Nghiên cứu này trình bày ảnh hưởng của hệ số
hình dạng đến ứng xử ngang của gối cách chấn
đàn hồi FREI chịu tải trọng vòng lặp. Các gối FREI
vuông có cùng chiều cao và các lớp cấu tạo như
nhau, nhưng khác nhau về kích thước mặt cắt
ngang, chịu đồng thời áp lực thẳng đứng và chuyển
vị ngang vòng lặp như nhau. Ứng xử ngang của các
gối FREI được phân tích bằng phương pháp PTHH
sử dụng phần mềm kết cấu ANSYS. So sánh ứng
xử ngang của hai loại gối được tiến hành. Các kết
luận rút ra từ nghiên cứu như sau:
- Độ cứng ngang hiệu dụng của gối FREI
giảm và hệ số cản nhớt tăng lên khi độ lớn của
chuyển vị ngang tăng lên;
- Ở cùng một độ lớn của chuyển vị ngang, độ
cứng ngang hiệu dụng của gối có hệ số hình dạng
nhỏ hơn luôn thấp hơn giá trị tương ứng của gối có
hệ số hình dạng lớn hơn, trong khi đó, hệ số cản
nhớt của gối có hệ số hình dạng nhỏ hơn lại luôn
lớn hơn giá trị tương ứng của gối có hệ số hình
dạng lớn hơn tại cùng một độ lớn của chuyển vị
ngang
6 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 458 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của hệ số hình dạng đến ứng xử ngang của gối cách chấn đàn hồi composite frei vuông chịu tải trọng vòng lặp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KẾT CẤU - CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
16 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1,2/2018
ẢNH HƯỞNG CỦA HỆ SỐ HÌNH DẠNG ĐẾN ỨNG XỬ NGANG
CỦA GỐI CÁCH CHẤN ĐÀN HỒI COMPOSITE FREI VUÔNG
CHỊU TẢI TRỌNG VÒNG LẶP
TS. NGÔ VĂN THUYẾT
Đại học Thủy lợi
Tóm Tắt: Gối cách chấn đàn hồi composite
FREI nhẹ hơn, đơn giản trong chế tạo hơn so với
gối cách chấn đàn hồi thép dạng SREI và đã được
áp dụng trong xây dựng công trình kháng chấn. Ứng
xử ngang của gối cách chấn FREI chịu ảnh hưởng
từ kích thước của gối hay hệ số hình dạng. Tuy
nhiên, chưa có tài liệu nào nghiên cứu về vấn đề
này. Trong nghiên cứu này, so sánh ứng xử ngang
của hai gối cách chấn FREI vuông có hệ số hình
dạng khác nhau chịu cùng một tải trọng vòng lặp
được thực hiện. Kết quả cho thấy độ cứng ngang
hiệu dụng của gối có hệ số hình dạng cao hơn là
cao hơn so với giá trị của gối có hệ số hình dạng
thấp hơn.
Từ khóa: gối cách chấn, gối đàn hồi FREI, hệ số
hình dạng, ứng xử ngang, độ cứng ngang hiệu
dụng.
Abstract: Fiber reinforced elastomeric isolator
(FREI) is lighter in weight, more simple in terms of
manufacturing in comparison with conventional steel
reinforced elastomeric isolator (SREI) and is applied
in mitigation of seismic vulnerability of buildings.
Horizontal response of FREI is affected by its
geometrical dimensions or the shape factor.
However, no study on this problem has been found.
In this study, the comparison of the horizontal
response of two types of square FREI with different
shape factors under the same cyclic loading has
been conducted. It shows that the effective
horizontal stiffness of isolator with higher shape
factor is bigger than that of isolator with lower shape
factor.
1. Đặt vấn đề
Gối cách chấn là một phương pháp hữu hiệu để
giảm hư hỏng cho công trình khi động đất xảy ra.
Gối cách chấn thường được đặt ở phần nối tiếp
giữa phần móng và phần thân công trình. Do gối
cách chấn có độ cứng theo phương ngang thấp nên
công trình chịu được chuyển vị lớn của các trận
động đất. Hơn nữa, hệ số cản nhớt cao của hệ
thống gối cách chấn làm tiêu tán năng lượng của
các trận động đất truyền lên phần thân công trình.
Có nhiều loại gối cách chấn như gối cách chấn
đàn hồi, gối cách chấn trượt, trong đó gối cách chấn
đàn hồi được sử dụng phổ biến hơn cả. Gối cách
chấn đàn hồi đang được phát triển với nhiều dạng
khác nhau. Gối cách chấn FREI là một loại gối cách
chấn đàn hồi mới được kỳ vọng giảm trọng lượng,
giá thành và dễ dàng chế tạo hơn so với gối cách
chấn đàn hồi thông thường SREI. Gối FREI được
đề xuất lần đầu tiên bởi Kelly [5], sau đó nó đã
được nhiều tác giả trên thế giới nghiên cứu, phát
triển. Về mặt cấu tạo, gối FREI có cấu tạo tương tự
như gối cách chấn đàn hồi thông thường SREI
nhưng các lớp lá thép mỏng trong gối SREI đã
được thay thế bằng các lớp sợi (thường là sợi
carbon) đặt xen kẽ và gắn kết với các lớp cao su.
Sợi carbon nhẹ hơn thép và có quá trình gia công
đơn giản hơn nên gối FREI thường nhẹ và có giá
thành rẻ hơn gối SREI. Do vậy, gối FREI được kỳ
vọng áp dụng cho các công trình thấp tầng ở những
nước đang phát triển như Việt Nam.
Trong thời gian qua, trên thế giới đã có một số
tác giả nghiên cứu về ứng xử ngang của gối cách
chấn FREI bằng cả thí nghiệm và phân tích mô hình
số. Tác giả Nezhad [7] đã chế tạo và điều tra ứng
xử ngang của các mẫu gối FREI thu nhỏ trong
phòng thí nghiệm. Osgooei [11] nghiên cứu về các
gối FREI hình tròn bằng phương pháp phần tử hữu
hạn (PTTT) sử dụng phần mềm MSC. Marc. Tác giả
Ngo [8,9] nghiên cứu về ứng xử của nguyên mẫu
gối FREI bằng cả thí nghiệm và phân tích mô hình
số. Ở Việt Nam, có một vài nghiên cứu về gối cách
chấn đàn hồi thông thường SREI của các tác giả Lê
Xuân Huỳnh và Nguyễn Hữu Bình [1], Lê Xuân
Tùng [3]. Tác giả Ngô Văn Thuyết [2] nghiên cứu về
ứng xử ngang của nguyên mẫu gối FREI.
Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến ứng xử
ngang của gối cách chấn là hệ số hình dạng (shape
KẾT CẤU - CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1,2/2018 17
factor). Theo Naeim và Kelly [6], hệ số hình dạng
(S) được định nghĩa bằng tỷ lệ giữa diện tích mặt
cắt ngang gối với tổng diện tích xung quanh ở mặt
bên của một lớp cao su. Nghiên cứu về ảnh hưởng
của hệ số hình dạng đến ứng xử ngang của gối
cách chấn sẽ có ý nghĩa trong việc lựa chọn kích
thước gối cách chấn cho nhà thiết kế. Tuy nhiên,
chưa có nghiên cứu nào xem xét ảnh hưởng của hệ
số hình dạng đến ứng xử ngang của gối FREI được
thực hiện.
Nghiên cứu này trình bày về ảnh hưởng của hệ
số hình dạng đến ứng xử ngang của gối cách chấn
đàn hồi FREI vuông chịu tải trọng vòng lặp. Các gối
FREI có cùng chiều cao và các lớp cấu tạo như
nhau, nhưng có kích thước mặt cắt ngang khác
nhau, tức là có hệ số hình dạng khác nhau, chịu
đồng thời áp lực thẳng đứng và chuyển vị ngang
vòng lặp như nhau được phân tích bằng mô hình
số. Các đặc trưng cơ học của các gối cách chấn
như vòng lặp trễ, độ cứng ngang hiệu dụng và hệ
số cản nhớt được tính toán và so sánh. Từ đó,
nghiên cứu chỉ ra ảnh hưởng của hệ số hình dạng
đến sự làm việc của gối cách chấn FREI.
2. Cấu tạo chi tiết gối cách chấn đàn hồi FREI
Hai loại gối cách chấn FREI vuông, đặt tên là
gối A và B, có cùng chiều cao là 100 mm, nhưng có
kích thước mặt cắt ngang khác nhau, cụ thể: gối A
là 250x250 mm và gối B là 310x310 mm. Các gối
này đều được cấu tạo từ các lớp cao su mỏng xen
kẽ và gắn kết với các lớp sợi carbon hai hướng
vuông góc. Mỗi gối có 17 lớp sợi carbon, mỗi lớp
sợi dày 0.55 mm và 18 lớp cao su, mỗi lớp cao su
dày 5 mm. Mặt cắt dọc theo phương đứng của các
gối FREI được miêu tả trong hình 1. Hệ số hình
dạng của gối A và B lần lượt là 12.5 và 15.5. Các
thông số đặc trưng vật liệu của hai gối FREI là như
nhau. Chi tiết về kích thước và thông số đặc trưng
vật liệu của các gối cho trong bảng 1.
Hình 1. Cấu tạo các lớp cao su và sợi carbon của các gối FREI
Bảng 1. Chi tiết kích thước và thông số vật liệu của các loại gối FREI
Thông số Gối A Gối B
Kích thước của gối, (mm) 250x250x100 310x310x100
Số lớp cao su, ne 18 18
Chiều dày một lớp cao su, te , (mm) 5.0 5.0
Tổng chiều dày lớp cao su, tr , (mm) 90 90
Số lớp sợi carbon, nf 17 17
Chiều dày của một lớp sợi carbon, tf , (mm) 0.55 0.55
Hệ số hình dạng, S 12.5 15.5
Mô đun cắt của cao su, G, (MPa) 0.90 0.90
Mô đun đàn hồi của gối, E, (GPa) 40 40
Hệ số poisson của gối, µ 0.20 0.20
3. Mô hình gối cách chấn đàn hồi FREI và tải trọng
Ứng xử ngang của các gối cách chấn đàn hồi
FREI chịu đồng thời tải trọng theo phương đứng và
chuyển vị ngang vòng lặp được nghiên cứu bằng
phương pháp PTHH sử dụng phần mềm kết cấu
ANSYS v.14.0. Sử dụng PTHH để phân tích ứng xử
ngang của gối FREI sẽ tiết kiệm được chi phí cao
của việc thực hiện nghiên cứu trong phòng thí
nghiệm. Sử dụng phân tích mô hình số có thể điều
tra chi tiết ứng suất và chuyển vị tại mọi lớp cao su
và sợi carbon của gối cách chấn. Độ hợp lí trong kết
quả phân tích ứng xử ngang của gối cách chấn
KẾT CẤU - CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
18 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1,2/2018
FREI bằng phần mềm ANSYS đã được kiểm chứng
bằng thực nghiệm trong nghiên cứu của Ngo [8,9].
3.1 Lựa chọn loại phần tử
Cao su trong gối cách chấn FREI có biến dạng
lớn trong quá trình làm việc. Do vậy, cao su được
mô hình bằng phần tử khối SOLID185 với 8 nút. Sợi
carbon hai hướng vuông góc (0o và 90o) trong một
lớp, như miêu tả trong hình 2, được mô hình bằng
phần tử khối nhiều lớp SOLID46.
Hai tấm đế thép được mô hình ở đỉnh và đáy
gối, để mô phỏng cho phần thân và phần móng
công trình, cũng được mô hình bằng phần tử
SOLID185. Áp lực thẳng đứng và chuyển vị ngang
vòng lặp được gán vào phần đế thép phía trên.
Phần đế thép phía dưới được giữ cố định. Mô hình
gối cách chấn FREI loại A (đã chia phần tử) được
miêu tả như hình 3.
Hình 2. Các lớp và phương của sợi carbon trong gối
cách chấn đàn hồi FREI
0
xy
z
Hình 3. Mô hình gối cách chấn FREI loại A
(đã chia phần tử)
3.2 Mô hình vật liệu
Các thông số đặc trưng vật liệu cho trong bảng
1 được sử dụng trong mô hình vật liệu. Cao su
trong gối FREI có ứng xử phi tuyến khi chịu chuyển
vị lớn. Vì vậy, nó được mô hình bằng mô hình vật
liệu siêu đàn hồi (hyper-elastic) và vật liệu đàn nhớt
(visco-elastic) cho phép ứng xử phi tuyến. Trong
nghiên cứu này, cao su được mô hình bằng mô
hình Ogden 3-terms [10] và mô hình ứng xử cắt
đàn nhớt (Prony Viscoelastic Shear Response)
với các thông số như sau:
Ogden (3-terms): µ1 = 1.89 x 106 (N/m2); µ2 =
3600 (N/m2); µ3 = -30000 (N/m2);
α1 = 1.3; α2 = 5; α3 = -2;
Prony Shear Response: a1 = 0.333; t1 = 0.04; a2
= 0.333; t2 = 100.
3.3 Tải trọng
Để nghiên cứu ảnh hưởng của hệ số hình dạng
đến sự làm việc của gối cách chấn, tải trọng gán
vào hai gối A và B phải tương tự nhau. Các gối
cách chấn chịu đồng thời áp lực thẳng đứng và
chuyển vị theo phương ngang trong quá trình làm
việc. Các tải trọng này được gán vào phần đế thép
phía trên của gối. Áp lực thẳng đứng lên bề mặt các
gối là như nhau với giá trị 5.6 MPa. Chuyển vị
ngang theo phương X dạng hình sin được gán vào
gối với giá trị độ lớn tăng dần từ 20 mm đến 90 mm,
mỗi độ lớn của chuyển vị gồm có hai vòng lặp.
Chuyển vị ngang vòng lặp được miêu tả như hình 4.
Hình 4. Chuyển vị ngang gán vào các gối
4. Kết quả phân tích và bình luận
4.1 Vòng lặp trễ quan hệ giữa lực ngang và
chuyển vị ngang
Ứng xử ngang phi tuyến của gối cách chấn
được thể hiện qua vòng lặp trễ trình bày quan hệ
giữa lực cắt ngang và chuyển vị ngang. Lực cắt
ngang của các gối FREI được tính là tổng của tất cả
KẾT CẤU - CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1,2/2018 19
các lực cắt ngang trên tất cả các nút ở phần đế thép
phía trên của gối. Kết quả so sánh vòng lặp trễ của
các loại gối FREI thu được từ phân tích mô hình số
được thể hiện trong hình 5.
Hình 5. So sánh vòng lặp trễ của gối A và B
Từ hình 5 cho thấy giá trị lớn nhất lực cắt ngang
của gối A (S = 12.5) luôn nhỏ hơn giá trị tương ứng
của gối B (S = 15.5) tại mọi độ lớn của chuyển vị
ngang. Từ đó dẫn đến độ cứng ngang hiệu dụng
của gối A luôn nhỏ hơn gối B ở cùng một độ lớn của
chuyển vị ngang. Điều này sẽ được làm rõ hơn
trong phần tiếp theo.
4.2 Độ cứng ngang hiệu dụng và hệ số cản nhớt
Theo Tiêu chuẩn IBC [4], độ cứng ngang hiệu
dụng, Keffh, của gối cách chấn ở một độ lớn của
chuyển vị ngang được tính theo công thức sau:
max min
max min
h
eff
F FK
u u
(1)
trong đó: Fmax, Fmin là các giá trị lớn nhất, nhỏ nhất
của lực cắt ngang. umax, umin là các giá trị lớn nhất
và nhỏ nhất của chuyển vị ngang.
Hệ số cản nhớt, , được tính thông qua năng
lượng tiêu tán trong một chu kì chuyển vị, Wd. Năng
lượng tiêu tán trong một chu kì chuyển vị được tính
bằng diện tích của một vòng lặp trễ ở hình 5. Hệ số
cản nhớt được tính bằng công thức sau:
2
max2
d
h
eff
W
K
(2)
trong đó, ax max / 2m minu u .
Độ cứng ngang hiệu dụng và hệ số cản nhớt
của các gối A và B ở các độ lớn khác nhau của
chuyển vị ngang được tính toán theo công thức (1)
và (2); cho kết quả trong bảng 2. Các giá trị cho
trong bảng là giá trị trung bình cho mỗi độ lớn của
chuyển vị ngang. So sánh sự thay đổi độ cứng
ngang hiệu dụng của hai gối với sự tăng dần độ lớn
của chuyển vị ngang được miêu tả trong hình 6.
Bảng 2. So sánh đặc trưng cơ học của gối A và B
Độ lớn
chuyển vị
(mm)
u/tr
Gối A (S = 12.5) Gối B (S = 15.5)
Keffh β Keffh β
(kN/m) (%) (kN/m) (%)
20.0 0.22 528.12 7.51 829.81 6.80
40.0 0.44 486.13 9.03 760.60 7.77
60.0 0.67 452.65 10.52 707.36 9.08
90.0 1.00 414.90 11.42 646.09 10.31
KẾT CẤU - CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
20 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1,2/2018
Hình 6. Quan hệ giữa độ cứng ngang hiệu dụng với độ lớn chuyển vị ngang của hai gối A và B
Kết quả trong bảng 2 và hình 6 cho thấy độ
cứng ngang hiệu dụng của các gối FREI giảm và hệ
số cản nhớt tăng lên khi độ lớn của chuyển vị ngang
tăng lên. So sánh kết quả giữa hai gối A và B cho
thấy ở cùng một độ lớn của chuyển vị ngang như
nhau, gối A luôn có độ cứng ngang hiệu dụng thấp
hơn giá trị tương ứng ở gối B, nhưng hệ số cản
nhớt ở gối A luôn cao hơn ở gối B. Cụ thể, độ cứng
ngang hiệu dụng ở gối B cao hơn ở gối A là 57.1%
và 55.7% tại độ lớn của chuyển vị ngang tương ứng
là 20 và 90 mm, trong khi đó, hệ số hình dạng của
gối B (S = 15.5) cao hơn gối A (S = 12.5) là 24%.
Từ kết quả này cho thấy hệ số hình dạng có ảnh
hưởng đến ứng xử ngang của gối cách chấn FREI.
Điều này có ý nghĩa trong việc thiết kế lựa chọn kích
thước của gối cách chấn FREI. Theo Naeim và
Kelly [6], gối cách chấn áp dụng cho công trình thực
tế thường có hệ số hình dạng nằm trong khoảng từ
10 đến 20.
4.3 Biến dạng và ứng suất trong lớp cao su của
gối FREI
Gối FREI chịu chuyển vị ngang theo phương X.
Quy ước các phương của hệ quy chiếu địa phương
1, 2, 3 song song với các phương tổng thể X, Y, Z.
Biến dạng và ứng suất S11 trong các lớp cao su
của gối cách chấn A và B tại chuyển vị ngang có độ
lớn bằng 90 mm được thể hiện trong hình 7. Để
quan sát rõ ràng, kết quả của một nửa gối cách
chấn được thể hiện. Phân tích ứng suất cho thấy
ứng suất nén trong gối FREI nằm ở phần lõi, xuyên
suốt từ đáy lên đỉnh gối trong vùng nối chồng giữa
đáy và đỉnh gối. Trong khi đó ứng suất kéo nằm
ngoài vùng nối chồng đó. So sánh kết quả ứng suất
của gối A và B cho thấy ứng suất kéo và nén lớn
nhất trong gối A luôn lớn hơn gối B tại cùng một độ
lớn của chuyển vị ngang.
(a) Gối A (b) Gối B
Hình 7. Biến dạng và ứng suất S11 (N/m2) trong các lớp cao su của một nửa gối cách chấn FREI
tại độ lớn chuyển vị ngang là 90 mm (giá trị dương thể hiện chịu kéo)
5. Kết luận
Nghiên cứu này trình bày ảnh hưởng của hệ số
hình dạng đến ứng xử ngang của gối cách chấn
đàn hồi FREI chịu tải trọng vòng lặp. Các gối FREI
vuông có cùng chiều cao và các lớp cấu tạo như
nhau, nhưng khác nhau về kích thước mặt cắt
ngang, chịu đồng thời áp lực thẳng đứng và chuyển
vị ngang vòng lặp như nhau. Ứng xử ngang của các
KẾT CẤU - CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1,2/2018 21
gối FREI được phân tích bằng phương pháp PTHH
sử dụng phần mềm kết cấu ANSYS. So sánh ứng
xử ngang của hai loại gối được tiến hành. Các kết
luận rút ra từ nghiên cứu như sau:
- Độ cứng ngang hiệu dụng của gối FREI
giảm và hệ số cản nhớt tăng lên khi độ lớn của
chuyển vị ngang tăng lên;
- Ở cùng một độ lớn của chuyển vị ngang, độ
cứng ngang hiệu dụng của gối có hệ số hình dạng
nhỏ hơn luôn thấp hơn giá trị tương ứng của gối có
hệ số hình dạng lớn hơn, trong khi đó, hệ số cản
nhớt của gối có hệ số hình dạng nhỏ hơn lại luôn
lớn hơn giá trị tương ứng của gối có hệ số hình
dạng lớn hơn tại cùng một độ lớn của chuyển vị
ngang;
- Ứng suất nén trong gối FREI nằm ở phần
lõi, xuyên suốt từ đáy lên đỉnh gối trong vùng nối
chồng giữa đáy và đỉnh gối. Ứng suất kéo nằm
ngoài vùng nối chồng đó;
- Giá trị ứng suất kéo và nén lớn nhất của gối
có hệ số hình dạng nhỏ hơn luôn lớn hơn giá trị
tương ứng của gối có hệ số hình dạng lớn hơn tại
cùng một độ lớn của chuyển vị ngang.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê Xuân Huỳnh, Nguyễn Hữu Bình (2008), "Nghiên
cứu công nghệ chế ngự dao động kết cấu công
trình nhà cao tầng phù hợp điều kiện xây dựng ở
Hà Nội", Báo cáo tổng kết đề tài, mã số 01C-04/09-
2007-3, Viện KHCN Kinh tế Xây dựng - Việt Nam.
[2] Ngô Văn Thuyết (2017). "Phân tích ứng xử ngang
của nguyên mẫu gối cách chấn đàn hồi FREI".
Tuyển tập báo cáo Hội nghị Khoa học Cán bộ trẻ
lần thứ XIV - 2017, Viện Khoa học Công nghệ Xây
dựng, Bộ Xây dựng, ISBN: 978-604-82-2300-7, tr.
170-177.
[3] Lê Xuân Tùng (2010), "Thiết kế gối cách chấn
dạng gối đỡ đàn hồi chịu động đất với mô hình phi
tuyến của vật liệu chế tạo", Tạp chí KHCN Xây
dựng, số 4 (153), năm thứ 38, ISSN 1859-1566.
[4] International Building Code, USA, (2000).
[5] Kelly J.M. (1999), "Analysis of fiber-reinforced
elastomeric isolators", Earthquake Engineering
Research Center, University of California,
Berkeley, USA, JSEE, Vol. 2(1), pp. 19-34.
[6] Naeim F., Kelly J.M. (1999), "Design of Seismic
Isolated Structures: From Theory to Practice", John
Wiley & Sons, INC.
[7] Nezhad H.T., Tait M.J., Drysdale R.G. (2008),
"Testing and Modeling of Square Carbon Fiber-
reinforced Elastomeric Seismic Isolators", Journal
of Structural Control and Health Monitoring, Vol.
15, pp. 876-900.
[8] Ngo V.T, Deb S.K., Dutta A., Ray N., Mitra A.J.
(2016), "Performance evaluation of fiber reinforced
elastomeric isolators under cyclic load".
Proceedings of the 8th World Congress on Joints,
Bearing and Seismic Systems for Concrete
Structures, Atlanta, Georgia, USA, (25-29th
September), paper 8-51, website:
[9] Ngo V.T., Dutta A., Deb S.K. (2017). "Evaluation of
horizontal stiffness of fibre reinforced elastomeric
isolators". Journal of Earthquake Engineering and
Structural Dynamics, DOI: 10.1002/eqe.2879, Vol.
46, pp. 1747-1767.
[10] Ogden R.W. (1972), "Large deformation isotropic
elasticity - on the correlation of theory and
experiment for incompressible rubber-like solids",
Proc. R. Soc. Lond. A., Vol. 326, pp. 565-584.
[11] Osgooei P.M., Tait M.J., Konstantinidis D. (2014),
"Three-dimensional finite element analysis of
circular fiber-reinforced elastomeric bearings under
compression", Composite Structures, Vol. 108, pp.
191-204.
Ngày nhận bài: 05/03/2018.
Ngày nhận bài sửa lần cuối: 05/7/2018.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- anh_huong_cua_he_so_hinh_dang_den_ung_xu_ngang_cua_goi_cach.pdf