Năng suất trái
Năng suất thương phẩm của khổ qua TS247 ghép
có tương tác giữa 2 nhân tố giống mướp làm gốc
ghép và số lượng gốc (Bảng 5). Tổ hợp giữa giống
Đài Loan 01 với kỹ thuật ghép 1 gốc và ghép 2 gốc
đều cho năng suất thương phẩm của khổ qua cao
nhất (30,6 - 30,9 tấn/ha, tương ứng), cao hơn có ý
nghĩa qua phân tích thống kê so với tổ hợp mướp
Đài Loan 1 với kỹ thuật ghép 3 gốc (24,1 tấn/ha) và
không ghép (đối chứng 25 tấn/ha). Ba giống mướp
địa phương trái dài, địa phương trái ngắn và Đài
Loan 02 dù không ghép hoặc áp dụng kỹ thuật ghép
1 gốc, 2 gốc đều cho năng suất thương phẩm thấp
nhất, khác biệt không ý nghĩa qua phân tích thống kê
(18,9 - 22,9 tấn/ha). Trong khi kỹ thuật ghép bất kỳ 3
gốc mướp nào cũng cho năng suất thương phẩm của
khổ qua (21,5 - 26,9 t/ha) thấp hơn tổ hợp mướp Đài
Loan 01 ghép 1 gốc và 2 gốc. Tất cả nghiệm thức có
sử dụng gốc ghép đều cho năng suất thương phẩm từ
tương đương đến cao hơn không ghép (đối chứng) ở
từng giống mướp làm gốc ghép.
Về giống mướp làm gốc ghép: Năng suất thương
phẩm của khổ qua ghép trên giống mướp Đài Loan
01 là 27,6 tấn/ha, cao hơn có ý nghĩa qua phân tích
thống kê so với các giống mướp làm gốc ghép khác,
dao động từ 21,9 - 22,8 tấn/ha. Về số lượng gốc ghép:
Trồng khổ qua không ghép hay ghép 1 gốc, 2 gốc
và 3 gốc đều cho năng suất thương phẩm khác biệt
không ý nghĩa qua phân tích thống kê (21,1 - 24,6
tấn/ha). Sở dĩ tổ hợp gốc mướp Đài Loan 01 với
kỹ thuật ghép 1 gốc và 2 gốc cho năng suất thương
phẩm của khổ qua cao nhất là do các chỉ tiêu về khối
lượng trái thương phẩm trên cây và chiều dài trên
thân chính đều cao nhất, cao hơn 1,22 - 1,24 lần so
với nghiệm thức khổ qua không ghép (đối chứng).
Kết quả tương tự cũng được tìm thấy trong nghiên
cứu của Heidari và cộng tác viên (2011), năng suất
ở các nghiệm thức có sử dụng gốc ghép đều tương
đương hoặc cao hơn đối chứng không ghép.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 9 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của gốc ghép mướp đến sự sinh trưởng và năng suất của khổ qua TS 247 tại huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
25
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
Larkin, P. D., Mcglung, A. M., Ayers N. M. and Park, W.
D., 2003. The effect of the waxy locus (granule bound
starch synthase) on pasting curve characteristics in
specialty rice (Oryza sativa L.). Euphytica, 134 (2):
243-253.
Ludvigsson, J. F., D. A. Leffler, J. C, Bai, F. Biagi,
A. Fasano, P. H. Green, M. Hadjivassiliou,
K. Kaukinen, C. P. Kelly and J. N. Leonard, 2014.
The Oslo definitions for celiac disease and related
terms. Gut, 62: 43-52.
Palanga, K.K., Traore, K., Bimpong, K., Jamshed M.
and Mkulama, M. A. P., 2016. Genetic diversity
studies on selected rice varieties grown in Africa
based on aroma, cooking and eating quality. African
Journal of Biotechnology, 15 (23): 1136-1146.
Patil, H., Premi, V., Sahu, V., Dubey, M., Sahu, G. R.
and Chandel, G., 2014. Identification of elite rice
germplasm lines for grain protein content, SSR based
genotyping and DNA fingerprinting. Intertional
journal of plant, animal and enviromental sciences:
3 (2): 127-136.
Rathi, S. and Sarma, R.N., 2012. Microsatellite diversity
in indigenous glutinous rice landraces of Assam.
Indian Journal of Biotechnology, 11: 23-29.
Yoshida S., J. H. Cock, and F. T. Parao, 1972.
Physiological aspects of high yields. In: International
Rice Research Institute. Rice Breeding. Los Banos,
Philippines.
Identification of special rice varieties with low amylose
and high protein content by using molecular markers
Le Thi Kim Loan, Tran Le Vinh,
Le Huu Hai, Nguyen Minh Thuy
Abstract
Rice has many advantages for wheat flour alternatives in gluten-free bread production. Two important traits to select
suitable rice varieties for gluten-free bread production are amylose and protein. Using effective markers can quickly
detect rice varieties with low amylose content and high protein. The study results showed that the R190 marker
amplified a 100 bp DNA fragment, R21 amplified a 157 bp DNA fragment for identifying amylose and protein levels
at different levels. By combining phenotypic evaluation with molecular markers, the study identified Cam Cai Lay,
Hong Ngoc Oc Eo and D13 rice varieties with low amylose content and high protein. These varieties were initially
selected for research on gluten-free bread production in further studies.
Keywords: Rice, marker, phenotype, amylose, protein
Ngày nhận bài: 11/6/2019
Ngày phản biện: 17/6/2019
Người phản biện: TS. Trần Danh Sửu
Ngày duyệt đăng: 11/7/2019
1 Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng
2 Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ
ẢNH HƯỞNG CỦA GỐC GHÉP MƯỚP ĐẾN SỰ SINH TRƯỞNG VÀ NĂNG SUẤT
CỦA KHỔ QUA TS 247 TẠI HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH SÓC TRĂNG
Trần Văn Toàn1, Võ Thị Bích Thủy2, Nguyễn Thị Cẩm Hằng2,
Nguyễn Phú Quý2, Lâm Hoàng Như2, Lê Thị Mỹ Quyên2,
Lê Minh Hải2, Phạm Minh Hùng2, Trần Vũ Can2, Trần Thị Ba2
TÓM TẮT
Thí nghiệm được thực hiện nhằm xác định giống mướp và số lượng gốc ghép mướp có khả năng gia tăng sinh
trưởng và năng suất của cây khổ qua điều kiện canh tác ngoài đồng tại huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng, từ tháng
6 - 9/2018. Thí nghiệm bố trí theo thể thức lô phụ gồm 2 nhân tố với 3 lần lặp, lô chính là 4 giống mướp làm gốc
ghép: (1) địa phương trái dài, (2) địa phương trái ngắn, (3) Đài Loan 01 và (4) Đài Loan 02; lô phụ là số lượng gốc:
(1) không ghép - đối chứng, (2) ghép 1 gốc, (3) ghép 2 gốc và (4) ghép 3 gốc. Kết quả cho thấy khổ qua TS247 với
tổ hợp ghép giống mướp Đài Loan 01 với số lượng 1 gốc (ghép 1 gốc chính trong vườn ươm) và 2 gốc (ghép 1 gốc
chính trong vườn ươm và ghép thêm 1 gốc phụ ngoài đồng) cho năng suất thương phẩm 30,6 - 30,9 tấn/ha, cao hơn
không ghép từ 22 - 24%, khối lượng trái thương phẩm 5,3 - 5,4 kg/cây và chiều dài thân chính 399 - 411 cm cao hơn
26
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
có ý nghĩa qua phân tích thống kê so với không ghép. Khổ qua không ghép hay ghép 4 giống mướp với 1 gốc, 2 gốc
và 3 gốc trên một cây đều cho kích thước trái và khối lượng trái tương đương nhau. Vậy, trồng khổ qua trong mùa
mưa tại huyện Châu Thành, Sóc Trăng có thể sử dụng gốc ghép mướp Đài Loan 01.
Từ khóa: Gốc ghép, khổ qua, mướp, năng suất, ngọn ghép
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ lâu, khổ qua là cây rau được trồng phổ biến ở
Đồng bằng sông Cửu Long và được xem là cây trồng
có tiềm năng phát triển rất lớn, đã góp phần cải
thiện đời sống người dân huyện Châu Thành, tỉnh
Sóc Trăng vì cây khổ qua vừa làm rau và vừa làm trà,
có giá trị xuất khẩu ở dạng sấy khô, hàng năm chiếm
diện tích khoảng 300 ha. Tuy nhiên, sản xuất khổ
qua nơi đây còn nhiều hạn chế, đặc biệt trong mùa
mưa do cây mẫn cảm với các loại bệnh có nguồn gốc
từ đất như bệnh héo rũ do nấm Fusarium oxysporum
và bị úng nước. Trong những năm gần đây, kỹ thuật
trồng khổ qua ghép gốc mướp được nghiên cứu và
áp dụng thành công ở Đài Loan. Trường Đại học
Cần Thơ có 15 năm nghiên cứu về cây rau ghép, đã
ứng dụng vào thực tế sản xuất cà chua, cà phổi, ớt,
dưa leo, dưa hấu ghép, nhưng nghiên cứu khổ qua
ghép trên gốc bầu, bình bát dây và mướp địa phương
vẫn chưa đạt kết quả mong muốn, nguyên nhân chủ
yếu do chưa tìm được gốc ghép tương thích với ngọn
ghép. Năm 2017, trường Đại học Cần Thơ nhập nội
hai giống mướp chuyên làm gốc ghép từ Đài Loan.
Để góp phần giải quyết khó khăn trong sản xuất khổ
qua ở địa phương, đề tài “Ảnh hưởng của gốc ghép
mướp lên sự sinh trưởng và năng suất của giống khổ
qua TS 247 tại huyện Châu Thành tỉnh Sóc Trăng”
được thực hiện nhằm xác định giống mướp làm gốc
ghép và số lượng gốc ghép có khả năng gia tăng sinh
trưởng và năng suất của cây khổ qua.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Vật liệu chính: Ngọn ghép là giống khổ qua TS
247 là giống F1 do TNHH Nông nghiệp Tiên Tiến
phân phối và đang được trồng phổ biến ở huyện
Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng. Gốc ghép là mướp
hương địa phương trái ngắn (30 - 40 cm), mướp
địa phương trái dài (80 - 100 cm). Giống mướp Đài
Loan 01 (VG-17-001) và Đài Loan 02 (VG-17-002)
sinh trưởng rất khỏe, chuyên làm gốc ghép cho
cây rau họ bầu bí dưa do công ty Know-you seed
phân phối.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí theo thể thức lô phụ gồm
2 nhân tố với 3 lần lặp lại, diện tích mỗi lô 20 m2,
diện tích khu thí nghiệm 960 m2. Lô chính (A) là
4 giống mướp làm gốc ghép: (1) địa phương trái dài,
(2) địa phương trái ngắn, (3) Đài Loan 01 và (4) Đài
Loan 02. Lô phụ (B) là số lượng gốc ghép mướp:
(1) không ghép - đối chứng, (2) ghép 1 gốc, (3) ghép
2 gốc và (4) ghép 3 gốc.
Hình 1. Các nghiệm thức lô phụ trong thí nghiệm
(a) Đối chứng không ghép; (b) Ghép 1 gốc - ghép 1 gốc chính trong vườn ươm; (c) Ghép 2 gốc - ghép 1 gốc chính trong
vườn ươm và ghép thêm 1 gốc phụ ngoài đồng và (d) Ghép 3 gốc - ghép 1 gốc chính trong vườn ươm và ghép thêm 2 gốc
phụ ngoài đồng.
(a) (b) (c) (d)
2.2.2. Các bước tiến hành
a) Chuẩn bị cây
- Cây con ghép gốc chính trong vườn ươm: Gốc
ghép mướp và ngọn ghép khổ qua được ngâm 2 giờ
trong nước ấm (50oC) và ủ ấm trong khăn 2 - 3 ngày,
hạt nhú mầm thì gieo vào giá thể. Khi cây mướp
27
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
được 15 ngày tuổi và cây khổ qua được được 18 ngày
tuổi thì tiến hành ghép.
- Cây mướp ghép gốc phụ (ngoài đồng) và cây
khổ qua không ghép (đối chứng): Ngâm và ủ hạt
tương tự gốc ghép chính. Khi cây ra lá thật (mướp
10 ngày tuổi và khổ qua 12 ngày tuổi) trồng ra đồng.
b) Phương pháp ghép
- Kỹ thuật ghép 1 gốc chính trong vườn ươm sử
dụng phương pháp ghép nối ống cao su theo Trần
Thị Ba (2010): Dùng lưỡi lam cắt thân chính trên
2 lá mầm một gốc 30 - 40o vết cắt phẳng, sao đó ấn
ống cao su vào gốc ghép mướp vừa cắt. Cắt lấy phần
ngọn ghép khổ qua là dùng lưỡi lam cắt 30 - 40o phần
gốc thân khổ qua, đầu nhọn của vết cắt cách cuống
lá mầm khoảng 1,0 - 1,2 cm. Đẩy nhẹ ngọn khổ qua
vào ống cao su (đã có gốc ghép) đảm bảo 2 mặt cắt
áp sát vào nhau.
- Kỹ thuật ghép thêm 1 - 2 gốc mướp lên cây khổ
qua ghép ngoài đồng: Sau khi trồng 20 ngày (gốc
mướp), chiều dài khoảng 1 - 1,5 m thì tiến hành
ghép áp vào cây khổ qua đã ghép gốc chính , vị
trí ghép từ 1 - 1,2 m (tính từ vị trí ghép gốc chính
lên). Cắt dọc 1/3 đường kính thân chính cây khổ
qua vết cắt dài 5 - 7 cm, sau đó cắt ngang bỏ phần
đọt non của cây mướp, cắt xéo gốc 15 - 20o cả hai
mặt ngọn mướp, vết cắt dài 5 - 7 cm, áp hai mặt
cắt ngọn mướp vào thân khổ qua, cố định vết ghép
theo chiều áp sát mặt cắt của thân khổ qua, vết ghép
hoàn chỉnh và bắt đầu lành giai đoạn 4 - 5 ngày sau
khi ghép (NSKGh), gỡ kẹp khi vết ghép hoàn toàn
lành liền lại.
c) Trồng cây
Cây sau khi ghép được 12 ngày tiến hành trồng ra
đồng với mật độ 6.000 cây/ha. Cây mướp ghép gốc
phụ ngoài đồng được trồng bổ sung cạnh cây ghép,
cách cây ghép 25 cm.
2.2.3. Chỉ tiêu theo dõi
- Các chỉ tiêu về sinh trưởng: Được lấy vào thời
điểm 40 ngày sau khi trồng (NSKT) về chiều dài dây
chính (cm), đường kính gốc ghép và ngọn ghép (cm).
- Thành phần năng suất và năng suất: Kích thước
trái (cm), khối lượng trung bình trái (g/trái), Số
trái thương phẩm (trái/cây), khối lượng trái thương
phẩm (kg/cây) và năng suất thương phẩm (tấn/ha).
2.2.4. Phương pháp phân tích số liệu
Các số liệu được phân tích thống kê bằng phần
mềm SPSS 20.0 và dùng kiểm định Duncan ở mức ý
nghĩa 5% để so sánh các số trung bình.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 6 - 9/2018
tại ấp Phước Hòa, xã Phú Tân, huyện Châu Thành,
tỉnh Sóc Trăng.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Sinh trưởng
3.1.1. Chiều dài thân chính
Chiều dài thân chính của khổ qua TS247 ở 40
NSKT có tương tác giữa giống mướp làm gốc ghép
và số lượng gốc (Bảng 1). Tổ hợp giữa giống Đài
Loan 01 với kỹ thuật ghép 1 gốc, 2 gốc và 3 gốc đều
cho chiều dài thân chính khổ qua cao nhất (397 -
411 cm), cao hơn có ý nghĩa qua phân tích thống
kê so với khổ qua không ghép (đối chứng 339 cm);
đồng thời cao hơn so với ba giống mướp địa phương
trái dài, điạ phương trái ngắn và Đài Loan 02 kết
hợp với kỹ thuật ghép 1 gốc, 2 gốc và 3 gốc (321 -
360 cm). Tất cả nghiệm thức có sử dụng gốc ghép
(321 - 411 cm) đều cho chiều dài thân chính cao hơn
có ý nghĩa qua phân tích thống kê so với khổ qua
không ghép - đối chứng (314 - 339 cm). Kết quả này
phù hợp với nghiên cứu về dưa lê của Lê Thanh Duy
(2018), ghép thêm gốc bầu đã làm gia tăng chiều dài
thân chính hơn không ghép, có thể là do ghép thêm
gốc phụ ngoài đồng đã ảnh hưởng lên sự vận chuyển
IAA trong mạch gỗ, giúp kích thích sự phát triển của
cây ghép.
Bảng 1. Chiều dài thân chính khổ qua
ghép gốc mướp thời điểm 40 ngày sau khi trồng
Số lượng
gốc (B)
Giống
mướp (A)
Chiều dài thân chính (cm) Trung
bình
(A)
Đối
chứng 1 gốc 2 gốc 3 gốc
Địa phương
trái dài 314
c 352bc 321bc 351bc 332b
Địa phương
trái ngắn 322
bc 327bc 360b 334bc 334b
Đài Loan 01 339bc 399a 411a 397a 387a
Đài Loan 02 337bc 324bc 345bc 355b 340b
Trung bình (B) 328b 356a 365a 364 a
F F (A)** , F (B)**, F (A B)*
CV (%) = 4,55
Ghi chú: Trong cùng một cột, hàng, các số có chữ theo
sau giống nhau thì khác biệt không ý nghĩa qua phân tích
thống kê; * khác biệt ở mức 5%; ** khác biệt ở mức 1%.
28
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
3.1.2. Tỷ số đường kính gốc/đường kính ngọn
Kết quả bảng 2 cho thấy tỷ số đường kính gốc
ghép và ngọn ghép không có sự tương tác giữa giống
mướp làm gốc ghép và số lượng gốc ghép. Về giống,
tỷ số đường kính gốc ghép và ngọn ghép tương đương
nhau ở mướp địa phương trái dài, mướp Đài Loan
01 và Đài Loan 02 (0,97 - 0,99), cao hơn có ý nghĩa
qua phân tích thống kê so với mướp địa phương trái
ngắn (0,85). Về số lượng gốc ghép, tỷ số đường kính
gốc ghép và ngọn ghép khác biệt không ý nghĩa qua
phân tích thống kê khi ghép 1 gốc, 2 gốc và 3 gốc
(0,93 - 0,95 cm). Theo Phạm Văn Côn (2013) khi tỷ
số này bằng 1 thì cây ghép sinh trưởng, phát triển
bình thường do thế sinh trưởng của ngọn ghép và
gốc ghép tương đương nhau. Vậy, ngọn khổ qua sinh
trưởng và phát triển tốt trên 3 giống gốc ghép là mướp
địa phương trái dài, Đài Loan 01 và Đài Loan 02.
Theo Sanchez và cộng tác viên (2014), Shivani và
cộng tác viên (2015) cho rằng giữa gốc ghép và ngọn
ghép cần có sự tương thích tốt để tạo nên ưu thế về
khả năng chống chịu bệnh của gốc ghép, qua đó giúp
cây ghép cho năng và chất lượng cao.
Bảng 2. Tỷ số đường kính gốc/đường kính ngọn
khổ qua ghép gốc mướp ở thời điểm 40 sau khi trồng
Số lượng gốc
(B)
Giống mướp (A)
Tỷ số đường kính
gốc/ngọn (cm)
Trung
bình
(A)
1 gốc 2 gốc 3 gốc
Địa phương trái dài 0,96 1,00 0,93 0,97a
Địa phương trái ngắn 0,86 0,77 0,90 0,85b
Đài Loan 01 0,98 1,00 0,99 0,99a
Đài Loan 02 0,97 0,97 0,98 0,97a
Trung bình (B) 0,94 0,93 0,95
F F (A)* , F (B)ns, F (A B)ns
CV (%) = 6,69
Ghi chú: Trong cùng 1 cột, hàng các số theo sau giống
nhau thì khác biệt không ý nghĩa qua phân tích thống kê;
* khác biệt ở mức 5%; ns: khác biệt không ý nghĩa.
3.2. Thành phần năng suất và năng suất
3.2.1. Kích thước và khối lượng trung bình trái
Kết quả bảng 3 cho thấy không có sự tương tác
giữa giống mướp làm gốc ghép và số lượng gốc lên
kích thước và khối lượng trái khổ qua và khác biệt
không ý nghĩa qua phân tích thống kê đối với 2 nhân
tố giống mướp và số lượng gốc.
Bảng 3. Kích thước và khối lượng trung bình
trái khổ qua ghép gốc mướp
Nhân tố
Chiều
dài trái
(cm)
Đường
kính
trái
(cm)
Khối
lượng
trung
bình trái
(g/trái)
Giống mướp (A)
Địa phương trái dài 18,8 5,29 199
Địa phương trái ngắn 19,5 5,41 220
Đài Loan 01 20,4 5,46 223
Đài Loan 02 19,8 5,42 221
Số lượng gốc (B)
Đối chứng 18,7 5,39 213
1 gốc 19,7 5,28 208
2 gốc 19,5 5,39 213
3 gốc 20,3 5,50 230
F F (A)ns , F (B)ns, F (A B)ns
CV (%) 5,89 2,88 9,28
Ghi chú: ns: khác biệt không ý nghĩa.
Ở nhân tố giống, 4 giống mướp đều cho chiều
dài trái khổ qua dao động từ 18,8 - 20,4 cm, đường
kính trái biến thiên từ 5,29 - 5,46 cm và khối lượng
trung bình trái khoảng 199 - 223 g/trái. Về số lượng
gốc ghép và không ghép - đối chứng cho chiều dài
trái khổ qua biến thiên từ 18,7 - 20,3 cm, đường kính
trái dao động từ 5,28 - 5,50 cm và khối lượng trung
bình trái từ 208 - 230 g/trái. Điều này cho thấy trồng
khổ qua không ghép gốc hay ghép 1 gốc, 2 gốc và
3 gốc từ 4 giống mướp khác nhau đều không làm
thay đổi kích thước và khối lượng trung bình trái
khổ qua. Theo Tạ Thu Cúc (2005), bên cạnh các yếu
tố kỹ thuật canh tác thì kích thước trái một phần
được quyết định bởi đặc tính giống. Nghiên cứu của
Heidari và cộng tác viên (2011) khi khảo sát 5 loại
gốc ghép trên dưa leo thì gốc ghép cũng không ảnh
hưởng đến kích thước trái. Bởi vì dưa leo và khổ qua
đều thu hoạch trái non, kích thước trái phụ thuộc
chủ yếu vào độ tuổi thu hoạch.
a) Số trái thương phẩm
Số trái thương phẩm của khổ qua TS247 có tương
tác giữa 2 nhân tố giống mướp làm gốc ghép và số
lượng gốc (Bảng 4). Tổ hợp giữa giống Đài Loan
01 với kỹ thuật ghép 1 gốc và 2 gốc đều cho khối
lượng trái thương phẩm của khổ qua cao nhất (23,4
- 23,8 trái/cây, tương ứng). Tất cả nghiệm thức có
sử dụng gốc ghép đều cho số trái thương phẩm từ
tương đương đến cao hơn không ghép - đối chứng.
Về giống mướp làm gốc ghép thì số trái thương
29
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
phẩm trung bình của khổ qua ghép trên giống mướp
Đài Loan 01 là 21,0 trái/cây, cao hơn có ý nghĩa qua
phân tích thống kê so với ghép trên giống mướp
địa phương trái dài và Đài Loan 02 (18,8 và 18,7
trái/cây), khổ qua ghép gốc mướp địa phương trái
ngắn (19,6 trái/cây) khác biệt không ý nghĩa qua
phân tích thống kê so với các gốc ghép khác. Về số
lượng gốc thì trồng khổ qua không ghép hay ghép
1 gốc, 2 gốc và 3 gốc đều cho số trái thương phẩm
khác biệt không ý nghĩa qua phân tích thống kê
(18,8 - 20,4 trái/cây). Gốc ghép và ngọn ghép có ảnh
hưởng với nhau, gốc ghép là bộ phận hút nước và
dinh dưỡng cung cấp cho ngọn ghép sinh trưởng,
phát triển và tạo ra các sản phẩm quang hợp dưới
sự điều khiển của nhân tố di truyền của cây mẹ. Gốc
càng khỏe, càng thích nghi với điều kiện khí hậu, đất
đai của vùng canh tác thì cây ghép sinh trưởng càng
tốt, cho năng suất cao và tuổi thọ kéo dài (Nguyễn
Quốc Vọng, 2002). Do kích thước trái và khối lượng
trung bình trái của khổ ghép qua như nhau nên số
trái thương phẩm trên cây ở gốc ghép Đài Loan 01
cao thì khối lượng trái thương phẩm cũng cao.
Bảng 4. Số trái thương phẩm của khổ qua ghép gốc mướp
Số lượng
gốc (B)
Giống
mướp (A)
Số trái thương phẩm
(trái/cây) Trung
bình
(A)Đối
chứng 1 gốc 2 gốc 3 gốc
Địa phương
trái dài 18,3 cd 19,3cd 20,4abcd 17,0d 18,8b
Địa phương
trái ngắn 18,3
cd 20,1abcd 18,8cd 22,0abc 19,6ab
Đài Loan 01 18,8cd 23,4a 23,8a 18,2cd 21,0a
Đài Loan 02 19,8bcd 17,8d 17,1d 19,5cd 18,7b
Trung bình (B) 18,8 20,4 20,0 19,1
F F (A*) , F (B)ns, F (A B) *
CV (%) = 9,94
Ghi chú: Trong cùng 1 cột, hàng các số có chữ theo sau
giống nhau thì khác biệt không ý nghĩa qua phân tích thống
kê; * khác biệt ở mức 5%; ns: khác biệt không ý nghĩa.
b) Năng suất trái
Năng suất thương phẩm của khổ qua TS247 ghép
có tương tác giữa 2 nhân tố giống mướp làm gốc
ghép và số lượng gốc (Bảng 5). Tổ hợp giữa giống
Đài Loan 01 với kỹ thuật ghép 1 gốc và ghép 2 gốc
đều cho năng suất thương phẩm của khổ qua cao
nhất (30,6 - 30,9 tấn/ha, tương ứng), cao hơn có ý
nghĩa qua phân tích thống kê so với tổ hợp mướp
Đài Loan 1 với kỹ thuật ghép 3 gốc (24,1 tấn/ha) và
không ghép (đối chứng 25 tấn/ha). Ba giống mướp
địa phương trái dài, địa phương trái ngắn và Đài
Loan 02 dù không ghép hoặc áp dụng kỹ thuật ghép
1 gốc, 2 gốc đều cho năng suất thương phẩm thấp
nhất, khác biệt không ý nghĩa qua phân tích thống kê
(18,9 - 22,9 tấn/ha). Trong khi kỹ thuật ghép bất kỳ 3
gốc mướp nào cũng cho năng suất thương phẩm của
khổ qua (21,5 - 26,9 t/ha) thấp hơn tổ hợp mướp Đài
Loan 01 ghép 1 gốc và 2 gốc. Tất cả nghiệm thức có
sử dụng gốc ghép đều cho năng suất thương phẩm từ
tương đương đến cao hơn không ghép (đối chứng) ở
từng giống mướp làm gốc ghép.
Về giống mướp làm gốc ghép: Năng suất thương
phẩm của khổ qua ghép trên giống mướp Đài Loan
01 là 27,6 tấn/ha, cao hơn có ý nghĩa qua phân tích
thống kê so với các giống mướp làm gốc ghép khác,
dao động từ 21,9 - 22,8 tấn/ha. Về số lượng gốc ghép:
Trồng khổ qua không ghép hay ghép 1 gốc, 2 gốc
và 3 gốc đều cho năng suất thương phẩm khác biệt
không ý nghĩa qua phân tích thống kê (21,1 - 24,6
tấn/ha). Sở dĩ tổ hợp gốc mướp Đài Loan 01 với
kỹ thuật ghép 1 gốc và 2 gốc cho năng suất thương
phẩm của khổ qua cao nhất là do các chỉ tiêu về khối
lượng trái thương phẩm trên cây và chiều dài trên
thân chính đều cao nhất, cao hơn 1,22 - 1,24 lần so
với nghiệm thức khổ qua không ghép (đối chứng).
Kết quả tương tự cũng được tìm thấy trong nghiên
cứu của Heidari và cộng tác viên (2011), năng suất
ở các nghiệm thức có sử dụng gốc ghép đều tương
đương hoặc cao hơn đối chứng không ghép.
Bảng 5. Năng suất thương phẩm
của khổ qua ghép gốc mướp
Số lượng
gốc (B)
Giống
mướp (A)
Năng suất thương phẩm
(tấn/ha) Trung
bình
(A)Đối
chứng 1 gốc 2 gốc 3 gốc
Địa phương
trái dài 21,6
cd 22,7bcd 21,7cd 21,5cd 21,9b
Địa phương
trái ngắn 18,9
d 22,9bcd 22,3bcd 26,9ab 22,8b
Đài Loan 01 25,0bc 30,6a 30,9a 24,1bc 27,6a
Đài Loan 02 21,2bcd 21,3cd 20,5cd 24,3bc 22,5b
Trung bình (B) 21,1 24,6 23,8 23,9
F F (A)* , F (B)ns, F (A B)*
CV(%) = 9,45
Ghi chú: Trong cùng một cột, hàng các số có chữ theo
sau giống nhau thì khác biệt không ý nghĩa qua phân tích
thống kê; * khác biệt ở mức 5%; ns: khác biệt không ý nghĩa.
30
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 7(104)/2019
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Khổ qua TS247 ghép trên giống mướp Đài
Loan 01 (VG-17-001) với số lượng 1 gốc (ghép 1
gốc chính trong vườn ươm) và ghép 2 gốc mướp
(1 gốc chính trong vườn ươm và ghép thêm 1 gốc
phụ ngoài đồng) cho năng suất thương phẩm cao
nhất (30,6 - 30,9 tấn/ha), cao hơn không ghép - đối
chứng từ 22 - 24%. Khổ qua có ghép gốc mướp đều
cho năng suất thương phẩm từ tương đương đến cao
hơn khổ qua không ghép.
Đề nghị trồng khổ qua trong mùa mưa tại huyện
Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng nên sử dụng gốc ghép
mướp Đài Loan 01 ghép 1 gốc chính trong vườn
ươm để tiết kiệm công ghép thêm 1 gốc phụ ngoài
đồng và tiếp tục nghiên cứu trong điều kiện môi
trường đất bất lợi như nhiễm bệnh do nấm Fusarium
oxysporum và ngập úng để khai thác hết tiềm năng
của gốc ghép chuyên dùng mướp Đài Loan 01.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trần Thị Ba, 2010. Kỹ thuật sản xuất rau sạch. Nhà xuất
bản Đại học Cần Thơ. 140 trang.
Phạm Văn Côn, 2013. Kỹ thuật ghép cây rau - hoa - quả.
Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội. Trang 5 - 35.
Tạ Thu Cúc, 2005. Giáo trình Kỹ thuật trồng rau. Nhà
xuất bản Hà Nội. 305 trang.
Lê Thanh Duy, 2018. Ảnh hưởng của độ tuổi ngọn dưa
lê Kim Cô Nương (Cucumis melo L.) và gốc ghép bầu
bí dưa đến năng suất và chất lượng trái. Luận văn tốt
nghiệp cao học ngành Khoa học cây trồng. Trường
Đại học Cần Thơ.
Heidari, A.A., A. Kashi, Z. Saffari and S. Kalatejari,
2011. Effect of different Cucurbita rootstocks on
survival rate, yield and quality of greenhouse cucumber
cv. Khassib. Horticulture Departmen, Islamic Azad
University, Science and Research Branch. Tehran.
Iran.
Sanchez, R.E., R. Leyva, C. Constan-Aguilar, L.
Romero and J.M. Ruiz, 2014. How does grafting
affect the ionome of cherry tomato plants under
water stress ? Soil Science and Plant Nutrition, 60 (2):
145-155.
Shivani, R., K. Perdeep, S. Parveen, S. Amar and S.K.
Upadhyay, 2015. Evaluation of different rootstocks
for bacterial wilt tolerance in bell pepper [Capsicum
annuum (L.) var. grossum (Sendt.)] under protected
conditions. Himachal Journal of Agricultural
Research, 41 (1): 100-103.
Nguyen Quoc Vong, 2002. Clen and green vegetable
production systems for Vietnam. In Paper for
training course “Vegetable production in sub-region of
Central Vietnam”, Nha Trang.
Effect of luffa rootstock on growth and fruit yield
of bitter melon TS 247 in Chau Thanh district, Soc Trang province
Tran Van Toan, Vo Thi Bich Thuy, Nguyen Thi Cam Hang,
Nguyen Phu Quy, Lam Hoang Nhu, Le Thi My Quyen,
Le Minh Hai, Pham Minh Hung, Tran Vu Can, Tran Thi Ba
Abstract
The experiment was to identify luffa variety and the number of rootstock that are potential to increase the plant
growth and fruit yield of grafted bitter melon (field conditions) in Chau Thanh district, Soc Trang province from
June to September 2018. The experiment was arranged in a split-plot consisting of 2 factors with 3 repetitions. The
main plot included 4 luffa varieties used as rootstocks: (1) local long fruit, (2) local short fruit, (3) Taiwan variety
01 and (4) Taiwan variety 02; Sub-plot included the number of rootstocks: (1) under controlled, (2) grafting 1 root,
(3) grafting 2 roots and (4) grafting 3 roots. The results showed that bitter melon TS247 with the grafting combination
of Taiwan variety 01 (VG-17-001) with one root (grafted with 1 main root in the nursery) and 2 roots (1 main root
in the nursery add additionally grafted by one sub-plot in opened yield) had the highest marketable yield (30.6 - 30.9
tons/ha, higher than non-grafting by 22 - 24%), commercial fruit weight (5.3 - 5.4 kg/tree) and main stem length
was 399 - 411 cm, significantly higher than non-grafted ones. All the non grafting bitter melon or grafted on 4 luffa
varieties with 1 root, 2 roots and 3 roots/plant gave fruit size and weight without significant difference. It is suggested
that growing bitter melon during the rainy season in Chau Thanh district, Soc Trang province should use Taiwan
luffa rootstock 01.
Keywords: Bitter melon, luffa, rootstock, scion, yield
Ngày nhận bài: 19/6/2019
Ngày phản biện: 25/6/2019
Người phản biện: TS. Trần Kim Cương
Ngày duyệt đăng: 11/7/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_goc_ghep_muop_den_su_sinh_truong_va_nang_suat.pdf