Kết quả phân tích về thành phần axit béo trong dầu
hạt chè
Thành phần axit béo là chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất
lượng dinh dưỡng của dầu. Với mục đích khảo sát thành
phần axit từ các mẫu nguyên liệu có chất lượng tốt hơn,
chúng tôi lựa chọn hạt chè tại 3 địa phương Phú Thọ, Tuyên
Quang (đối với giống Trung du) và Yên Bái (đối với giống
Shan) để phân tích thành phần axit béo trong dầu hạt chè.
Kết quả được thể hiện ở bảng 4.
Giữa các mẫu phân tích không có sự chênh lệch lớn về
hàm lượng các axit béo (gần như tương đương), chứng tỏ
sự ảnh hưởng của giống hay địa phương tới hàm lượng axit
béo là không rõ rệt, hay nói cách khác theo kết quả nghiên
cứu tổng lượng axit béo không bị ảnh hưởng bởi giống và
vùng địa lý.
Hàm lượng axit béo bão hòa của dầu hạt chè (SFA) đạt
24-25%, hàm lượng axit béo không bão hòa khoảng 75-
76%. Axit béo không no giúp cơ thể hấp thụ tốt hơn, sự có
mặt của các axit không bão hòa làm tăng giá trị dinh dưỡng
của dầu. Hàm lượng axit béo không bão hòa (PUFA) của
dầu hạt chè chúng tôi phân tích là 25,92%, tương đồng với
nghiên cứu của Sahari và cs (2004) [13] (22,47%). Trong số
các axit béo, oleic là axit phong phú nhất với tỷ lệ khoảng
48%, sau đó là linoleic với 25,01%, như vậy dầu hạt chè là
loại dầu thực vật giàu axit oleic và linolenic. Kết quả này
tương đồng với nghiên cứu của Xinchu Weng và cs (2018)
[14]. Theo tác giả, hàm lượng axit oleic và linoleic trong dầu
hạt chè trồng tại Hồ Nam, Trung Quốc tương ứng đạt 52,13
và 24,32%. Axit oleic rất cần thiết trong dinh dưỡng của con
người, có tác dụng làm giảm LDL-cholesterol, cholesterol
toàn phần và chỉ số đường huyết của cơ thể. Theo báo cáo
của Eckel và cs (2006) [15], các loại dầu có lượng axit oleic
(C18:1) cao (∼50-65%), linoleic (C18:2) khoảng 20-30% và
linoleic (C18:3) thấp (∼<3%) thường chịu được nhiệt độ cao
của quá trình chiên rán, đồng thời có khả năng hạn chế việc
tạo ra mùi vị khó chịu sinh ra bởi tác động của nhiệt độ cao
hay hình thành từ quá trình oxy hóa. Như vậy, các mẫu dầu
hạt chè mà chúng tôi khảo sát cơ bản đáp ứng các điều kiện
này và có tiềm năng ứng dụng cao.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 11 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của giống và vùng địa lý đến chất lượng hạt chè và dầu hạt chè Camellia sinensis O. Kuntze ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3262(5) 5.2020
Khoa học Nông nghiệp
Đặt vấn đề
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2017, Việt
Nam là nước sản xuất chè (Camellia sinensis O. Kuntze)
đứng hàng thứ 7 và xuất khẩu chè lớn thứ 5 trên thế giới.
Hiện nay, nước ta có khoảng 124.000 ha chè, hơn 500 cơ
sở chế biến với tổng sản lượng đạt khoảng 260.000 tấn chè
khô mỗi năm. Với ngành trồng chè ở Việt Nam, sản phẩm
thu hoạch là các búp chè non, chỉ một lượng nhỏ hạt chè
được sử dụng để sản xuất cây giống còn lại hầu như không
sử dụng đến. Theo ước tính, sản lượng hạt chè ở Việt Nam
vào khoảng 1,5 triệu tấn/năm [1], tuy nhiên nguồn “phế phụ
phẩm” này vẫn chưa được quan tâm khai thác.
Ngày nay, nhiều nước trên thế giới như Đức, Trung
Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Indonexia đã khai thác hạt chè để
sản xuất các sản phẩm giá trị cao như mỹ phẩm (dầu chăm
sóc da, tóc), thực phẩm (dầu ăn). Các sản phẩm này được
thị trường hết sức ưa chuộng do chúng có nhiều axit tốt cho
sức khỏe như oleic, linoleic, palmitic, stearic [1]. Ngoài ra,
dầu hạt chè cũng chứa nhiều chất có hoạt tính sinh học cao
như carotenoid (251 mg/kg), vitamin E (389 mg/kg), đặc
biệt polyphenol có thể lên tới 24,81 mg/kg [2]. Các chất này
đã tạo giá trị cho hạt chè trở thành nguồn nguyên liệu tiềm
năng để phát triển các sản phẩm giàu chất chống oxy hóa tự
nhiên, phù hợp với xu hướng sản phẩm hiện nay của người
tiêu dùng [3].
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tùy theo điều kiện sinh
trưởng và giống mà đặc tính của hạt chè ở mỗi vùng miền
có sự khác nhau. Cụ thể, trọng lượng trung bình của hạt chè
Nhật Bản vào khoảng 1,1 g, Trung Quốc 1,25 g, Ấn Độ 1,7
g [4]. Hàm lượng dầu trong nhân của hạt cũng dao động khá
lớn, như ở Trung Quốc là 27,72%, Iran 30,5%, nam Ấn Độ
31%, Thổ Nhỹ Kỳ 32,8% [1]. Ở Việt Nam, việc nghiên cứu
nhóm yếu tố ảnh hưởng này đến đặc tính của hạt và chất
lượng của dầu hạt chè vẫn chưa được quan tâm tìm hiểu. Do
vậy, nghiên cứu này góp phần làm sáng tỏ vấn đề trên, từ đó
Ảnh hưởng của giống và vùng địa lý
đến chất lượng hạt chè và dầu hạt chè
Camellia sinensis O. Kuntze ở Việt Nam
Phan Thị Phương Thảo1*, Trần Thị Thu Hằng1, Giang Trung Khoa1, Hoàng Đình Hòa2, Vũ Hồng Sơn2
1Khoa Công nghệ thực phẩm, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
2Viện Công nghệ sinh học và Công nghệ thực phẩm, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Ngày nhận bài 28/8/2019; ngày chuyển phản biện 4/9/2019; ngày nhận phản biện 7/10/2019; ngày chấp nhận đăng 1/11/2019
Tóm tắt:
Chất lượng hạt và dầu hạt của 4 giống chè phổ biến tại Việt Nam là Trung du, Shan, PH1 và LDP1 được trồng tại
7 tỉnh (Phú Thọ, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Yên Bái, Nghệ An, Quảng Trị, Lào Cai) đã được xác định. Tỷ lệ hạt/
quả chè tươi dao động từ 52,66 đến 64,69% so với trọng lượng quả tươi, các thành phần hóa học trong hạt chè (hàm
lượng protein, tro, lipid và polyphenol) ở các giống khác nhau có sự khác nhau, tuy nhiên ở các địa phương khác
nhau trong cùng một giống thì chênh lệch không đáng kể. Nhìn chung, giống chè Shan trồng ở các địa phương
khác nhau đều có hàm lượng lipid trong hạt cao (18,45-20,09%) nhưng tỷ lệ hạt/quả thấp (chỉ đạt khoảng
52,77%). Ngược lại, giống Trung du ở các tỉnh phía Bắc có tỷ lệ thu hồi hạt cao (khoảng 64,6%) và tỷ lệ chất béo
trong hạt cũng tốt (18-20%). Chất lượng dầu được xác định qua các chỉ tiêu hóa lý (trị số peroxit, axit, iod, xà phòng
hoá); các chỉ tiêu đánh giá khả năng kháng oxy hoá [polyphenol tổng số, khả năng bắt gốc tự do DPPH (thông qua
chỉ số IC
50
), carotenoid tổng số] của tất cả 15 mẫu, thành phần axit béo được đánh giá ở một số mẫu phù hợp
làm nguyên liệu thu nhận dầu hạt chè. Về chất lượng dầu, giống chè không ảnh hưởng có ý nghĩa đến thành phần
hoá học và thành phần axit béo của dầu hạt chè. Tuy nhiên, khả năng bắt gốc tự do DPPH, hàm lượng carotenoid
cao nhất ở các mẫu dầu hạt chè giống Shan, Trung du trồng ở Phú Thọ. Kết quả phân tích thành phần axit béo từ 3
mẫu dầu hạt chè (2 mẫu Trung du trồng tại Phú Thọ, Tuyên Quang và 1 mẫu giống Shan tại Yên Bái) cho thấy dầu
hạt chè có chất lượng cao.
Từ khóa: Camellia sinensis, dầu hạt chè, địa phương, giống, hạt chè.
Chỉ số phân loại: 4.1
*Tác giả liên hệ: Email: phanphuongthao.cntp@gmail.com
3362(5) 5.2020
Khoa học Nông nghiệp
tạo cơ sở khoa học hữu ích cho việc khai thác dầu chè cũng
như các hợp chất có hoạt tính sinh học cao có trong hạt chè.
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Vật liệu nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hành trên 15 mẫu hạt chè của 4
giống: Trung du, Shan, PH1, LDP1 tại 7 tỉnh trồng chè là
Tuyên Quang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Lào Cai, Yên Bái,
Nghệ An và Quảng Trị.
Quả chè được thu hoạch phục vụ cho nghiên cứu là
những quả già có chất lượng đồng đều và không bị sâu
bệnh. Hạt chè sau khi bóc tách vỏ quả được sấy khô ở nhiệt
độ 80oC đến độ ẩm 8-10%. Sau đó được đựng trong túi hút
chân không và bảo quản ở nhiệt độ -200C cho đến khi phân
tích.
Hóa chất: Ether ethylic, etanol, kali hydroxit,
phenolphtalein, chloroform, axit axetic, kali iodua, natri
thiosunfat, natri cacbonat, axit clohydric, iod, tinh bột,
thuốc thử Folin-Ciocalteu, axit galic, DPPH, ethyl acetat,
methanol, petroleum ether, aceton, n-hexan, chuẩn axit béo.
Thiết bị: tủ sấy Memmer (Đức), cân phân tích Practum
224-1S (Đức), cân kỹ thuật Ohaus (Mỹ), hệ thống Soxhlet -
Gerhardt (Đức), hệ thống Kjeldahl - Gerhardt (Đức), tủ đốt
Nabertherm Controller B170 (Đức), máy so màu UV-Vis
Shimazu (Nhật Bản), hệ thống GC Clarus 580 PerkinElmer.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích:
- Xác định tỷ lệ hạt tươi/quả tươi:
3
phát triển các sản phẩm giàu chất chống oxy hóa tự nhiên, phù hợp với xu hướng sản
phẩm hiện nay của người tiêu dùng [3].
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tùy theo điều kiện sinh trưởng và giống mà
đặc tính của hạt chè ở mỗi vùng miền có sự khác nhau. Cụ thể, trọng lượng trung bình
của hạt chè Nhật Bản vào khoảng 1,1 g, Trung Quốc 1,25 g, Ấn Độ 1,7 g [4]. Hàm
lượng dầu trong nhân của hạt cũng dao động khá lớn, như ở Trung Quốc là 27,72%,
Iran 30,5%, nam Ấn Độ 31%, Thổ Nhỹ Kỳ 32,8% [1]. Ở Việt Nam, việc nghiên cứu
nhóm yếu tố ảnh hưởng này đến đặc tính của hạt và chất lượng của dầu hạt chè vẫn
chưa được quan tâm tìm hiểu. Do vậy, nghiên cứu này góp phần làm sáng tỏ vấn đề
trên, từ đó tạo cơ sở khoa học hữu ích cho việc khai thác dầu chè cũng như các hợp chất
có hoạt tính si h học cao có trong hạt chè.
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Vật liệu nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hành trên 15 mẫu hạt chè của 4 giống: Trung du, Shan,
PH1, LDP1 tại 7 tỉnh trồng chè là Tuyên Quang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Lào Cai, Yên
Bái, Nghệ An và Quảng Trị.
Quả chè được thu hoạch vào tháng 11/2017 là n ững quả già có chất lượng đồng
đều và không bị sâu bệnh. Hạt chè sau khi bóc tách vỏ quả được sấy khô ở nhiệt độ
80oC đến độ ẩm 8-10%. Sau đó được đựng trong túi hút chân không và bảo quản ở nhiệt
độ -200C cho đến khi phân tích.
Hóa chất: Ether ethylic, etanol, kali hydroxit, phenolphtalein, chloroform, axit
axetic, kali iodua, natri thiosunfat, natri cacbonat, axit clohidric, iod, tinh bột, thuốc thử
Folin-Ciocalteu, axit galic, DPPH, ethyl acetat, methanol, petroleum ether, aceton, n-
hexan, chuẩn axit béo.
Thiết bị: tủ sấy Memmer (Đức), cân phân tích Practum 224-1S (Đức), cân kỹ
thuật Ohaus (Mỹ), hệ thống Soxhlet - Gerhardt (Đức), hệ thống Kjeldahl - Gerhardt
(Đức), tủ đốt Nabertherm Controller B170 (Đức), máy so màu UV-Vis Shimazu (Nhật
Bản), hệ thống GC Clarus 580 PerkinElmer.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích:
- Xác định tỷ lệ hạt tươi/quả tươi:
X =
Trong đó: X: tỷ lệ hạt tươi/quả tươi (%); m1: khối lượng hạt đã tách vỏ; m2: khối
lượng hạt và vỏ (quả tươi).
- Xác định tỷ lệ nhân khô/hạt tươi:
X =
Trong đó: X: tỷ lệ hạt tươi/quả tươi (%); m1: khối lượng
hạt đã tách vỏ; m2: khối lượng hạt và vỏ (quả tươi).
- Xác định tỷ lệ nhân khô/hạt tươi:
3
phát triển các sản phẩm giàu chất chống oxy hóa tự nhiên, phù hợp với xu hướng sản
phẩ hiện nay của người tiêu dùng [3].
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tùy theo điều kiện sinh trưởng và giống mà
đặc tính của hạt chè ở mỗi vùng miền có sự khác nhau. Cụ thể, trọng lượng trung bình
của hạt chè Nhật Bản vào khoảng 1, g, Tru g Quốc 1,25 g, Ấn Độ 1,7 g [4]. Hàm
lượng dầu trong nhân của hạt cũng dao động khá lớn, như ở Trung Quốc là 27,72%,
Iran 30,5%, nam Ấn Độ 31%, Thổ Nhỹ Kỳ 32,8% [1]. Ở Việt Nam, việc nghiên cứu
nhóm yếu tố ảnh hưởng này đến đặc tính của hạt và chất lượng của dầu hạt chè vẫn
chưa được quan tâm tìm hiểu. Do vậy, nghiên cứu này góp phần làm sá tỏ vấn đề
trên, từ đó tạo cơ sở khoa học hữu ích cho việc khai thác dầu chè cũng như các hợp chất
có hoạt tính sinh học cao có trong hạt chè.
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Vật liệu nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hành trên 15 mẫu hạt chè của 4 giống: Trung du, Shan,
PH1, LDP1 tại 7 tỉnh trồng chè là Tuyên Quang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Lào Cai, Yên
Bái, Nghệ An và Quảng Trị.
Quả chè được thu hoạch và tháng 11/2017 là những quả già có chất lượng đồng
đều và không bị sâu bệnh. Hạt chè sau khi bóc tách vỏ quả được sấy khô ở nhiệt độ
80oC đến độ ẩm 8-10%. Sau đó được đựng trong túi hút chân không và bảo quản ở nhiệt
độ -200C cho đến khi phân tích.
Hóa chất: Ether thylic, etanol, kali hydroxit, phenolphtalein, chloroform, axit
axetic, kali iodua, natri thiosunfat, natri cacbonat, axit clohidric, iod, tinh bột, thuốc thử
Folin-Ciocalteu, axit galic, DPPH, ethyl acetat, methanol, petroleum ether, aceton, n-
hexan, chuẩn axit béo.
Thiết bị: tủ sấy Memmer (Đức), cân phân tích Practum 224-1S (Đức), cân kỹ
thuật Ohaus (Mỹ), hệ thống Soxhlet - Gerhardt (Đức), hệ thống Kjeldahl - Gerhardt
(Đức), tủ đốt Nabertherm Controller B170 (Đức), máy so màu UV-Vis Shimazu (Nhật
Bản), hệ thống GC Clarus 580 PerkinElmer.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích:
- Xác định tỷ lệ hạt tươi/quả tươi:
X =
Trong đó: X: tỷ lệ hạt tươi/quả tươi (%); m1: khối lượng hạt đã tách vỏ; m2: khối
lượng hạt và vỏ (quả tươi).
- Xác định tỷ lệ nhân khô/hạt tươi:
X =
rong đó: : tỷ lệ nhân khô/hạt t i ( ); 1: khối lượng
hân khô (xử lý qua sấy) đã tách vỏ hạt; m2: khối lượng
nhân và vỏ (hạt tươi).
- Xác định tỷ lệ nhân khô/hạt khô:
3
phát triển các sản phẩm giàu chất chống oxy hóa tự nhiên, phù hợp với xu hướng sản
phẩm hiện nay của người tiêu dùng [3].
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tùy theo điều kiện sinh trưở g và giống mà
đặc tính của hạt chè ở mỗi vùng miền có sự khác nhau. Cụ thể, trọng lượng trung bình
của hạt chè Nhật Bản vào khoảng 1,1 g, Trung Quốc 1,25 g, Ấn Độ 1,7 g [4]. Hàm
lượng dầu trong nhân của hạt cũng dao động khá lớn, như ở Trung Quốc là 27,72%,
Iran 30,5%, nam Ấn Độ 31%, Thổ Nhỹ Kỳ 32,8% [1]. Ở Việt Nam, việc nghiên cứu
nhóm yếu tố ảnh hưởng này đến đặc tính của hạt và chất lượng của dầu hạt chè vẫn
chưa được quan tâm tìm hiểu. Do vậy, nghiên cứu này góp phần làm sáng tỏ vấn đề
trên, từ đó tạo cơ sở khoa học hữu ích cho việc khai thác dầu chè cũng như các hợp chất
có hoạt tính sinh học cao có trong hạt chè.
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Vật liệu nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hàn trên 15 mẫu hạt chè của 4 giống: Trung du, Shan,
PH1, LDP1 ại 7 tỉn t ồng chè là Tuyên Quang, Phú T ọ, Thái Nguyên, Lào Cai, Yên
ái, Nghệ A và Quảng Trị.
Quả chè được thu hoạch vào tháng 11/2017 là những quả già có chất lượng đồng
đều và không bị sâu bệnh. Hạt chè sau khi bóc tách vỏ quả được sấy khô ở nhiệt độ
80oC đến độ ẩm 8-10%. Sau đó được đựng trong túi hút chân không và bảo quản ở hiệt
độ -200C cho đến khi phân tích.
Hóa chất: Ether ethylic, etanol, kali hydroxit, phenolphtalein, chloroform, axit
axetic, kali iodua, natri thiosunfat, natri cacbonat, axit clohidric, iod, tinh bột, thuốc thử
Folin-Ciocalteu, axi galic, DPPH, ethyl acetat, methanol, petroleum ether, aceton, n-
hexan, chuẩn axit béo.
Thiết b : tủ sấy Memmer (Đức), cân phân tích Practum 224-1S (Đức), cân kỹ
thuật Ohaus (Mỹ), hệ thống Soxhlet - Gerhardt (Đức), hệ thống Kjeldahl - Gerhardt
(Đức), tủ đốt Nabertherm Controller B170 (Đức), máy so màu UV-Vis Shimazu (Nhật
Bản), hệ thống GC Clarus 580 PerkinElmer.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích:
ị t l hạt tươi/quả tươi:
X =
Trong đó: X: tỷ lệ hạt tươi/quả tươi (%); m1: khối lượng hạt đã tách vỏ; m2: khối
lượng hạt và vỏ (quả tươi).
- Xác định tỷ lệ nhân khô/hạt tươi:
X =
Trong đó: X: tỷ lệ nhân khô/hạt khô (%); m1: khối lượng
nhân khô đã tách vỏ hạt; m2: khối lượng nhân và vỏ (hạt khô
đã sấy).
Effect of variety and cultivation
place on the quality of tea
(Camellia sinensis O. Kuntze)
seed and tea seed oil in Vietnam
Thi Phuong Thao Phan1, Thi Thu Hang Tran1,
Trung Khoa Giang1, Dinh Hoa Hoang2, Hong Son Vu2
1Vietnam National University of Agriculture
2Hanoi University of Science and Technology
Received 28 August 2019; accepted 1 November 2019
Abstract:
The quality of tea seeds and tea seed oils from four popular
tea varieties in Vietnam, namely Trungdu, Shan, PH1, and
LDP1, grown in Phu Tho, Tuyen Quang, Thai Nguyen,
Yen Bai, Nghe An, Quang Tri, and Lao Cai provinces
has been identified. The recovery rate of fresh tea seeds
ranged from 52.66-64.69%. Chemical components in tea
seeds such as protein, ash, lipid and polyphenol content
varied in different varieties, but the results of different
cultivation places showed no significant difference. In
general, the Shan variety had a high content of lipid in
seeds (18.45-20.09%), but the recovery rate of seeds was
low (about 52.77%). In contrast, the Trungdu variety had
a high seed recovery rate (about 64.6%), and the lipid
content in the seed was also good (18-20%). Oil quality
was determined by physical and chemical indicators
(peroxide value, acid value, iodine value, saponification
value); Criteria for evaluation of antioxidant capacity
(total polyphenols, DPPH free radical scavenging ability
through IC
50
, total carotenoids) of all 15 samples and
fatty acid composition in some samples were evaluated
as raw materials for producing tea seed oils. In term of
oil quality, the tea varieties did not significantly affect
the chemical quality and fatty acid composition of tea
seed oils. However, DPPH free radical scavenging ability
and carotenoid content were the best in Shan seed oil
samples in all cultivation places and Trung Du seed oil
samples in Phu Tho. Fatty acid profiles of 3 oil samples
(2 samples of Trung du seed oil in Phu Tho and Tuyen
Quang provinces; 1 samples of Shan seed oil in Yen Bai
province) showed that tea seed oil had a high quality.
Keywords: Camellia sinensis, location, tea seed, tea seed
oil, varieties.
Classification number: 4.1
3462(5) 5.2020
Khoa học Nông nghiệp
- Xác định độ ẩm của nguyên liệu theo TCVN 9706:2013
- Xác định hàm lượng lipid tổng số theo AOAC 945.16
- Xác định hàm lượng protein theo TCVN 8133:2009
- Xác định hàm lượng tro theo TCVN 4327:1993.
- Xác định trị số axit (AV) theo AOCS Official Method
Cd 3d-63.
- Xác định trị số peroxit (PV) theo IUPAC method 2.501
Paquot (1979) [5].
- Xác định trị số iod (IV) theo AOCS method Cd 1-25.
- Xác định chỉ số xà phòng hoá (SV) theo AOCS method
Cd 3-25.
- Xác định thành phần axít béo của dầu bằng phương
pháp AOCS Ce l e - 8, 2002.
- Xác định hàm lượng polyphenol tổng số (TPC) theo
phương pháp được mô tả bởi Fu và cs (2011) [6]. Một cách
vắn tắt như sau: axit gallic được sử dụng làm chất chuẩn
đối chiếu, xây dựng đường chuẩn bằng cách lập dãy điểm
chuẩn axit gallic với các nồng đồ 20, 40, 60, 80 và 100 µg/
ml, lấy 0,5 ml dung dịch chuẩn thêm vào 2,5 ml thuốc thử
Folin-Ciocalteu đã được pha loãng 10 lần; sau 4 phút, cho
thêm 2 ml dung dịch Na2CO3 7,5%. Độ hấp thụ của hỗn hợp
được đo ở bước sóng 760 nm sau khi ủ trong 2 giờ ở nhiệt
độ phòng. Các mẫu dầu hạt chè được pha loãng 10 lần bằng
metanol 80%, sau đó siêu âm không nhiệt độ, ly tâm để xử
lý mẫu, lấy 0,5 ml thực hiện các bước tương tự như đối với
dung dịch chuẩn. Kết quả được biểu thị bằng miligam tương
đương axit gallic (mg GAE/g trọng lượng khô của dầu).
4
Trong đó: X: tỷ lệ nhân khô/hạt tươi (%); m1: khối lượng nhân khô (xử lý qua
sấy) đã tách vỏ hạt; m2: khối lượng nhân và vỏ (hạt tươi).
- Xác định tỷ lệ nhân khô/hạt khô:
X =
Trong đó: X: tỷ lệ nhân khô/hạt khô (%); m1: khối lượng nhân khô đã tách vỏ
hạt; m2: khối lượng nhân và vỏ (hạt khô đã sấy).
- ị độ ẩm của nguyên liệu theo TCVN 9706:2013
- Xác định hàm lượng lipid tổng số theo AOAC 945.16
- Xác định hàm lượng protein theo TCVN 8133:2009
- ác ị hàm lượng tro theo TCVN 4327:1993.
trị số axit (AV) theo AOCS Official M Cd 3d-63.
- Xác định trị số peroxit (PV) theo IUPAC method 2.501 Paquot (1979) [5].
- Xác định trị số iot (IV) theo AOCS method Cd 1-25.
- Xác định chỉ số xà phòng hoá (SV) theo AOCS method Cd 3-25.
- Xác định thành phần axít béo của dầu bằng phương pháp AOCS Ce l e - 8,
2002.
- Xác định hàm lượng polyphenol tổng số (TPC) theo phương pháp được mô tả
bởi Fu và cs (2011) [6]. Một cách vắn tắt như sau: axit gallic được sử dụng làm chất
chuẩn đối chiếu, xây dựng đường chuẩn bằng cách lập dãy điểm chuẩn axit gallic với
các nồng đồ 20, 40, 60, 80 và 100 g/ml, lấy 0,5 ml dung dịch chuẩn thêm vào 2,5 ml
thuốc thử Folin-Ciocalteu đã được pha loãng 10 lần; sau 4 phút, cho thêm 2 ml dung
dịch Na2CO3 7,5%. Độ hấp thụ của hỗn ợp được đo ở bước sóng 760 nm sau khi ủ
trong 2 giờ ở nhiệt độ phòng. Các mẫu dầu hạt chè được pha loãng 10 lần bằng metanol
80%, sau đó siêu âm không nhiệt độ, ly tâm để xử lý mẫu, lấy 0,5 ml thực hiện các
bước tương tự như đối với dung dịch chuẩn. Kết quả được biểu thị bằng miligam tương
đương axit gallic (mg GAE/g trọng lượng khô của dầu).
X =
Trong đó: X: tổng hàm lượng polyphenol (mg GAE/gck); OD: độ hấp thụ quang
của mẫu ở bước sóng 760 nm; c: độ pha loãng dịch chiết (lần); V: thể tích dịch chiết
(ml); a: hệ số a của phương trình đường chuẩn axit gallic (y = ax + b); m: khối lượng
mẫu dùng để chiết dịch (gck).
- Xác định hàm lượng carotenoit tổng số theo phương pháp được mô tả bởi
Franke và cs (2010) [7] có một số thay đổi. Một cách vắn tắt như sau: 0,04 g dầu được
pha loãng trong 5 ml petroleum ether/acetone (tỷ lệ 1/1 theo thể tích). Sự hấp thụ của
petroleum ether/acetone (tỷ lệ 1/1 theo thể tích) được dùng làm mẫu đối chứng. Hàm
lượng carotenoit (mg/kg) được tính theo công thức sau:
Trong đó: X: tổng hàm lượng polyphenol (mg GAE/
gck); OD: độ hấp thụ quang của mẫu ở bước sóng 760 nm;
c: độ pha loãng dịch chiết (lần); V: thể tích dịch chiết (ml);
a: hệ số của phương trình đường chuẩn axit gallic (y = ax +
b); m: khối lượng mẫu dùng để chiết dịch (gck).
- Xác định hàm lượng carotenoid tổng số theo phương
pháp được mô tả bởi Franke và cs (2010) [7] có một số thay
đổi. Một cách vắn tắt như sau: 0,04 g dầu được pha loãng
trong 5 ml petroleum ether/acetone (tỷ lệ 1/1 theo thể tích).
Sự hấp thụ của petroleum ether/acetone (tỷ lệ 1/1 theo thể
tích) được dùng làm mẫu đối chứng. Hàm lượng carotenoid
(mg/kg) được tính theo công thức sau:
5
X =
Trong đó: X: hàm lượng caroten (mg/kg); A: giá trị độ hấp thụ ở bước sóng 445
nm; y: thể tích dung dịch chiết (ml); g khối lượng mẫu (g); : hệ số hấp thụ trung
bình 2.500 của phân tử carotenoit.
- Xác định hoạt tính kháng oxy hóa (khả năng bắt gốc tự do DPPH) thông qua
chỉ số IC50. Phương pháp được thực hiện theo Thaipong và cs (2006) [8]. Dung dịch gốc
được điều chế bằng cách hòa tan 24 mg DPPH với 100 ml metanol và sau đó được bảo
quản ở -20oC cho đến khi sử dụng. Pha loãng dung dịch gốc 10 lần bằng ethyl acetat.
Pha loãng mẫu theo các nồng độ 12,5, 25, 50, 100 và 200 mg/ml bằng ethyl acetat. Các
mẫu dầu, mẫu đối chứng được thêm 2.850 µl dung dịch DPPH đã pha loãng, để 30 phút
trong bóng tối. Tiến hành đo tại bước sóng 517 nm. Kết quả thể hiện bằng phần trăm ức
chế gốc tự do I(%): [(Ađối chứng - Amẫu)/Ađối chứng] x 100, khi có phần trăm ức chế các gốc
tự do, tiến hành xây dựng phương trình của mẫu (tương quan giữa I% và nồng độ mẫu)
dạng y = ax + b. Từ đó, thay thế I% bằng 50% đã thu giá trị IC50 (ức chế 50% gốc tự
do).
Phương pháp xử lý số liệu: kết quả được trình bày theo các bảng là trung bình
của 3 lần nhắc lại, các số liệu được xử lý bằng phần mềm Exel, sau đó phân tích
phương sai 1 yếu tố (one-way ANOVA) được tiến hành bằng phần mềm Minitab 16 ở
mức ý nghĩa 5%. Số liệu thể hiện đều được làm tròn tới chữ số thập phân thứ 2 ± độ
lệch chuẩn (SD).
Kết quả và thảo luận
Ảnh hưởng của giống và vùng địa lý đến thành phần cơ lý của quả chè
Thành phần cơ lý của quả có ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ thu hồi dầu trong mỗi
giống chè. Nghiên cứu yếu tố này chúng tôi thu được kết quả trong bảng 1.
Bảng 1. Ảnh hưởng của giống và vùng địa lý đến thành phần cơ lý của quả chè.
Giống Địa phương Tỷ lệ hạt tươi/quả
tươi (%)
Tỷ lệ nhân khô/hạt
tươi (%)
Tỷ lệ nhân khô/hạt
khô (%)
Trung du
Phú Thọ 64,69a±0,07 71,64a±0,16 80,86a±0,06
Tuyên Quang 64,67a ±0,44 70,96b±0,03 80,83a±0,14
Thái Nguyên 63,35b±0,41 70,91b±0,07 80,50ab±0,47
Yên Bái 63,40b±0,36 69,75cd±0,14 80,74a±0,13
Nghệ An 63,36b±0,23 69,72cd±0,44 80,00b±0,03
Quảng Trị 62,89b±0,11 70,10c±0,06 80,04b±0,02
Shan
Yên Bái 52,66e±0,38 69,36de±0,10 78,71cd ±0,03
Tuyên Quang 52,77e±0,09 69,09e±0,07 78,16d±0,10
Lào Cai 53,35e±0,03 69,78cd±0,14 79,00c ±0,04
PH1
Phú Thọ 61,52c±0,17 66,05h±0,02 75,54ef±0,14
Tuyên Quang 60,35d±0,41 66,77g±0,07 75,15f±0,04
Nghệ An 60,74cd±0,49 66,74g±0,23 75,16f±0,13
Quảng Trị 60,36d±0,23 66,21h±0,06 75,88e±0,03
LDP1
Phú Thọ 61,22cd±0,79 67,64f±0,14 75,17f±0,06
Thái Nguyên 61,52c±0,17 67,64f±0,17 75,32f±0,43
oid (m /kg); A: giá trị
độ hấp thụ ở bước sóng 445 n ; y: thể tích du dịch chiết
(ml); g khối lượng mẫu (g);
5
X =
Trong đó: X: hàm lượng caroten (mg/kg); A: giá trị độ hấp thụ ở bước sóng 445
nm; y: thể tích dung dịch chiết (ml); g khối l ; : hệ số hấp thụ trung
bình 2.500 của phân tử carotenoit.
- Xác định hoạt tính kháng oxy hóa (khả năng bắt gốc tự do DPPH) thông qua
chỉ số IC50. Phương pháp được thực hiện t eo Thaipong và cs (2006) [8]. Dung dịch gốc
được điều chế bằng cách hòa tan 24 mg DPPH với 100 ml metanol và sau đó được bảo
quản ở -20oC cho đến khi sử dụng. Pha loãng dung dịch ốc 10 lần bằng ethyl acetat.
Pha loãng mẫu theo các nồng độ 12,5, 25, 50, 100 và 200 mg/ml bằng ethyl acetat. Các
mẫu dầu, mẫu đối chứng được thêm 2.850 µl dung dịc DPPH đã pha loãng, để 30 phút
trong bóng tối. Tiến hành đo tại bước sóng 517 nm. Kết quả thể hiện bằng phần trăm ức
chế gốc tự do I(%): [(Ađối chứng - Amẫu)/Ađối chứng] x 100, khi có phần trăm ức chế các gốc
tự do, tiến hành xây dựng phương trình của mẫu (tương quan giữa I% và nồng độ mẫu)
dạng y = ax + b. Từ đó, thay thế I% bằng 50% đã thu giá trị IC50 (ức chế 50% gốc tự
do).
Phương pháp xử lý số liệu: kết quả được trình bày theo cá bảng là trung bì h
của 3 lần nhắc lại, các số liệu được xử lý bằng phần mềm Exel, sau đó phân tích
phương sai 1 yếu tố (one-way ANOVA) được tiến hành bằng phần mềm Minitab 16 ở
mức ý nghĩa 5%. Số liệu thể hiện đều được làm tròn tới chữ số thập phân thứ 2 ± độ
lệch chuẩn (SD).
Kết quả và thảo luận
Ảnh hưởng của giống và vùng địa lý đến thành phần cơ lý của quả chè
Thành phần cơ lý của quả có ảnh hưở g lớn đến tỷ lệ t u hồi dầu trong mỗi
giống chè. Nghiên cứu yếu tố này chúng tôi thu được kết quả trong bảng 1.
Bảng 1. Ảnh hưởng của giống và vùng địa lý đến thành phần c lý của quả c è.
Giống Địa phương Tỷ lệ hạt tươi/quả
tươi (%)
Tỷ lệ nhân khô/hạt
tươi (%)
Tỷ lệ nhân khô/hạt
khô (%)
Trung du
Phú Thọ 64,69a±0,07 71,64a±0,16 80,86a±0,06
Tuyên Quang 64,67a ±0,44 70,96b±0,03 80,83a±0,14
Thái Nguyên 63,35b±0,41 70,91b±0,07 80,50ab±0,47
Yên Bái 63,40b±0,36 69,75cd±0,14 80,74a±0,13
Nghệ An 63,36b±0,23 69,72cd±0,44 80,00b±0,03
Quảng Trị 62,89b±0,11 70,10c±0,06 0,04b±0,02
Shan
Yên Bái 52,66e±0,38 69,36de±0,10 78,71cd ±0,03
Tuyên Quang 52,77e±0,09 69,09e±0,07 78,16d±0,10
Lào Cai 53,35e±0,03 69,78cd±0,14 9,00c ±0,04
PH1
Phú Thọ 61,52c±0,17 66,05h±0,02 75,54ef±0,14
Tuyên Quang 60,35d±0,41 66,77g±0,07 75,15f±0,04
Nghệ An 60,74cd±0,49 66,74g±0,23 75,16f±0,13
Quảng Trị 60,36d±0,23 66,21h±0,06 5,88e±0,03
LDP1
Phú Thọ 61,22cd±0,79 67,64f±0,14 5,17f±0,06
Thái Nguyên 61,52c±0,17 67,64f±0,17 75,32f±0,43
: thụ trung bình
2.500 của phân tử carotenoid.
- Xác định hoạt tính kháng oxy hóa (khả năng bắt gốc
tự do DPPH) thông qua chỉ số IC
50
. Phương pháp được thực
hiện theo Thaipong và cs (2006) [8]. Dung dịch gốc được
điều chế bằng cách hòa tan 24 mg DPPH với 100 ml metanol
và sau đó được bảo quản ở -20oC cho đến khi sử dụng. Pha
loãng dung dịch gốc 10 lần bằng ethyl acetat. Pha loãng
mẫu theo các nồng độ 12,5, 25, 50, 100 và 200 mg/ml bằng
ethyl acetat. Các mẫu dầu, mẫu đối chứng được thêm 2.850
µl dung dịch DPPH đã pha loãng, để 30 phút trong bóng tối.
Tiến hành đo tại bước sóng 517 nm. Kết quả thể hiện bằng
phần trăm ức chế gốc tự do I(%): [(A
đối chứng
- A
mẫu
)/A
đối chứng
]
x 100, khi có phần trăm ức chế các gốc tự do, tiến hành xây
dựng phương trình của mẫu (tương quan giữa I% và nồng
độ mẫu) dạng y = ax + b. Từ đó, thay thế I% bằng 50% đã
thu giá trị IC
50
(ức chế 50% gốc tự do).
Phương pháp xử lý số liệu: kết quả được trình bày theo
các bảng là trung bình của 3 lần nhắc lại, các số liệu được
xử lý bằng phần mềm Exel, sau đó phân tích phương sai 1
yếu tố (one-way ANOVA) được tiến hành bằng phần mềm
Minitab 16 ở mức ý nghĩa 5%. Số liệu thể hiện đều được
làm tròn tới chữ số thập phân thứ 2 ± độ lệch chuẩn (SD).
Kết quả và thảo luận
Ản hưởng của giống và vùng địa lý đến thành phần
cơ lý của quả chè
Thành phần cơ lý của quả chè có ảnh hưởng lớn đến tỷ
lệ thu hồi dầu trong mỗi giống chè. Nghiên cứu yếu tố này
chúng tôi thu được kết quả trong bảng 1.
Bảng 1. Ảnh hưởng của giống và vùng địa lý đến thành phần cơ
lý của quả chè.
Giống Địa phương Tỷ lệ hạt tươi/quả tươi (%)
Tỷ lệ nhân khô/hạt
tươi (%)
Tỷ lệ nhân khô/
hạt khô (%)
Trung
du
Phú Thọ 64,69a±0,07 71,64a±0,16 80,86a±0,06
Tuyên Quang 64,67a ±0,44 70,96b±0,03 80,83a±0,14
Thái Nguyên 63,35b±0,41 70,91b±0,07 80,50ab±0,47
Yên Bái 63,40b±0,36 69,75cd±0,14 80,74a±0,13
Nghệ An 63,36b±0,23 69,72cd±0,44 80,00b±0,03
Quảng Trị 62,89b±0,11 70,10c±0,06 80,04b±0,02
Shan
Yên Bái 52,66e±0,38 69,36de±0,10 78,71cd ±0,03
Tuyên Quang 52,77e±0,09 69,09e±0,07 78,16d±0,10
Lào Cai 53,35e±0,03 69,78cd±0,14 79,00c ±0,04
PH1
Phú Thọ 61,52c±0,17 66,05h±0,02 75,54ef±0,14
Tuyên Quang 60,35d±0,41 66,77g±0,07 75,15f±0,04
Nghệ An 60,74cd±0,49 66,74g±0,23 75,16f±0,13
Quảng Trị 60,36d±0,23 66,21h±0,06 75,88e±0,03
LDP1
Phú Thọ 61,22cd±0,79 67,64f±0,14 75,17f±0,06
Thái Nguyên 61,52c±0,17 67,64f±0,17 75,32f±0,43
Ghi chú: các số liệu theo cột có các chữ ở mũ khác nhau là khác nhau có ý
nghĩa ở mức ý nghĩa 5%.
3562(5) 5.2020
Khoa học Nông nghiệp
Chúng tôi nhận thấy, dường như yếu tố vùng canh tác
không ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ hạt tươi/quả tươi, tỷ
lệ nhân khô/hạt tươi và tỷ lệ nhân khô/hạt khô. Ngược
lại, yếu tố giống có ảnh hưởng đáng kể đến cả 3 chỉ tiêu
này. Cụ thể, trong 4 giống khảo sát, tỷ lệ hạt tươi/quả tươi
dao động từ 52,66 đến 64,69%, theo chiều giống Trung
du>PH1~LDP1>Shan. Ngược lại, tỷ lệ nhân khô/hạt tươi
lại có xu hướng Trung du>Shan>LDP1>PH1, trong khi tỷ lệ
nhân khô/hạt khô là Trung du>Shan>PH1~LDP1. Điều này
được giải thích bởi giống Shan có vỏ quả khá dày, trong khi
vỏ quả và vỏ hạt của giống Trung du đều khá mỏng. Như
vậy xét về yếu tố giống, Trung du là giống có lợi nhất trong
thu hồi hạt và nhân từ quả.
Ảnh hưởng của giống và vùng địa lý đến thành phần
hóa học của hạt chè
Kết quả xác định thành phần hóa học của hạt chè ở các
giống và địa phương khác nhau được thể hiện ở bảng 2.
Bảng 2. Ảnh hưởng của giống và vùng địa lý đến thành phần hóa
học của hạt chè.
Giống Địa phương Hàm lượng lipid (%)
Hàm lượng
protein (%)
Hàm lượng
tro (%)
TPC (mg GAE/
gck)
Trung du
Phú Thọ 20,05a±0,01 6,32b±0,30 10,19b±0,12 16,59a±0,15
Tuyên Quang 18,87b±0,08 5,22cd±0,01 9,72c±0,05 16,65a±0,03
Thái Nguyên 18,73c±0,07 4,93de±0,04 9,19d±0,09 16,07cd±0,01
Yên Bái 17,64g±0,01 4,40fg±0,14 8,48f±0,07 15,84cd±0,13
Nghệ An 16,03j±0,02 4,66ef±0,04 8,08hi±0,03 15,47de±0,28
Quảng Trị 17,07i±0,03 4,15g±0,03 9,21d±0,02 15,65cd±0,16
Shan
Yên Bái 20,09a±0,01 6,76a±0,27 8,07hi±0,19 16,43ab±0,02
Tuyên Quang 20,04a±0,06 6,32b±0,28 10,70a±0,13 16,04bc±0,03
Lào Cai 18,45d±0,02 6,61ab±0,18 7,94ij±0,04 16,39ab±0,08
PH1
Phú Thọ 17,48h±0,08 5,03de±0,02 7,06k±0,03 14,40h±0,27
Tuyên Quang 18,03e±0,01 5,60c±0,04 7,02k±0,02 14,48gh±0,18
Nghệ An 17,85f±0,06 4,88de±0,08 8,19gh±0,02 14,07h±0,05
Quảng Trị 15,95j±0,02 4,92de±0,01 7,75j±0,03 14,83fg±0,16
LDP1
Phú Thọ 17,86f±0,04 5,04de±0,03 8,85e±0,05 15,05ef±0,02
Thái Nguyên 17,93ef±0,01 5,06de±0,03 8,38fg±0,09 15,55d±0,09
Ghi chú: các số liệu theo cột có các chữ ở mũ khác nhau là khác nhau có ý
nghĩa ở mức ý nghĩa 5%.
Từ kết quả thu được ở bảng 2 cho thấy, nhìn chung hàm
lượng lipid, protein, tro và tổng polyphenol (TPC) giữa các
giống, giữa các tỉnh trong cùng một giống có sự khác nhau
có ý nghĩa thống kê. Trong các chỉ tiêu này, hàm lượng lipid
là chỉ tiêu được quan tâm nhiều nhất. Hàm lượng lipid của
giống Trung du tại Phú Thọ, Shan tại Yên Bái, Tuyên Quang
không có sự khác biệt ở mức ý nghĩa 5% và có giá trị lớn
nhất khoảng 20%. Kết quả của chúng tôi khá tương đồng
với nghiên cứu của Ngô Thị Kim Dung (2014) [9], cụ thể
hàm lượng dầu ở hạt chè là thấp hơn so với các hạt hướng
dương, hạt bí, hạt mè..., nhưng tương đương hoặc cao
hơn so với hàm lượng dầu trong đậu nành (16,11%). Tuy
vậy, kết quả này thấp hơn một chút so với nghiên cứu của
Yahaya và cs (2011) [10] (23%) hay Trần Đình Phả (2011)
[1] là 22,9% đối với hạt chè Shan tại Sơn La. Về hàm lượng
protein và tro, không nhận thấy ảnh hưởng rõ nét của cả 2
yếu tố giống và vùng trồng đến các chỉ tiêu này (dao động
từ 4,15 đến 6,76% đối với protein và 7,02-10,70% đối với
chất tro trong hạt chè). Liên quan đến hàm lượng TPC, nếu
xét theo trung bình giống thì giống chè Shan cho tổng hàm
lượng polyphenol cao, tuy nhiên xét về các tỉnh thì giá trị
polyphenol tổng trong hạt chè tại Phú Thọ, Tuyên Quang
của giống chè Trung du là lớn nhất.
Ảnh hưởng của giống và vùng địa lý đến chất lượng
dầu hạt chè
Kết quả đánh giá chất lượng dầu hạt chè được thể hiện
trong bảng 3.
Bảng 3. Ảnh hưởng của giống và vùng địa lý đến thành phần hóa
học của dầu hạt chè.
Giống Địa phương PV (Meq/kg)
AV
(mg KOH/g)
IV
(g I2/100 g)
SV
(mg KOH/g)
TPC
(mg GAE/gck)
IC
50
(mg/ml)
Carotenoid
(mg/kg)
Trung
du
Phú Thọ 5,07a ±0,02 3,08a ±0,06 100,62a ±1,34 188,45cd ±4,79 3,96a ±0,02 69,61a ±0,10 76,50a ±0,5
Tuyên Quang 5,13a ±0,03 2,98a ±0,01 96,08ab ±1,13 199,27bc ±1,10 3,84b ±0,02 70,76a ±0,59 76,70a ±1,47
Thái Nguyên 5,52c ±0,07 3,46b ±0,06 98,80ab ±0,89 186,18d ±4,62 3,65c ±0,02 94,33f ±0,10 58,30f ±0,61
Yên Bái 5,38b ±0,08 3,68bc ±0,12 88,03c ±0,07 189,24cd ±4,89 3,28d ±0,01 94,80f ±0,31 59,90ef ±0,18
Nghệ An 6,24f ±0,08 3,71bc ±0,09 88,60c ±0,23 194,22cd ±4,31 3,33d ±0,02 97,35g ±0,07 68,84c ±0,47
Quảng Trị 5,77e ±0,02 3,94c ±0,09 88,87c ±0,12 189,17cd ±4,93 3,32d ±0,02 95,44fg ±0,41 58,33f ±0,58
Shan
Yên Bái 5,10a ±0,04 2,95a ±0,04 100,15ab ±0,21 191,70cd ±4,08 3,98a ±0,03 68,47a ±0,46 75ab±1,00
Tuyên Quang 5,05a ±0,02 3,04a ±0,02 99,24ab ±1,13 211,82a ±2,41 3,93ab ±0,04 75,50b ±0,63 75,26ab ±0,65
Lào Cai 5,66de ±0,03 3,47b ±0,03 95,97b ±0,71 207,22ab ±2,04 3,63c ±0,04 69,41a ±0,38 72,21bc ±0,71
PH1
Phú Thọ 6,27f ±0,02 5,05d ±0,06 87,32c ±1,44 186,54d ±3,80 3,01fg ±0,06 84,25c ±0,15 62,42de ±0,52
Tuyên Quang 6,25f ±0,02 5,24de ±0,03 86,51cd ±1,17 209,46ab ±6,15 3,12e ±0,02 87,81d ±0,61 72bc±1,00
Nghệ An 6,31f ±0,03 5,42ef ±0,02 75,33e ±3,62 187,83cd ±4,63 3,11ef ±0,01 91,38e ±1,41 56,95f ±0,08
Quảng Trị 6,67g ±0,03 5,23de ±0,33 84,50cd ±3,51 189,60cd ±4,79 3,11e ±0,01 102,51h ±2,09 65,10d ±1,65
LDP1
Phú Thọ 5,34b ±0,04 5,26de ±0,21 87,43c ±1,00 185,99d ±4,63 2,69h ±0,06 94,77f ±0,62 70,25c±3,03
Thái Nguyên 5,58cd ±0,01 5,69f ±0,06 80,30d ±0,40 188,11cd ±3,30 2,93g ±0,08 112,56i ±0,93 51,67g ±1,16
Ghi chú: các số liệu theo cột có các chữ ở mũ khác nhau là khác nhau có ý
nghĩa ở mức ý nghĩa 5%.
3662(5) 5.2020
Khoa học Nông nghiệp
Chất lượng dầu hạt chè được đánh giá dựa trên trị số
peroxit, axit, iod, xà phòng hóa. Trị số peroxit và axit tỷ lệ
nghịch với chất lượng của dầu, do đó theo kết quả phân tích
thì dầu hạt chè của giống Shan trồng tại các tỉnh Yên Bái,
Tuyên Quang và Phú Thọ có chất lượng tốt hơn giống Trung
du. Trị số xà phòng hóa, trị số iod khác nhau theo từng
giống, từng địa phương. Trị số xà phòng hóa dao động trong
khoảng 186-212 mg KOH/g, trị số iod dao động 80-100 g
I2/100 g. Theo Nguyễn Thị Ngọc Yến (2013) [4] khi nghiên
cứu về dầu chè Lâm Đồng thì trị số xà phòng hóa khoảng
184-196 mg KOH/g, trị số iod khoảng 75-94 g I2/100 g. Như
vậy, chất lượng của dầu hạt chè trong nghiên cứu của chúng
tôi nhìn chung khá tương đồng với các nghiên cứu này.
Khả năng kháng oxy hóa được đánh giá qua các chỉ
tiêu TPC, khả năng bắt gốc tự do DPPH, tổng hàm lượng
carotenoid. Xét chung về giống, giống Shan có hàm lượng
TPC cao nhất, sau đó là Trung du; xét về từng tỉnh thì dầu từ
hạt chè Phú Thọ (giống Trung du) và Yên Bái (giống Shan)
là cao nhất và không có sự khác nhau ở mức ý nghĩa 5%. So
sánh với hàm lượng polyphenol trong dầu đậu nành là 2,44
mg GAE/gck [11] thì hàm lượng polyphenol trong dầu hạt
chè khá cao với 3,96 mg GAE/gck. Theo kết quả của Giang
Trung Khoa và cs (2016) [12], bột chiết polyphenol từ lá
chè Camellia sinensis giúp duy trì các tính chất cảm quan,
giảm sự hình thành dienes và peroxit cũng như các hợp chất
oxy hóa thứ cấp (p-anisidine) trong quá trình oxy hóa khi
bổ sung vào dầu đậu nành. Như vậy trong quá trình lưu trữ,
có thể dầu chè sẽ có khả năng chống oxy hóa tốt hơn so với
các loại dầu khác. Mặt khác, phân tích giá trị IC
50
chúng tôi
cũng nhận thấy, các mẫu chè có hàm lượng polyphenol và/
hoặc carotene càng cao thì chỉ số IC
50
này càng thấp, hay
khả năng kháng oxy hóa của dầu càng cao. Thật vậy, kết
quả phân tích cho thấy khả năng kháng oxy hóa của dầu
chè giống Trung du trồng ở các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang
là cao nhất. Hàm lượng carotenoid tại Phú Thọ và Tuyên
Quang của giống Trung du đạt giá trị cao hơn so với các địa
phương, các giống khác.
Kết quả phân tích về thành phần axit béo trong dầu
hạt chè
Thành phần axit béo là chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất
lượng dinh dưỡng của dầu. Với mục đích khảo sát thành
phần axit từ các mẫu nguyên liệu có chất lượng tốt hơn,
chúng tôi lựa chọn hạt chè tại 3 địa phương Phú Thọ, Tuyên
Quang (đối với giống Trung du) và Yên Bái (đối với giống
Shan) để phân tích thành phần axit béo trong dầu hạt chè.
Kết quả được thể hiện ở bảng 4.
Bảng 4. Thành phần axit béo của một số mẫu dầu hạt chè (%).
Axit
Shan Trung du
Yên Bái Phú Thọ Tuyên Quang
SFA
C12:0 0,4 0,38 0,4
C14:0 0,27 0,25 0,29
C15:0 0,03 0,03 0,03
C16:0 18,2 18,3 18,93
C18:0 6,04 5,43 5,39
C20:0 0,18 0,16 0,16
C22:0 0,09 0,07 0,08
C24:0 0,1 0,09 0,1
Tổng 25,31 24,72 25,39
UFA
MUFA
C16:1 0,25 0,27 0,26
C17:1 0,03 0,05 0,04
C18:1 47,68 48,24 47,44
C20:1 0,8 0,81 0,73
PUFA
C18:2 24,78 25,08 25,01
C20:2 0,03 0,02 0,02
C18:3 0,9 0,81 0,89
Tổng 74,69 75,28 74,61
Giữa các mẫu phân tích không có sự chênh lệch lớn về
hàm lượng các axit béo (gần như tương đương), chứng tỏ
sự ảnh hưởng của giống hay địa phương tới hàm lượng axit
béo là không rõ rệt, hay nói cách khác theo kết quả nghiên
cứu tổng lượng axit béo không bị ảnh hưởng bởi giống và
vùng địa lý.
Hàm lượng axit béo bão hòa của dầu hạt chè (SFA) đạt
24-25%, hàm lượng axit béo không bão hòa khoảng 75-
76%. Axit béo không no giúp cơ thể hấp thụ tốt hơn, sự có
mặt của các axit không bão hòa làm tăng giá trị dinh dưỡng
của dầu. Hàm lượng axit béo không bão hòa (PUFA) của
dầu hạt chè chúng tôi phân tích là 25,92%, tương đồng với
nghiên cứu của Sahari và cs (2004) [13] (22,47%). Trong số
các axit béo, oleic là axit phong phú nhất với tỷ lệ khoảng
48%, sau đó là linoleic với 25,01%, như vậy dầu hạt chè là
loại dầu thực vật giàu axit oleic và linolenic. Kết quả này
tương đồng với nghiên cứu của Xinchu Weng và cs (2018)
[14]. Theo tác giả, hàm lượng axit oleic và linoleic trong dầu
hạt chè trồng tại Hồ Nam, Trung Quốc tương ứng đạt 52,13
và 24,32%. Axit oleic rất cần thiết trong dinh dưỡng của con
người, có tác dụng làm giảm LDL-cholesterol, cholesterol
toàn phần và chỉ số đường huyết của cơ thể. Theo báo cáo
của Eckel và cs (2006) [15], các loại dầu có lượng axit oleic
(C18:1) cao (∼50-65%), linoleic (C18:2) khoảng 20-30% và
linoleic (C18:3) thấp (∼<3%) thường chịu được nhiệt độ cao
của quá trình chiên rán, đồng thời có khả năng hạn chế việc
tạo ra mùi vị khó chịu sinh ra bởi tác động của nhiệt độ cao
hay hình thành từ quá trình oxy hóa. Như vậy, các mẫu dầu
3762(5) 5.2020
Khoa học Nông nghiệp
hạt chè mà chúng tôi khảo sát cơ bản đáp ứng các điều kiện
này và có tiềm năng ứng dụng cao.
Kết luận
Các giống chè khác nhau cho tỷ lệ thu hồi hạt khác nhau,
trong đó giống chè Shan có tỷ lệ thu hồi hạt thấp nhất, có
ảnh hưởng tới thành phần hóa học của hạt cũng như chất
lượng của dầu hạt chè. Nhìn chung, hạt chè giống Trung
du có các ưu điểm như: tỷ lệ thu hồi nhân, hàm lượng lipid,
hàm lượng polyphenol, hàm lượng carotenoid và hoạt tính
kháng oxy hóa của dầu cao trong các giống khảo sát.
Trong cùng giống chè, vùng địa lý ít ảnh hưởng đến tỷ lệ
thu hồi nhân nhưng có ảnh hưởng đáng kể đến thành phần
hóa học (lipid, protein, tro, tổng polyphenol) của hạt cũng
như chất lượng của dầu hạt chè thu được.
Hàm lượng lipid cũng như chất lượng dầu hạt chè Việt
Nam hoàn toàn có thể so sánh được với các sản phẩm tương
tự trên thế giới, mở ra tiềm năng khai thác để trở thành sản
phẩm mới trong thị trường dầu thực vật tại Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trần Đình Phả và cs (2011), “Kết quả nghiên cứu bước đầu về
tiềm năng sản xuất dầu từ hạt chè”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông
nghiệp Việt Nam, 3(24), tr.1-11.
[2] M. Fazel, M.A. Sahari, M. Barzegar (2008), “Determination of
main tea seed oil antioxidants and their effects on common kilka oil”,
International Food Research Journal, 15(2), pp.209-217.
[3] Kelvin Omondi George, et al. (2015), “Quantitation of the total
catechin content in oils extracted from seeds of selected tea (Camellia
sinensis (L) O. Kuntze, Theaceae) clones by RP-HPLC”, American
Journal of Plant Sciences, 6, pp.1080-1089.
[4] Nguyễn Thị Ngọc Yến (2013), Báo cáo tổng kết đề tài Nghiên cứu
quy trình chiết tách dầu từ hạt chè xanh Lâm Đồng, Trung tâm Phát triển
khoa học công nghệ trẻ.
[5] C. Paquot (1979), Standard Methods for the Analysis of Oils, Fats
and Derivatives (6th Edition), Pergamon Press, Oxford, United Kingdom.
[6] L. Fu, et al. (2011), “Antioxidant capacities and total phenolic
contents of 62 fruits”, Food Chemistry, 129(2), pp.345-350.
[7] S. Franke, et al. (2010), “Analysis of carotenoids and vitamin E
in selected oilseeds, press cakes and oils”, Europ. J. Lipit Sci. Technol.,
112, pp.1122-1129.
[8] K. Thaipong, et al. (2006), “Comparison of ABTS, DPPH, FRAP,
and ORAC assays for estimating antioxidant activity from guava fruit
extracts”, Journal of Food Composition and Analysis, 19, pp.669-675.
[9] Ngô Thị Kim Dung (2014), “Xác định hàm lượng dầu và protein
thô từ một số loại hạt”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, 15, tr.15-18.
[10] L.E. Yahaya, et al. (2011), “Compositional analysis of tea
(Camellia sinensis) seed oil and its application”, Int. J. Res. Chem. Env.,
1(2), pp.153-158.
[11] Dương Thị Phượng Liên, Phan Thị Bích Trâm, Hà Thanh Toàn
(2014), “Ảnh hưởng quá trình trích ly đến hàm lượng polyphenol và khả
năng chống oxy hóa từ đậu nành”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học
Cần Thơ, 1, tr.8-15.
[12] Giang Trung Khoa, Bùi Quang Thuật, Ngô Xuân Mạnh, Bùi Thị
Thanh Tiên (2016), “Hoạt tính kháng oxy hóa của polyphenol chè trong
dầu đậu nành”, Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, 14(7), tr.1060-
1067.
[13] M.A. Sahari, D. Ataii, M. Hamedi (2004), “Charac-teristics of
tea seed oil in comparison with sunflower and olive oils and its effect as a
natural antioxidant”, JAOCS, 81(6), pp.585-588.
[14] Xinchu Weng, Zhuoting Yun, Chenxiao Zhang (2018),
“Comparison of the characteristics of two kinds of tea seed oils: oil-tea
seed oil and green-tea seed oil”, Journal of Food Studies, 7, pp.56-67.
[15] R.H. Eckel, et al. (2006), “Understanding the complexity of trans
fatty acid reduction in the American diet: American heart association trans
fat conference”, Trans Fat Conference Planning Group, 115, pp.2231-
2246.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_giong_va_vung_dia_ly_den_chat_luong_hat_che_va.pdf