Mật độ tảo C. calcitrans
Mật độ tảo ban đầu bố trí giữa các nghiệm thức
dao động từ 1,91 ˟ 106 tb/mL - 1,99 ˟ 106 tb/mL.
Hình 2 cho thấy mật độ tảo tăng theo thời gian nuôi
và đạt cực đại ở NT1% vào ngày thứ 6 (23,08 ± 0,66
˟ 106 tb/mL), thấp nhất ở NT5% (15,98 ± 0,69 ˟ 106
tb/mL), NT0% và NT3% lần lượt là: 17,80 ± 1,50 ˟
106 tb/mL và 19,29 ± 2,08 ˟ 106 tb/mL ở ngày thứ 8.
Kết quả cũng cho thấy, ngày thứ hai có sự khác biệt
có ý nghĩa (P < 0,05) giữa các nghiệm thức, thấp nhất
ở NT5%, kết quả này cho thấy do bổ sung CO2 với tỉ
lệ cao làm pH giảm đột ngột từ 7,6 xuống 5,7 sẽ ức
chế sự phát triển của tảo thông qua quá trình quang
hợp. Theo Singh and Priyanka (2014), CO2 khuyếch
tán vào môi trường nước thông qua quá trình sục
khí với tỉ lệ 0,036%, trong khi đó ở NT0% pH có xu
hướng tăng cao và đạt giá trị trung bình là 8,8 ± 0,5,
điều này có thể do quá trình quang hợp, tảo hấp
thụ CO2 mạnh nhưng không được bổ sung từ các
nguồn khác ngoài sục khí, do vậy đã làm CO2 trong
nước giảm, mật độ tảo đạt cực đại là 17,80 ± 1,50 ˟
106 tb/mL vào ngày thứ 8.
Kết quả nghiên cứu cho thấy mật độ tảo ở
nghiệm thức bổ sung 1% CO2 đạt cao nhất vào ngày
thứ 6, sớm hơn 2 ngày và cao gấp 1,3 lần so với
NT 0% (không bổ sung CO2). Mật độ tảo tăng lên
do bổ sung CO2 đã được chứng minh trong nuôi
tảo Nannochlorpsis oculata, tảo phát triển tốt khi bổ
sung 2% CO2 vào nước nuôi, nhưng tảo bị ức chế
tăng trưởng khi nồng độ CO2 tăng từ 5% trở lên
(Chiu et al., 2009). Điều này cho thấy trong quá
trình nuôi cấy tảo nếu chỉ sử dụng CO2 của không
khí thì lượng CO2 không đủ cung cấp cho quá trình
quang hợp của tảo và dẫn đến thiếu hụt CO2 trong
môi trường nước nuôi, đây có thể là nguyên nhân
làm pH tăng và dẫn đến kết quả gây ức chế sự phát
triển của tảo.
Kích thước (dài ˟ rộng) của tảo C. calcitrans ở
ngày đầu bố trí có chiều dài 5,35 ± 1,23 µm ˟ chiều
rộng 3,85 ± 0,94 µm. Kích thước của tảo C. calcitrans
ở các NT0%, NT1%, NT3% và NT5% lần lượt là:
5,50 ± 1,94 ˟ 4.35 ± 1,82 µm; 6,05 ± 1,08 ˟ 4,15 ±
1,09 µm; 5,90 ± 1,62 ˟ 3,95 ± 1,21 µm; 5,50 ± 1,59
˟ 3,65 ± 1,09 µm, ở NT1% có chiều dài lớn hơn so
với các nghiệm thức còn lại, điều này cho thấy hàm
lượng CO2 cung cấp đầy đủ giúp quá trình quang
hợp tăng cao và sự tích lũy vật chất trong cơ thể
cũng tăng và kích thước này phù hợp với nhận định
của Brown et al. (1997), kích thước tế bào của tảo
C. calcitrans vào khoảng 3 - 6 µm.
4 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của hàm lượng CO₂ lên sự phát triển của tảo Chaetoceros Calcitrans, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
90
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(111)/2020
ẢNH HƯỞNG CỦA HÀM LƯỢNG CO2 LÊN SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA TẢO Chaetoceros calcitrans
Huỳnh Thị Ngọc Hiền1, Nguyễn Văn Hòa1
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm tìm ra nồng độ CO2 thích hợp để tăng năng suất sinh khối tảo. Thí nghiệm gồm 4 nghiệm
thức được bố trí khối ngẫu nhiên với tỉ lệ bổ sung CO2 lần lượt là 1%, 3%, 5% và không bổ sung CO2 (đối chứng).
Mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần trong điều kiện phòng thí nghiệm với ánh sáng tổng hợp lam + đỏ theo tỉ lệ 1 : 1 (3000
lux). Kết quả cho thấy mật độ tảo C. calcitrans có sự khác biệt giữa các nghiệm thức và đạt cực đại với tỉ lệ 1% ở ngày
nuôi thứ 6 (23.08 ˟ 106 tb/mL), thấp nhất là 5% ở ngày nuôi thứ 6 (15,98 ± 0,69 ˟ 106 tb/mL). Mật độ tảo, trọng lượng
khô và protein cao nhất ở nghiệm thức bổ sung 1% CO2, trong khi đó hàm lượng lipid cao nhất ở nghiệm thức bổ
sung 3% CO2. Vì vậy, có thể kết luận rằng tỉ lệ bổ sung 1% CO2 được đề nghị nhằm nâng cao năng suất sinh khối tảo
C. calcitrans tại các trại giống thủy sản hiện nay.
Từ khóa: Tảo Chaetoceros calcitrans, nồng độ CO2, lipid, protein
1 Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tảo Chaetoceros calcitrans (Takano, 1968) là
một trong những loài vi tảo nước mặn đang được
sử dụng phổ biến làm thức ăn trong nuôi trồng
thủy sản. Vi tảo có kích thước nhỏ (5 µm), giá trị
dinh dưỡng cao nên phù hợp cho giai đoạn phát
triển đầu của nhiều loài giáp xác và hai mảnh vỏ
(Brown et al., 1989). Tuy nhiên, ở các trại sản xuất
giống thủy sản hiện nay đang gặp khá nhiều trở ngại
trong việc nâng cao chất lượng cũng như năng suất
sinh khối tảo để làm thức ăn cho các ấu trùng nuôi
thuỷ sản. Trong điều kiện nuôi cấy tảo hiện nay,
nếu chỉ sử dụng ánh sáng của đèn huỳnh quang và
hệ thống sục khí thông thường thì năng suất sinh
khối tảo không cao, mật độ tảo C. calcitrans đạt tối
đa là 8,88 ˟ 106 tb/mL (Krichnavaruk et al., 2005)
và không thể quản lý được sự biến động của pH.
CO2 là một trong các yếu tố khá quan trọng làm thay
đổi môi trường nước, chúng hiện diện trong nước là
nguyên nhân gây ra pH giảm. Ánh sáng cũng là yếu
tố ảnh hưởng đến sinh trưởng mật độ tảo; bước sóng
của các loại ánh sáng có ảnh hưởng lên dinh dưỡng
của tảo Chaetoceros sp. (Sánchez-Saavedra et al.,
2006). Trong khi đó, nghiên cứu của Trần Đình Huy
và Trần Sương Ngọc (2018) chỉ ra rằng sự phát triển
về mật độ của tảo C. calcitrans khi nuôi sinh khối sử
dụng ánh sáng tổng hợp lam + đỏ cho kết quả tốt
hơn ánh sáng trắng của đèn huỳnh quang. Từ thực
tế trên cho thấy việc sử dụng ánh sáng tổng hợp và
bổ sung CO2 trong quá trình nuôi sinh khối tảo là rất
quan trọng và cần được quan tâm nhiều và việc bổ
sung CO2 là giải pháp làm giảm pH và nâng cao năng
suất sinh khối tảo. Tuy nhiên, lượng CO2 cung cấp
trong quá trình nuôi vẫn còn chưa có nhiều thông
tin. Do đó, nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng
CO2 lên sự phát triển của tảo Chaetoceros calcitrans
là rất cần thiết, nhằm làm cơ sở cho ứng dụng tỉ lệ
bổ sung CO2 để thu được lượng sinh khối tảo tươi
có chất lượng cao nhất phục vụ cho sản xuất giống
hiện nay.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Tảo giống C. calcitrans được lưu trữ trong ống
nghiệm tại phòng thí nghiệm thức ăn tự nhiên,
Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. Nước cấy
tảo có độ mặn 25‰ và nuôi cấy bằng môi trường
Walne (Coutteau, 1996). Ánh sáng được cung cấp từ
đèn LED với ánh sáng tổng hợp lam + đỏ theo tỉ lệ
1 : 1 (50% red, 50% blue) do công ty Rạng Đông
cung cấp với công suất 25w/h, cường độ chiếu sáng
3.000 lux, , thời gian chiếu sáng 24/24 giờ và sục khí
liên tục trong suốt thời gian thí nghiệm. Nước cất
được bổ sung khi nước trong bình mất đi do quá
trình bốc hơi.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Tảo C. calcitrans được nuôi trong bình 8 lít với
mật độ ban đầu 2 ˟ 106 tb/mL, ở độ mặn 25‰ và
nuôi cấy bằng môi trường dinh dưỡng Walne. Thí
nghiệm gồm 4 nghiệm thức với tỉ lệ bổ sung CO2 là
1% (NT1%), 3% (NT3%), 5% (NT5%) và không bổ
sung CO2 (NT0%), CO2 tinh khiết đưa vào bể nuôi
tảo thông qua lưu tốc khí và điều chỉnh tỉ lệ bổ sung
CO2 tương ứng theo từng nghiệm thức, mỗi nghiệm
thức lặp lại 3 lần. Thí nghiệm được tiến hành trong
91
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(111)/2020
điều kiện phòng thí nghiệm với nhiệt độ dao động
từ 26 - 28oC. Thí nghiệm được kết thúc khi mật độ
tảo giảm 2 ngày liên tục. Các nghiệm thức được thực
hiện trên kệ có 3 ngăn, mỗi ngăn bố trí một nghiệm
thức và được che chắn hoàn toàn nhằm đảm bảo
nguồn sáng không bị ảnh hưởng lẫn nhau. Các giá
trị nhiệt độ và pH được đo 1 lần/ngày vào lúc 8 giờ
sáng, mật độ tảo được thu hàng ngày và xác định
mật độ theo công thức của Coutteau (1996). Tiến
hành đo chiều dài và chiều rộng của 30 tế bào tảo và
được thu vào lúc bố trí và khi tảo đạt mật độ tối đa.
Các chỉ tiêu protein và lipid được thu mẫu ở cuối giai
đoạn tăng trưởng nhanh và phân tích theo phương
pháp AOAC (2000), chỉ tiêu chất lượng nước: TAN,
PO43-, NO3- được thu mẫu 3 ngày/lần (mỗi lần thu
100 mL) và phân tích theo các phương pháp phân
tích hiện hành (APHA, 1998).
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 6 đến tháng
8 năm 2019 tại phòng thí nghiệm thức ăn tự nhiên
của Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Chất lượng nước
Nhiệt độ thí nghiệm không có sự biến động lớn
do được tiến hành trong phòng có máy điều hòa
nhằm ổn định nhiệt độ. Nhiệt độ trung bình khác
biệt không có ý nghĩa (P > 0,05) giữa các nghiệm
thức (27,2 - 27,5oC), đây là khoảng nhiệt độ thích
hợp cho sự phát triển của tảo Chaetoceros. Theo
Brown và Farmer (1994), tảo C. calcitrans phát triển
tốt ở nhiệt độ từ 10 - 30oC, lớn hơn 30oC thì tăng
trưởng của tảo chậm lại (Raghavan et al., 2008).
pH có sự biến động giữa các nghiệm thức, cao
nhất ở nghiệm thức đối chứng NT 0% (8,8 ± 0,5),
thấp nhất ở nghiệm thức NT 5% hay bổ sung CO2
với lượng 5% (6,1 ± 0,6) và NT 3% hay bổ sung CO2
với lượng 3% (6,7 ± 0,5). Ở NT1% hay bổ sung CO2
với lượng 1% có pH (7,2 ± 0,2) ít biến động trong
suốt quá trình phát triển của tảo. Kết quả cho thấy
ở ngày đầu bố trí thí nghiệm pH ở các nghiệm thức
tương tự nhau (7,6 ± 0,2) và pH có sự biến động
trong quá trình nuôi, pH giảm mạnh khi hàm lượng
bổ sung CO2 tăng lên. Theo Coutteau (1996), pH
thích hợp cho sự phát triển của các loài tảo là 7 - 9,
tối ưu là 8,2 - 8,7, do vậy pH biến động trong ngày
ở các nghiệm thức vẫn nằm trong khoảng thích hợp
cho sự phát triển của tảo, ngoại trừ nghiệm thức NT
0% thì pH nhiều ngày trong suốt quá trình nuôi đã
vượt quá ngưỡng tối ưu cho tảo phát triển.
Hàm lượng TAN của các nghiệm thức tăng dần
qua các đợt thu mẫu và khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (P > 0,05), dao động từ 0,067 - 0,487 mg/L,
hàm lượng TAN thấp ở tất cả các nghiệm thức vào
thời điểm bắt đầu bố trí thí nghiệm (0,067 mg/L)
là do thí nghiệm sử dụng môi trường dinh dưỡng
Walne với nguồn đạm chủ yếu là nitrate. Hàm lượng
PO43- giảm dần theo thời gian nuôi cấy tảo dao động
từ 1,296 - 0,172 mg/L (Hình 1), hàm lượng này giảm
từ ngày đầu bố trí thí nghiệm do sự hấp thu của tảo
để phát triển mật độ và tăng nhẹ vào cuối chu kỳ
thí nghiệm, điều này cho thấy do sự phân hủy của
xác tảo chết. Hàm lượng NO3- ít biến động giữa các
nghiệm thức trong các đợt thu mẫu và thấp nhất là
3 mg/L ở NT1%, cao nhất vào ngày đầu của thí
nghiệm (15 - 16 mg/L), hàm lượng NO3- có khuynh
hướng giảm nhanh từ ngày đầu đến ngày thứ 7, sau
đó giảm đến cuối thí nghiệm (Hình 1), sự biến động
này có liên quan đến việc NO3- có lợi cho sự phát
triển của tảo, mặt khác do tảo lấy đạm từ NO3- cho
quá trình phát triển nên vào những ngày cuối chu kỳ
nuôi tảo có xu hướng giảm, tốc độ tăng trưởng giảm
ở ngày 10 và do nguồn dinh dưỡng được cung cấp từ
đầu thí nghiệm chủ yếu là đạm nên NO3- ban đầu cao.
Hình 1. Biến động các yếu tố TAN, PO43- và NO3- ở các nghiệm thức
92
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(111)/2020
3.2. Mật độ tảo C. calcitrans
Mật độ tảo ban đầu bố trí giữa các nghiệm thức
dao động từ 1,91 ˟ 106 tb/mL - 1,99 ˟ 106 tb/mL.
Hình 2 cho thấy mật độ tảo tăng theo thời gian nuôi
và đạt cực đại ở NT1% vào ngày thứ 6 (23,08 ± 0,66
˟ 106 tb/mL), thấp nhất ở NT5% (15,98 ± 0,69 ˟ 106
tb/mL), NT0% và NT3% lần lượt là: 17,80 ± 1,50 ˟
106 tb/mL và 19,29 ± 2,08 ˟ 106 tb/mL ở ngày thứ 8.
Kết quả cũng cho thấy, ngày thứ hai có sự khác biệt
có ý nghĩa (P < 0,05) giữa các nghiệm thức, thấp nhất
ở NT5%, kết quả này cho thấy do bổ sung CO2 với tỉ
lệ cao làm pH giảm đột ngột từ 7,6 xuống 5,7 sẽ ức
chế sự phát triển của tảo thông qua quá trình quang
hợp. Theo Singh and Priyanka (2014), CO2 khuyếch
tán vào môi trường nước thông qua quá trình sục
khí với tỉ lệ 0,036%, trong khi đó ở NT0% pH có xu
hướng tăng cao và đạt giá trị trung bình là 8,8 ± 0,5,
điều này có thể do quá trình quang hợp, tảo hấp
thụ CO2 mạnh nhưng không được bổ sung từ các
nguồn khác ngoài sục khí, do vậy đã làm CO2 trong
nước giảm, mật độ tảo đạt cực đại là 17,80 ± 1,50 ˟
106 tb/mL vào ngày thứ 8.
Kết quả nghiên cứu cho thấy mật độ tảo ở
nghiệm thức bổ sung 1% CO2 đạt cao nhất vào ngày
thứ 6, sớm hơn 2 ngày và cao gấp 1,3 lần so với
NT 0% (không bổ sung CO2). Mật độ tảo tăng lên
do bổ sung CO2 đã được chứng minh trong nuôi
tảo Nannochlorpsis oculata, tảo phát triển tốt khi bổ
sung 2% CO2 vào nước nuôi, nhưng tảo bị ức chế
tăng trưởng khi nồng độ CO2 tăng từ 5% trở lên
(Chiu et al., 2009). Điều này cho thấy trong quá
trình nuôi cấy tảo nếu chỉ sử dụng CO2 của không
khí thì lượng CO2 không đủ cung cấp cho quá trình
quang hợp của tảo và dẫn đến thiếu hụt CO2 trong
môi trường nước nuôi, đây có thể là nguyên nhân
làm pH tăng và dẫn đến kết quả gây ức chế sự phát
triển của tảo.
Kích thước (dài ˟ rộng) của tảo C. calcitrans ở
ngày đầu bố trí có chiều dài 5,35 ± 1,23 µm ˟ chiều
rộng 3,85 ± 0,94 µm. Kích thước của tảo C. calcitrans
ở các NT0%, NT1%, NT3% và NT5% lần lượt là:
5,50 ± 1,94 ˟ 4.35 ± 1,82 µm; 6,05 ± 1,08 ˟ 4,15 ±
1,09 µm; 5,90 ± 1,62 ˟ 3,95 ± 1,21 µm; 5,50 ± 1,59
˟ 3,65 ± 1,09 µm, ở NT1% có chiều dài lớn hơn so
với các nghiệm thức còn lại, điều này cho thấy hàm
lượng CO2 cung cấp đầy đủ giúp quá trình quang
hợp tăng cao và sự tích lũy vật chất trong cơ thể
cũng tăng và kích thước này phù hợp với nhận định
của Brown et al. (1997), kích thước tế bào của tảo
C. calcitrans vào khoảng 3 - 6 µm.
3.3. Thành phần dinh dưỡng của tảo C. calcitrans
Trọng lượng khô trung bình của tế bào tảo
C. calcitrans giữa các nghiệm thức dao động từ
0,16 - 2,19 g/L, trong đó NT1% cao hơn và khác biệt
có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại
(2,19 ± 1,10g/l), NT5% nhỏ hơn và cũng khác biệt
có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức còn lại,
tuy nhiên NT0% khác biệt không có ý nghĩa so với
NT3%. Theo Chinnasamy và cộng tác viên (2009),
khi bổ sung CO2 6% trên tảo Chlorella vulgaris lượng
sinh khối thu được cao gấp 20 lần so với CO2 của
không khí (0,036%).
Hàm lượng protein ở các nghiệm thức dao
động từ 12,02 - 18,36% trọng lượng khô; lipid là
3,58 - 4,76% trọng lượng khô. Hình 2 cho thấy NT1%
có hàm lượng protein cao nhất (18,36%), kế đến là
NT0% (16,98%), ở NT3% và NT5% có hàm lượng
protein thấp hơn, trong khi đó hàm lượng lipid ít
khác biệt giữa các nghiệm thức. Điều này cho thấy
khi bổ sung CO2 với tỉ lệ cao sẽ ảnh hưởng đến sự
tích lũy protein của vi tảo. Kết quả này cũng tương
tự với báo cáo của Brown và cộng tác viên (1997),
khi bổ sung với tỉ lệ CO2 1% cho nhiều loài vi tảo
thì hàm lượng protein tăng lên rất cao (100%) và
lipid không bị ảnh hưởng. Đối với tảo C. calcitrans
trong điều kiện không có bổ sung CO2 và ở nhiệt độ
là 30oC, độ mặn 25‰ tốc độ tăng trưởng tảo thấp,
khi có bổ sung CO2 làm tăng protein trong tảo, giảm
carbohydrate (Raghavan et al., 2008).
Hình 2. Biến động mật độ tảo C. calcitrans (Hình trái),
hàm lượng protein và lipid (Hình phải) ở các nghiệm thức
93
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(111)/2020
IV. KẾT LUẬN
Trong quá trình nuôi cấy tảo C. calcitrans, bổ
sung hàm lượng CO2 với tỉ lệ 1% cho kết quả cao
về mật độ tảo, trọng lượng khô, protein so với các
nghiệm thức bổ sung CO2 với tỉ lệ cao hoặc không
bổ sung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trần Đình Huy và Trần Sương Ngọc, 2018. Ảnh hưởng
của màu sắc ánh sáng khác nhau lên sự phát triển
của tảo Chaetoceros calcitrans. Tạp chí khoa học
Trường Đại học Cần Thơ, 1b: 117-124.
APHA, 1998. Standard methods for the examination of
water and wastewater. 20th Edition, American Public
Health Association.
AOAC, 2000. Official Methods of Analysis. 17th ed.
AOAC, Arlington, VA.
Brown M.R., Jeffrey S.W. and Garland C.D.,
1989. Nutritional aspects of microalgae used in
mariculture: a literature review. CSIRO Mar.Lab.
Rep., No. 205, 44 pp.
Brown M.R., Jeffrey S.W., Volkman J.K. and Dunstan
G.A, 1997. Nutritional properties of microalgae for
mariculture. Aquaculture, 151 (1997): 315-331.
Brown, M.R. and Farmer C.A., 1994. Riboflavin content
of six species of microalgae used in mariculture.
Journal of Applied Phycology, 6: 61-65.
Chinnasamy, S., Ramakrishnan, B., Bhatnagar, A.
and Das, K., 2009. Biomass Production Potential of
a Wastewater Alga Chlorella vulgaris under Elevated
Levels of CO2 and Temperature. International Journal
of Molecular Sciences, 10 (2): 518-532.
Chiu , S. Y., Kao, C. Y., Tsai, M. T., Ong, S. C., Chen, C.
H. and Lin, C. S., 2009. Lipid accumulation and CO2
utilization of Nannochloropsis oculata in response
to CO2 aeration. Bioresour. Technol. 100, 833-838.
Coutteau, P., 1996. Micro-algae. In: Manual on the
production and use of live food for aquaculture.
Patrick Lavens and Patrick Sorgeloos (Eds). FAO
Fisheries Technical Paper, 361: 7-26.
Krichnavaruk, S., Loataweesup, W. Powtongsook, S.,
Pavasant, P., 2005. Optimal growth conditions and
the cultivation of Chaetoceros calcitrans in airlift
photobioreactor. J. Chem. Eng. 105: 91-98.
Raghavan, G., Haridevi, C. K. and Gopinathan, C. P.,
2008. Growth and proximate composition of the
Chaetoceros calcitrans f. pumilus under different
temperature, salinity and carbon dioxide levels.
Aquaculture Research, 39 (10): 1053-1058.
Sánchez-Saavedra, M., Del, P. and Voltolina, D.,
2006. The growth rate, biomass production and
composition of Chaetoceros sp. grown with different
light sources. Aquacultural Engineering, 35 (2):
161-165.
Singh and Priyanka, 2014. Effect of CO2 concentration
on algae growth: A review. Renewable and Sustainable
Energy Reviews, 38: 172-179.
Swift, E. and Taylor, W.R., 1966. The effect of pH on
the division of the coccolithophorid Concosphaera
elongate. J. Ph-col., 2: 12-121.
Effect of CO2 concentration on growth of Chaetoceros calcitrans
Huynh Thi Ngoc Hien, Nguyen Van Hoa
Abstract
The study aimed to find out suitable concentration of CO2 for increasing algae biomass. The experiment consisted
of 4 treatments in correspondence of supplementary CO2 at a ratio of 1%; 3%; 5%. The experiment without CO2
supplement was used as a control (0%). Every treatment was collected three time in a laboratory with a light of
combined light between blue + red light at a ratio of 1:1 (3000 lux). The results showed that there was difference
between the density of C. calcitrans of the treatments and highest density was at 1% CO2 in 6 days of culture
(23.08 ˟ 106 cell/mL), lowest at 5% CO2 in 6 days of culture (15,98 ± 0,69 ˟ 106 tb/mL).
Keywords: Chaetoceros calcitrans, CO2 concentration, lipid, protein
Ngày nhận bài: 10/02/2020
Ngày phản biện: 21/02/2020
Người phản biện: TS. Huỳnh Trường Giang
Ngày duyệt đăng: 27/02/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
anh_huong_cua_ham_luong_co_len_su_phat_trien_cua_tao_chaetoc.pdf