2 và A3: 200 cây/m2; tương ứng với các
khoảng cách trồng lần lượt là 5 x 20 cm; 5 x 15
cm và 5 x 10 cm) và yếu tố lô phụ (B) là 5
giống (B1: giống Chiatai nhập từ Thái Lan;
B2: giống thu thập từ Bình Thuận; B3: giống
thu thập từ Ninh Thuận; B4: giống thu thập từ
Đồng Nai; B5: giống thu thập từ Bà Rịa –
Vũng Tàu).
* Chỉ tiêu và phương pháp theo dõi:
- Theo dõi chỉ tiêu sinh trưởng theo phương
pháp của Toledo và Schultze-Kraft năm 1982.
Lâm sinh
23TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2015
- Chỉ tiêu năng suất: Các cây trong ô thí
nghiệm được cắt ở độ cao cách mặt đất 30 cm,
các lần sau cắt cao hơn lần cắt trước 20 cm, cắt
5 đợt/vụ.
Năng suất được phân thành: (1) Năng suất
sinh khối cá thể; (2) năng suất cuống lá (lá
kép); (3) năng suất lá lý thuyết và (4) năng suất
lá thực thu/12 m2.
+ Năng suất sinh khối cá thể (g/cây): Năng
suất sinh khối tươi (thu cách mặt đất 30 cm ở
lần thu thứ 1 và các lần thu tiếp cách vị trí cắt
trước 20 cm) của trung bình trên 5 cây ngẫu
nhiên trên mỗi ô thí nghiệm (g/cây)/3 lần lặp
lại. Năng suất sinh khối lý thuyết (tấn/ha) =
năng suất sinh khối cá thể x mật độ lý thuyết
(cây/ha) x hệ số quy đổi đơn vị.
+ Năng suất cuống lá lý thuyết (tấn/ha):
Năng suất tươi sau khi loại bỏ phần thân cây,
chỉ để lá kép (gồm cuống lá và lá) của trung bình
5 cây ngẫu nhiên trên mỗi ô thí nghiệm (g/cây) x
mật độ lý thuyết x hệ số qui đổi đơn vị.
+ Năng suất lá lý thuyết (tấn/ha/lần thu
hoạch): Năng suất ngọn non và lá tươi của
trung bình 5 cây ngẫu nhiên trên mỗi ô thí
nghiệm (g/cây) x mật độ lý thuyết x hệ số qui
đổi đơn vị.
+ Năng suất lá thực thu (kg/12 m2/lần thu
hoạch): Năng suất ngọn và lá tươi thực thu
trung bình 3 ô thí nghiệm của 3 lần lặp lại.
- Hiệu quả kinh tế: tổng chi (triệu đồng/ha);
tổng thu (triệu đồng/ha); lợi nhuận (triệu
đồng/ha).
- Phân tích dinh dưỡng và dược liệu theo
phương pháp của Kass và ctv (1993), gồm:
protein, sắt, kali, canxi, vitamin A, vitamin C
và flavonoid tổng số.
- Phân tích thành phần cơ giới và các chỉ
tiêu hoá học của đất trước khi bố trí thí nghiệm
tại Trảng Bom và Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.
2.4. Phân tích số liệu: Các số liệu được xử lý
bằng phần mềm EXCEL, SPSS và SAS 9.3.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của giống đến sinh trưởng
và năng suất cây Chùm ngây
a. Ảnh hưởng của giống đến sinh trưởng
cây Chùm ngây
- Chiều cao cây: Hạt giống nảy mầm trong
khoảng thời gian từ 10 – 14 ngày sau khi gieo.
Chiều cao cây trung bình ở tất cả các giống
tham gia thí nghiệm tại Trảng Bom và Cẩm
Mỹ tăng cùng với thời gian, có sự khác biệt có
ý nghĩa (p<0,05) ở tuần thứ 1 – 8. Ở cả hai địa
điểm quan sát cho thấy, chiều cao cây của các
giống tăng nhẹ trong giai đoạn cây từ 1 – 6
tuần tuổi, nhưng tăng mạnh ở tuần thứ 7, 8. Điều
này có thể giải thích là ở tuần thứ 7, bộ rễ Chùm
ngây đã phát triển khá hoàn thiện, có khả năng
hấp thụ dinh dưỡng từ đất tốt nên tốc độ sinh
trưởng chiều cao diễn ra mạnh. Chiều cao cây đạt
cao nhất là giống Ninh Thuận, thấp nhất là giống
Chiatai Thái Lan ở hai địa điểm nghiên cứu.
- Số lá trên cây: Chỉ tiêu số lá/cây đóng vai
trò quan trọng trong việc hình thành năng suất
lá. Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác
nhau về chỉ tiêu số lá/cây từ lúc gieo đến cây
đạt 60 ngày tuổi (tuần thứ 8). Ở Trảng Bom, số
lá/cây giữa các giống tham gia thí nghiệm
không có sự khác biệt có ý nghĩa (P>0,05) ở
tuần tuổi thứ 1, 3, 5, 6, 7. Ngược lại ở Cẩm
Mỹ, số lá/cây giữa các giống tham gia thí
nghiệm có sự khác nhau một cách có ý nghĩa
(p<0,05) ở các giai đoạn của cây từ lúc gieo
đến lúc cây đạt 60 ngày tuổi. Ở hai điểm
nghiên cứu, số lá trung bình có xu hướng giảm
dần từ tuần thứ 1 đến tuần thứ 5, sau đó tăng
dần. Ở tuần thứ 8, các giống khác nhau có số
lá/cây khác nhau có ý nghĩa thống kê (p<0,05),
trong đó giống có số lá/cây cao nhất là giống
Ninh Thuận đạt 9,02 và 9,22 lá; kế đến là
giống Bình Thuận đạt 8,68 và 8,57 lá; giống có
số lá/cây thấp nhất là giống Thái Lan đạt 7,95
và 8,06 lá, tương ứng với hai điểm nghiên cứu
Trảng Bom và Cẩm Mỹ (bảng 2). Nghiên cứu
Lâm sinh
24 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2015
này chỉ ra rằng, các giống Chùm ngây đã phản
ứng không giống nhau với điều kiện thời tiết,
khí hậu và đất đai giữa hai điểm nghiên cứu.
- Đường kính thân: Số liệu bảng 2 cho thấy,
đường kính cây của các giống tham gia thí
nghiệm khác nhau có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
và giữa các điểm nghiên cứu. Có sự tăng lên về
đường kính cùng với thời gian, trước hết là ở
mật độ thưa, sau đó là mật độ trung bình và cuối
cùng là mật độ dày. Giống có đường kính thân
lớn nhất ở 60 ngày sau khi gieo là giống Ninh
Thuận đạt 6,85 cm và 7,04 cm; kế đến là giống
Bình Thuận 6,42 cm và 6,57 cm; giống có
đường kính thấp nhất là giống Thái Lan 5,74
cm và 5,91 cm, tương ứng với hai điểm nghiên
cứu Trảng Bom và Cẩm Mỹ.
Bảng 2. Ảnh hưởng của giống đến sinh trưởng cây Chùm ngây ở 60 NSMM
Giống
Trảng Bom Cẩm Mỹ
Chiều cao
(cm)
Số lá
(lá/cây)
Đường
kính thân
(mm)
Chiều cao
(cm)
Số lá
(lá/cây)
Đường
kính thân
(mm)
TL
BT
NT
ĐN
BR
55,08 d
61,11 b
63,60 a
57,86 c
56,91 c
7,95 d
8,68 b
9,02 a
8,24 c
8,40 c
7,74 c
6,42 b
6,85 a
6,18 b
6,21 b
56,53 e
61,24 c
70,62 a
63,34 b
58,66 d
8,06 c
8,57 b
9,22 a
8,57 b
8,44 b
5,91 c
6,57 b
7,04 a
6,38 b
6,39 b
CV%
P
7,70
<0,05
6,89
<0,05
7,07
<0,05
7,58
<0,05
6,40
<0,05
6,96
<0,05
NSMM: ngày sau mọc mầm; các trung bình cùng ký tự không khác biệt có nghĩa thống kê ở mức
xác suất p < 0,05.
b. Ảnh hưởng của giống đến năng suất và
dinh dưỡng cây Chùm ngây
- Năng suất sinh khối cá thể: Số liệu bảng 3
cho thấy, năng suất sinh khối giữa các giống
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) ở tất cả
các lần cắt và ở cả hai địa điểm nghiên cứu.
Năng suất sinh khối cá thể về cơ bản giảm sút
sau mỗi lần thu hoạch, sự giảm năng suất sinh
khối thể hiện rõ ở lần thu hoạch thứ 2 và thứ 5.
Tổng năng suất sinh khối cá thể qua 5 lần cắt
giữa các giống ở hai điểm nghiên cứu có sự
khác biệt về mặt thống kê (p<0,05). Trong đó
năng suất sinh khối cá thể cao nhất là giống
Ninh Thuận (120,48 và 138,98 g/cây), kế tiếp
là giống Bình Thuận (111,92 và 125,63 g/cây),
Đồng Nai (105,89 và 130,29 g/cây) và cuối
cùng là giống Thái Lan (92,16 và 110 g/cây),
tương ứng với hai điểm nghiên cứu Trảng Bom
và Cẩm Mỹ. Số liệu nghiên cứu cũng cho thấy,
năng suất sinh khối cá thể ở Cẩm Mỹ cao hơn
Trảng Bom. Sở dĩ điều này là vì Chùm ngây
được trồng trên nền đất đỏ bazan giàu dinh
dưỡng, thêm vào đó lượng mưa ở khu vực này
cũng cao hơn khu vực Trảng Bom, do vậy đã
làm tăng năng suất sinh khối cá thể.
Bảng 3. Ảnh hưởng của giống đến năng suất sinh khối Chùm ngây
Giống
Trảng Bom Cẩm Mỹ
Cá thể
(g/cây)
Lý thuyết
(tấn/ha)
NSCL
(tấn/ha)
Cá thể
(g/cây)
Lý thuyết
(tấn/ha)
NSCL
(tấn/ha)
TL
BT
92,16 e
111,92 b
130,79 e
159,60 b
48,39 d
58,77 b
110,27 d
125,63 b
156,24 d
178,25 bc
53,38 d
60,46 bc
Lâm sinh
25TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2015
NT
ĐN
BR
120,48 a
105,89 c
98,23 d
171,79 a
150,77 c
139,61 d
65,49 a
55,19 bc
51,67 cd
138,98 a
130,29 b
117,46 c
198,73 a
184,86 b
166,76 cd
67,88 a
63,26 b
57,00 cd
CV%
P
7,57
<0,05
7,68
<0,05
7,27
<0,05
7,71
<0,05
6,73
<0,05
6,16
<0,05
NSCL: năng suất cuống lá lý thuyết qui đổi tấn/ha; Các trung bình cùng ký tự không khác biệt có
nghĩa thống kê ở mức xác suất p < 0,05.
- Năng suất sinh khối lý thuyết: Số liệu
bảng 3 cho thấy năng suất lý thuyết của các
giống tham gia thí nghiệm ở các điểm nghiên
cứu khác nhau có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Có sự giảm sút năng suất sinh khối lý thuyết
của tất cả các giống theo thời gian cùng với số
lần thu hoạch ở cả hai điểm thí nghiệm. Giống
có năng suất sinh khối lý thuyết tổng cộng cao
nhất là giống Ninh Thuận (171,79 và 198,73
tấn/ha), kế đến là giống Bình Thuận, Đồng Nai
và cuối cùng là giống Thái Lan (130,79 và
156,24 tấn/ha), tương ứng với hai điểm nghiên
cứu Trảng Bom và Cẩm Mỹ. Không giống kết
quả nghiên cứu ở Trảng Bom, tại Cẩm Mỹ,
giống Đồng Nai lại cho năng suất lý thuyết
cao hơn giống Bình Thuận, điều này chỉ có
thể giải thích là do giống Đồng Nai đã thích
nghi cao với điều kiện khí hậu, thời tiết, đất
đai tại khu vực Cẩm Mỹ nên sinh trưởng, phát
triển tốt hơn.
- Năng suất cuống lá (gồm cuống và lá) và
năng suất lá (ngọn và lá non) là hai chỉ tiêu
quan trọng nhất đối với sản xuất Chùm ngây
làm rau ăn lá. Kết quả nghiên cứu ở bảng 4 cho
thấy, năng suất cuống lá và năng suất lá của
các giống tham gia thí nghiệm khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p<0,05) ở các lần thu hoạch. Ở
lần thu hoạch đầu tiên, tại thời điểm cây đạt 60
NSMM, năng suất lá đạt cao nhất, sau đó giảm
dần và giảm mạnh mẽ ở lần thu hoạch thứ 5.
Tổng năng suất lá của các giống sau 5 lần thu
hoạch khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05),
trong đó giống có năng suất lá thực thu cao
nhất là giống Ninh Thuận (35,17 và 36,93
tấn/ha), kế đến là giống Bình Thuận (33,43 và
34,32 tấn/ha), Đồng Nai (31,66 và 34,12
tấn/ha), thấp nhất là giống Thái Lan (28,29 và
29,92 tấn/ha), tương ứng với hai điểm nghiên
cứu Trảng Bom và Cẩm Mỹ.
Bảng 4. Ảnh hưởng của giống đến năng suất lá Chùm ngây
Giống
Trảng Bom Cẩm Mỹ
NSLT
(tấn/ha)
NSTT
(kg/12m2)
NSLT
(tấn/ha)
NSTT
(kg/12m2)
TL
BT
NT
ĐN
BR
29,82 e
36,57 b
39,04 a
34,13 c
31,88 d
28,29 e
33,43 b
35,17 a
31,66 c
29,85 d
32,75 d
37,10 bc
41,64 a
38,81 b
34,95 c
29,92 e
34,31 b
36,93 a
34,12 b
31,60 c
CV%
P
6,96
<0,05
6,00
<0,05
6,07
<0,05
7,78
<0,05
NSLT: năng suất lá lý thuyết, NSTT: năng suất lá thực thu; Các trung bình cùng ký tự không khác
biệt có nghĩa thống kê ở mức xác suất p < 0,05.
- Hàm lượng dinh dưỡng và dược liệu:
Hàm lượng dinh dưỡng và dược liệu là chỉ
tiêu rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với
giá trị của lá Chùm ngây tươi làm rau. Kết quả
Lâm sinh
26 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2015
nghiên cứu về chỉ tiêu hàm lượng một số chất
dinh dưỡng và flavonoid tổng số được thể hiện
ở bảng 5.
Số liệu trình bày ở bảng 5 cho thấy, giống
Chùm ngây Bà Rịa có hàm lượng canxi chiếm
cao nhất 4946,0 mg/kg, kế đến là giống Bình
Thuận 4848,0 mg/kg và thấp nhất là giống
Ninh Thuận 2839,0 mg/kg. Hàm lượng sắt cao
nhất cũng ở giống Bà Rịa đạt 29,0 mg/kg, kế
đến là giống Thái Lan (25,5 mg/kg), giống
Ninh Thuận (24,1 mg/kg) và thấp nhất là giống
Đồng Nai (21,6 mg/kg). Hàm lượng kali giữa
các giống khác nhau không đáng kể đạt từ
4136,0 – 4848,0 mg/kg.
Bảng 5. Hàm lượng dinh dưỡng và flavonoid tổng số của 5 giống Chùm ngây
Chỉ tiêu Đơn vị
Giống
Thái Lan
Bình
Thuận
Ninh
Thuận
Đồng Nai Bà Rịa
Ca mg/kg 3966,0 4848,0 2839,0 3418,0 4946,0
Fe mg/kg 25,5 22,2 24,1 21,6 29,0
K mg/kg 4136,0 4848,0 4314,0 4523,0 4219,0
Protein % 7,5 7,3 7,6 6,7 6,9
VitaminA IU/kg 5985,5 5398,4 7197,1 6839,8 6646,6
VitaminC mg/kg 252,4 1262,8 1479,2 1413,7 525,7
Flavonoid % 7,2 4,1 10,5 9,7 10,4
Hàm lượng protein của các giống thu nhận
trong nghiên cứu này dao động từ 6,7 – 7,5%,
trong đó giống Ninh Thuận có hàm lượng
protein cao nhất 7,6%, thấp nhất là giống Đồng
Nai 6,7%. Kết quả thu được cũng tương tự như
một số công trình đã công bố trước đây. Phân
tích hàm lượng protein trong lá Chùm ngây
trồng với mật độ dày tại Ghana đạt 8,4%
(Amaglo, 2006), 193 – 264 g/kg khối lượng
khô theo các tác giả khác (Aregheore, 2002; Al
– Masri, 2003; Foidl và ctv, 1999; L.H. Manh
và ctv, 2003; Makkar và Becker, 1996,1997).
Hàm lượng protein trong lá Chùm ngây làm
cho chúng trở thành nguồn protein thô cao nhất
khi so sánh với các cây trồng khác như rau dền
(3,6%), cà pháo (4,6%) (Amaglo, 2006).
Hàm lượng vitamin A và C khác nhau
giữa các giống, trong đó giống Ninh Thuận
có hàm lượng vitamin A, C đạt cao nhất
tương ứng 7197,1 IU/kg và 1479,2 mg/kg.
Kết quả này cao hơn nhiều so với báo cáo
của Fuglie (1999).
Hàm lượng flavonoid giữa các giống đạt từ
4,1 – 10,5%, trong đó giống có hàm lượng
flavonoid cao nhất là giống Ninh Thuận
(10,5%), kế đến là Bà Rịa (10,4%) và thấp nhất
là Bình Thuận (4,1%). Hàm lượng flavonoid
càng cao thì càng có giá trị về mặt dược liệu
bởi vì flavonoid có tác dụng kháng sinh, ngăn
ngừa các loại bệnh tật (Havsteen, 2002;
Middleton và ctv, 2000; Morris và ctv, 2006).
3.2. Ảnh hưởng của khoảng cách trồng đến
sinh trưởng và năng suất các giống Chùm
ngây
a. Ảnh hưởng của mật độ đến sinh trưởng
Chùm ngây ở 60 NSMM
Mật độ trồng 200 cây/m2 cho chiều cao cây
cao nhất (68,57; 71,12 cm), kế đến là mật độ
133 cây/m2 (58,28; 62,46 cm) và thấp nhất là
mật độ 100 cây/m2 (49,89; 52,69 cm).
Số lượng lá/cây khác nhau ở các giai đoạn
sinh trưởng, giống và địa điểm nghiên cứu.
Nhìn chung, số lá/cây ở tuần thứ 5 đạt thấp
nhất, sau đó tăng dần từ tuần thứ 6 – 8. Chùm
ngây là cây có bộ rễ kém phát triển, giai đoạn
đầu, cây con sinh trưởng nhờ vào dinh dưỡng
dự trữ trong hạt, giai đoạn sau (tuần thứ 6) khi
bộ rễ phát triển khá hoàn chỉnh, cây có thể tự
Lâm sinh
27TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2015
hút nước và chất khoáng trong đất để sinh
trưởng và phát triển, nhờ đó số lá/cây cũng
tăng. Kết quả nghiên cứu ở bảng 6 cho thấy,
mật độ 100 cây/m2 có số lá/cây cao nhất đạt
9,41 và 9,46 lá; kế đến là mật độ 133 cây/m2
đạt 8,81 và 8,89 lá và cuối cùng là mật độ 200
cây/m2 đạt 7,16 và 7,37 lá, tương ứng với hai
điểm nghiên cứu. Sở dĩ điều này là vì khi mật
độ trồng dày, đến một mức độ nào đó sẽ xảy ra
sự cạnh tranh về không gian dinh dưỡng, ánh
sáng và để thiết lập lại sự cân bằng và giảm sự
cạnh tranh, một giải pháp luôn được thực vật
lựa chọn là hiện tượng tỉa thưa tự nhiên, làm
giảm số lá/cây và mật độ cây trên đơn vị diện
tích.
Đối với đường kính thân, cùng với thời
gian, có sự tăng đường kính thân một cách có ý
nghĩa thống kê (p<0,01) ở các mật độ trồng khi
Chùm ngây đạt 7, 8 tuần tuổi. Mật độ trồng
100 cây/m2 có đường kính thân cao nhất (7,05;
7,12 mm), kế đến là mật độ 133 cây/m2 (6,32;
6,32 mm) và cuối cùng là mật độ 200 cây/m2
(5,46; 5,45 mm), tương ứng với hai điểm
nghiên cứu.
Bảng 6. Ảnh hưởng của khoảng cách trồng đến sinh trưởng trung bình
các giống Chùm ngây ở 60 NSMM
Mật độ
(cây/m2)
Trảng Bom Cẩm Mỹ
Chiều cao
(cm)
Số lá
(lá/cây)
Đường
kính thân
(mm)
Chiều cao
(cm)
Số lá
(lá/cây)
Đường
kính thân
(mm)
100
133
200
49,89 c
58,28 b
68,57 a
9,41 a
8,81 b
7,16 c
7,05 a
6,32 b
5,46 c
52,69 c
62,46 b
71,12 a
9,46 a
8,89 b
7,37 c
7,16 a
6,32 b
5,46 c
CV%
P
7,70
<0,05
6,89
<0,05
7,07
<0,05
7,58
<0,05
6,40
<0,05
6,96
<0,05
Các trung bình cùng ký tự không khác biệt có nghĩa thống kê ở mức xác suất p < 0,05.
Đối với chiều cao cây, số liệu chỉ ra rằng
chiều cao cây tăng nhanh nhất ở nghiệm thức
mật độ dày và tăng chậm ở nghiệm thức mật
độ thưa. Tuy nhiên, số lá/cây thì ngược lại, số
lá/cây đạt cao nhất ở mật độ thưa và thấp nhất
ở mật độ dày. Sự gia tăng mật độ cây trồng
không ảnh hưởng đến sự thể hiện của mỗi cá
thể thực vật khi mật độ cây trồng dưới ngưỡng
gây lên sự cạnh tranh về dinh dưỡng giữa các
cá thể. Ở mật độ dày (200 cây/m2) sự cạnh
tranh về các yếu tố thiết yếu như dinh dưỡng,
ánh sáng diễn ra rất mạnh, làm các lá phía dưới
rụng nhiều. Ngược lại, các lá ở nghiệm thức
133 cây/m2 và 100 cây/m2 nhận đủ yếu tố sinh
trưởng cần thiết thì phát triển bình thường bởi
mức độ cạnh tranh của các yếu tố vẫn đảm bảo
trên ngưỡng cạnh tranh giữa các cá thể.
b. Ảnh hưởng của khoảng cách trồng đến
năng suất các giống Chùm ngây
Kết quả nghiên cứu cho thấy, năng suất sinh
khối cá thể tổng cộng sau 5 lần thu hoạch khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05), trong đó mật
độ thưa cho năng suất sinh khối cá thể cao nhất
(108,86; 132,95 g/cây), theo sau là mật độ
trung bình (110,51; 126,14 g/cây) và cuối cùng
là mật độ dày (97,84; 60,80 g/cây), tương ứng
hai điểm nghiên cứu (bảng 7). Có sự khác biệt
thống kê ở mức xác suất (p<0,05) về năng suất
sinh khối lý thuyết và năng suất cuống lá trồng
ở mật độ khác nhau và ở các lần thu hoạch.
Mật độ dày (200 cây/m2) cho năng suất sinh
khối lý thuyết cao nhất (195,69; 230,19
tấn/ha), kế đến là mật độ trung bình (133
cây/m2) (146,98; 167,77 tấn/ha) và cuối cùng
là mật độ thưa (100 cây/m2) (108,86; 132,95
tấn/ha), tương ứng hai điểm nghiên cứu.
Lâm sinh
28 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2015
Bảng 7. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến năng suất sinh khối Chùm ngây
Mật độ
(cây/m2)
Trảng Bom Cẩm Mỹ
Cá thể
(g/cây)
Lý thuyết
(tấn/ha)
NSCL
(tấn/ha
Cá thể
(g/cây)
Lý thuyết
(tấn/ha)
NSCL
(tấn/ha)
100
133
200
108,86 a
110,51 a
97,84 b
108,86 c
146,98 b
195,69 a
49,04 c
63,76 a
54,91 b
132,95 a
126,14 ab
115,09 b
132,95 c
167,77 b
230,19 a
53,18 c
67,22 a
60,80 b
CV%
P
7,57
<0,05
7,68
<0,05
7,27
<0,05
7,71
<0,05
6,73
<0,05
6,16
<0,05
Các trung bình cùng ký tự không khác biệt có nghĩa thống kê ở mức xác suất p < 0,05.
Thí nghiệm ở Trảng Bom cho thấy, tổng
năng suất lá ở mật độ trồng trung bình (133
cây/m2) đạt cao nhất 38,62 tấn/ha, kế đến là ở
mật độ dày đạt 33,92 tấn/ha và cuối cùng là
mật độ thưa đạt 30,33 tấn/ha. Tương tự, ở Cẩm
Mỹ, năng suất lá đạt cao nhất ở mật độ trung
bình (40,33 tấn/ha), kế đến là mật độ dày đạt
36,48 tấn/ha và cuối cùng là mật độ thưa đạt
34,34 tấn/ha. Từ kết quả nghiên cứu này cho
thấy, năng suất lá của thí nghiệm bố trí ở Cẩm
Mỹ cao hơn Trảng Bom từ 2 – 4 tấn/ha.
Năng suất sinh khối cá thể ở 60 NSMM của
các nghiệm thức khác nhau khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p<0,05). Kết quả quan sát ở cả
hai điểm nghiên cứu chỉ ra, năng suất sinh khối
cá thể cao nhất là ở mật độ trồng dày, theo sau
là mật độ trồng trung bình và cuối cùng là mật
độ trồng thưa. Năng suất lá tổng cộng của các
lần thu hoạch/ha cũng có sự khác biệt có ý
nghĩa (p<0,05) (bảng 8). Năng suất sinh khối
lý thuyết đạt 195,69 tấn/ha (Trảng Bom) và
130,19 tấn/ha (Cẩm Mỹ) ở mật độ 200 cây/m2,
cao hơn so với báo cáo của Foidl (2001) được
thực hiện ở Nicaragua (97,10 tấn/ha), Amaglo
(2006) thực hiện ở Ghana (101,52 tấn/ha).
Bảng 8. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến năng suất lá Chùm ngây
Mật độ
(cây/m2)
Trảng Bom Cẩm Mỹ
NSLT
(tấn/ha)
NSTT
(tấn/ha)
NSLT
(tấn/ha)
NSTT
(tấn/ha)
100
133
200
30,33 c
38,62 a
33,92 b
30,22 b
30,99 b
33,82 a
34,34 b
40,33 a
36,48 b
32,52 b
32,12 b
35,48 a
CV%
P
6,96
<0,05
6,00
<0,05
6,07
<0,05
7,78
<0,05
NSLT: năng suất lá lý thuyết; NSTT: năng suất lá thực thu; Các trung bình cùng ký tự không khác
biệt có nghĩa thống kê ở mức xác suất p < 0,05.
Sự giảm năng suất cá thể lại được bù vào
nhiều hơn nhờ số lượng cây trên đơn vị diện
tích và điều này làm tăng năng suất khi tăng
mật độ cây trồng (Ball và ctv, 2000). Tuy
nhiên, trên bình diện sản xuất, việc lựa chọn
mật độ phù hợp để trồng không nhất thiết phải
là mật độ cho năng suất cao nhất. Trong quá
trình sản xuất nông nghiệp nói chung và sản
xuất rau nói riêng, để tạo ra được sản phẩm có
năng suất cao, phẩm chất tốt, đáp ứng yêu cầu
của người tiêu dùng thì người sản xuất luôn
tính tới hiệu quả kinh tế, tức là đầu tư như thế
nào để tăng năng suất cây trồng trên đơn vị
diện tích và phải luôn tỷ lệ thuận với giá trị
kinh tế mà mức đầu tư đó đem lại. Trong
nghiên cứu này, mặc dù năng suất lá ở mật độ
Lâm sinh
29TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2015
thưa (100 cây/m2) thấp hơn so với mật độ trung
bình và dày, nhưng tỷ lệ cây chết sau mỗi lần
thu hoạch và mức chí phí sản xuất lại thấp hơn
so với mật độ trung bình và dày.
3.3. Ảnh hưởng tổng hợp giữa giống và
khoảng cách trồng đến sinh trưởng và năng
suất Chùm ngây
Ảnh hưởng giữa giống và mật độ trồng đến
số lá/cây Chùm ngây ở thời điểm 60 NSMM
(tuần thứ 8) có ý nghĩa về mặt thống kê ở cả
hai điểm nghiên cứu (p<0,05). Ở Trảng Bom,
giữa các kiểu kết hợp có sự xếp hạng khá rõ
ràng theo mật độ và giống, trong đó kiểu kết
hợp giữa giống Ninh Thuận với mật độ thưa
(100 cây/m2) cho số lá/cây đạt cao nhất, kế đến
là giống Bình Thuận với mật độ thưa và cuối
cùng là kiểu kết hợp giữa giống Thái Lan với
mật độ trồng dày (200 cây/m2). Tương tự ở
Cẩm Mỹ, sự kết hợp giữa giống Ninh Thuận
với mật độ trồng thưa cho số lá/cây đạt cao
nhất, kế đến là kiểu kết hợp giữa giống Bình
Thuận và Đồng Nai với mật độ trồng thưa và
cuối cùng là giữa giống Thái Lan với mật độ
trồng dày (bảng 9).
Sự tương tác giữa giống và mật độ đến
đường kính thân Chùm ngây có ý nghĩa thống
kê (p<0,05) xảy ra ở tuần thứ 4 ở cả hai điểm
nghiên cứu. Sự khác biệt giữa các kiểu kết hợp
ở cả hai địa điểm nghiên cứu là khá rõ ràng
(bảng 9). Ở Trảng Bom, kiểu kết hợp giữa
giống Ninh Thuận với mật độ trung bình (133
cây/m2) cho đường kính thân lớn nhất, kế đến
là mật độ thưa. Kiểu kết hợp giữa giống Bà
Rịa, Thái Lan với mật độ trung bình và giữa
giống Thái Lan với mật độ dày cho đường kính
thân nhỏ, không có xếp hạng. Ở Cẩm Mỹ, kiểu
kết hợp giữa giống Ninh Thuận với mật độ
trung bình cho đường kính thân to nhất, kế đến
là với mật độ thưa, cuối cùng là kiểu kết hợp
giữa giống Thái Lan với mật độ dày.
Số liệu trình bày ở bảng 10 cho thấy, không
có sự ảnh hưởng rõ nét giữa giống và mật độ
trồng đến năng suất sinh khối, năng suất lá.
Kiểu kết hợp giữa giống Ninh Thuận với mật
độ dày cho năng suất sinh khối, năng suất lá
đạt cao nhất, kế đến là kiểu kết hợp giữa giống
Đồng Nai với mật độ trồng dày và thấp nhất là
kiểu kết hợp giữa giống Thái Lan với mật độ
trồng thưa.
Bảng 9. Ảnh hưởng của giống và khoảng cách trồng đến sinh trưởng Chùm ngây ở thời điểm 60 NSMM
Chỉ
tiêu
Giống
Trảng Bom Cẩm Mỹ
Mật độ trồng (cây/m2)
TB
Mật độ trồng (cây/m2)
TB
100 133 200 100 133 200
Chiều
cao
(cm)
TL 46,73 53,33 65,20 55,08 d 47,20 56,13 66,27 56,53 e
BT 52,27 60,47 70,60 61,11 b 52,27 62,53 68,93 61,24 c
NT 54,53 62,80 73,47 63,60 a 60,87 69,93 81,07 70,62 a
ĐN 48,40 58,20 67,00 57,86 c 54,13 64,93 71,13 63,40 b
BR 47,53 56,60 66,60 56,91 c 49,00 58,80 68,20 58,66 d
TB 49,89 c 58,28 b 68,57 a 52,69 c 62,46 b 71,12 a
CV% = 7,70; P>0,05 CV% = 7,50; P>0,05
Số
lá/thân
(lá)
TL 8,66 def 8,40 f 6,80 i 7,95 d 8,73 d 8,53 d 6,93 g 8,06 c
BT 9,73 b 9,00 cd 7,33 g 8,68 b 9,40 b 8,86 cd 7,46 ef 8,57 b
NT 10,33 a 9,20 c 7,53 g 9,02 a 10,46 a 9,40 b 7,80 e 9,22 a
ĐN 9,20 c 8,60 ef 6,93 hi 8,24 c 9,40 b 8,93 bcd 7,40 efg 8,57 b
BR 9,13 c 8,86 cde 7,20 gh 8,40 c 9,33 bc 8,73 d 7,26 fg 8,44 b
TB 9,41 a 8,81 b 7,16 c 9,46 a 8,89 b 7,37 c
CV% = 6,80; P<0,05 CV% = 6,40; P<0,05
Lâm sinh
30 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2015
Đường
kính
(mm)
TL 6,59 5,77 4,85 5,74 c 6,70 5,96 5,09 5,91 c
BT 7,20 6,43 5,64 6,42 b 7,24 6,60 5,87 6,57 b
NT 7,73 6,87 5,95 6,85 a 7,89 7,05 6,20 7,04 a
ĐN 6,91 6,32 5,31 6,18 b 7,03 6,54 5,59 6,38 b
BR 6,85 6,20 5,59 6,21 b 6,96 6,31 5,89 6,39 b
TB 7,05 a 6,32 b 5,46 c 7,16 a 6,49 b 5,73 c
CV% = 7,00; P>0,05 CV% = 6,90; P>0,05
Bảng 10. Ảnh hưởng của giống và khoảng cách trồng đến năng suất lá Chùm ngây
Năng
suất
Giống
Trảng Bom Cẩm Mỹ
Mật độ trồng (cây/m2)
TB
Mật độ trồng (cây/m2)
TB
100 133 200 100 133 200
Lá lý
thuyết
(tấn/ha)
TL 26,47 34,07 28,93 29,82 e 30,53 35,77 31,97 32,75 d
BT 32,20 41,13 36,40 36,57 b 34,63 39,90 36,77 37,10 bc
NT 34,67 43,47 39,00 39,04 a 38,57 45,17 41,20 41,64 a
ĐN 30,07 38,13 34,20 34,13 c 36,03 42,17 38,23 38,81 b
BR 28,27 36,33 31,07 31,88 d 31,97 38,67 34,23 34,95 c
TB 30,33 c 38,62 a 33,92 b 34,34 b 40,33 a 36,48 b
CV% = 6,90; P>0,05 CV% = 6,00; P>0,05
Lá thực
thu
(tấn/ha)
TL 26,56 27,79 30,53 28,29 e 28,83 28,74 32,21 29,92 e
BT 32,04 32,68 35,58 33,43 b 33,56 32,78 36,60 34,31 b
NT 34,38 34,44 36,69 35,17 a 36,63 35,71 38,46 36,93 a
ĐN 29,94 30,84 34,23 31,66 c 33,20 32,79 36,39 34,12 b
BR 28,22 29,25 32,09 29,85 d 30,39 30,63 33,78 31,60 c
TB 30,22 b 30,99 b 33,82 a 32,52 b 32,13 b 35,48 a
CV%= 6,00; P>0,05 CV%= 7,80; P>0,05
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng giống và
mật độ trồng có ảnh hưởng đến sinh trưởng và
năng suất Chùm ngây, ảnh hưởng rõ rệt đến
năng suất sinh khối, đường kính thân và năng
suất lá. Vì vậy, việc sản xuất Chùm ngây như
nguồn rau ăn lá sẽ yêu cầu các yếu tố khác
nhau trong đó mật độ là yếu tố được quan tâm.
Sau khi xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu
quả sản xuất Chùm ngây làm rau theo hướng
hữu cơ bao gồm: Giống thích hợp với điều
kiện sinh thái ở Đồng Nai, có hàm lượng dinh
dưỡng và dược tính cao; số cây mất đi sau mỗi
lần cắt; điều kiện canh tác trên đồng ruộng;
mật độ tối ưu thì giống phù hợp để trồng là
giống Ninh Thuận và mật độ trồng là 1 triệu
cây/ha.
3.4. Hiệu quả kinh tế các tổ hợp giống và
mật độ trồng Chùm ngây
Một tiêu chí rất quan trọng đối với người
trồng Chùm ngây là hiệu quả kinh tế mang lại
từ việc đầu tư sản xuất. Kết quả nghiên cứu
cho thấy hiệu quả kinh tế khi trồng Chùm ngây
là khá cao so với nhiều loại rau ăn lá khác.
Trong nghiên cứu này, mật độ trồng thưa (100
cây/m2) cho hiệu quả kinh tế cao hơn so với
nghiệm thức mật độ trung bình (133 cây/m2)
và mật độ dày (200 cây/m2). Sở dĩ như vậy là
vì Chùm ngây trồng trong điều kiện mật độ
quá dày dẫn đến sự cạnh tranh về không gian
dinh dưỡng làm một số cây chết, giảm năng
suất. Ngoài ra, các khoản chi phí như lượng
giống, công lao động ở mật độ dày luôn cao
hơn trồng ở mật độ thưa.
Giống Chùm ngây Ninh Thuận cho hiệu quả
kinh tế cao nhất, kế đến giống Bình Thuận và
thấp nhất là giống Thái Lan. Giống Chùm ngây
Lâm sinh
31TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 4-2015
Ninh Thuận có sinh trưởng, phát triển khá tốt
với điều kiện sinh thái trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai, cho hiệu quả kinh tế vượt trội với các
giống khác khi trồng ở mật độ thưa (1 triệu
cây/ha) đạt 418 triệu đồng/ha.
IV. KẾT LUẬN
- Giống Chùm ngây Ninh Thuận có hàm
lượng dinh dưỡng và flavonoid đạt cao nhất
(2.839 mg/kg Ca; 24,1 mg/kg Fe; 4314 mg/kg
K; 7,6% protein; 7197,1 IU/kg vitamin A;
1479,2 mg/kg vitamin C; flavonoid: 10,5%),
sinh trưởng tốt trong điều kiện sinh thái ở
Đồng Nai, cho năng suất lá thực thu cao từ
29,30 – 30,77 tấn/ha.
- Mật độ gieo trồng thích hợp nhất trồng
Chùm ngây làm rau theo hướng hữu cơ trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai là 100 cây/m2. Giống Chùm
ngây Ninh Thuận và mật độ trồng 1 triệu
cây/ha cho năng suất lá thực thu đạt 30,53
tấn/ha và hiệu quả kinh tế là 418 triệu đồng/ha.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Al-Masri M.R. (2003). An in vitro evaluation of
some unconventional ruminant feeds in terms of the
organic matter digestibility, energy and microbial
biomass. Trop. Anim. Health Prod. 35: 155–167.
2. Amaglo N.K., Timpo G.M., Ellis W.O. and Bennett
R.N. (2006). Effect of spacing and harvest frequency on
the growth and leaf yield of moringa (Moringa oleifera
Lam), a leafy vegetable crop. In Moringa and other
highly nutritious plant resources: Strategies, standards
and markets for a better impact on nutrition in Africa.
Accra, Ghana, November 16-18, 2006.
3. Aregheore E.M. (2002). Intake and digestibility of
Moringa oleifera-batiki grass mixtures for growing
goats. Small Rum. Res. 46: 23–28.
4. Ball R.A., Purcell L.C., and Vories E.D. (2000).
Short-season soybean yield compensation in response to
population and water regime. Crop Sci. 40: 1070–1078.
5. Fahey J.W. (2005). Moringa oleifera: a review of
the medical evidence for it’s nutritional, therapeuotic
and prophylactic properties. Part 1.Tree For Life
Journal: 1-5
EFFECT OF VARIETIES AND SPACING ON THE GROWTH
AND LEAF YIELD OF DRUMSTICK TREE (Moringa oleifera Lam),
A LEAFY VEGETABLE CROP
Mai Hai Chau
SUMMARY
A serries of experiments were performed to investigate varieties and spacing effects on the growth, leaf yield
and quality of Moringa Oleifera L. at Trang Bom and Cam My district of Dong Nai province. The spacing (5 x
20 cm, 5 x 15 cm, 5 x 10 cm) and the 5 varieties (TL, BT, NT, DN, BR) were studied in a completely
randomised split plot design with three blocks. The variety of Ninh Thuan was found to be richest in nutrients
and flavonoid (Ca:2839 mgkg-1; Fe: 24.1 mgkg-1; K: 4314 mgkg-1; Protein: 7.6%; vitamin A: 7197.1 IU kg-1;
vitamin C: 1479.2 mgkg-1; flavonoid: 10.5%), produced the highest fresh matter yield, 171.7 and 198.7 Mg ha-1,
and fresh leaf yield, 36.6 and 36.9 Mg ha-1, at Trang Bom and Cam My district, respectively. The close spacing
(5 x 10 cm) gave the highest leaf yields, 33.8 and 35.4 Mg ha-1 respectively. But, the combination of variety
Ninh Thuan and wide spacing have the highest profit, 418 millon VN dong per ha after 5 cutting times. The
studies showed that optimum variety of Moringa and spacing in Dong Nai province were Ninh Thuan and 5 x
20 cm (1 millon plants per hectare).
Key words: Flavonoid, Moringa oleifera L., Nutrient, space, yield.
Người phản biện : PGS.TS. Phạm Xuân Hoàn
Ngày nhận bài : 15/10/2015
Ngày phản biện : 10/11/2015
Ngày quyết định đăng : 20/11/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_giong_va_mat_do_trong_den_sinh_truong_va_nang.pdf